1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học Lịch sử thế giới lớp 11 trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn

115 1K 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 115
Dung lượng 2,03 MB

Nội dung

Về giáo dục Lịch sử, các chuyên khảo: “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của Vaghin đã dành một chương: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan” để nêu lên các vấn đề về vai

Trang 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Trang 2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

-

NGUYỄN THỊ HÀ TIẾN

SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC TRONG

DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 11 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ

THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

Trang 3

7 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực

quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

9

1.1.Cơ sở lý luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy

học lịch sử

9

Trang 4

1.1.3 Đặc điểm của quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông 21

1.1.4 Vai trò của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học

lịch sử

26

1.2 Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong

dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay

1.2.3 Một số vấn đề đặt ra với việc sử dụng dụng đồ dùng trực quan quy

ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

36

Chương II: Phương pháp sử dụng dụng đồ dùng trực quan quy ước

trong dạy học lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương

trình chuẩn) Thực nghiệm sư phạm

2.2 Xây dựng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử thế giới

lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn)

41

2.2.1 Những yêu cầu của việc xây dựng đồ dùng trực quan quy ước 41

2.2.2 Phương pháp xây dựng đồ dùng trực quan quy ước 46

2.3 Các phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học

lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn)

65

2.3.1 Những yêu cầu chung khi sử dụng đồ dùng trực quan quy ước 65

Trang 5

2.3.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học

Trang 6

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

Trang 7

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Hình 1.1 Biểu đồ cơ cấu kinh tế huyện Cần Giờ

Hình 2.1 Lược đồ trận phản công Xtalingrat năm 1942 Hình 2.2 Lược đồ Đức xâm lược Ba Lan 1/9/1939

Trang 8

MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài

Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng trong việc “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân” [6,tr 17-18] theo mục tiêu giáo dục ở trường phổ thông mà Luật Giáo dục của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu Bởi vì, môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản, hiện đại, có hệ thống về lịch sử thế giới và lịch

sử dân tộc Trên cơ sở đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lý tưởng độc lập dân tộc và cách mạng XHCN, tinh thần quốc tế chân chính; rèn luyện năng lực tư duy và thực hành, thực hiện một cách hoàn chỉnh các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển Những tri thức này là một bộ phận cấu thành không thể thiếu đối với thế hệ trẻ Việt Nam

Tuy nhiên, thực tế dạy học ở trường phổ thông hiện nay, chất lượng dạy học Lịch sử vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra Sở dĩ có tình trạng này là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Giáo viên chưa đánh giá đúng vai trò, vị trí của phương pháp dạy học đối với việc giáo dục, do đó chưa khắc phục những yếu kém trong dạy học, vẫn theo “đường mòn”, kinh nghiệm chủ nghĩa trong truyền thụ kiến thức

Do sự tồn tại quan niệm không đúng về bộ môn lịch sử, coi đây là „môn phụ” nên không chú ý đúng mức đến chất lượng bộ môn Các giáo viên bộ môn chưa quan tâm đến việc cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học

Do việc “học lệch”, và tư tưởng “thực dụng”, “học gì thi nấy” của học sinh nhằm đạt kết quả môn học chứ không nhằm trang bị hiểu biết cho bản thân trong học tập Tình trạng này làm cho không ít người quan niệm rằng việc “đổi mới”, “cải tiến” phương pháp dạy học lịch sử trở nên không cần thiết, miễn sao “nhớ nhiều để ghi lại trong bài làm” là đạt yêu cầu

Trang 9

Giáo viên ngại sử dụng đồ dùng trực quan trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Một phần do trang bị đồ dùng còn thiếu thốn, mặt khác do kĩ năng khai thác đồ dùng của giáo viên con hạn chế, thời gian hạn hẹp… Chỉ khi nào giáo viên nắm vững những nguyên tắc và phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước thì khi đó việc xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước mới trở nên thuân tiện, dễ dàng và đạt hiệu quả cao

Chính vì những lý do trên khiến cho việc dạy – học Lịch sử ở trường phổ thông trở nên nặng nề, khô cứng, nhàm chán Vì vậy hiệu quả bài học không cao, học sinh không hứng thú nên chưa đảm bảo chất lượng bộ môn

Từ thực tiễn trên, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh Muốn vậy trách nhiệm trước hết thuộc về người giáo viên: phải biết kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp dạy học khác nhau nhằm đạt mục tiêu giáo dục đề ra Trong đó phương pháp trực quan có ý nghĩa quan trọng

Phương pháp trực quan không chỉ giúp giáo viên “nhàn” trong dạy học mà còn gây hứng thú cho học sinh Đặc biệt, đồ dùng trực quan quy ước còn góp phần tích cực vào việc tạo biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử, phát triển tư duy cho học sinh

mà đồng thời còn làm cho bài học thêm phong phú, sinh động hơn

Xuất phát từ những lý do trên mà tôi chọn vấn đề “Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn)” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học sư phạm, chuyên ngành lý luận và

phương pháp dạy học bộ môn lịch sử

2 Lịch sử vấn đề

Đồ dùng trực quan có vị trí rất quan trọng đối với nhận thức của học sinh trong học tập nói chung và học tập lịch sử nói riêng, nên từ lâu, vấn đề này được các nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu

Trang 10

2.1 Tài liệu nước ngoài

Các cuốn “Giáo dục hoc” của T.A Ilina, tập I,II (NXB GD, H, 1973), cuốn

“Giáo dục học” của N.V Savin (NXB GD, H, 1983); cuốn “Lý luận dạy học ở trường phổ thông” của I Ia Lecnevà M.N Xcatkin (NXB GD, H, 1980, cuốn “Những cơ sở của lí luận dạy học”, tập I, II, III của B.P Êxipốp (NXB GD, H, 1971), cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào?” của I.F Kharlamôp, Tập I, II

(NXB GD, H, 1978)… đã nêu lên những vấn đề lí luận cơ bản về vai trò, ý nghĩa của phương pháp trực quan trong dạy học Phương pháp trực quan được xem là phương pháp có hiệu quả trong việc phát huy tính tính cực học tập của học sinh, là cơ sở để học sinh khắc sâu, ghi nhớ kiến thức, hiểu bản chất vấn đề và hình thành khái niệm

Về giáo dục Lịch sử, các chuyên khảo: “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của Vaghin đã dành một chương: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan” để nêu lên các vấn đề về vai trò, ý nghĩa, các loại và phương pháp sử dụng

đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử

N.G Đairi trong quyển “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào” (NXB Giáo

dục, H, 1973) đã trình bày ý nghĩa của việc tạo hình ảnh trong dạy học lịch sử và khẳng định rằng đồ dùng trực quan là một phương tiện để tạo hình ảnh cụ thể về sự kiện…

“Tính cụ thể, tính hình ảnh của sự kiện có một giá trị lớn lao, bởi vì chúng cho phép hình dung lại quá khứ” [5,tr 25]

2.2 Tài liệu trong nước

2.2.1 Tài liệu giáo dục học

Trong các giáo trình “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, Tập I-II (NXB GD, H, 1987); “Giáo dục học đại cương” của Phạm Viết Vượng (NXB ĐH QGHN, H, 1996) và “Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại” của Thái Duy

Tuyên (NXB GD, H, 1999) các tác giả đã khẳng định trực quan là một nguyên tắc dạy học và trong hệ thống các phương pháp dạy học, phương pháp trực quan có vai trò,

ý nghĩa quan trọng, đặc biệt với môn Lịch sử

Trang 11

2.2.2 Các tài liệu giáo dục lịch sử

Về tài liệu giáo dục lịch sử, trước hết phải kể đến các giáo trình phương pháp

dạy học lịch sử như: Lê Khắc Nhãn và các tác giả khác của “Sơ thảo phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông cấp 2 – 3” Tập II (NXB Giáo dục, H, 1961); Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị “Phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông cấp 3”, (NXB Giáo dục, H, 1966); Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi: “Phương pháp dạy học lịch sử” (NXB ĐHSP, H, 2002) đã dành

nhiều chương trình bày về phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan…Các tác giả này không chỉ nêu lên vai trò, ý nghĩa của đồ dùng trực quan mà còn trình bày cụ thể các phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử

Ngoài ra, còn nhiều tài liệu viết về phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan

trong dạy học lịch sử, như Phan Ngọc Liên - Phạm Kì Tá… “Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông cấp II” (NXB GD, H, 1976); Nguyễn Thị Côi – Trịnh Đình Tùng: “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm” (NXB ĐHQG, H, 1995);

Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Sĩ Quế, Lê Đình Cương, Đào Hữu Hậu:

“Nội dung và phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa lịch sử treo tường” Tập 1 (NXB GD, H, 2002); Phan Ngọc Liên: “Bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông”, Báo cáo đề tài cấp Nhà nước “Bản đồ giáo khoa” (Cục đo đạc và bản đồ Nhà nước, H, 1987); Ngô Đạt Tam: “Một số vấn đề về lí thuyết và thực tiễn trong xây dựng bản đồ giáo khoa địa lý (ở trường phổ thông trung học Việt Nam)” (Luận án PTS, ĐHSP Hà Nội I, 1987); Lâm Quang Dốc: “Bản đồ giáo khoa (Dùng cho sinh viên khoa sử)” (NXB ĐHQG, H, 1997) … Ngoài trình bày lý luận và phương pháp

trực quan cũng như đồ dùng trực quan trong giảng dạy lịch sử, các công trình này cũng

