Ở một vài công trình cũng đã đề cập đến biểu tượng trong thơ Tố Hữu, nhưng nguồn biểu tượng đa dạng cùng với nét đặc sắc của nó vẫn rất hấp dẫn người yêu thơ Tố Hữu, và vẫn sẽ là nguồn đ
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-
HOÀNG THỊ KIM NHẪN
BIỂU TƯỢNG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN 1945 - 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2014
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-
HOÀNG THỊ KIM NHẪN
BIỂU TƯỢNG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN 1945-1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân
HÀ NỘI - 2014
Trang 3MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1 Lý do chọn đề tài ………3
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
3 Phạm vi nghiên cứu 7
4 Mục đích nghiên cứu 7
5 Phương pháp nghiên cứu 8
6 Kết cấu luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG …9
CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO THƠ TỐ HỮU……… 9
1.1 Biểu tượng 9
1.1.1 Quan niệm về biểu tượng từ các góc độ khác nhau 9
1.1.2 Quan niệm về biểu tượng của luận văn 14
1.1.3 Phân biệt biểu tượng và một số khái niệm gần gũi 17
1.2 Hành trình sáng tạo thơ Tố Hữu 21
1.2.1 Tập thơ "Từ ấy" 21
1.2.2 Tập thơ "Việt Bắc" 23
1.2.3 Tập thơ "Gió lộng" 26
1.2.4 Tập thơ "Ra trận" và "Máu và Hoa" 28
1.2.5 Tập thơ " Một tiếng đờn" 30
1.2.6 Tập thơ " Ta với ta" 30
Trang 4CHƯƠNG 2: CÁC HỆ BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ TỐ HỮU GIAI
ĐOẠN 1945- 1975 32
2.1 Những biểu tượng tiêu biểu diễn tả hiện thực chiến tranh 32
2.1.1Biểu tượng lửa 32
2.1.2 Biểu tượng máu 46
2.2 Những biểu tượng diễn tả tình cảm lãng mạn Cách mạng 55
2.2.1 Biểu tượng lá cờ 55
2.2.2 Biểu tượng ngôi sao 62
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN 1945- 1975 68
3.1 Cách sử dụng các hình ảnh thơ 68
3.1.1 Hình ảnh cụ thể nâng lên tầm khái quát 68
3.1.2 Hình ảnh cụ thể nâng lên tầm kì vĩ, thiêng liêng 73
3.2 Giọng điệu thơ và các biện pháp tu từ 77
3.2.1 Giọng điệu thơ 77
3.2.2 Các biện pháp tu từ 79
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……… 84
Trang 5PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Nhà phê bình Lê Thanh Nghị từng nhận xét: "Có một sự thật nhiều người biết, đó là trong suốt cuộc đời làm cách mạng và làm thơ, không một nhà thơ Việt Nam nào được nhớ, được đọc và được thuộc nhiều như Tố Hữu" Giáo sư Phong Lê cũng cùng quan điểm đó trong đánh giá rằng: "Tố Hữu là
nhà thơ Việt Nam được đọc dài nhất trong thế kỷ XX" Quả đúng như vậy,
bởi Tố Hữu là một nhà cách mạng làm thơ, nên thơ không chỉ là thơ với vẻ mượt mà văn chương mà còn là chan chứa tình yêu, lòng xót thương, khao khát đấu tranh, làm đẹp cho người, cho đời, cho quê hương đất nước Bản thân nhà thơ Tố Hữu quan niệm rằng: "Thơ hay làm người ta quên thơ đi, để
chỉ còn cảm thấy có tình người".Và chính cái tình trong thơ Tố Hữu đã đọng
mãi trong lòng nhiều độc giả cho tới tận hôm nay
Con đường thơ Tố Hữu gắn bó mật thiết với con đường cách mạng Việt Nam, bởi vậy nên những giai đoạn lịch sử cam go nhất đặc biệt là thời chiến tranh, khoảng từ năm 1945 đến 1975, chính là những lúc thơ Tố Hữu thể hiện
rõ nhất phong cách trữ tình chính trị của ông, và ở đó, ta thấy có những hình ảnh được tác giả nhắc đến nhiều lần Đó không chỉ là những hình ảnh ngẫu nhiên mà có sức ám ảnh lớn đối với tác giả và mang tính biểu tượng cao Những biểu tượng ấy có ý nghĩa sâu sắc, bởi qua đó, tác giả gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc, mà trước hết là nó phản ánh được rõ nét hiện thực cách mạng, hơn thế, còn thể hiện được tình cảm, lý tưởng cách mạng cao đẹp của nhà thơ
Đã có không ít các học giả, nhà nghiên cứu có cảm hứng, xây dựng những công trình khoa học về thơ Tố Hữu Ở một vài công trình cũng đã đề cập đến biểu tượng trong thơ Tố Hữu, nhưng nguồn biểu tượng đa dạng cùng với nét đặc sắc của nó vẫn rất hấp dẫn người yêu thơ Tố Hữu, và vẫn sẽ là nguồn đề tài hứng thú để tiếp tục giải mã những ý nghĩa ẩn sâu mà nhà thơ muốn chuyển tải.Với xu thế đó, đề tài "Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945- 1975" của chúng tôi cũng mong muốn khảo sát toàn diện hơn, đầy đủ hơn hệ thống các biểu tượng nghệ thuật đã góp phần làm nên nét đặc sắc
Trang 6trong thơ Tố Hữu, khẳng định được phong cách của Tố Hữu và vị trí của Tố Hữu trên thi đàn Việt Nam
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tố Hữu đến với thi ca khá sớm, từ năm 18 tuổi, và được coi là con chim đầu đàn vạch hướng cho cả nền thi ca cách mạng Việt Nam hiện đại Có
những giai đoạn, thơ ông đã trở thành chỗ dựa tâm hồn cho mọi người Sự
nghiệp thơ ca của ông đã được khẳng định qua các giải thưởng cao quý như: Giải nhất giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955 cho tập
thơ Việt Bắc; Giải thưởng Văn học ASEAN năm 1996 cho tập thơ Một tiếng
đờn; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt I, 1996) Ông
cũng là người có nhiều thơ được sử dụng giảng dạy trong nhà trường, từ bậc học phổ thông đến đại học Chính vì thế đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu của các nhà thơ nhà văn như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông,… Các chuyên luận
và bài nghiên cứu của các tác giả Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình
Sử, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Văn Long… đều đã đề cập đến nhiều mặt quan trọng khác nhau của thơ Tố Hữu
và còn một số bài viết của chính tác giả về đời mình và thơ của mình Các công trình nghiên cứu, các bài viết tập trung vào một số vấn đề về đời và thơ
Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết đi sâu vào tìm hiểu, phân tích, thẩm bình những thi phẩm tiêu biểu của Tố Hữu qua các chặng đường thơ của ông Cuối cùng là hồi ức, gồm những kỷ niệm của bạn bè, đồng nghiệp, người thân về cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Tố Hữu
Đặc biệt, có ba công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông Đó là: Thơ
Tố Hữu của Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của
Trần Đình Sử (1987) Công trình nghiên cứu của Lê Đình Kỵ với trên năm
Trang 7trong việc khảo sát đánh giá một cách toàn diện cả nội dung và nghệ thuật thơ
Tố Hữu, mang tên Thơ Tố Hữu (xuất bản lần đầu năm 1979 tại NXB Đại học
và trung học chuyên nghiệp) Trong chuyên luận này, hầu hết các tập thơ
quan trọng trên chặng đường sáng tác của Tố Hữu đã được khảo cứu, như Từ
ấy (1937 - 1946), Việt Bắc (1946 - 1954), Gió lộng (1955 - 1961), Ra trận
(1962 - 1971), Máu và Hoa (1972 - 1977) Để từ đó tác giả đã khái quát
những chủ đề lớn trong thơ Tố Hữu như: chủ đề về Nhân dân, Đất nước, Đảng, Lãnh tụ…Ngoài ra là những đặc điểm phong cách, tư tưởng, nghệ thuật trong sáng tác của nhà thơ như: lãng mạn cách mạng, trữ trình cách mạng, phong cách dân tộc đậm đà… Có thể nói đây là chuyên luận trình bày rất cơ bản về sự nghiệp sáng tác, phong cách thơ Tố Hữu Chuyên luận của Lê Đình Kỵ rất có ý nghĩa trong đời sống phê bình, nghiên cứu văn học Tuy vậy, tác giả của chuyên luận vẫn là bước đầu tiếp cận thơ Tố Hữu về phương diện xã hội học Vấn đề biểu tượng trong thơ Tố Hữu chưa thấy được nghiên cứu, tìm hiểu
Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn
Văn Hạnh (NXB Thuận Hóa, 1985) dài hơn hai trăm trang, về mặt phương pháp nghiên cứu, công trình vẫn tuân thủ chặt chẽ, tiếp cận theo hệ hình đi tìm sự tương đồng giữa tác phẩm văn học và đời sống trong phản ánh, tái tạo hình tượng nghệ thuật, phô diễn cảm xúc của chủ thể trữ tình Cuốn sách cũng góp phần làm rõ đặc sắc nội dung tư tưởng và phong vị đậm đà trong thơ Tố Hữu qua ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, thể loại Tuy nhiên mảng đề tài về biểu tượng trong thơ của Tố Hữu cũng chưa được bàn đến
Và nếu hai công trình trên khai thác thơ Tố Hữu về các mặt chủ đề, đề tài, những nét lớn trong phong cách chủ yếu theo phương diện xã hội học thì
công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của tác giả Trần Đình Sử - được xuất bản lần
đầu tiên vào năm 1987 (NXB Hội Nhà văn), tái bản vào năm 1995 (NXB Giáo dục), đã đặt ra và giải quyết hàng loạt vấn đề mà trước đây phê bình văn học của Việt Nam ít quan tâm đến Đó là những vấn đề quan niệm nghệ thuật
về con người, không gian và thời gian nghệ thuật, chất thơ và phương thức thể hiện dưới góc nhìn thi pháp học, một góc nhìn mới mẻ và hiện đại trong
nghiên cứu văn học Đặc biệt, chương III của chuyên luận, mang tên Không
gian nghệ thuật là một trong những chương rất đặc sắc Trần Đình Sử đã nói
đến không gian nghệ thuật trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây rồi
từ đó khẳng định không gian nghệ thuật chủ yếu trong thơ Tố Hữu là không
Trang 8gian "con đường" Cũng từ không gian nghệ thuật này, lần đầu tiên có một công trình nghiên cứu lớn về thơ Tố Hữu đã đề cập đến vấn đề biểu tượng, cụ thể là con đường trong thơ ông, Trần Đình Sử khẳng định: "Hình tượng không gian quan trọng nhất, đóng vai trò xuyên suốt trong thế giới thơ Tố Hữu là con đường cách mạng Hình tượng con đường có thể nói là đặc điểm chung của thơ ca cách mạng Việt Nam và của thơ ca cách mạng thế giới Nhưng ở
Tố Hữu được thể hiện nổi bật, nhất quán trở thành nét tư duy cơ bản nhất của thơ ông"[32, tr.218] Và lần đầu tiên tác giả khẳng định: "Con đường là biểu tượng của sự thống nhất của không gian và thời gian, là không gian vận động, không gian của con người đi tới"[32, tr.218] Bằng phương pháp liệt kê để thấy tần số xuất hiện biểu tượng qua từng chặng đường thơ, phương pháp phân tích để khái quát lên ý nghĩa của biểu tượng con đường, Trần Đình Sử
đã cho thấy đó là không gian công cộng, không gian nhân dân, đó là không gian có hướng, hướng đi tới, đó là không gian lộ thiên, đầy ánh sáng, lộng gió thời đại, gió vũ trụ, và đó còn là không gian xã hội…Tuy vậy, Trần Đình Sử mới chỉ dừng lại ở một biểu tượng nổi bật là "Con đường" với tư cách là yếu