đề xuất các biện pháp sư phạm cụ thể

Chúng ta còn phải kể đến nhiều bài viết đăng trên các tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, Nghiên cứu giáo dục, như các bài “Xây dựng bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của Trịnh Tùng và Kiều Thế Hưng (NCGD số 6, 1994); “Một số vấn đề về phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử” của Trịnh Tùng

Trang 12

(Thông báo khoa học – Trường Đại học sư phạm Hà Nội I, Tập số 4, 1993); “Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay” của Phan Ngọc Liên; “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan nhằm phát huy tích cực hoạt động độc lập của học sinh trong dạy học lịch sử” của Trịnh Đình Tùng; “Đổi mới việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập trong dạy học lịch

sử ở trường phổ thông” của Nguyễn Thị Côi (Tài liệu hội nghị đổi mới phương pháp

dạy học và học tập môn lịch sử ở trường trung học phổ thông và trường trung học cơ

sở, Tập 1, Bộ Giáo dục và Đào tạo- Vụ THPT, H, 1999)

Các bài viết trên tuy đề cập nhiều khía cạnh khác nhau về việc sử dụng đồ dùng trực quan, song đều khẳng định vai trò, ý nghĩa của đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử và sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp sư phạm có hiệu quả

Tất cả các công trình trên là những tài liệu tham khảo có giá trị gợi ý cho người viết nhiều vấn đề lí luận, cách sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, để vận dụng vào dạy học các bài cụ thể

3 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận về đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, luận văn đi sâu tìm hiểu vai trò, ý nghĩa của đồ dùng trực quan quy ước cũng như phương pháp sử dụng nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần lịch sử thế giới lớp 11 chương trình chuẩn

4 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mực đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:

- Tìm hiểu tình hình thực tế về trang bị, xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước ở trường trung học phổ thông hiện nay, trong đó cần quan tâm nhiều đến tính hiệu quả đối với bài học lịch sử cũng như những khó khăn, hạn chế khi sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

- Nghiên cứu lí luận về phương pháp dạy học lịch sử, đặc biệt là phương pháp

sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và đồ dùng trực quan quy ước nói riêng để sử

Trang 13

dụng trong dạy học phần lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông - chương trình chuẩn

- Nghiên cứu nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử thế giới ở lớp 11, từ đó xác định những kiến thức cơ bản cần sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

- Lựa chọn, xây dựng và đề xuất phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước khi dạy lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn) Đây là nhiệm vụ cơ bản của đề tài

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở một số trường phổ thông, qua đó đánh giá hiệu quả của đồ dùng, đồng thời trao đổi, rút kinh nghiệm, tiếp thu những ý kiến đóng góp của giáo viên phổ thông nhằm hoàn thiện hơn nữa việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử

5 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

trong dạy học lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn)

6 Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi của đề tài, luận văn chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu một cách khái quát những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Nội dung của luận văn tập trung đi sâu vào nghiên cứu phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử thế giới ở lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn) và tiến hành điều tra thực tế, thực nghiệm sư phạm các nội dung này

7 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

7.1 Cơ sở phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo Đặc biệt luận văn bám sát những cơ sở lí luận của các nhà giáo dục học, tâm lí học và giáo

dục lịch sử trong việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

Trang 14

7.2 Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu lí thuyết

Nghiên cứu lý luận về trực quan, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, các tài liệu giáo dục, giáo dục lịch sử và những vấn đề lịch sử có liên quan đến đề tài Trên cơ sở đó xác định những quan điểm

lí luận cơ bản, những nguyên tắc, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước theo xu hướng đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”, nhằm tích cực hóa, hoạt động hóa hoạt động học tập của học sinh

Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 11, nhất là chương trình lịch sử thế giới để xác định kiến thức cơ bản cũng như đề xuất các loại đồ dùng trực quan quy ước cần và có thể sử dụng khi dạy học những nội dung lịch sử thuộc giai đoạn này, đồng thời cũng đưa ra phương pháp sử dụng cụ thể

- Nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm sư phạm

Nghiên cứu thực tiễn trang bị, sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, đồ dùng trực quan quy ước nói riêng qua điều tra, dự giờ, thăm lớp, phỏng vấn, phát phiếu thăm dò… ở một số trường trung học phổ thông trên địa bàn Hải Phòng Từ đó, luận văn rút

ra những ưu điểm cũng như hạn chế của việc trang bị, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước ở trường trung học phổ thông hiện nay

Đưa đồ dùng trực quan quy ước xuống trường phổ thông, kết hợp với giáo viên

sở tại tiến hành thực nghiệm sư phạm (có đối chứng), so sánh, phân tích phiếu kiểm tra nhận thức của học sinh lớp thực nghiệm và lớp đối chứng Trên cơ sở đó, luận văn rút

ra những kết luận nhằm làm rõ vấn đề, những dự kiến mà đề tài đặt ra

8 Đóng góp của luận văn

- Nêu được thực trạng trang bị và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

- Tìm hiểu, nêu nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên

- Đề xuất phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch

sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông - chương trình chuẩn

Trang 15

9 Ý nghĩa của luận văn

9.1 Ý nghĩa khoa học

Qua đề tài người viết mong muốn bổ sung nâng cao hiểu biết của bản thân về lí luận dạy học bộ môn nói chung, lí luận về đồ dùng trực quan quy ước nói riêng, cũng như phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử

9.2 Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu đề tài sẽ giúp cho bản thân hiểu biết một cách sâu sắc những cơ sở

lí luận và thực tiễn của việc trang bị, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường thổ thông hiện nay cũng như biết cách vận dụng những hiểu biết trên vào thực tiễn công tác nghiên cứu, giảng dạy

10 Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 2 chương

Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

Chương II: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học phần

lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn) Thực nghiệm sư phạm

Trang 16

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG

ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở

TRƯỜNG PHỔ THÔNG

1.1 Cơ sở lí luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch

sử

1.1.1 Quan niệm về đồ dùng trực quan

Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau Hiện nay có nhiều cách phân loại đồ dùng trực quan, về cơ bản chúng ta có thể chia thành 3 nhóm lớn sau đây [19,tr 64]:

a Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật lịch sử: gồm những di tích lịch sử, di tích cách mạng (như Cung điện Mùa Đông – Nga, Cung điện Vécxai – Pháp, chiến hạm Rạng Đông…) Di vật khảo cổ, di vật của một thời kì lịch sử (trống đồng, mũi tên đồng,…) Đồ dùng trực quan hiện vật là một loại tài liệu gốc rất có giá trị và có ý nghĩa

to lớn về mặt nhận thức Thông qua việc tiếp xúc với những di tích hay những dấu vết còn lại – bằng chứng hiển nhiên về sự tồn tại thực của mỗi thời kì lịch sử - học sinh sẽ

có những hình ảnh cụ thể, chân thực về quá khứ và từ đó có tư duy lịch sử đúng đắn

b Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình: gồm các loại phục chế, sa bàn, tranh ảnh lịch sử… Các loại đồ dùng trực quan thuộc nhóm này có khả năng khôi phục lại hình ảnh con người, đồ vật, biến cố, hiện tượng quá khứ một các sinh động, xác thực Tuy nhiên,

ở nước ta hiện nay phương tiện trực quan tạo hình chưa được chú ý xây dựng Một số tranh lịch sử, phim truyện lịch sử chưa được sử dụng rộng rãi trong trường phổ thông Chỉ một số trường phổ thông mới đưa loại đồ dùng trực quan này vào dạy học lịch sử

c Nhóm đồ dùng trực quan quy ước bao gồm nhiều loại khác nhau: bản đồ, sơ đồ,

đồ thị, niên biểu… Trong các loại đồ dùng trực quan được sử dụng hiện nay ở trường

Trang 17

phổ thông, đồ dùng trực quan quy ước được sử dụng nhiều nhất và thường xuyên bởi

vì, ở rất nhiều nơi do điều kiện kinh tế chưa cho phép nên việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước vẫn có ưu thế hơn các nhóm đồ dùng trực quan khác và loại đồ dùng dạy

học chủ đạo ở trường phổ thông hiện nay

1.1.2 Các loại đồ dùng trực quan quy ước

Đồ dùng trực quan quy ước là những bản đồ, ký hiệu hình học đơn giản được sử dụng trong dạy học lịch sử, loại đồ dùng này là đồ dùng mà giữa người thiết kế đồ dùng, người sử dụng và người học có một quy ước ngầm nào đó (về màu sắc, kí hiệu hình học và tỉ lệ xích)

Đồ dùng trực quan quy ước tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng, khi phản ánh những mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển của hiện tượng kinh tế, chính trị - xã hội của đời sống con người

Đồ dùng trực quan quy ước luôn thể hiện trong không gian, thời gian, địa điểm, cùng một yếu tố địa lí nhất định Thông qua quan sát đồ dùng trực quan quy ước, đọc

kí hiệu, nội dung lịch sử được biểu hiện Việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, đồ dùng trực quan quy ước không chỉ là phương tiện để cụ thể hóa sự kiện, hiện tượng lịch sử mà còn là cơ sở để hình thành khái niệm cho học sinh, phát triển năng lực

tư duy, khả năng thực hành cho học sinh

Các loại đồ dùng trực quan quy ước có tác dụng rất tốt trong việc tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng khi phản ánh những mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng, khuynh hướng phát triển của hiện tượng kinh tế, chính trị -

xã hội của đời sống Đồ dùng trực quan quy ước gồm nhiều loại khác nhau:

+ Bản đồ lịch sử là loại đồ dùng trực quan quy ước dùng để phản ánh những sự

kiện, hiện tượng lịch sử trong mối quan hệ về thời gian và không gian (địa lí) cụ thể Thông qua bản đồ lịch sử, học sinh có thể hình dung được vị trí địa lí cũng như sự phân

bố không gian, sự phát triển theo thời gian của các sự kiện, hiện tượng lịch sử trên các

Trang 18

lãnh thổ khác nhau trên bề mặt Trái Đất Đồng thời, bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử về mối quan hệ nhân quả, về tính qui luật

và trình tự phát triển của chúng, giúp các em củng cố, ghi nhớ các kiến thức đã học

Về mặt hình thức, bản đồ lịch sử là loại bản đồ chuyên đề (từ bản đồ địa lí), cho nên trên bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về các điều kiện tự nhiên như khoáng sản, sông hồ, địa hình… Trên bản đồ lịch sử cần có những kí hiệu thể hiện biên giới quốc gia, các thành phố, các vùng kinh tế, các địa điểm xảy ra những biến cố quan trọng như các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh, các chiến dịch…

Về nội dung, bản đồ lịch sử có thể chia làm hai loại chính là bản đồ tổng hợp và bản đồ chuyên đề Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kì nhất định, trong điều kiện tự nhiên nhất định (đặc biệt là biên giới các quốc gia vào thời điểm diễn ra sự kiện) Ví

dụ, các bản đồ “Sự thay đổi bản đồ chính trị châu Âu theo hệ thống Vécxai – Oasinhtơn”, “Chiến tranh thế giới thứ nhất”, “Chiến tranh thế giới thứ hai”… Bản

đồ chuyên đề lại diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một mặt của quá trình lịch sử, như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một nước trong một giai đoạn lịch sử

Ví như, các bản đồ “Chiến trường châu Á - Thái Bình Dương (1941-1945)”, “Cách mạng Tân Hợi – 1911”…

Trong thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, bản đồ là loại đồ dùng trực quan qui ước được sử dụng nhiều nhất và được coi là một nguồn cung cấp kiến thức, một tư liệu học tập, nghiên cứu quan trọng

Việc nhận thức đúng vai trò, ý nghĩa của bản đồ trong dạy học lịch sử là rất cần thiết, nhưng điều quan trọng hơn là biết sử dụng có hiệu quả Chúng ta cần phải biết phân loại bản đồ lịch sử cũng như đặc điểm của từng loại Nó có ảnh hưởng to lớn tới việc thực hiện nhiệm vụ dạy học Tuy nhiên, để sử dụng tốt và có hiệu quả bản đồ, chúng ta cần phải biết phân loại bản đồ trong dạy học lịch sử cũng như đặc điểm của từng loại

Trang 19

Khoa học bản đồ ngày càng phát triển thì sự phân loại cũng ngày càng phong phú Mỗi hình thức phân loại đều có giá trị nhất định Bản đồ có thể phân chia theo tỉ

lệ, nội dung, mục đích sử dụng… Bản thân các bản đồ được sử dụng trong dạy học lịch

sử đã là thành quả của sự phân loại trong hệ thống bản đồ theo dấu hiệu mục đích sử dụng – bản đồ giáo khoa lịch sử - là đồ dùng dạy, học phục vụ giảng dạy và học tập lịch sử ở nhà trường phổ thông nói chung Việc phân loại theo mục đích sử dụng phản ánh tính đa dạng của nhiệm vụ cần giải quyết với việc dùng bản đồ nào đó

Việc sử dụng những tiêu chí làm cơ sở phân loại là do mục đích yêu cầu của bản

đồ đặt ra như phục vụ kịp thời, chính xác và đúng đối tượng Cho nên, mặc dù bản thân bản đồ giáo khoa lịch sử đã mang đặc tính, chỉ tiêu phân loại rõ rệt (phục vụ giảng dạy

và học tập lịch sử), song hệ thống bản đồ giáo khoa cũng còn được tiếp tục phân loại trong quá trình xây dựng và sử dụng

Đối với bản đồ giáo khoa lịch sử ở nước ta hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau

về cách phân loại Bản đồ giáo khoa lịch sử theo các sự kiện như bản đồ lịch sử về tình hình kinh tế, bản đồ lịch sử về chiến sự, bản đồ lịch sử về diễn biến cách mạng… Có ý kiến phân loại bản đồ lịch sử theo lịch sử của các thời đại, theo sự kiện của từng nước… Có ý kiến phân loại bản đồ các loại: loại bản đồ cơ bản, tổng hợp; loại bản đồ chuyên đề; loại bản đồ - sơ đồ… Chúng tôi nhất trí với cách phân loại bản đồ giáo khoa lịch sử theo “loại hình bản đồ”[14,tr 54] Sử dụng tiêu chí này có tác dụng quan trọng với quá trình xây dựng và sử dụng bản đồ Theo loại hình, bản đồ giáo khoa lịch sử được phân thành các loại sau:

Bản đồ trong sách giáo khoa lịch sử là một nguồn cung cấp kiến thức quan

trọng trong dạy học lịch sử Đây là một trong những loại kênh hình không thể thiếu trong những cuốn sách giáo khoa lịch sử Song do khuôn khổ sách giáo khoa nhỏ lại in đen trắng hoặc in màu cho nên bản đồ trong sách giáo khoa thường có tỉ lệ nhỏ và nội dung biểu hiện rất hạn chế Tuy nhiên, bản đồ trong sách giáo khoa vẫn có vai trò quan trọng, không chỉ minh họa cho phần chữ, mà còn bổ sung nội dung mà phần chữ không thể trình bày hết được Vì vậy, ngoài chức năng minh họa, cụ thể hóa các sự kiện lịch

Trang 20

sử, bản đồ trong sách giáo khoa lịch sử còn là một nguồn tư liệu nghiên cứu quan trọng

Trong giờ học trên lớp, học sinh sử dụng bản đồ trong sách giáo khoa để theo dõi bài giảng, đối chiếu với bản đồ treo tường nhằm xác định vị trí xảy ra các sự kiện Trong tự học ở nhà, học sinh sử dụng bản đồ trong sách giáo khoa để quan sát, tìm hiểu sâu sắc nội dung, hoàn thành các bài tập Ngoài ra bản đồ trong sách giáo khoa còn là nguồn tài liệu cơ sở để thầy trò xây dựng bản đồ treo tường phục vụ việc dạy trên lớp

Bản đồ treo tường là bản đồ dùng phổ biến trong dạy học ở trên lớp Bản đồ

treo tường không chỉ có vị trí, vai trò quan trọng trong dạy học lịch sử (như đã trình bày ở phần chung nêu trên) mà do đặc trưng riêng, bản đồ treo tường còn có vị trí, ý nghĩa đặc biệt cần thiết trong dạy học lịch sử

Trong thực tế học tập các bộ môn của học sinh phổ thông hiện nay, quĩ thời gian dành cho bộ môn lịch sử rất khiêm tốn, thời gian học ở nhà càng ít hơn, chủ yếu là học sinh học tập, nắm bắt kiến thức lịch sử ngay trên lớp Do đó, vấn đề làm sao cho học sinh có được biểu tượng lịch sử rõ nét ngay trên lớp là điều giáo viên bộ môn phải chú

ý giải quyết Bản đồ treo tường là một trong những phương tiện dạy học đáp ứng tốt yêu cầu trên và có thể được xem là một loại chủ lực phổ biến nhất trong bản đồ giáo khoa nhà trường Trong “vốn liếng” đồ dùng trực quan được trang bị và xây dựng phục

vụ giảng dạy lịch sử ở hầu hết các trường phổ thông, phổ biến nhất và chiếm tỉ lệ cao vẫn là bản đồ giáo khoa lịch sử treo tường

Theo lý luận dạy học hiện đại, bản đồ treo tường không chỉ để minh họa cho nội dung sách giáo khoa mà còn là nguồn cung cấp kiến thức mới hoặc để tiến hành củng

cố ôn tập, kiểm tra, đồng thời có thể thực hiện chức năng của một bản đồ câm

Mặt khác, bản đồ treo tường còn làm cho học sinh chú ý có tính tập thể để theo dõi bài học ở trên lớp, đồng thời có tác dụng lớn đối với mỗi học sinh về ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và đặc biệt đối với sự phát triển tư duy của học sinh về nhiều mặt – kích thích sự hứng thú học tập; phát huy tính tích cực năng động của học sinh trong các

Trang 21

hoạt động tư duy (quan sát, khái quát, suy luận, liên hệ thực tiễn,…); rèn luyện các kĩ năng thực hành và óc thẩm mĩ

Bản đồ treo tường không chỉ góp phần thành công với bài học trên lớp mà ngay

cả với bài học ngoại khóa ngoài trời, ở nơi thực địa

Hiện nay, bản đồ treo tường được xây dựng từ hai nguồn: do các cơ quan chức năng của Nhà nước xây dựng, in và phát hành hoặc do thầy trò tự xây dựng Các bản

đồ treo tường có thể chia làm hai loại:

- Bản đồ giáo khoa treo tường với nội dung đầy đủ theo yêu cầu của bài giảng, của cấp học để dùng tại lớp Khi giáo viên trình bày tại lớp, học sinh vừa nghe giảng vừa nhìn lên bản đồ để theo dõi, tiếp nhận kiến thức

- Bản đồ giáo khoa treo tường được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của phương pháp truyền thụ, trên đó chỉ có một số yếu tố cơ sở, còn những nội dung khác được đưa thêm vào dần dần theo bài giảng Giáo viên trình bày đến đâu vẽ thêm vào đến đó, học sinh vừa nghe giảng vừa theo dõi việc làm của giáo viên và làm theo

Nói tóm lại, bản đồ lịch sử treo tường có thể được coi như loại chủ lực của hệ thống bản đồ giáo khoa lịch sử Nó có khả năng biểu tượng rất phong phú về nội dung

Át-lát giáo khoa lịch sử là một tập hợp có hệ thống gồm nhiều bản đồ được

đóng thành tập theo một kết cấu, bố cục nội dung chặt chẽ, lôgic Nhìn chung, nội dung của át-lát phong phú, chi tiết hơn nội dung lịch sử phản ánh trên bản đồ trong sách giáo khoa và bản đồ treo tường Ngoài hệ thống bản đồ, trong át-lát còn có cả biểu đồ, tranh ảnh minh họa… Do đó, át-lát được xem là một trong những tư liệu tốt để thầy trò nghiên cứu, tìm hiểu bổ sung cho bài giảng trên lớp, đồng thời cũng rất bổ ích, thuận lợi cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu ở nhà

Át-lát giáo khoa lịch sử phù hợp với chương trình học tập lịch sử của các lớp học, phù hợp với đối tượng sử dụng và tiến trình giảng dạy lịch sử trong nhà trường Các bản đồ trong át-lát thường có kích thước lớn hơn các bản đồ trong sách giáo khoa, được sử dụng nhiều màu sắc và nội dung lịch sử được thể hiện trên nhiều trang bản đồ

Trang 22

Át-lát giáo khoa lịch sử thường được giáo viên sử dụng phối hợp với bản đồ treo tường và lược đồ, bản đồ trong sách giáo khoa, nhằm tìm hiểu kiến thức mới, ôn tập, kiểm tra kiến thức cũ và đồng thời rèn luyện kĩ năng đọc bản đồ cho học sinh Với các bản đồ trong át-lát, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh so sánh, đối chiếu và khái quát những kiến thức tiếp thu được qua bài giảng Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta át-lát giáo khoa lịch sử chưa được chú ý xây dựng và sử dụng rộng rãi trong dạy học lịch sử

Bản đồ câm (còn gọi là bản đồ công tua hay bản đồ trống) là loại bản đồ mà

trên đó không thể hiện đầy đủ các nội dung lịch sử được phản ánh trong sách giáo khoa

mà chỉ thể hiện những nét cơ bản về phạm vi lãnh thổ, lưới chiếu bản đồ, mạng lưới thủy văn, các tuyến đường giao thông và các điểm dân cư quan trọng làm nền,… Những yếu tố này có tác dụng định hướng cho nội dung lịch sử mà giáo viên sẽ đưa dần vào trong quá trình giảng bài với hình thức vẽ bằng phấn, mảnh giấy ghi sẵn kí hiệu, số hiệu và hình ảnh,…

Về hình thức, bản đồ câm có thể được vẽ trên giấy để treo tường hoặc phổ biến hơn là giáo viên vẽ sẵn trên bảng đen Tương ứng với bản đồ câm treo tường cho giáo viên là một bản đồ câm có tỉ lệ nhỏ được đóng thành tập dùng cho học sinh sử dụng học tập ở nhà, gọi là “bản đồ bài tập” Trong giờ học, học sinh thường để trống trên bàn, vừa nghe giảng vừa ghi chép, vừa chuyển những nội dung mà giáo viên vừa điền trên bản đồ câm treo tường vào bản đồ câm của mình

Bản đồ câm có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung lịch sử trong sách giáo khoa, bản đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo tường và át-lát Nếu giáo viên biết hướng dẫn học sinh khai thác các mối liên hệ này là tạo điều kiện để các em hoạt động nhận thức một cách tích cực và tự giác Tuy nhiên, những bản đồ câm loại này vẫn chưa được xây dựng và sử dụng phổ biến ở nước ta

Bản đồ nổi (mô hình, sa bàn) là loại bản đồ thường được xây dựng để giảng

dạy những nội dung lịch sử có liên quan đến yếu tố địa hình (chiến dịch Véc-đoong, chiến dịch Xtalingrát…) Bản đồ nổi không thể hiện trên mặt phẳng như các bản đồ khác mà được đắp nổi bằng đất sét, xi măng, thạch cao, bột giấy hoặc dập nổi trên chất

Trang 23

dẻo Bản đồ này có giá trị trực quan cao giúp học sinh hiểu rõ mối quan hệ ảnh hưởng của địa hình đối với sự kiện lịch sử

Bản đồ nổi đòi hỏi kĩ thuật xây dựng phức tạp; nó cồng kềnh khó di chuyển; độ chính xác kém so với các loại bản đồ khác… Nên trong thực tế dạy học cũng ít được xây dựng và sử dụng

+ Niên biểu lịch sử là loại đồ dùng trực quan quy ước nhằm hệ thống hóa các

sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian, đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện

sơ bản của một nước hay nhiều nước trong từng thời kì

Niên biểu lịch sử giúp học sinh dễ ghi nhớ được diễn biến sự kiện cơ bản nhất theo trình tự thời gian Thông qua niên biểu, học sinh có thể nắm vững mối liên hệ của các sự kiện trong quá trình phát triển của nó, từ đó rút ra khái quát về bản chất các sự kiện Do đó, niên biểu giúp học sinh nhận thức lịch sử một cách có hệ thống, nhận thấy qui luật chung và biểu hiện cụ thể của qui luật ấy qua diễn biến của lịch sử Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, chúng ta thường sử dụng các loại niên biểu sau:

Niên biểu tổng hợp là bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời gian

dài Loại niên biểu này không những giúp học sinh ghi nhớ những sự kiện chính, mà còn nắm được các mốc thời gian đánh dấu mối quan hệ của các sự kiện quan trọng Ví

như, niên biểu “Các sự kiện chính của lịch sử thế giới cận đại” được sử dụng trong

bài ôn tập, tổng kết…

Thời gian Sự kiện – nội dung cơ bản

Thế kỉ XVI-XVIII Các cuộc cách mạng tư sản đã xác lập hệ thống CNTB trên

phạm vi thế giới Thế kỉ XIX CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN

Thế kỉ XIX-XX Phong trào công nhân thế giới và phong trào chống chủ nghĩa

thực dân ở châu Á, Phi, Mĩ Latinh

Trang 24

1914-1918 Chiến tranh thế giới thứ nhất

Niên biểu tổng hợp cũng còn được sử dụng để trình bày những mặt khác nhau của một sự kiện xảy ra ở một nước trong một thời gian hay trong nhiều thời kì Ví dụ,

niên biểu “Diễn biến chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)” có thể được xây dựng

theo mẫu sau:

Thời gian Diễn biến chính trên các mặt trận

Châu Âu Bắc Phi Châu Á - Thái Bình Dương

Niên biểu chuyên đề đi sâu trình bày nội dung một vấn đề quan trọng nổi bật

nào đấy của một thời kì lịch sử nhất định Thông qua niên biểu chuyên đề, học sinh

hiểu được bản chất sự kiện một cách toàn diện, đầy đủ Ví như, niên biểu “Các giai đoạn chính của các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1919-1939” giúp

học sinh thấy rõ sự thăng trầm của các nước tư bản là nguyên nhân của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai:

1918-1923 Cao trào cách mạng ở các nước tư

bản Âu – Mĩ

Thúc đẩy phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa Á, Phi, Mĩ Latinh 1924-1929 Các nước tư bản ổn định tạm thời Phục hồi nền kinh tế, chính trị của các

nước tư bản 1929-1933 Khủng hoảng kinh tế thế giới Đặt các nước tư bản trước nguy cơ

sụp đổ, làm ra đời CNPX 1933-1939 Các nước tư bản thoát khỏi khủng

hoảng, chạy đua vũ trang

Đặt loài người trước họa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới mới

Trang 25

Niên biểu chuyên đề chỉ ghi những sự kiện cơ bản, nêu được nội dung chủ yếu của mỗi giai đoạn song lại vừa khôi phục đúng bức tranh quá khứ, vừa thấy rõ sự phát triển lôgic của lịch sử

Niên biểu so sánh dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện xảy ra cùng một lúc

trong lịch sử, nhằm làm nổi bật bản chất đặc trưng của các sự kiện ấy, hoặc để rút ra

một kết luận khái quát có tính chất nguyên lí Ví như, “Niên biểu thống kê sản lượng một số sản phẩm công nghiệp của Anh, Pháp, Italia, Đức năm 1937” nhằm so sánh

tốc độ phát triển của các nước này, đồng thời rút ra kết luận có tính chất qui luật về sự phát triển không đều giữa các nước đế quốc, về việc nảy sinh mâu thuẫn giữa chúng

Một dạng khác của niên biểu so sánh là bảng so sánh Bảng so sánh có thể dùng

số liệu và cả tài liệu – sự kiện chi tiết để làm rõ bản chất, đặc trưng của các sự kiện

cùng loại hay khác loại Ví như, bảng so sánh “Sự khác nhau giữa cách mạng vô sản

và cách mạng tư sản” Qua bảng so sánh này, với các mục: động lực, lãnh đạo, mục

tiêu, kết quả, hướng phát triển… học sinh sẽ thấy những khác nhau cơ bản giữa cách mạng vô sản và cách mạng tư sản, tính chất và triển vọng của mỗi loại cách mạng