tố thuộc không gian nghệ thuật, chứ chưa đề cập đến các hệ thống biểu tượng khác trong thơ Tố Hữu
Và có liên quan tới đề tài "Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975",
khi nghiên cứu về Kinh nghiệm sống và biểu tượng thơ, Mã Giang Lân cũng
có nhắc tới biểu tượng thơ Tố Hữu trong cuốn Những cấu trúc của thơ (NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011) Theo tác giả, "Biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, ngược lại hiện thực khách quan là điều kiện hàng đầu tạo nên biểu tượng" [22, tr.128] Tiếp đó tác giả điểm qua những biểu tượng của thơ ca dân gian, của thơ ca bác học, một số biểu tượng trong thơ
ca nước ngoài, và một vài biểu tượng trong thơ ca của các nhà văn nhà thơ hiện
đại Việt Nam, như biểu tượng "sông nước" trong thơ Tế Hanh, biểu tượng "bà" trong thơ Bằng Việt, biểu tượng "sao" trong thơ Chế lan Viên, "đất" trong thơ
Nguyễn Đức Mậu, và rất nhiều biểu tượng khác trong thơ Lưu Quang Vũ… Riêng với Tố Hữu, tác giả nhận định "trong thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu,
hình tượng con đường chiếm vị trí quan trọng." "Con đường là biểu tượng cho
những cuộc lên đường từ gian khổ đến chiến công" [22, tr.139] Cũng là Tố Hữu, tác giả còn nhận định thêm về hình ảnh người mẹ mang tính biểu tượng cao: "Khi nói đến hình tượng người mẹ trong thơ Tố Hữu, chúng ta nghĩ tới tầm vóc, tính khái quát về người mẹ đã trở thành biểu tượng của non sông đất nước"[22, tr.132] Hướng nghiên cứu này của tác giả Mã Giang Lân có tính
Trang 9chất gợi mở rất lớn đối với luận văn trong việc tìm hiểu giá trị của các biểu tượng phản ánh sự vận động và phát triển của đời thơ Tố Hữu
Nghiên cứu về thơ Tố Hữu còn có nhiều tác giả khác: Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Huỳnh
Lý, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đình Thi… Trải qua gần bảy mươi năm, các bài viết, phê bình, nghiên cứu về thơ Tố Hữu ngày một nhiều hơn Nhìn chung sáng tác của Tố Hữu đã được soi chiếu, phát hiện nhiều giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật Mỗi người có một cách đánh giá, phân tích riêng, song đều nhất trí cho rằng Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, là lá cờ đầu của văn học cách mạng Việt Nam Nói như vậy không có nghĩa là vẻ đẹp thơ Tố Hữu
đã được khai thác đến tận cùng Vấn đề biểu tượng trong thơ Tố Hữu vẫn chưa thành các đề tài, các công trình lớn Trong khi đây là đề tài thú vị và là vấn đề
có ý nghĩa trong nghiên cứu sự vận động và phát triển của tư tưởng nhà thơ
Với đề tài :"Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975", chúng tôi
mạnh dạn bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu giá trị của các biểu tượng tiêu biểu
có ý nghĩa nổi bật trong những sáng tác thời chiến của Tố Hữu, và qua đó có thể nhận ra phong cách nghệ thuật Tố Hữu
Qua việc phân tích, tìm hiểu ý nghĩa đa dạng của các biểu tượng, luận văn cho ta thấy rõ hơn sự phát triển của thơ ca thời chiến tranh Trong đó đặc điểm nghệ thuật được đề cao là : Lời ít, ý nhiều Một vài biểu tượng nghệ thuật đã có thể cho ta nhìn rõ hoàn cảnh thời chiến của một đất nước, cũng như phẩm chất gan dạ anh hùng của con người đất Việt
Trang 10Luận văn cũng khẳng định tài năng, vị trí hàng đầu và những đóng góp của Tố Hữu trong nền văn học cách mạng Việt Nam
5 Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thống kê, hệ thống hóa
Sử dụng phương pháp thống kê, hệ thống hóa nhằm tìm ra một các chính xác số lần xuất hiện của các biểu tượng và so sánh được tấn suất xuất hiện giữa các biểu tượng
5.2 Phương pháp phân tích và tổng hợp
Sử dụng phương pháp phân tích để đi vào từng bài thơ, tập thơ cụ thể, khai thác các biểu tượng với các hàm nghĩa của nó Từ đó nhằm làm nổi bật tính cụ thể, cảm tính và tính tượng trưng, tính kí hiệu, tính thẩm mỹ của các biểu tượng này trong hệ thống các biểu tượng của thơ Tố Hữu
Sử dụng phương pháp tổng hợp để khái quát lại, rút ra đặc điểm chung của các biểu tượng mà Tố Hữu thể hiện trong thơ
5.3 Phương pháp so sánh
So sánh các biểu tượng trong thơ Tố Hữu với các biểu tượng xuất hiện trong một số sáng tác của các nhà thơ cùng thời Từ đó làm nổi bật những biểu tượng trong thơ Tố Hữu như một đặc điểm riêng, một nét đặc sắc để tìm
ra bản sắc thơ thơ ông
6 Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được trình
bày trong 3 chương:
Chương 1: Biểu tượng trong thơ và hành trình sáng tạo thơ Tố Hữu Chương 2: Các hệ biểu tượng trong thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975 Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Tố Hữu giai đoạn
1945-1975
Trang 11PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO THƠ
TỐ HỮU 1.1 Biểu tượng
1.1.1 Quan niệm về biểu tượng từ các góc độ khác nhau
"Biểu tượng" trong tiếng Việt là một thuật ngữ có nguồn gốc ra đời từ rất sớm, trong buổi bình minh của nhân loại ở Hi Lạp (symbolon) để chỉ đối tượng giữ vai trò như một loại ''kí hiệu'' cổ Thực tế đã khẳng định biểu tượng phát triển cùng quá trình tiến hoá của nhân loại Cho tới ngày nay, thuật ngữ
"biểu tượng" đã trở nên rất quen thuộc và là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học xã hội khác nhau Theo triết tự Hán Việt: Biểu có nghĩa là:
"bày ra", "trình bày", "dấu hiệu", để người ta dễ nhận biết một điều gì đó,
Tượng có nghĩa là "hình tượng" "Biểu tượng" là một hình tượng nào đó được
phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa mang tính trừu tượng.Thoạt tiên, biểu tượng được dùng theo một nghĩa thực dụng: là một vật (đá, ngọc, sành, hay gỗ) được chia làm hai trong một giao ước như tín vật, khi gặp nhau chắp lại để làm tin Sau này, theo cách hiểu trừu tượng hơn, biểu tượng là phương tiện phản ánh tư duy, hành vi, khát vọng, kể cả điều cấm kỵ, ám ảnh, sợ hãi Biểu tượng thể hiện những góc khuất của tiềm thức và vô thức, cho nên biểu tượng "bộc lộ rồi lủi trốn; càng
tự phơi bầy sáng tỏ, nó lại càng tự dấu mình đi Các biểu tượng tiết lộ mà che
giấu và che giấu mà tiết lộ"[4, tr.XIV] Biểu tượng là phương tiện chuyển tải
tư tưởng, thông điệp vượt ra ngoài khuôn khổ của dấu hiệu, hình ảnh, âm thanh Biểu tượng mang đến nhiều điều bất khả tri giác Nhà từ điển Pháp
André Lalande định nghĩa: "Biểu tượng là cái biểu hiện một cái khác căn cứ
vào một tương ứng loại suy" Giản dị hơn, "biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con vật sống động hay đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó
là hình ảnh cụ thể của một sự hay một điều gì đó"[11, Pg.978] Bản chất khó
xác định và sống động của biểu tượng chính là sự chia ra và kết lại với nhau,
nó hàm chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng luôn biến ảo, nó bộc lộ ra trong cái vừa gãy vỡ vừa là nối kết, vừa xuất hiện lại vừa mất đi, khiến cho tư duy luôn phải truy tìm, liên tưởng và muốn nắm bắt lấy vô vàn những ý nghĩa đang còn
Trang 12tiềm ẩn ngay trong lòng của nó Chính tính chất đa nghĩa, trừu tượng, thậm chí là mơ hồ của các biểu tượng khiến cho việc phân tích và giải mã biểu tượng trong các tác phẩm văn học không dễ dàng, đôi khi lâm vào tình trạng
bế tắc, tạo nên những "cuộc tranh luận liên miên về ý nghĩa của những biểu tượng" (Raymond Firth) Để tháo gỡ những bế tắc nói trên, chỉ "một mình" phê bình văn học sẽ rất khó giải quyết được hết những "đặc tính khó lường" của biểu tượng Vì vậy, vấn đề giải mã biểu tượng cần có một cái nhìn tổng thể bao gồm cả văn học cũng như những ngành học thuật khác có liên quan như triết học, logic học, ký hiệu học, nhân học,…
1.1.1.1 Biểu tượng, nhìn từ góc độ triết học
Theo Từ điển triết học: "Biểu tượng là hình ảnh trực quan, cảm tính,
khái quát về các sự vật và hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và tái tạo lại trong ý thức và không có sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật và các hiện tượng đến giác quan"[38, tr.98]
Như vậy, nhìn từ góc độ triết học, biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, ngược lại hiện thực khách quan là điều kiện hàng đầu tạo nên biểu tượng Theo đó, biểu tượng chỉ phản ánh những dấu hiệu đặc trưng của sự vật hiện tượng một cách khái quát, lược bỏ đi những nét riêng biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những gì chung nhất, tiêu biểu nhất mà thôi.Từ cách hiểu này, mọi sự vật của tồn tại khách quan đều có thể trở thành biểu tượng
khi được con người tiếp nhận theo ý thức chủ quan của mình.Và, có thể hiểu:
"biểu tượng" là khái niệm dùng để chỉ một thực thể bao gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người (cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của
sự tồn tại này (cái được biểu đạt)
1.1.1.2 Biểu tượng, nhìn từ góc độ tâm lý
Theo quan điểm tâm lí học, biểu tượng là hiện tượng tâm sinh lí do có một sự việc ở ngoại giới tác động vào giác quan khiến ý thức nhận biết được
hình ảnh của vật kích thích trở lại trí tuệ hay cảm giác Từ điển tâm lý học do
Vũ Dũng chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, 2000) định nghĩa rằng: "Biểu tượng
là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát Nếu tri
Trang 13giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương
lai"[6, tr.41]
Quan niệm tương tự về biểu tượng cũng thấy trong Từ điển Tiếng Việt do
giáo sư Hoàng Phê chủ biên: "Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt".[30, tr.26]
Như vậy, tâm lý học coi biểu tượng là một giai đoạn của nhận thức cảm tính cao hơn cảm giác, hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan Cùng với cảm giác và tri giác, biểu tượng đã tạo