+ Sơ đồ lịch sử là loại đồ dùng trực quan nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện

bằng những mô hình hình học đơn giản Nó diễn tả một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử Sơ đồ không tạo cho học sinh biểu tượng rõ ràng về sự kiện lịch sử Tuy nhiên, sơ đồ giúp cho sự phân tích các đặc trưng

và nêu lên mối liên hệ nhân quả một cách dễ dàng và từ đó thuận lợi cho việc hình thành khái niệm cho học sinh

Ví như, khi dạy học bài Nhật Bản, học sinh được quan sát “Sơ đồ cơ cấu xã hội Nhật Bản trước Minh Trị duy tân”:

Triều đình Mạc phủ (Tô-ku-ga-oa) Thiên hoàng Tướng quân

Đaimyô

Trang 26

Samurai

Nông dân Thị dân Bằng sự phân tích cơ cấu, địa vị của các tầng lớp xã hội, học sinh sẽ hiểu được bản chất xã hội Nhật Bản là xã hội phong kiến bóc lột, có sự phân biệt giữa các đẳng cấp nên mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi Đây chính là nguyên nhân làm đất nước suy yếu và đặt Nhật Bản trước nguy cơ bị xâm lược bởi các nước tư bản phương Tây

Cũng tương tự như vậy, bằng việc sử dụng “Sơ đồ công xã Pa-ri”, học sinh dễ

dàng hiểu được bản chất dân chủ tập trung của nhà nước công xã

+ Đồ thị lịch sử là sự biểu hiện quá trình phát triển, sự vận động của một sự

kiên lịch sử trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học Đồ thị có thể biểu diễn bằng một mũi tên để minh họa sự vận động đi lên, sự phát triển của một sự

kiện, hiện tượng lịch sử Ví dụ như, đồ thị “Thu nhập quốc dân của Mĩ (1933-1941)”

Đồ thị này được thể hiện bằng một mũi tên biểu hiện tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân của Mĩ trong suốt thời gian từ năm 1933 đến năm 1941, trong đó các mốc thời gian được chọn để lập đồ thị là các năm 1933, 1935, 1937, 1939, 1941 Qua

đồ thị, học sinh sẽ dễ dàng nhận biết được tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân của

Mĩ theo các mốc thời gian cụ thể Từ đó, các em sẽ rút ra được những kết luận chung

Tỉ đôla Mĩ (USD)

Năm

Trang 27

về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mĩ trong suốt thời gian từ năm 1933 đến năm 1941 Đồng thời, học sinh dễ dàng nhận thức được trong hoàn cảnh khủng hoảng kinh tế chung nhưng nước Mĩ đã nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng và tiếp tục đưa nền kinh tế phát triển đi lên

+ Biểu đồ là sự biểu hiện tổng giá trị của hiện tượng trên một đơn vị lãnh thổ

được lấy theo ranh giới hành chính bằng cách dùng các biểu đồ với kích thước tương ứng với tổng giá trị sản lượng của chúng bố trí trên phạm vi lãnh thổ

Hình 1.1 Biểu đồ cơ cấu kinh tế huyện Cần Giờ

Biểu đồ có thể được thực hiện dưới dạng biểu đồ chiều dài, biểu đồ diện tích (hình vuông, hình tròn) hoặc biểu đồ thể tích (hình khối, hình cầu)… Việc sử dụng biểu đồ giúp học sinh dễ dàng xác đinh được giá trị của các hình tượng và mối quan hệ giữa chúng Do đó, biểu đồ rất có ưu thế trong việc giúp học sinh so sánh trị số giá trị của các sự kiện và thấy được bản chất của các sự kiện đó Ví như, sử dụng biểu đồ

“Tổng sản lượng một số sản phẩm công nghiệp của Liên Xô (1929-1938)”

Trang 28

Qua quan sát biểu đồ và phân tích số liệu trên biểu đồ, học sinh sẽ thấy được sản lượng các sản phẩm công nghiệp của Liên Xô tăng qua các năm; năm 1929 đạt 53 triệu tấn, đến năm 1938 tăng lên 177,2 triệu tấn Trong đó, tỉ trọng các sản phẩm: than, gang, thép tăng lên cũng rất cân đối và ổn định Qua đó chứng tỏ nền kinh tế phát triển liên tục và hợp lí Nếu chỉ dùng lời nói và các số liệu thì học sinh thấy rắc rối, khó nhớ và khó tạo biểu tượng cho học sinh, nhưng khi sử dụng biểu đồ thì trở nên dễ dàng, học sinh sẽ có ấn tượng sâu sắc với sự kiện và nhớ lâu hơn

1.1.3 Đặc điểm của quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông

Dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một quá trình tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh Hiệu quả của hoạt động nhận thức của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nội dung, phương pháp và các phương tiện dạy học… Trong phương tiện dạy học, đồ dùng trực quan có vị trí rất quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng Nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục học và tâm lí học đã chứng minh rất rõ hiệu quả sư phạm của việc sử dụng đồ dùng trực quan và coi trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học

J.A Cômenxki (1592 -1670) – người Xlavơ là nhà giáo dục học đầu tiên đưa ra yêu cầu phải đảm bảo tính trực quan trong dạy học Ông viết: “Điều cần thiết là khởi điểm của nhận thức bao giờ cũng xuất phát từ những cảm giác (vì chẳng có gì có trong

óc, mà trước đó lại chưa có trong cảm giác) Và do đó có lẽ cần bắt đầu dạy học không phải từ việc giải thích bằng lời về các vật, mà phải đi từ sự quan sát chúng một cách hiện thực” [9,tr 20] Do đó, Cômenxki đặt nguyên tắc trực quan làm qui tắc “vàng ngọc” cho giáo viên “…Cung ứng cho sự tri giác bằng cảm giác tất cả những gì có thể được… Nếu những vật thể nào đó có thể tri giác được cùng một lúc bắng nhiều giác quan, thì hãy cứ để cho chúng được lĩnh hội ngay lập tức bằng nhiều giác quan…” [9,tr 20]

Nhà sư phạm vĩ đại người Nga K.D Usinxki (1824 – 1870) cũng quan niệm rằng hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là những hình ảnh

mà chúng ta thu thập được bằng trực quan Ông cho rằng con đường nhận thức thực tại

Trang 29

có giá trị nhất của trẻ em là sự qui nạp, nghĩa là con đường từ quan sát tới khái quát hóa và kết luận Vì con đường nhận thức bằng qui nạp rất có hiệu quả trong công tác nghiên cứu khoa học và trong quá trình dạy học, nên theo Usinxki “tính trực quan phải

là cơ sở quan trọng nhất của việc dạy học” [9,tr 52] Cho nên, để phát triển tư duy của các em thì phải phát triển năng lực quan sát của các em: “nếu như việc học tập có xu hướng làm phát triển trí thông minh của các em thì công việc học tập đó phải rèn luyện năng lực quan sát của các em” [28,tr 181]

Trên quan điểm nhận thức của chủ nghĩa Mác-Lênin, các nhà lí luận dạy học Xô-viết cũng đánh giá rất cao vị trí, tầm quan trọng của phương pháp trực quan, coi trực quan là phương pháp nhận thức quan trọng nhất L.V Savin đã nhận xét: “Nếu không có quan sát các sự kiện đa dạng của cuộc sống, của lao động con người, đời sống xã hội, các quan sát được giáo viên hướng dẫn và được tổ chức, thì không thể nào hình dung được việc thực hiện có kết quả các nhiệm vụ gắn chặt với dạy học với cuộc sống” [28,tr 180]

Các tác giả cuốn “Những cơ sở của lí luận dạy học”, do B.P Exipốp chủ biên,

cũng chỉ rõ rằng không có các cảm giác, không có nhận thức cảm tính, không có giai đoạn có ý nghĩa rộng rãi và sâu sắc đó của quá trình nhận thức mà Lênin tóm tắt trong khái niệm “Sự trực quan sinh động” thì không thể có bất kì một sự nhận thức nào Trên

cơ sở phân tích mối quan hệ của các nhân tố trong quá trình nhận thức, các tác giả đều đánh giá cao vai trò của nhận thức cảm tính, mà trước hết là sự quan sát: “… Kiến thức thực sự bắt đầu từ tri giác, từ sự quan sát hay hành động thực tiễn…” [9,tr 236]

Các nhà lí luận dạy học ở nước ta cũng khẳng định vị trí quan trọng của phương pháp trực quan, coi trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học Theo nguyên tắc này, trong quá trình dạy học “phải làm cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với những sự vật, hiện tượng, hay những hình tượng của chúng, từ đó đi đến nắm những khái niệm, những qui luật, những lí thuyết khái quát” [24,tr 188] Đặc biệt, trong dạy học lịch sử, do đặc điểm của bộ môn, các nhà giáo dục lịch sử cũng đánh giá cao vị trí, vai trò của nguyên tắc này trong việc “tạo cho học sinh những biểu tượng và

Trang 30

hình thành khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay những đồ dùng trực quan minh họa về sự vật” [20,tr 137]

Bản chất của quá trình dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông là tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh tiến hành các hoạt động nhận thức, nắm vững tri thức và phát triển năng lực nhận thức, dần dần hình thành cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, nhân cách và đạo đức Quá trình đó cũng tuân theo qui luật nhận thức chung có tính chất xã hội – lịch sử của loài người: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ

tư duy trừu tượng đến thực tiễn…” [11,tr 189]