ra những tiền đề cơ sở cho nhận thức lí tính Nó còn góp phần giúp con người nhận thức được những thuộc tính: bản chất, tính quy luật của sự vật, đem lại nhiều hiểu biết sâu sắc về sự vật Bởi lẽ biểu tượng luôn gắn liền với các khái niệm với những phán đoán, suy lí, đặc biệt là trí tưởng tượng Cũng từ đây, tâm lý học chia biểu tượng thành hai loại là biểu tượng của trí nhớ (là hình ảnh của tri giác lúc trước được tái hiện lại trong một hoàn cảnh nhất định) và biểu tượng của tưởng tượng (là hình ảnh mới được trí tưởng tượng tạo nên trên nền của biểu tượng) Trong đó biểu tượng của tưởng tượng là loại biểu tượng thường thấy trong nghệ thuật, đặc biệt ở thể loại thơ ca
1.1.1.3 Biểu tượng, nhìn từ góc độ văn hóa
Theo toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International Thesaurus on Cultural Development) của UNESCO: "Văn hoá là một tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông
người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng
biệt" [2, tr.164] Trước đó, C Levy-Strauss, người đặt nền tảng cho chủ
nghĩa cấu trúc, nhà nhân chủng học vĩ đại nhất của Pháp cũng đã rút ra một khái niệm tương tự từ nghiên cứu nhân loại học về các sự kiện văn hoá Ông viết: "Mọi nền văn hoá đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp ở hàng đầu là ngôn ngữ, các quy tắc hôn nhân, các quan
hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo".[4, tr.XXIII]
Cũng ở lĩnh vực nghiên cứu văn hoá học, về phần mình, L.White - nhà
nhân học Hoa Kỳ không đồng ý cách hiểu văn hoá như một "trừu tượng lý thuyết", một cấu trúc logic chỉ tồn tại trong tư duy của con người mà nêu lên một định nghĩa nhấn mạnh vào ý nghĩa biểu tượng của văn hóa White cho
Trang 14rằng: "Văn hoá là cơ chế của các hiện tượng, vật thể, hành động, tư tưởng, cảm xúc Cơ chế này được tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu tượng hoặc phụ
thuộc vào các biểu tượng đó"
Quan niệm của các tác giả về những định nghĩa văn hoá nhìn chung đã
có một sự tương đối đồng thuận Họ thống nhất với nhau ở một điểm, văn hóa, đó là cái làm nên sự khác biệt giữa người và động vật và là cái đặc trưng cho xã hội loài người Nhà văn hoá học Nga L Iô-nhin trong lời kết thúc bản
tóm tắt giới thiệu các định nghĩa khác nhau về văn hoá đã nhận định " Các
tác giả định nghĩa về văn hoá đã đồng ý với nhau, rằng văn hoá di truyền không theo con đường sinh học mà bằng con đường học tập Tiếp đó, họ thừa
nhận văn hoá trực tiếp gắn liền với các ý tưởng, chúng tồn tại và được truyền
đạt dưới hình thức biểu tượng (Symbol)"
Qua một số quan niệm về văn hoá nêu ở trên ta thấy có sự tương đồng về mặt ý nghĩa Các tác giả đều cho rằng, yếu tố cốt lõi của văn hoá chính là "hệ
thống các biểu tượng", nó được xem là "tế bào" của văn hoá Có thể xem "thế
giới biểu tượng "- hệ thống các "ký hiệu hàm nghĩa" là hình thái ngoại hiện
của văn hoá, còn "hệ giá trị - xã hội" nằm trong lòng mỗi biểu tượng là nội
dung cơ bản của nó Do vậy, "đơn vị cơ bản" của văn hoá chính là "biểu
tượng", vật hàm chứa những thông tin - xã hội Đó cũng là "hạt nhân di
truyền" của xã hội, nó làm nên toàn bộ đời sống văn hoá và chi phối mọi hoạt động, mọi ứng xử của con người trong đời sống xã hội, và là cái làm nên sự khác biệt giữa hoạt động của người với động vật
1.1.1.4 Biểu tượng, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học
Ngôn ngữ, đặc biệt ngôn ngữ văn học là "kho tàng" bảo lưu những giá trị văn hóa của một dân tộc Do đó, nghiên cứu về biểu tượng, không thể không xem xét trong mối quan hệ với ngôn ngữ Các nhà ngôn ngữ học dựa trên sự phân tích bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thấy rằng: với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, theo nguyên lí chung của việc thành lập một tín hiệu, bao giờ cũng phải
có hai mặt: Đó là mặt biểu hiện (hình thức tín hiệu) và mặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu) Mặt hình thức của tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ Còn mặt nội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông điệp về những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấu hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại Như vậy, để trở
Trang 15thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuất hiện trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm hai mặt khác nhau là mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện Mặt biểu hiện làm nhiệm vụ trung chuyển những
ý nghĩ, tình cảm, xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụ cảm của người nghe Nếu không có cái biểu hiện thì quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ bị hoàn toàn cắt đứt Lúc đó, người ta gọi là
"ngôn ngữ không hành chức"
Mối liên hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là mối liên hệ rất đặc trưng của ngôn ngữ Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: mỗi một cái biểu hiện luôn chỉ có một cái được biểu hiện tương ứng Khi mối liên hệ 1–1 này
bị cắt đứt thì các quá trình giao tiếp sẽ bị ảnh hưởng hoặc không thể thực hiện được Do tính chất và số lượng của các từ trong một ngôn ngữ là vô cùng lớn nên ngôn ngữ học cấu trúc luận cho rằng mối liên hệ 1–1 này phải được coi là
võ đoán với nhau và phải được quy ước Ta thấy cả tín hiệu ngôn ngữ và biểu tượng đều có hai bình diện là cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nhưng về mối liên hệ giữa hai mặt đó nói chung có sự khác nhau cơ bản Mối quan hệ giữa hai bình diện này, đối với hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nói chung là không có lí
do, còn với biểu tượng, mối quan hệ ấy là có lí do và cái được biểu đạt luôn luôn lớn hơn cái biểu đạt Nhà ngôn ngữ học F.Saussure đã khẳng định biểu
tượng có một đặc tính là "không bao giờ hoàn toán võ đoán, nó không phải là
trống rỗng" vì nó có một "mối tương quan thô sơ nào đó" giữa cái biểu hiện
và cái được biểu hiện.Về chức năng, tín hiệu ngôn ngữ thực hiện chức năng
giao tiếp thuần túy, hướng vào đối tượng giao tiếp, còn biểu tượng thực hiện chức năng nhận thức và biểu hiện đối tượng, chức năng đó "không chỉ hướng vào đối tượng mà còn hướng vào bản thể đối tượng"
1.1.1.5 Biểu tượng, nhìn từ góc độ văn học:
Từ góc độ văn học, theo Từ điển thuật ngữ văn học thì trong nghĩa rộng, biểu tượng thể hiện "đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn
học nghệ thuật".Theo nghĩa hẹp, "biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể
hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời" [12, tr.24].Văn học, nhìn nhận biểu tượng ở hai mặt Thứ nhất, biểu
tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan Thứ hai, biểu tượng
Trang 16không chỉ mang nghĩa đen, nghĩa biểu vật, nghĩa miêu tả… mà nói đến biểu tượng là nói đến hiện tượng chuyển nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm
Tóm lại, mỗi ngành khoa học tiếp cận biểu tượng lại có quan niệm, cách định nghĩa về biểu tượng khác nhau căn cứ theo đặc trưng của chuyên ngành mình Trong mỗi định nghĩa về biểu tượng bên cạnh những nét chung, cơ bản (dấu hiệu - biểu trưng; vật biểu trưng mang một ý nghĩa lớn hơn nó ) lại có những nét riêng phụ thuộc vào từng khoa học khác nhau và trong từng thời kì lịch sử, từng nền văn hóa khác nhau Vậy, có thể hiểu một cách cơ bản biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng được phô bày khiến người ta có thể cảm nhận một giá trị trừu xuất nào đó đang tiềm ẩn trong lòng của nó Cấp độ đầu tiên của biểu tượng là mẫu gốc Khi đi vào đời sống văn hoá, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh những biểu tượng văn hoá khác nhau, dấu vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục Vì vậy, con đường giải mã biểu tượng để tìm ra cái ẩn chìm đằng sau những hình tượng
có nguồn gốc từ biểu tượng Riêng biểu tượng ngôn từ có nét đặc biệt ở chỗ,
nó không phải là biểu tượng trực quan có thể thấy ngay qua ngũ quan mà phải được chuyển hóa thành một biểu tượng phi trực quan, nó không thể hiện những hình ảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng mà là sự tổng hòa và thẩm thấu toàn bộ những biểu hiện ngẫu nhiên và cá biệt để đạt đến cái bản chất, tất yếu của đối tượng Biểu tượng nghệ thuật được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa, bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt Nó chính là sự mã hoá cảm xúc, ý tưởng của nhà văn Biểu tượng trở thành phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả Những tác phẩm
sử dụng nhiều biểu tượng thể hiện sự chối từ cách viết trực tiếp giãi bày tâm
tư, tình cảm (nhất là đối với thơ ca) Chính điều đó khiến cho biểu tượng nghệ thuật một mặt dễ thức dậy những nỗi niềm từ ngàn đời trong tâm thức của độc giả, mặt khác lại tạo nên cảm hứng về những điều mới lạ cần khám phá
1.1.2 Quan niệm về biểu tƣợng của luận văn
1.1.2.1 Khái niệm biểu tượng
Như đã trình bày ở trên, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
"biểu tượng" Trong luận văn này,chúng tôi tiếp thu cách hiểu của Tiến sĩ
Nguyễn Thị Ngân Hoa trong luận án tiến sĩ Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu
tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam rằng : "Theo nghĩa rộng
nhất, khái niệm biểu tượng dùng để chỉ một thực thể gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con
Trang 17người (cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của
sự tồn tại này (cái được biểu trưng)"[16, tr.15] Bởi chúng tôi thấy khái niệm
về biểu tượng nói riêng, những lý thuyết về biểu tượng nói chung trong chuyên đề này rất phù hợp với việc tìm hiểu (giải mã) biểu tượng trong thơ Tố Hữu mà chúng tôi sẽ giải quyết trong luận văn của mình Ở đây mối quan hệ mang tính có lí do, tính tất yếu giữa hai mặt của biểu tượng, chính là điểm chủ yếu để phân biệt biểu tượng với dấu hiệu, kí hiệu
1.1.2.2 Tính chất của biểu tượng
Từ khái niệm biểu tượng đã nêu, có thể xác định được những tính chất
cơ bản của biểu tượng, cụ thể như sau:
Tính chất thứ nhất, không thể thiếu của biểu tượng là tính có lý do Biểu tượng luôn có hai mặt:"Cái biểu trưng" và "cái được biểu trưng", hai mặt này
được kết hợp theo tư duy liên tưởng và theo một quan hệ mang "tính có lí do, tính tất yếu" Có lẽ ví dụ tiêu biểu nhất cho điều này, chính là một ví dụ của F.Saussure, cái "biểu trưng công lý là cái cân không phải muốn lấy cài gì thay
thế cũng được" [5, tr.124] Cái cân - "cái biểu trưng" - trong thực tế, khi ở trạng thái thăng bằng nó giữ thế dung hòa, tránh lệch lạc, tránh xung đột giữa hai bên đĩa cân và quả cân, giữ được thế yên ổn, vì lí do như thế, mà người ta
đã gán cho nó ý nghĩa biểu trưng cho công lí - lĩnh vực luật pháp luôn đặt mục đích giữ công bằng trong xã hội lên hàng đầu, nhằm giải quyết các mâu thuẫn xung đột của cuộc sống, giữ cho đời sống được ổn định Ở đây đã có một mối quan hệ nội tại giữa hai bình diện của biểu tượng, chứ không phải là
sự quy ước hoàn toàn võ đoán (rất hay gặp trong tín hiệu ngôn ngữ) Cái được biểu trưng (biểu đạt) của biểu tượng chỉ nảy sinh trên cơ sở những đặc điểm bản thể của cái biểu trưng Các ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng là có thể lí
giải được chứ không phải là sự quy ước tùy tiện Các tác giả Từ điển biểu
tượng văn hoá thế giới đã chỉ ra rất đúng rằng: "Biểu tượng cơ bản khác với
dấu hiệu là một quy ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt (khách thể hay chủ thể) vẫn xa lạ với nhau, trong khi biểu tượng giả định có
sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức"[4, tr.XIX]
Tính chất thứ hai: Biểu tượng mang tính đa trị Thực ra, ngôn ngữ tự nhiên cũng có tính đa trị nhưng là đa trị trên bình diện hệ thống, còn khi đi vào hoạt động cụ thể thì tính đa trị trùng với tính đơn trị (chỉ có một nghĩa
Trang 18được hiện thực hóa trong hoạt động giao tiếp) Ở biểu tượng, tính đa trị thể hiện ở trên cả bình diện hệ thống và bình diện hoạt động Như đã nói ở trên, nếu như các kí hiệu, tín hiệu thông thường, tỉ lệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là 1:1(một cái biểu đạt cho một ý nghĩa được biểu đạt), thì tỉ lệ này trong biểu tượng lại không như vậy, mà là "chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra được nhiều cái biểu đạt hoặc đơn giản hơn, cái được biểu đạt dồi dào
hơn cái biểu đạt"[4, tr.414] Lại có thể lấy ngay ví dụ về sự đa trị của biểu tượng như các biểu tượng Âm - Dương trong Kinh Dịch: Vạch liền (-) là
tượng Dương, còn hiểu là cha, mặt trời, lửa, ngày, hoà bình v.v…; Vạch đứt ( ) là tượng Âm còn hiểu là mẹ, mặt trăng, nước, đêm, chiến tranh v.v…
Tính chất thứ ba, tính đa chiều: Các hướng nghĩa biểu trưng của biểu tượng không chỉ phong phú mà còn đa chiều, nó không phải xoay quanh một trục duy nhất mà nó thường có nhiều trục, không phải được lưỡng cực hóa mà
là đa cực hóa Ở biểu tượng chấp nhận cái thứ ba (nghĩa là ngoài sự đối cực hai chiều, còn có thể có ý nghĩa khác nữa) Chính vì thế, Henry Corbin đã nhận định: "Biểu tượng báo hiệu một bình diện ý thức khác với cái hiển nhiên
lí tính, nó là mật mã của một bí ẩn, là cách duy nhất để nói ra được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác; nó không bao giờ có thể được cắt nghĩa một lần là xong, mà cứ phải giải mã lại mãi, cũng giống như một bản nhạc không bao giờ chơi một lần là xong, mà đòi hỏi một lối biểu diễn luôn luôn mới
có thể sản sinh những biểu tượng văn hoá khác nhau, dấu vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục Mẫu gốc nói một cách đơn giản là biểu tượng mẹ, nguyên mẫu của các biểu tượng
Trang 19Biểu tượng văn hóa: Các cổ mẫu khi đi vào trong những nền văn hóa khác nhau, chịu sự tác động về những điều kiện kinh tế, xã hội, về tự nhiên,
về tôn giáo thì có thể sản sinh ra các biểu tượng văn hóa Biểu tượng văn hóa
là những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành động, ý niệm…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng cho những nền văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi kiêng kị, thần linh Các biểu tượng văn hóa này vừa có
sự duy trì những ý nghĩa biểu trưng của mẫu gốc, vừa có sự điều chỉnh và
biến đổi… Biểu tượng văn hóa là sự tồn tại ở bình diện phổ quát các biểu
tượng phi trực quan
Biểu tượng nghệ thuật: Từ bình diện văn hóa, chuyển hóa vào các loại hình văn hóa, nghệ thuật, một hệ biểu tượng được sáng tạo lại theo những đặc trưng loại hình nhất định: hội họa, sân khấu, văn học, Có thể nói, mỗi tác phẩm nghệ thuật được hình thành trên một cấu trúc chung nhất đó là "cái biểu đạt" và "cái được biểu đạt".Trong đó, tác phẩm nghệ thuật được hình thành từ nền tảng xã hội trên cơ sở của thực tại xã hội Bằng ngôn ngữ biểu tượng của mỗi loại hình nghệ thuật, người nghệ sĩ sử dụng những chất liệu xã hội đó để hình thành nên các tác phẩm nghệ thuật
Biểu tượng ngôn từ nghệ thuật: Các mẫu gốc, các biểu tượng văn hóa khi
đi vào trong tác phẩm nghệ thuật sẽ chịu sự điều biến của yếu tố chủ thể, từ
đó mà sản sinh ra các biểu tượng ngôn từ Trong loại hình nghệ thuật ngôn từ (văn học), biểu tượng bắt buộc phải xa rời đời sống nguyên khởi của nó để
khoác lấy cái vỏ âm thanh ngôn ngữ Do đó biểu tượng ngôn từ là các biểu
tượng nghệ thuật (biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa) cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn ngữ trong văn học Thế nên, con đường giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học sẽ phải đi từ chính ngôn từ, kết cấu, các thủ pháp,…
để tìm ra cái ẩn chìm đằng sau những hình tượng có nguồn gốc từ biểu tượng
1.1.3 Phân biệt biểu tƣợng và một số khái niệm gần gũi
Do là đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau, lại có nhiều cách hiểu không hoàn toàn thống nhất nên không dễ dàng xác định ngay được nội hàm của khái niệm biểu tượng Đôi khi khái niệm này còn dễ bị hiểu lầm lẫn với một số khái niệm gần gũi khác Nhằm xác định chính xác nội hàm, ý nghĩa thuật ngữ biểu tượng, ta cần phân biệt biểu tượng với hình tượng, tượng trưng, ẩn dụ, phúng dụ
Trang 201.1.3 1 Biểu tượng và hình tượng
Cả biểu tượng và hình tượng đều có thể tồn tại trong cùng một tác phẩm nghệ thuật Và ở mặt nào đó,chúng có mối liên hệ qua lại quy định lẫn nhau, rất có thể nhầm lẫn hai khái niệm Mặc dù về bản chất, chúng có mặt khác nhau cơ bản Bất cứ một sự vật, hiện tượng khách quan nào có trong đời sống hiện thực, nếu được mô phỏng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều trở thành hình tượng nghệ thuật Nhưng để có những biểu tượng trong tác phẩm, trước hết nhà văn phải tạo ra được những hình ảnh cụ thể cảm tính có đường nét, màu sắc, hình hài mà người đọc có cảm giác có thể nhìn thấy, sờ thấy, nghe thấy (cái biểu đạt) Tiếp đến, nhà văn chú ý đến việc sắp xếp, bố cục sao cho hình ảnh cụ thể cảm tính đó trở nên nổi bật, gây ấn tượng sâu sắc về mặt ý nghĩa, làm cho người đọc luôn có cảm tưởng rằng đằng sau những hình ảnh, chi tiết, hình tượng có một vài ý nghĩa nào đó khiến họ cảm thấy bị ám ảnh (cái được biểu đạt) Hình tượng giống với biểu tượng ở chỗ: chúng đều được biểu hiện bằng giá trị nhận thức, cảm tính, chủ quan của nhận thức trong việc phản ánh thực tại khách quan của người nghệ sĩ, vả nữa cả hai đều sử dụng những phương tiện biểu đạt chung là ngôn ngữ Nhưng điểm khác biệt rõ nhất giữa hình tượng và biểu tượng là tính kí hiệu ở biểu tượng, một đặc điểm nổi bật đặc trưng, còn ở hình tượng văn học thì tính kí hiệu không nổi rõ Cùng là giá trị nhận thức cảm tính nhưng sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không vượt quá giới hạn của một hình thức biểu đạt cụ thể, trong khi biểu tượng lại vượt quá khuôn khổ của sự biểu đạt, biểu nghĩa Hình tượng nghệ thuật chỉ chở tải được một ý nghĩa biểu đạt duy nhất mà người nghệ sĩ đã có dụng ý lựa chọn, còn biểu tượng thì năng lực biểu hiện của nó rộng lớn hơn cái ý nghĩa có giới hạn gắn cho nó một cách nhân tạo Nó có một sức vang cốt yếu và tự sinh Biểu tượng thực sự có tính cách tân Qua đây cũng thấy "hình tượng" ở phương diện nào đó là cơ sở hình thành nên "biểu tượng", bởi biểu tượng thực chất là sự nâng cấp của những hình ảnh, chi tiết – nâng cấp bằng cách trao cho nó những ý nghĩa sâu sắc, giàu ấn tượng, chẳng
hạn như hình ảnh "Đoàn tàu" trong Hai đứa trẻ ( Thạch Lam) có thể coi là
biểu tượng về một cuộc sống đáng mơ ước , Tuy nhiên không phải hình tượng nào cũng trở thành biểu tượng Không phải cứ lấy một biểu tượng trong đời sống đưa vào tác phẩm nghệ thuật là lập tức có biểu tượng nghệ
Trang 21thuật Biểu tượng nghệ thuật thực sự là kết quả của sáng tạo nghệ thuật đầy công phu của nhà văn Để cho hình ảnh, sự vật trở thành biểu tượng, nhà văn thường sắp xếp nó trong nhiều mối quan hệ, biến nó trở thành trung tâm của những quan hệ đó Ngoài ra, sự lặp đi lặp lại của một hình ảnh, hình tượng đa nghĩa trong nhiều tác phẩm của một tác giả cũng là cách tạo thành biểu tượng nghệ thuật Chẳng hạn hình tượng "hồn" hay " trăng" lặp lại nhiều lần trong thơ Hàn Mặc Tử cũng biến thành những biểu tượng thẩm mỹ đầy ám ảnh trong lòng người đọc
1.1.3.2 Biểu tượng và tượng trưng
Không ít quan điểm giải thích biểu tượng bằng khái niệm tượng trưng Bởi trong Tiếng Anh, thuật ngữ "biểu tượng" (symbol) được hiểu và dùng với
hai nghĩa là "biểu tượng" và "hình ảnh tượng trưng" Nhưng thực chất giữa
biểu tượng và tượng trưng vẫn có sự khác biệt nhất định
Có thể thấy, điểm phân biệt rõ nhất giữa biểu tượng và tượng trưng là ở
"tính cố định" của tượng trưng và "tính biến đổi" phong phú các ý nghĩa của
biểu tượng Cái tượng trưng thường chỉ gợi ra một nghĩa cố định, khi nói đến