Việc “trực quan sinh động” trong nhận thức lịch sử không thể bắt đầu từ cảm giác trực tiếp về hiện thực lịch sử đã qua, mà từ những biểu tượng được tạo nên trên cơ

sở các sự việc cụ thể Đồ dùng trực quan nói chung, đồ dùng trực quan quy ước nói riêng rất có ưu thế trong việc tạo biểu tượng lịch sử Cho nên, để có hình ảnh lịch sử cụ thể làm cơ sở cho nhận thức quá khứ cần phải sử dụng đồ dùng trực quan để học sinh

có thể tạo biểu tượng một cách chân thực nhất

Nhiệm vụ của việc dạy học, trước hết là giúp cho học sinh biết quan sát đúng và làm phong phú tâm hồn bằng những hình ảnh đầy đủ chính xác, sáng tạo Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng; nhưng bản thân các đồ dùng trực quan không thể gây ra sự quan sát tích cực của học sinh nếu như nó không được quan sát trong tình huống có vấn đề, trong những nhu cầu cần thiết phải trả lời một vấn

đề cụ thể Điều này khẳng định rằng dù đánh giá cao vai trò của phương pháp trực quan, nhưng không tách nó ra ngoài hệ thống phương pháp giảng dạy “Nguyên tắc trực quan là cách học không chỉ dựa vào lời nói mà còn dựa vào hình ảnh cụ thể mà học sinh trực tiếp thu nhận được, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm” [19,tr 36]

Học tập lịch sử có những đặc trưng riêng, có nhiều nét khác với các bộ môn khoa học tự nhiên, như khi nghiên cứu, tìm hiểu quá khứ xã hội loài người học sinh không trực tiếp tiếp xúc với những sự kiện đã qua vì nó không tái diễn trở lại Các sự

Trang 31

kiện này chỉ xảy ra trong khoảnh khắc và không thể tách riêng ra, giữ lại để nghiên cứu [17,tr 176-177-178] Vì vậy, sự cần thiết sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch

sử cũng do những đặc trưng của bộ môn qui định Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử không giống như môn học khác khi tiến hành thí nghiệm, thực hành Việc sử dụng đồ dùng trực quan nhằm tái tạo hình ảnh quá khứ một cách trung thực mà chỉ có “lời nói của giáo viên, dù có sinh động, giàu hình tượng và chi tiết đến đâu, cũng không thể đem lại cho các em một hình ảnh thật cụ thể, chính xác về hiện thực lịch sử” [32,tr 40] Các sự kiện, hiện tượng lịch sử dù được miêu tả hay đến mấy thì cũng không đủ sức thuyết phục bằng cách cho học sinh quan sát các đồ dùng trực quan Trên

cơ sở đồ dùng trực quan, cùng với kiến thức khoa học và các phương tiện khác, học sinh sẽ “khôi phục” lại hình ảnh quá khứ đúng như sự kiện đã xảy ra một cách khách quan Nói cách khác, trong dạy học lịch sử, lời nói không thể thay thế hoàn toàn đồ dùng trực quan Lời nói chỉ là phương tiện tạo nên trực quan bên trong, còn đồ dùng trực quan mới giúp tạo nên hình ảnh một cách chân thực, cụ thể Do đó, sử dụng đồ dùng trực quan để khôi phục lại bức tranh quá khứ là công việc rất quan trọng, có tác dụng giúp cho nhận thức cảm tính của học sinh có hiệu quả và là cơ sở để thực hiện giai đoạn nhận thức lý tính tốt hơn

Nhận thức của học sinh cũng giống như nhận thức chung của xã hội loài người

là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào ý thức học sinh, quá trình nhận thức của học sinh cũng diễn ra theo qui luật “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng…” Tuy nhiên, quá trình nhận thức của loài người diễn ra theo con đường mò mẫm, thử sai, tức là khám phá những cái chưa biết, đi vào thế giới khách quan một cách độc lập, phát hiện và chứng minh những cái mà loài người chưa hề biết trong tự nhiên, xã hội và tư duy để tìm ra những chân lí mới, quy luật mới, bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, thì nhận thức của học sinh nói chung, khi học lịch sử nói riêng, lại không phải tìm ra các mới, cái chưa biết mà là tiếp nhận một cách sáng tạo những tri thức lịch sử đã được thừa nhận, những tri thức này rất tinh giản nhưng khoa học, tạo cơ sở cho các em khôi phục lại bức tranh quá khứ

Trang 32

Do đặc trưng của bộ môn lịch sử là sự kiện không lặp lại, không tiến hành thí nghiệm được, học sinh không thể trực tiếp quan sát sự kiện lịch sử đã xảy ra, nên nhận thức lịch sử không phải bắt đầu từ cảm giác mà từ sự kiện cơ bản, chân xác Tuy vậy,

do lịch sử diễn ra từ quá khứ đến hiện tại mà “nhận thức của học sinh lại từ gần đến xa” [17,tr 184], nên học sinh dễ rơi vào tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử Để khắc phục tình trạng này, trong học tập lịch sử, giáo viên cần tạo cho học sinh một biểu tượng chân thực về quá khứ qua các thao tác sư phạm, từ đó học sinh có thể tri giác các sự kiện, khôi phục lại hình ảnh của quá khứ

Quá trình hình thành kiến thức lịch sử là quá trình học sinh đi từ chưa biết đến biết, hiểu biết không đầy đủ đến hiểu biết sâu sắc các sự kiện quá khứ Trên cơ sở các

sự kiện, học sinh trải qua quá trình nhận thức để tạo biểu tượng rồi hình thành khái niệm Muốn có khái niệm thật sâu sắc lâu dài thì cần dựa trên cơ sở biểu tượng phong phú, chính xác, sinh động Bởi vì, không có biểu tượng sẽ không có khái niệm hoặc khái niệm rỗng, không có nội dung phong phú Chính vì vậy, để có hình ảnh lịch sử cụ thể, phong phú, làm cơ sở cho nhận thức quá khứ thì phương pháp trực quan là phương pháp khả thi và tối ưu nhất bên cạnh sử dụng các phương pháp dạy học khác

Đối tượng dạy học ở cấp trung học phổ thông là các em học sinh có độ tuổi từ

16 đến 18 Đây là lứa tuổi có sự biến đổi lớn về tâm lý so với cấp trung học cơ sở Ở lứa tuổi này, tính chủ động của các em đã phát triển mạnh và có sự biến đổi rất sâu sắc

cả về chất và lượng Đặc biệt trong hoạt động tư duy, “trình độ tư duy lôgic đã phát triển và các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo, các thao tác tư duy ngày càng hoàn thiện” [4,tr 42] Hơn nữa, lúc này các em đã hình thành được khá nhiều quan niệm thực tế về thế giới khách quan, khá nhiều sự kiện

và khái niệm lịch sử Nếu ở cấp trung học cơ sở, nhận thức của học sinh luôn mang tính cụ thể, nhận thức cảm tính nhiều hơn nhận thức lí tính và đồ dùng trực quan chủ yếu giúp các em dễ nắm được sự kiện, hiện tượng… một cách cụ thể Ở cấp trung học phổ thông, “các em đã biết phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng, nắm được mối quan hệ nhân quả trong mỗi sự kiện, hiện tượng Hoạt động nhận thức của

Trang 33

các em cũng đòi hỏi tính năng động và độc lập cao” [4,tr 44] Vì vậy sử dụng đồ dùng trực quan, nhất là đồ dùng trực quan quy ước là rất phù hợp với lứa tuổi học sinh cấp trung học phổ thông, vì bản thân đồ dùng trực quan qui ước mang trong nó những đặc điểm đòi hỏi sự tư duy, phân tích và sự hoạt động độc lập cao Đồ dùng trực quan quy ước có tác dụng lớn đối với học sinh trung học phổ thông trong việc nêu rõ mối liên hệ tương hỗ giữa các sự kiện, hiện tượng, nêu rõ bản chất nội tại của sự kiện – hiện tượng, chỉ rõ sự phát triển của lịch sử và chứng minh qui luật lịch sử Đồ dùng trực quan quy ước, như “bản đồ, biểu đồ… không chỉ đem lại cho học sinh những biểu tượng bên ngoài về sự kiện lịch sử mà còn là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử,

là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng nhất giúp học sinh nắm vững các qui luật của sự phát tiển xã hội” [31,tr 40]

1.1.4 Vai trò của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử

Đồ dùng trực quan có vai trò rất quan trọng trong dạy học lịch sử Có nhiều loại đồ dùng trực quan, mỗi loại có ý nghĩa khác nhau Đối với đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử, ý nghĩa của nó được biểu hiện ở những mặt sau đây:

a Về mặt cung cấp kiến thức

Do việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông có đặc điểm là học sinh không được trực tiếp tiếp xúc với các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội, việc trình bày miệng của giáo viên dù sinh động đến đâu cũng không thể đem lại một hình ảnh cụ thể, đầy

đủ về quá khứ Vì vậy, đồ dùng trực quan giúp học sinh “trực quan sinh động” quá khứ

“Trực quan sinh động” trong học tập lịch sử gắn liền với tạo biểu tượng lịch sử, không tạo được biểu tượng thì hình ảnh học sinh thu được sẽ nghèo nàn, hiểu biết lịch

sử không sâu sắc, không phát triển được tư duy, không có cơ sở để hình thành khái niệm Nhưng khi biểu tượng được hình thành và tham gia vào hoạt động của tư duy thì

“tư duy trở nên sinh động, gợi cảm, say sưa, hồi hộp và khẩn trương Điều này góp phần làm cho việc vạch ra nội dung khái niệm của đối tượng tư duy được đầy đủ, sâu sắc hơn Đồng thời biểu tượng mở rộng làm phong phú thêm ý, làm cho nó có sức