nó là lập tức người ta nghĩ ngay đến một nghĩa nào đó, một hình ảnh tượng trưng thực tế chỉ là một nét nghĩa của biểu tượng đã được ước lệ hóa mà thôi, thế nên cảm nhận về một tượng trưng trong nghệ thuật, trước hết người ta thưởng thức cái ý vị được gửi gắm Tính chất biến đổi, đa nghĩa và cá thể của tượng trưng là rất ít Cho nên, tượng trưng rất dễ trở thành công thức sáo mòn.Ví như: Chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu…Trong khi đó, biểu tượng nghệ thuật có khả năng tái sinh, có thể chuyển vào trong nó những nghĩa mới, mang dấu ấn cá nhân và dấu ấn của thời đại Chẳng hạn từ một mẫu gốc là "lửa", trong nền văn hóa nhân loại
sẽ sản sinh ra nhiều biến thể khác nhau như : đèn, nến, than, khói, hương…độc đáo là khi vào trong văn chương, nó lại mang những nét nghĩa biểu tượng khác nhau Nguyễn Du trong Truyện Kiều từng viết:
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Câu thơ thứ 3045, 3046 của Kiều xuất hiện biến thể của "lửa", là "lửa
lòng" không để chỉ lửa với ý nghĩa về vật chất đơn thuần, mà đặt trong ngữ cảnh, trong quan hệ với nhân vật Thúy Kiều, dưới sự sáng tạo của Nguyễn
Trang 22Du, nó mang ý biểu tượng cho nhiệt huyết sống, cho tinh thần nhập thế của con người
Cũng vẫn Nguyễn Du, và vẫn là Kiều, có lúc "lửa" lại là biểu tượng cho
tình yêu vợ chồng nồng nàn, thắm thiết, trong câu thơ thứ 2213, 2214:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Như vậy, không thể đồng nhất biểu tượng và tượng trưng, vì như thế sẽ làm mất đi tính đa trị của biểu tượng, và khi chúng ta dùng đi dùng lại một biểu tượng nhiều lần để biểu hiện một loại ý nghĩa thì biểu tượng dễ thành cái tượng trưng
1.1.3 3 Biểu tượng và ẩn dụ
Cả biểu tượng và ẩn dụ trong văn chương đều là những phương thức chuyển nghĩa của lời nói, nên hai khái niệm này cũng có một sự gần gũi tương đối, tuy nhiên chúng không phải " hai mà một".Theo nhà văn Nga V.I Eremina:
"Ẩn dụ trong thơ ca được sinh ra nhất thời và mất đi khá nhanh Biểu tượng được hình thành trong quá trình dài và sau đó sống hàng trăm năm, ẩn dụ
là yếu tố biến đổi, còn biểu tượng thì không đổi, mà bền vững Ẩn dụ là phạm trù thẩm mỹ và phần lớn tự do tách khỏi phong cách ước lệ Biểu tượng thì ngược lại, được giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thi ca xác định"[33, tr.18] Ở đây, ý kiến của nhà văn Nga V.I Eremina đã phân biệt rõ ranh giới giữa ẩn dụ
và biểu tượng thơ ca chủ yếu là ở tính "biến đổi" và "bền vững", "tự do" và
"ước lệ" Ngoài ra, có thể thấy thêm sự khác biệt nữa: trong ẩn dụ, một cái biểu
đạt xuất hiện thường để chứa ngầm một cái được biểu đạt, còn biểu tượng thì
có phạm vi rộng hơn, tỉ lệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là một và hơn một; quan hệ trong ẩn dụ là tương đồng giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, còn trong biểu tượng quan hệ này là mối quan hệ nội tại có lý do
Sự khác biệt này khiến ta không thể cho rằng ẩn dụ và biểu tượng là một được, vì như thế sẽ biến biểu tượng thành một dạng tu từ thông thường, làm mỏng đi ý nghĩa của biểu tượng
1.1.3 4 Biểu tượng và phúng dụ
C.G Jung cho rằng: "Biểu tượng không phải là một phúng dụ, cũng chẳng phải là một ký hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất, ta mơ hồ, nghi hoặc của tâm linh” [4, tr.XXIV]
Trang 23Henry Corbin cũng nhận định về phúng dụ như sau : "Phúng dụ là một thủ thuật lý tính không bao hàm ý nghĩa chuyển dịch sang một bình diện mới của tồn tại, cũng không đào thêm vào một chiều sâu của ý thức; đây là sự biểu hình, ở cùng một cấp độ ý thức, cái mà đã có thể biết khá rõ bằng một cái khác)"
[4, tr.XVIII]
Trong khi đó, biểu tượng lại là "mật mã của sự bí ẩn", và hàm ý của nó
là không giới hạn Chính vì thế, điểm khác biệt cơ bản nhất giữa biểu tượng
và phúng dụ là sự cố định tĩnh tại của phúng dụ, và sự năng động, biến đổi linh hoạt của biểu tượng Cần thấy rõ điểm khác này để không làm khô cứng
đi các nét nghĩa của biểu tượng
Như vậy, qua việc khu biệt khái niệm biểu tượng với một số khái niệm gần gũi như hình tượng, tượng trưng, ẩn dụ, phúng dụ … sẽ cho thấy rõ hơn, nổi bật hơn khái niệm, bản chất của biểu tượng Đó là việc cần thiết trước khi tìm hiểu cụ thể chi tiết biểu tượng trong thơ Tố Hữu
1.2 Hành trình sáng tạo thơ Tố Hữu
Tố Hữu - lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam Chính vì lẽ
đó mà các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn song hành và phản ánh chân thực những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ Cảm hứng trữ tình trong thơ Tố Hữu kết hợp một cách tự nhiên với ba chủ đề lớn: Ngợi ca lẽ sống cao đẹp của người cách mạng, diễn tả niềm vui hướng về tương lai xã hội chủ nghĩa, thể hiện những cảm nghĩ ân tình chung thủy Có
thể thấy rõ điều này từ tập Từ ấy cho đến tập thơ Ta với ta
1.2.1 Tập thơ "Từ ấy"
Từ ấy là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, gồm 71 bài được sáng tác trong
khoảng 10 năm kéo dài từ 1937 đến 1946 tương ứng với chặng đường cách mạng từ phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và Toàn quốc kháng chiến Phần lớn các bài thơ trong tập được đăng trên báo chí công khai và bí mật từ những năm 1938, được tập hợp lại và
xuất bản lần đầu năm 1946 với nhan đề Thơ, và năm 1959 tái bản có sửa chữa,
bổ sung, dưới tên gọi Từ ấy Trong Câu chuyện về thơ Tố Hữu từng viết: "Từ
ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi, đi theo lý tưởng cao
đẹp, dám sống, dám đấu tranh".Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích,
Trang 24Giải phóng Qua ba phần ấy, cảm hứng thơ Tố Hữu vận động từ niềm hân
hoan của tâm hồn trẻ nhiều băn khoăn về lẽ sống bỗng được gặp ánh sáng lí tưởng; rồi qua bao gian lao, thử thách, từng bước trưởng thành trên con đường đấu tranh cách mạng; đến niềm vui bất tuyệt, ngây ngất trước cuộc đổi đời vĩ
đại của dân tộc Máu lửa bao gồm trong đó 27 bài thơ được sáng tác trong
khoảng 2 năm (từ cuối năm 1937 đến đầu năm 1939) Trong thời gian này, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đang phát triển mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, đồng thời đây cũng là những năm tháng mà trên thế giới, phong trào chống phát xít, bảo vệ dân chủ và hòa bình thế giới diễn ra sôi nổi Với riêng tác giả Tố Hữu, giai đoạn này cũng là lúc bước vào tuổi thanh niên, được gặp gỡ lý tưởng cộng sản và trở thành một người chiến sĩ hăng hái,
một người lãnh đạo phong trào thanh niên dân chủ ở Huế Phần Máu lửa cho
thấy nội dung chủ đạo là tiếng lòng đồng cảm với những thân phận bị đọa đày, hắt hủi của những người lao động nghèo khổ ở thành thị và cất tiếng nói chống
chiến tranh phát xít, có ý nghĩa ở tầm nhân loại.Với riêng nhà thơ, Máu lửa
biểu hiện tiếng reo ca náo nức của một tâm hồn trẻ khát khao lẽ sống đã gặp lý
tưởng cách mạng, mà bài thơ Từ ấy là một điển hình:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Phần Xiềng xích gồm 30 bài sáng tác trong thời gian tác giả bị giam tại
nhà tù đế quốc từ tháng 4 năm 1939 đến tháng ba năm 1942 Phần này như một bản quyết tâm thư của người chiến sĩ trẻ tuổi tự nhủ với lòng mình không khuất phục trước súng đạn và sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù, không nản chí trước mọi khó khăn trở ngại Đó là những cuộc tuyệt thực trong nhà lao, những cuộc chiến đấu gay go với bản thân để vượt qua những cám dỗ thấp
hèn (bài Con cá chột nưa, Tranh đấu); là những lời trăng trối của bạn tù gửi lại khi ra pháp trường (bài Trăng trối); là xúc cảm xao động trước tiếng vọng của cuộc đời bên ngoài qua song cửa nhà tù (bài Một tiếng rao đêm, Nhớ
người, Nhớ đồng); là ý chí hướng về những tấm gương hy sinh của đồng bào
và chiến sĩ trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (bài Bà má Hậu Giang); là tiếng nói
Trang 25đấu tranh góp phần với phong trào đấu tranh bên ngoài và những tiếng thơ
kêu gọi tâm huyết (bài Dậy mà đi, Dậy lên thanh niên) v.v…
Giải phóng gồm 14 bài, sáng tác trong những năm từ 1942 đến 1946
Đây là những năm tháng khi nhà thơ vượt ngục và sống trong không khí sục sôi cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa Thơ Tố Hữu trong giai đoạn này là
tiếng thét căm thù đối với sự áp bức của hai đế quốc Pháp-Nhật (bài Tiếng hát
trên đê, Đói! Đói! Đói!); là sự dự cảm tin lành chiến thắng (bài Xuân đến); là
niềm say sưa, niềm vui bất tuyệt của độc lập, tự do (bài Huế tháng Tám, Vui
bất tuyệt) v.v…
Nổi bật lên ở tập Từ ấy là chất lãng mạn trong trẻo của một hồn thơ trẻ
say men lí tưởng; nhạy cảm với cảnh đời, tình đời; một cái tôi trữ tình mới, trong đó ý thức cá nhân đang từng bước hoà mình với đoàn thể, nhân quần; một giọng điệu thiết tha, sôi nổi, nồng nhiệt
1.2.2 Tập thơ "Việt Bắc"
Tập thơ thứ hai của Tố Hữu là Việt Bắc - cũng là tập thơ đánh dấu chặng
đường hoạt động thứ hai của chiến sĩ cách mạng Tố Hữu, được sáng tác chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), gồm tổng cộng 24 bài Chín năm thơ của Tố Hữu, từ Tổng khởi nghĩa, trải qua kháng chiến, đến
hòa bình, đã được tuyển lựa thành tập thơ Việt Bắc.Tập thơ là bản hùng ca
phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và những bước đi lên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến ngày thắng lợi
Tập thơ hướng vào thể hiện con người quần chúng kháng chiến, mà tiêu biểu cho tinh thần đó trước hết là hình ảnh quần chúng nhân dân, những người gánh cả cuộc kháng chiến trên vai, đó là anh Vệ quốc quân hiên ngang
như thiên thần, là em bé liên lạc, và trên hết là hình ảnh Bác Hồ, lãnh tụ kính
yêu - hiện thân cho tinh hoa và trí tuệ của dân tộc vừa cao cả, lớn lao vừa bình
dị, gần gũi
Anh Vệ quốc quân kháng chiến lần đầu vào trong thơ, hiện lên thật dung
dị, trong sáng lạ thường Nhà thơ nhìn họ bằng đôi mắt yêu thương trân trọng:
Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ
Trang 26Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!
( Cá nước) Các anh xuất thân chính từ người nông dân nghèo khổ :
Bữa đói bữa no Chạy quanh chẳng đủ Ngày đôi bát ngô Lên rừng đào củ…
( Bà mẹ Việt Bắc) Khi vào bộ đội, được sự rèn luyện của Đảng, của giai cấp công nhân, những người nông dân mặc áo lính đó chan chứa tình yêu nước, yêu nhân dân, từ nhân dân mà ra, họ anh dũng vì nhân dân mà chiến đấu Gian khổ bao nhiêu cũng quyết tâm vượt qua:
Con đường gieo neo
Là đường Vệ quốc
Tha hồ đèo dốc
Ta hò ta reo!
( Voi) Với phương châm kháng chiến toàn dân, bức tranh về những con người kháng chiến còn hiện lên hình ảnh của những bà mẹ, những chị phụ nữ, và cả những thiếu nhi "tuổi nhỏ chí lớn" Xúc động thay là những người mẹ, những
bà bầm , bà bủ chịu bao cực khổ của cuộc đời lam lũ, mà vẫn luôn bao bọc, lo toan cho những đứa con còn phải đang tranh đấu:
Bà bủ nằm ổ chuối khô
Bà bủ không ngủ bà lo bời bời
( Bà bủ)
Trang 27Rồi những phụ nữ tham gia kháng chiến:
Nhà em phơi lúa chưa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá đường quan
(Phá đường)
Và cùng với nhân dân, hình ảnh Bác Hồ là hình ảnh đặc biệt nhất của
con người kháng chiến trong Việt Bắc Trong bài thơ Sáng tháng Năm, nhà
thơ đã nhìn Bác từ bên trong, từ chiều sâu, qua đó cho ta thấy Bác vĩ đại không chỉ như một vị tướng mà còn bình dị, trầm tĩnh, ung dung, thanh thản trong những sự việc trọng đại cũng như trong đời sống hằng ngày:
Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị Màu quê hương bền bỉ đậm đà
(Sáng tháng năm) Bác Hồ gẫn gũi như một người cha, người anh:
Bàn tay con nắm tay cha Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
(Sáng tháng năm)
Hình ảnh Bác - một vị lãnh tụ của đất nước nhân dân, mà rất giản dị hiền hòa với phong thái ung dung như một vị tiên giữa thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc
Việt Bắc còn là tập thơ thể hiện rõ tính trữ tình cách mạng qua việc diễn
tả mối tình giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như một mối tình riêng
tư nồng thắm Mọi sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, địa dư, nhân chủng đều hòa thành một "tiếng hát ân tình thủy chung" Đó là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước với nhân dân cách mạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại mà cốt lõi
là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc:
Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Trang 28Ngòi Thia , sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
( Việt Bắc)
Bài thơ cùng tên được coi như chủ đề của toàn tập Việt Bắc đã thể hiện
tình cảm gắn bó thắm thiết giữa người đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ
niệm sâu nặng trong tâm hồn Việt Bắc là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm
rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách thơ của Tố Hữu Vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng đối với nhân dân Có lẽ cũng chính vì vậy mà, tập thơ vẫn còn thiếu những con người cá thể, cụ thể, những tình cảm riêng tư của cái "tôi" trữ tình Về mặt nghệ thuật, tuy được đánh giá là bước trưởng thành quan trọng của thơ Tố Hữu, là một thành tựu xuất sắc của thơ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nhưng yếu tố cách tân trong tập thơ cũng chưa rõ nét
1.2.3 Tập thơ "Gió lộng"
Đến tập Gió lộng, thơ Tố Hữu thực sự đem đến ngọn gió mới, thể hiện
nỗi niềm phấn chấn của người xây dựng đất nước.Tập thơ được Tố Hữu viết trong khoảng thời gian miền Bắc đang xây dựng xã hội chủ nghĩa và miền
Nam đang tiếp tục đấu tranh chống Mỹ.Tập thơ Gió Lộng khai thác những
nguồn cảm hứng lớn, cũng là những tình cảm bao trùm trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam đương thời: niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, tình cảm với miền Nam và ý chí thống nhất đất nước, tình cảm quốc tế vô sản rộng mở với các nước anh em Tập thơ mang đậm khuynh hướng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn tích cực
Trước hết trong Gió Lộng là cái vui đầy tự hào của người chiến thắng:
Một vùng trời đất trong tay Dẫu chưa toàn vẹn, đã bay cờ hồng!
Trang 29Việt Nam, dân tộc anh hùng Tay không mà đã thành công nên Người!
( Bài ca mùa xuân 1961) Tiếp đó là tiếng ca vui của nhà thơ trước không khí sôi nổi, rộn rịp của đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh một nước nông nghiệp còn nhiều khó khăn:
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà Chuồng lợn, bầy gà, đàn trâu, ao cá
Dọn tý phân rơi, nhặt từng ngọn lá Mỗi hòn than, mẩu sắt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!
( Bài ca mùa xuân 61)
Và vui hơn nữa là chúng ta đã xây dựng được những quan hệ mới giữa người với người:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người, sống để yêu nhau!
( Bài ca mùa xuân 61) Trên miền Bắc, cuộc sống như một ngày hội lớn, nhìn đâu cùng thấy niềm vui.Tuy thế, vẫn không quên nỗi đau chia cắt đất nước, không lúc nào không nhớ đến miền Nam:
Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà
Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng Miền Nam dậy ,hò reo náo động
( Bài ca mùa xuân 61)
Nhớ tới miền Nam vẫn đang bền bỉ đấu tranh với quân xâm lược Mĩ, nhà thơ cũng đồng thời thể hiện một ý chí thống nhất đất nước
Trang 30Tóm lại, tập Gió Lộng đã thể hiện niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng vào
cuộc sống mới XHCN ở miền Bắc, ngợi ca cuộc sống mới, con người mới, ngợi ca Đảng - Bác Hồ, thể hiện tình cảm với miền Nam, cổ vũ cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, khẳng định tình cảm quốc tế vô sản Tập thơ đã đưa đến cho đời sống cách mạng một niềm lạc quan tin tưởng vào chiến thắng
1.2.4 Tập thơ "Ra trận" và "Máu và Hoa"
Hai tập Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1972-1977) là chặng đường
thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt và hào hùng của cả dân tộc cho tới ngày toàn thắng Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam, Bắc Khẳng định ý nghĩa to lớn, cao
cả của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với lịch sử dân tộc và thời đại, thơ Tố Hữu cũng thể hiện những suy nghĩ, phát hiện mới của nhà thơ về dân tộc và con người Việt Nam mà tác giả luôn ngợi ca với niềm tự hào và cảm phục
Đúng như cái tên tập thơ, Ra trận thể hiện khí thế hào hùng, xốc tới của
cả một dân tộc:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai ( Theo chân Bác)
Gắn với đó vẫn là hình ảnh những chiến sĩ giải phóng quân, được tác giả dành bao mến thương, bao niềm cảm phục, nhà thơ kính chào Anh, con người đẹp nhất, trong trang thơ, các anh hiện ra trong vẻ đẹp thần thoại:
Anh đi xuôi ngược tung hoành Bước dài như gió lay thành chuyển non Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương
( Tiếng hát sang xuân)
Và linh hồn dân tộc - Chủ tịch Hồ chí Minh, vị lãnh tụ của cuộc kháng chiến cũng vẫn luôn đồng hành cùng những trang thơ Tố Hữu:
Ta có Bác dẫn đường lên trước Bác cùng ta, mỗi bước gian lao
Trang 31Vui sao buổi hành quân nắng lửa Bỗng gặp Người, lưng ngựa đèo cao
Thương sao, sáng lên đường ra trận Người đến thǎm ta, vượt lũ nguồn Nhớ sao giữa chiến trường lửa đạn Người đứng trông ta đánh diệt đồn!
( Theo chân Bác)
Ra trận thật sự là khúc ca chiến đấu hào hùng của quân và dân ta Kế liền
đó, Máu và Hoa có ý nghĩa tổng kết quá trình phát triển của dân tộc, của Cách
mạng Việt Nam - một hành trình đầy máu, đầy hoa Máu: biểu tượng của nỗi đau uất hận trong đêm dài nô lệ và máu là sự hi sinh, xả thân vì nghĩa lớn Hoa: biểu tượng cho vẻ đẹp của lý tưởng cộng sản, của chủ nghĩa anh hùng và niềm
vui ngày chiến thắng Tiêu biểu trong tập thơ là thi phẩm Nước non ngàn dặm,
có thể nói Nước non ngàn dặm là một trong những bài thơ dài tuyệt vời của Tố
Hữu Thành công đáng kể của bài thơ là ở chỗ nó đã nói hộ, nói đúng ý nghĩ và tình cảm của đồng bào, chiến sĩ, của các tầng lớp nhân dân ở nhiều vùng đất nước đối với công cuộc kháng chiến vừa qua và chuẩn bị bước sang hoàn cảnh
mới, giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng Trong Nước non ngàn dặm có
khá nhiều câu thơ, đoạn thơ diễn tả sống động, hấp dẫn về cuộc sống muôn màu muôn vẻ ở miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ và cả các vùng biên giới với hai nước bạn Lào, Campuchia Nhà thơ đưa ta đến với ánh nắng chan hòa trên cánh rừng Lao Bảo; ánh trăng rực rỡ trên Bến Giằng (Quảng Nam); với Tây Nguyên hùng vĩ và những miệt vườn cây trái sum suê ở Tây Ninh, Đồng Tháp, Bến Tre…Và in dấu không phai trong trái tim của bao anh giải phóng quân vẫn là con đường Trường Sơn huyền thoại:
Trường Sơn, xẻ dọc, rọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng
Trường Sơn, vượt núi, băng sông
Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa
Trường Sơn, đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình
( Nước non ngàn dặm)
Trang 321.2.5 Tập thơ " Một tiếng đờn"
Sau Máu và Hoa, ở tuổi ngoài 70 Tố Hữu tiếp tục cho ra mắt tập thơ Một
tiếng đờn xuất bản năm 1993 với 72 bài thơ sáng tác trong thời hòa bình vào
khoảng hơn mười năm (1978 - 1992) Một tiếng đờn, vẫn Tố Hữu trong tiếng
thơ quen thuộc nhằm nhắc nhở con người hướng vào những tình cảm lớn của dân tộc, những mục tiêu cao cả của cách mạng, ông vẫn thủy chung với nguồn
đề tài của đời sống cách mạng, của toàn đất nước Trước một hiện thực mới
mẻ, đã có một tiếng nói mới, một giọng điệu mới nơi Tố Hữu, đó là những dòng tâm tư, trăn trở từ mạch cảm xúc trong thời hoà bình, vì đời thôi lửa cháy, nên xuất hiện những dòng thơ tươi xanh - mang đậm cảm hứng thế sự
Ðề tài thơ phong phú, đa dạng: ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, con người; công cuộc xây dựng đất nước đầy phức tạp; tình yêu và số phận con người;
Âm hưởng thơ bớt vang xa (hướng ngoại) mà vọng sâu hơn (hướng nội), đôi
khi tưởng chạm tới một điều gì riêng tư của tuổi cuối đời nhìn lại: "Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn" Ở tập thơ này, Tố Hữu trở về bút pháp nội tâm, rất gần với thời kỳ "Từ ấy" Có một sự đấu tranh nội tâm rất mạnh:"Mới bảy mươi sao đã gọi là già" Bút pháp không tung hoành hào sảng mà trầm xuống
trong chiêm nghiệm Trong cái bình đạm của giọng thơ, có sức rắn lại của ý chí:
Ta lại đi, như từ ấy ra đi Lòng hăm hở tưởng như mình trẻ lại
1.2.6 Tập thơ " Ta với ta"
Và cũng cùng nguồn cảm hứng trong thời hòa bình đổi mới của đất nước
ấy, vào tuổi 80 tác giả khẳng định hồn thơ vẫn rạo rực, thổn thức suy tư của
mình trong tập Ta với ta Đây cũng là tập thơ cuối cùng của Tố Hữu, được
sáng tác trong khoảng gần chục năm cuối đời (1993- 2001) Giọng thơ chùng xuống, đầy suy tư, trăn trở về lẽ đời, lòng người, về sự hữu hạn của thời gian
là nét nổi bật của thơ Tố Hữu ở tập thơ cuối cùng, trong tư cách con người cá nhân hơn là tư cách người chiến sĩ cách mạng trước đây
Có thể thấy một cách khái quát trong giai đoạn 1945- 1975, thơ Tố Hữu vẫn luôn trung thành với lý tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị Thơ có sự thống nhất giữa mục đích tuyên truyền cách mạng và nội dung trữ tình Xuân Diệu khẳng định "Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình "
Trang 33Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn Trong đó tính
sử thi biểu hiện đầu tiên ở việc tập trung khắc họa những bối cảnh rộng lớn, những biến cố quan trọng tác động mạnh mẽ đến vận mệnh dân tộc, tiếp theo
ở hình tượng con người của sự nghiệp chung, cá nhân kết tinh số phận, vẻ đẹp của cộng đồng, và ở cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử - dân tộc ngợi
ca Còn cảm hứng lãng mạn biểu hiện qua tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin vào tương lai, vào con đường cách mạng tuy gian khổ nhưng tất thắng Nét nghệ thuật nổi bật ở Tố Hữu nữa là giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết Dù là những dòng thơ tươi xanh hay những dòng thơ lửa cháy, giọng thơ Tố Hữu vẫn một điệu sôi nổi, mãnh liệt Nhà thơ đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng sâu nặng, luôn hướng đến đồng bào đồng chí mà chân thành giãi bày tâm sự, kêu gọi, nhắn nhủ Giọng thơ có cái duyên riêng của hồn thơ xứ Huế
Thơ Tố Hữu còn đậm đà tính dân tộc, bộc lộ ở nội dung phản ánh hiện thực đời sống dân tộc bằng sự gắn bó khăng khít với đạo lí tự ngàn xưa, thơ
Tố Hữu làm giàu và "nhuận sắc" cho những tình cảm, đạo đức truyền thống Tiếp nữa, tính dân tộc còn bộc lộ ở việc sử dụng thể thơ, Tố Hữu dùng đa dạng các thể thơ, nhưng đặc biệt thành công ở những thể thơ truyền thống, chẳng hạn như thể lục bát, thơ Tố Hữu mang cả sắc thái lục bát ca dao và lục
bát cổ điển (Việt Bắc, Bầm ơi, Khi con tu hú…), hay thể thất ngôn, trang trọng
cổ điển nhưng linh hoạt, biến hóa trong gieo vần tạo nhịp phù hợp với việc
diễn tả những tình cảm của thời đại mới (Mẹ Tơm, Bác ơi, Theo chân Bác…)
Về ngôn ngữ, Tố Hữu có sở trường trong việc sử dụng từ ngữ hình ảnh ước
lệ, ví von có tính truyền thống Tố Hữu cũng phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt qua biệt tài sử dụng từ láy cùng vần, phối thanh, ngắt nhịp Tạo nhạc điệu bên trong tâm hồn con người, và cũng tạo chiều sâu tính dân tộc của thơ Tố Hữu
Trang 34CHƯƠNG 2
CÁC HỆ BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN
1945- 1975 2.1 Những biểu tượng tiêu biểu diễn tả hiện thực chiến tranh
Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975 tồn tại
và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, đó là chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài ba mươi năm, miền Bắc xây dựng cuộc sống mới, việc giao lưu văn hoá với các nước ngoài không hoàn toàn thuận lợi Thi ca trong giai đoạn này cũng như văn học vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của
Đảng và trở thành một bộ phận trong sự nghiệp của Cách mạng."Trong cuộc
chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng tiếng nhạc, tiếng thơ cùng hòa điệu" (Hoài Thanh) Thơ ca phục vụ cách mạng đã được các tầng lớp văn nghệ sĩ chấp nhận một cách tự giác và tự nguyện, bởi vì họ cho rằng đó cũng chính là trách nhiệm của một công dân Đề tài lớn nhất của văn học giai đoạn
này là hiện thực đời sống Cách mạng vô cùng phong phú của đất nước Đội
ngũ các nhà văn nhà thơ giờ đây đồng thời cũng là chiến sĩ giàu nhiệt tình cách mạng và giàu sức sáng tạo
Với thơ Tố Hữu, giai đoạn cách mạng từ 1945- 1975 được phản ánh rất
rõ nét và chân thực Bằng việc khảo sát một số biểu tượng nổi bật trong thơ
Tố Hữu 30 năm chiến tranh, chúng ta sẽ thấy rõ hơn hiện thực cách mạng Việt Nam Những biểu tượng nổi bật và có tính chất lặp lại nhiều lần như: biểu tượng về cái chết, ngọn lửa, máu, lá cờ, con đường, trong thơ Tố Hữu thời kháng chiến mang nhiều ý nghĩa biểu đạt sâu xa
2.1.1.Biểu tượng lửa
Trong đời sống, có thể nói rằng lửa là một trong những khám phá ý nghĩa và quan trọng nhất của con người, đánh dấu một bước văn minh mới của nhân loại Lửa đã đồng hành cùng con người ngay từ thời đồ đá với những công dụng như để sưởi ấm, nấu ăn và nung đồ gốm Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển rất hiện đại, nhưng lửa vẫn không mất đi vai trò trọng yếu của nó, lửa vẫn không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của con người Đối với văn hóa, lửa lại được coi như một trong bốn yếu tố vật chất cơ bản khơi gợi trí tưởng tượng của con người là Nước, Lửa, Đất và Trời Và trong bốn yếu tố mẫu gốc đó, nhiều quan niệm cho rằng lửa là mã thẩm mĩ đầu tiên xuất hiện trong nền văn hóa chung của nhân loại Nhà phân tâm học
Trang 35nổi tiếng của phương Tây, G Bachelard đã nói rất hay về lửa :"Trước khi là
đứa con của gỗ, lửa đã là con của người", vì vậy "lửa là một bản thể xã hội hơn là một bản thể tự nhiên" Về ý nghĩa biểu tượng, lửa là biểu tượng có tính
nhị nguyên, lửa thiêu đốt và lửa cũng là sự tái sinh, nó bao gồm cả điều tốt (nhiệt cho sự sống) và điều xấu (sự hủy diệt và đám cháy lớn) Ngọn lửa, trong các truyền thuyết, "là biểu tượng của sự tẩy uế, sự toả sáng của tình yêu theo nghĩa tinh thần Ngọn lửa là hình ảnh của tinh thần và sự siêu việt, linh hồn của lửa Theo nghĩa xấu và đen tối, ngọn lửa làm cho đồi bại, gây chia rẽ, bất hoà: đó là hơi thở cháy bỏng của sự nổi loạn, mẩu củi cháy dở dày vò của
sự thèm muốn, lũ than hồng thuỷ của sự dâm ô, tiếng nổ giết người của quả
lựu đạn" [4, tr.644] Khi đi vào trong văn chương nghệ thuật, biểu tượng lửa
luôn luôn có xu hướng tái sinh về mặt ý nghĩa, không chỉ trong sáng tác mà còn cả trong tiếp nhận Cái biểu đạt có thể vẫn giữ nguyên nhưng ý nghĩa của
nó đó được bổ sung Tuy nhiên, khi xuất hiện trong tác phẩm với nét nghĩa mới nó vẫn lưu giữ trong mình những nét nghĩa đã từng có trong lịch sử Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, ngọn lửa trở thành biểu tượng của sức mạnh ý chí và nghị lực, là biểu tượng rực cháy của niềm tin và hy vọng chiến thắng, nhưng ngọn lửa cũng là biểu tượng của tội ác phá hủy, tàn sát của giặc… Nhiều nhà thơ đã rất thành công khi lấy cảm hứng từ hình ảnh
ánh đèn, ngọn lửa,…Chẳng hạn Bằng Việt với bài thơ Bếp lửa, Phạm Tiến Duật với bài Lửa đèn, Chính Hữu với bài Ngọn đèn đứng gác, Lưu Quang Vũ với Em, Bầy ong trong đêm sâu… Cũng như các nhà thơ ấy, Tố Hữu đã có
một cảm thức thẩm mỹ sâu đậm với hình ảnh lửa, trong suốt chặng thơ kháng chiến từ 1945 đến 1975 hình ảnh lửa xuất hiện đến 80 lần trong 42 sáng tác của nhà thơ, nó trở thành những biểu tượng thơ chứa đầy ý nghĩa, liên quan đến hiện thực chiến tranh, liên quan đến lòng quyết tâm, ý chí diệt thù của
quân và dân Việt Nam ta Jean Chevalier và Alain Gheerbrant trong Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới viết : "Như mặt trời bằng những tia sáng của nó,
lửa bằng những ngọn lửa tượng trưng cho hoạt động đem lại sự sinh sản dồi dào, tẩy uế và soi sáng Nhưng lửa cũng thể hiện một mặt tiêu cực: nó làm tối
và chết ngạt bởi khói của nó; nó đốt cháy, tàn phá, thiêu hủy: lửa của những
dục vọng, của sự trừng phạt, của chiến tranh."[4, tr.548]
Chiến tranh - nhắc lên hai từ đó thôi cũng đủ gieo vào lòng con người bao nỗi sợ hãi, hoang mang, đủ gợi lên trong lòng những người còn sống và
đang sống biết bao đau thương, mất mát Ngọn lửa trong thơ Tố Hữu trước
Trang 36hết biểu tƣợng cho sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh, lửa gắn liền với bom đạn, với đốt phá, hủy diệt Ngay từ khi quân Pháp vào nước ta, ngọn lửa
đã đi vào thơ ca yêu nước thời kì đầu như biểu tượng của sự tàn phá cuộc sống yên bình:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
( Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu)
"Tranh ngói nhuốm màu mây", đó là màu khói lửa đạn bom, màu của những mái nhà bốc cháy trong hành động cướp phá, hủy diệt làng mạc của bọn xâm lăng, đã khiến hàng triệu hàng triệu người phải tha hương trong loạn lạc đau thương
Rồi sau đó, ngọn lửa thật kinh hoàng, là biểu tượng của sự hung tàn, khốc liệt khi giặc Pháp đã lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
( Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
Và niềm vui chiến thắng thực dân Pháp chưa được bao lâu, thì miền Nam bắt đầu sống những năm tăm tối, có thể chưa từng thấy trong lịch sử Kể
từ khi đế quốc Mỹ nhảy vào Việt Nam, chúng ngày đêm giày xéo đất nước ta
và gây ra nhiều tội ác khiến trời không dung, đất không tha, người người đều căm giận, những tội ác vẫn gắn với lửa:
Bọn xé xác trẻ em Bọn châm lửa đốt nhà Bọn mưu giết ruộng đồng ta bằng hóa học Bọn đẵn gốc những mùa xuân nảy lộc Bọn đâm lê vào những áo cà sa…
(Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta - Chế Lan Viên)
Lửa - tội ác quân xâm lƣợc được thể hiện khá nhiều trong những vần thơ
của Tố Hữu, đó là ngọn lửa biểu tượng cho chiến tranh bao vây lấy con người,
những " đoạn đường lửa bỏng"," khói lửa"," khói lửa chiến trường","lửa nước sôi", "tuyến lửa" "thác Lửa, thác Chông" " bến sông lửa cháy"… đều chỉ những
không gian, thời gian của chiến tranh đứt gẫy, nóng bỏng, lụi tàn
Trang 37Và có lẽ lửa sát sinh, là thứ lửa hung tàn hơn cả, những câu thơ đọc lên nghe như có tiếng oán than, kêu khóc:
Đồng bào ơi, anh chị em ơi Chúng tôi không thể thét nữa rồi Lửa đã đốt những thây đen thuốc độc Súng đã bắn những đầu xanh gan góc
( Thù muôn đời muôn kiếp không tan)
Đó là những tiếng kêu cuối cùng của những chiến sĩ Cách mạng cứu nước, khi bị giặc bắt tra tấn và thủ tiêu bằng thuốc độc, bằng lửa thiêu, họ đã
"chết thê thảm chết một ngày bi thiết", trong lặng câm, oan uổng khôn nguôi
Không chỉ có thế, giặc tàn sát thường dân trong chiến tranh Việt Nam, một cách vô cùng dã man, vô tội vạ, và trong muôn vàn cách hành hình giết tróc, ngọn lửa vẫn cùng có mặt như một biểu tượng của sự thiêu đốt kinh hoàng:
Có những ông già, nó khảo tra Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh, không chịu nhục Lấy vồ nó đập, vọt thai ra!
Anh biết không Long Mỹ, Hiệp Hưng
Nó giết thanh niên, ác quá chừng Hăm sáu đầu trai bêu cọc sắt
vô tội: Cụ già vì "không khai" nên đã bị "nó chém", còn chị gần sinh con nhưng vì "không chịu nhục" nên đã bị chúng "lấy vồ nó đập" đến nỗi "vọt thai ra", và em bé vì sự tò mò ngây thơ "ra xem giặc" mà bị "nó đốt" Còn đối với thanh niên thì bọn chúng giết "ác quá chừng", "hai sáu đầu trai bêu cọc sắt " Tội ác của giặc không thể nào kể hết cũng như lòng căm thù của người dân cũng không khi nào nguôi Hiện thực chiến tranh khốc liệt như vậy đó nó
Trang 38không tha cho ai cả, không từ chối sinh mạng của một ai hết dù đó là những
em bé vô tội, những bà mẹ vô can Thế nên:
Máu Việt Nam đang chảy
Đỏ đồng ôi máu yêu!
Miền Nam đang bốc cháy Đồng bào ôi lửa thiêu!
( Giết giặc)
Vì mục đích cướp nước ta mà bọn Mỹ không tha một sinh linh nào, bàn tay vấy máu của chúng như bàn tay tử thần không chừa nơi nào ngay cả những nơi linh thiêng chúng cũng không tha.Vì thế mà cả cửa Phật cũng rơi vào cảnh "dầu sôi lửa bỏng":
Ôi cửa Phật cũng dầu sôi lửa bỏng Dẫu thiêu mình làm đuốc,vẫn cam (Miền Nam )
Và nhìn toàn cảnh dân tộc, nhân dân thời chiến tranh, tác giả thấy như:
Một đời đau suốt trăm năm Chim treo trên lửa cá nằm dưới dao
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Tình cảnh nguy nan, khẩn cấp, luôn ở thế đối mặt với cái chết như
"Chim treo trên lửa", như "cá nằm dưới dao" Phũ phàng thay cho chiến tranh
tàn ác! Đau đớn thay cái chết của những người dân vô tội Bọn ngoại xâm độc
ác đã hủy diệt nhân dân, đất nước Việt Nam ta Và ta nghe trong câu thơ, không đơn thuần chỉ là nhắc lại một hiện thực khốc liệt của thời chiến nữa,
mà đọng lại là cả một tâm tình, một tiếng lòng chua xót, một tiếng khóc nghẹn ngào của nhà thơ trước cái chết của mỗi con người Việt Nam Như thay lời
Tổ quốc, tác giả ao ước không còn lửa đạn chiến tranh:
Tổ quốc chúng tôi Muốn độc lập hòa bình trở lại Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Trang 39Dân Việt Nam ta ưa chuộng hòa bình, và muôn đời chán ghét chiến tranh, không muốn thấy cảnh bom rơi đạn nổ, chết chóc thảm thê, cho nên biểu tượng mang ý nghĩa về sự hủy diệt của lửa thường mang đến sự sợ hãi, mang đến cảm thức về chiến tranh hủy hoại cuộc sống, cần bị lên án
Chính vì ngọn lửa chiến tranh gây nhiều tội ác như thế, nên nó đã thổi bùng lên ngọn lửa khác, một ngọn lửa trong tinh thần của nhân dân lao khổ, ngọn lửa của sự căm hờn ngùn ngụt Đầu những năm chống Pháp, nhiều nhà thơ cũng có đề cập tới ngọn lửa ấy, trong đó có Huỳnh Văn Nghệ:
Trở lên yên ngựa đi từng bước Cúi đầu nén nỗi đau thương Nhưng lửa căm hờn
Bỗng dựng cao đầu ngựa dậy Vang trời ngựa hí
Chí phục thù cháy bỏng tay cương
(Tiếng hát quốc ca ) Đây cũng là ý nghĩa biểu tượng thứ hai của lửa trong thơ Tố Hữu thời
kháng chiến Lửa, biểu tƣợng của sự giận dữ, của làn sóng căm hờn của
nhân dân đối với bè lũ cướp nước và bán nước Trong thơ, nhiều lần Tố Hữu
nhắc tới: "lửa căm hờn", "lửa căm giận","nồng lửa đấu tranh"…qua các bài thơ như: Xuân đến, Hồ Chí Minh, Huế tháng Tám, Lên Tây Bắc, Hoan hô
chiến sĩ Điện Biên, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Lá thư Bến Tre,Từ Cu Ba, Theo chân Bác, Toàn thắng về ta để nói đến một thứ lửa lòng đang cháy rần
rật trong những người dân yêu nước Việt Nam, thứ lửa không dễ gì nhìn thấy nhưng nó có sức lan tràn rộng lớn, có sức liên kết toàn dân để thiếu rụi những bạo lực phản Cách mạng Những câu thơ không lên gân nhưng cũng không hề yếu đuối, nó phản ánh sự "tự ý thức", tự giác ngộ của chính những người lao khổ, để kết thành "Khối đời" như làn sóng triều dâng:
Không gì mạnh bằng đoàn quân nô lệ
Mà hờn căm đã bốc lửa ran đầu
( Xuân đến)
Trang 40Để rồi:
Bước trường chinh dầu mỏi gối khan hơi Tim gang thép vẫn bừng bừng lửa chiến ( Hồ Chí Minh)
Và sức nóng của ngọn lửa hờn căm ấy cũng có lúc dội ào ạt lên đầu quân giặc:
Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy Trên đầu bay thác lửa căm hờn
( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Đó là thời kì chống Pháp, còn sang đến thời chống Mỹ, ngọn lửa ấy vẫn bừng lên căm hận tội ác quân thù:
Bắc Sơn gọi, Nam Kỳ nổi dậy Sống một ngày hơn mấy mươi nǎm Lửa cǎm giận sôi dòng máu chảy Sức mỗi người bỗng hóa thành trǎm!
( Theo chân Bác)
Ở đây, ta thấy vẫn là lửa- cái biểu đạt, nhưng cái được biểu đạt không chỉ còn là sự thiêu rụi, tàn phá, mà là lòng căm thù quân xâm lược, cùng bè lũ bán nước cầu vinh
Từ lửa biểu trưng của sự hủy diệt, biểu trưng của lòng căm thù, biểu tượng lửa trong thơ Tố Hữu còn tiếp tục tái sinh về mặt ý nghĩa, mang đến cho
"lửa" một sắc thái nghĩa khác, lửa là biểu tượng của sức mạnh bất diệt, của ý
chí diệt thù, quyết xây dựng tương lai tươi đẹp cho đất nước
Phải sẵn sàng như chiến sĩ ra đi Lòng mở rộng đón muôn lòng yêu nước Hồn phải sáng bừng lên như ngọn đuốc Chiếu trăm nơi, đến ngõ hẻm làng xa
( Thưa các ông Nghị) Lời thơ như một lời hiệu triệu, như một tiếng kèn giục gọi hối hả, kêu gọi toàn thể những ai có tâm huyết với dân, nước hãy tham gia trong đợt tổng