Trang 34

thuyết phục trực tiếp và sự hấp dẫn đầy cảm xúc” [26,tr 70] Điều này đã được lý luận

và thực tiễn xác nhận Chúng tôi tập trung vào đồ dùng trực quan quy ước để làm sáng

tỏ điều này

Quan sát việc dạy học bài 6 “Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)” ở

lịch sử lớp 11, chúng tôi nhận thấy rằng, nếu giáo viên chỉ sử dụng lời nói thì rất khó tạo được cho học sinh biểu tượng về pháo đài Véc-đoong mà đế quốc Đức chọn làm điểm quyết chiến chiến lược với quân Pháp hòng kết thúc chiến tranh có lợi cho mình Khi giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan qui ước thì việc giảng dạy có hiệu quả, hấp

dẫn hơn Bằng cách sử dụng bản đồ Chiến tranh thế giới thứ nhất, giáo viên miêu tả

cho học sinh thấy Véc-đoong là một thành phố có vị trí chiến lược rất quan trọng, xung yếu ở phía đông Pa-ri, nhưng Pháp ít quan tâm đến vị trí này nên bố trí phòng thủ sơ lược Nếu Véc-đoong thất thủ thì Pa-ri bị uy hiếp nghiêm trọng nên quân Đức có dã tâm “làm cho Pháp chảy hết máu”, tan rã về quân sự, từ đó buộc phải đầu hàng… Trên

cơ sở miêu tả và phân tích như vậy, học sinh sẽ nhận thức và hiểu được tại sao đoong được tướng Phankenhan của Đức chọn làm “cỗ máy xay thịt” và có biểu tượng sâu sắc về vai trò và vị trí của pháo đài Véc-đoong trong chiến tranh thế giới thứ nhất

Véc-Đồ dùng trực quan nói chung, đồ dùng trực quan quy ước nói riêng không chỉ có vai trò trong việc tạo biểu tượng cho học sinh mà còn giúp các em hiểu được bản chất

và những mối liên hệ của sự kiện Chỉ khi nào học sinh hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện và nắm vững mối liên hệ giữa các sự kiện thì việc hình thành khái niệm mới diễn

ra thuận lợi và đúng đắn Đồ dùng trực quan là phương tiện rất có hiệu lực trong việc giúp học sinh hình thành những khái niệm lịch sử quan trọng cũng như nắm vững những quy luật của sự phát triển xã hội

Khi dạy học bài 3 “Trung Quốc” trong chương trình lịch sử lớp 11, học sinh

không thể nào chỉ dựa vào lời nói của giáo viên mà hình thành được khái niệm “cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới” Để hình thành khái niệm này, giáo viên cần thiết phải

sử dụng bảng so sánh với khái niệm “cách mạng dân chủ tư sản” về các tiêu chí: lực lượng lãnh đạo, lực lượng tham gia, mục tiêu của cuộc cách mạng, hướng phát triển

Trang 35

sau khi cách mạng thành công… để các em phân biệt khái niệm và hiểu được khái niệm “cách mạng tư sản kiểu mới” cũng như thấy được bản chất của nó

b Về mặt giáo dục

Cùng với việc bồi dưỡng kiến thức, đồ dùng trực quan qui ước còn có vai trò rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh

Ví dụ, việc sử dụng bản đồ “Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)” kết hợp

với bảng thống kê số liệu về hậu quả của chiến tranh, học sinh sẽ thấy được sự tàn phá của chiến tranh, sự thiệt hại về người và của đối với nhân loại, đặc biệt đối với nhân dân lao động trên thế giới khi bị cưỡng bức tham gia vào guồng máy chiến tranh Từ

đó, các em sẽ trân trọng nền hòa bình mà các em đang có, biết ơn các thế hệ cha anh đã đấu tranh không mệt mỏi vì hòa bình của đất nước và thế giới Tương tự như vậy, khi

giáo viên kết hợp miêu tả và sử dụng lược đồ “Thuộc địa của các nước đế quốc ở châu Phi (cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX)” giúp cho học sinh nhận thức đây là quá

trình xâm chiếm thuộc địa và tranh giành lẫn nhau giữa các nước đế quốc nhằm nô dịch nhân dân các nước châu Phi để phục vụ cho nhu cầu của tầng lớp tư sản thống trị tại các nước đế quốc… làm nảy sinh ở các em sự căm thù đối với thế lực xâm lược, từ đó

có tinh thần cảnh giác đối với các âm mưu diễn biến hòa bình hiện nay và ủng hộ cũng như tự hào với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Phi nói riêng và của nhân dân

bị áp bức trên thế giới nói chung Từ đó hình thành cho học sinh tinh thần đoàn kết quốc tế, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa…

c Về mặt phát triển

Đồ dùng trực quan nói chung, đồ dùng trực quan quy ước nói riêng không chỉ có tác dụng cung cấp kiến thức, giáo dục học sinh mà nó còn có tác dụng rất lớn trong việc phát triển toàn diện học sinh Với ưu thế của mình, đồ dùng trực quan quy ước góp phần tích cực làm “phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh” [17,tr 62] Khi được quan sát bản đồ, sơ đồ … cùng với lời giảng và những câu hỏi gợi mở của giáo viên, các em được rèn luyện khả năng quan sát, năng

Trang 36

lực tư duy trừu tượng và năng lực thực hành bộ môn; đồng thời còn giúp ích trong việc phát triển tư duy ngôn ngữ, tư duy biện chứng cho học sinh

Ví dụ, dạy học bài “Công xã Pa-ri” chúng tôi nhận thấy rằng, khi quan sát “Sơ

đồ bộ máy công xã”, học sinh không chỉ hình dung được bộ máy chính quyền của công

xã mà còn thấy bản chất của công xã – nhà nước kiểu mới Sự quan sát, phân tích và nhận thức được bản chất của sơ đồ làm cho khả năng tư duy, óc quan sát của các em phát triển, ngôn ngữ trình bày ngày càng lưu loát, chính xác và sinh động

Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, đồ dùng trực quan quy ước nếu được sử dụng tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tạo ra hứng thú cho học sinh với việc học tập, tìm hiểu lịch sử Nó thực sự

là “chiếc cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại

1.2 Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay

Để tìm hiểu thực tiễn sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học hiện nay ra sao, chúng tôi tiến hành điều tra thực tế ở một số trường phổ thông trên địa bàn thành phố Hải Phòng như: trường THPT An Dương, trường THPT An Hải, trường THPT Nguyễn Trãi, trường THPT Tân An

Nội dung tiến hành điều tra theo hướng sau:

- Với học sinh: về hứng thú học tập bộ môn, mức độ hiểu kiến thức khi giờ học có sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

- Với giáo viên:

+ Quan niệm về đồ dùng trực quan quy ước

+ Tình trạng trang bị và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

+ Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước

Trên cơ sở kết quả kiểm tra đó, chúng tôi tiến hành phân tích và rút ra thực tiễn của vấn đề sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay

Trang 37

1.2.1 Tình hình trang bị đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

Đồ dùng trực quan quy ước là loại phương tiện rất quan trọng trong dạy học lịch

sử ở trường phổ thông Trong các cuộc hội thảo khoa học các nhà giáo dục lịch sử nước ta đều thống nhất rằng “muốn đổi mới phương pháp phải đồng thời cải tiến về mặt nội dung hình thức lên lớp, phương tiện dạy học và cả ý thức xã hội” [7,tr 71] Qua điều tra thực tiễn ở các trường phổ thông chúng tôi nhận thấy hầu hết giáo viên đều ý thức được tầm quan trọng của đồ dùng trực quan quy ước và coi việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước là một trong những biện pháp hữu hiệu của việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử Tuy vậy, những chuyển biến trong đổi mới về phương pháp, phương tiện dạy học và cả ý thức xã hội vẫn còn rất chậm chạp

Trong phạm vi luận văn này, để hiểu rõ thực tế trang bị và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát cơ bản thông qua phiếu thăm dò, dự giờ, trao đổi với giáo viên dạy lịch sử ở một số trường phổ thông trên địa bàn thành phố Hải Phòng

a Đối với loại đồ dùng trực quan quy ước do Nhà nước cung cấp

Trong nhiều năm qua, các cơ quan chức năng đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng và trang bị đồ dùng trực quan cho nhà trường phổ thông Đi đầu trong việc cung cấp và trang bị đồ dùng trực quan quy ước cho việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông là trung tâm bản đồ và tranh ảnh giáo dục – Nhà xuất bản giáo dục (trước đây là trung tâm bản đồ giáo khoa – Tổng công ty cơ sở vật chất và thiết bị trường học) Trung tâm có những cố gắng rất lớn trong việc nghiên cứu, biên soạn và sản xuất các loại đồ dùng trực quan quy ước phục vụ dạy học lịch sử ở trường phổ thông Những cố gắng đó thể hiện qua số lượng sản phẩm tăng liên tục qua các năm Nếu trước những năm 90 mới chỉ có một vài bản đồ được trang bị cho bộ môn lịch sử ở trường phổ thông thì đến năm 1995 đã có 16 bản đồ, đến năm 2003 là 52 bản đồ Bên cạnh việc biên soạn và sản xuất các đồ dùng trực quan đó, trung tâm cũng rất quan tâm đến việc

biên soạn các tài liệu hướng dẫn sử dụng như xuất bản cuốn “Nội dung và phương

Trang 38

pháp sử dụng bản đồ giáo khoa lịch sử treo tường – Tập I”… Những cố gắng ấy đã

phần nào đáp ứng được yêu cầu bức thiết của việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông

Tuy nhiên, các loại đồ dùng trực quan quy ước trên mới chỉ tập trung ở bản đồ giáo khoa lịch sử treo tường, chưa đề cập đến các loại hình khác như biểu đồ, sơ đồ, đồ thị Cụ thể: trong tổng số 52 sản phẩm trên thì có 01 niên biểu, 01 tài liệu hướng dẫn sử dụng, còn lại là bản đồ giáo khoa treo tường Ngay trong thể loại bản đồ thì cũng không cân đối giữa bản đồ Việt Nam (36 bản đồ) và bản đồ lịch sử thế giới (14 bản đồ) [37,tr 31]

Tại các trường mà đề tài có tiến hành điều tra thực nghiệm thì tình hình trang bị

đồ dùng, thiết bị dạy học bộ môn còn rất hạn chế Đồ dùng trực quan quy ước phục vụ môn học mới chỉ tập trung ở bản đồ, còn thiếu vắng các đồ dùng trực quan qui ước khác như niên biểu, biểu đồ, đồ thị… Tuy nhiên, các đồ dùng trực quan này cũng đều

do các cơ quan chức năng của nhà nước cung cấp Các đồ dùng trực quan nói chung,

đồ dùng trực quan quy ước nói riêng do Nhà trường, tổ chuyên môn và giáo viên bộ môn tự xây dựng còn ít

Theo số liệu điều tra của trung tâm bản đồ và tranh ảnh giáo dục, trong việc trang bị đồ dùng trực quan treo tường (tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, biểu đồ…) ở các trường phổ thông thì số lượng đồ dùng trực quan quy ước không đầy đủ Có trường chưa được trang bị đủ số lượng đồ dùng trực quan quy ước theo yêu cầu, có trường chưa trang bị được một nửa và thậm chí có trường không có đồ dùng trực quan quy ước nào [37,tr 45]

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đồ dùng trực quan quy ước nói chung, bản đồ nói riêng đã được in và phát hành nhưng chưa được trang bị đủ, thậm chí là chưa có tại các trường phổ thông thì có nhiều, là do cơ chế bao cấp cũ đã xóa bỏ, mà hoạt động kinh doanh thiết bị dạy học lại không mấy hấp dẫn “lãi thì làm, ít lãi thì không làm, không coi phục vụ sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ làm mục đích hoạt động, là lí do tồn tại” [7,tr 217] Mặt khác, một nguyên nhân chủ quan rất quan trong khác là sự thiếu

Trang 39

năng động, linh hoạt, tâm huyết của bản thân các trường phổ thông mà trước hết là vai trò của tổ chuyên môn và giáo viên bộ môn

Về chất lượng của các loại đồ dùng trực quan quy ước do trung tâm bản đồ và tranh ảnh giáo dục biên soạn và phát hành thì hơn hẳn các loại đồ dùng trực quan quy ước do thầy trò tự làm trên các mặt nội dung, kĩ thuật thiết kế, biên tập, in ấn Hệ thống nền địa lí được lựa chọn kĩ, có cả lưới kinh – vĩ độ giúp học sinh có thể xác định tọa độ thực của sự kiện, các yếu tố địa hình, sông, hồ… đều được thể hiện phù hợp với yêu cầu nội dung lịch sử Còn nội dung lịch sử được thể hiện bằng các kí hiệu hình ảnh tượng trưng phong phú, dễ nhận biết, màu sắc hài hòa, đẹp và rõ ràng mạch lạc… Nhìn chung đồ dùng trực quan qui ước loại này đảm bảo tốt các yêu cầu về tính khoa học, tính tư tưởng, tính sư phạm và tính thẩm mĩ, phục vụ tốt cho việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông

Tuy vậy, trong thực tế sử dụng ở trường phổ thông, các loại đồ dùng trực quan quy ước này cũng bộc lộ nhiều hạn chế Về mặt nội dung, trên bản đồ còn trình bày quá nhiều sự kiện làm cho nội dung bản đồ quá nặng so với yêu cầu của sách giáo khoa

và trình độ của học sinh như bản đồ “Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),… Về

mặt hình thức, bản đồ còn sử dụng quá nhiều kí hiệu, hình tượng kiến cho học sinh khó

đọc, khó phân biệt các sự kiện như bản đồ “Phong trào nông dân Yên Thế (1884)”…

Một số bản đồ có bố cục phản ánh một khu vực quá nhỏ do đó học sinh khó có cái nhìn tổng thể, bao quát, khó xác định vị trí của nơi xảy ra sự kiện như bản đồ chiến trường châu Á – Thái Bình Dương và quá trình bành trướng của phát xít Nhật,… Thậm chí, trên nhiều bản đồ còn trình bày cả niên biểu, đồ thị, tranh ảnh,… để làm rõ thêm nội dung bản đồ Việc cung cấp thêm các tranh ảnh, niên biểu, đồ thị,… là nguồn tư liệu tốt, thuận tiện để giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác trên lớp, song việc thể hiện như vậy lại dễ phân tán sự tập trung chú ý của học sinh khi theo dõi bản đồ hoặc các nội dung biểu hiện sẽ quá nhỏ không đảm bảo sự quan sát của học sinh cả lớp, như bản

đồ phong trào nông dân Đàng Ngoài thế kỉ XVIII, bản đồ khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì

và binh biến Đô Lương…

Trang 40

b Đồ dùng trực quan quy ước do thầy trò tự xây dựng

Việc tự xây dựng đồ dùng dạy học ở nước ta từ lâu đã trở thành một phong trào sâu rộng, mang ý nghĩa kinh tế, khoa học và giáo dục sâu sắc, biểu hiện rõ qua các cuộc thi đồ dùng dạy học toàn quốc (1981, 1985, 1990, 1994) Cũng chính vì vậy mà Hội nghị thiết bị dạy học giá thành hạ năm 1980 tại Bănglađét có nhận xét: “Chỉ Việt Nam mới có phong trào sâu rộng được đông đảo giáo viên hưởng ứng, tập hợp được trí tuệ sáng tạo của nhiều người” [6,tr 55]

Qua khảo sát thực tế ở trường phổ thông trong nhiều năm gần đây có thể thấy rõ

đồ dùng trực quan quy ước do thầy trò tự xây dựng là loại đồ dùng dạy học khá phổ biến và phần nào đáp ứng được nhu cầu về thiết bị dạy học bộ môn Ngay ở các trường vùng cao, vùng sâu, thầy trò cũng đã rất cố gắng tự xây dựng đồ dùng trực quan quy ước để khắc phục kịp thời những thiếu thốn về đồ dùng dạy học

Kế hoạch xây dựng đồ dùng dạy học nói chung, đồ dùng trực quan quy ước nói riêng ở một số trường đã được đề ra ngay từ đầu năm học hoặc đầu mỗi học kì, nhưng

ở một số trường khác chưa chú ý, còn tùy tiện trong xây dựng và sử dụng loại trực quan này Nhìn chung giáo viên và học sinh chỉ thực sự bắt tay xây dựng đồ dùng dạy học khi bài sắp dạy có yêu cầu hoặc có đợt phát động phong trào làm đồ dùng dạy học,

dự thi giáo viên giỏi,…

Cách thức xây dựng đồ dùng trực quan quy ước ở hầu hết các trường mới chỉ là phóng to bản đồ, sơ đồ, biểu đồ, đồ thị trong sách giáo khoa hoặc trong các tài liệu lịch

sử khác lên giấy rôki, có thêm bớt những nội dung lịch sử cho phù hợp với nội dung sách giáo khoa, có tô màu để phân biệt các khu vực tính chất hoặc làm nổi rõ các kí hiệu, hình tượng… Một số giáo viên đã sao chép lại bản đồ treo tường địa lí hình thể và

vẽ thêm nội dung lịch sử lên trên giấy hoặc đã cố gắng vẽ dạng bản đồ câm treo tường, các nội dung lịch sử sẽ được đưa dần vào trong quá trình giảng bài bằng phấn màu, lắp ghép mảnh bìa…

Chất lượng của các đồ dùng trực quan quy ước này nhìn chung chưa cao, chưa đồng đều, nhất là ở những trường thiếu sự quan tâm hướng dẫn chu đáo của giáo viên

Ngày đăng: 17/03/2015, 08:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng, Nguyễn Thị Thế Bình. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 11 THPT. Nxb Đại học sư phạm, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 11 THPT
Nhà XB: Nxb Đại học sư phạm
2. Lâm Quang Dốc. Bản đồ chuyên đề. Nxb Đại học sư phạm, H, 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản đồ chuyên đề
Nhà XB: Nxb Đại học sư phạm
3. Lâm Quang Dốc. Bản đồ giáo khoa (Sách dùng cho sinh viên khoa lịch sử ). Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản đồ giáo khoa
Nhà XB: Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
4. Hồ Ngọc Đại. Tâm lí học dạy học. Nxb Giáo dục, H, 1983 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lí học dạy học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
5. Đairi N. G. Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?. Nxb Giáo dục, H, 1973. (Đặng Bích Hà và Nguyễn Cao Lũy dịch) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào
Nhà XB: Nxb Giáo dục
6. Trần Quốc Đắc. Cơ sở và nguyên tắc xây dựng bản tiêu chuẩn thiết bị giảng dạy ở trường phổ thông. Nghiên cứu giáo dục, số 4/1990 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở và nguyên tắc xây dựng bản tiêu chuẩn thiết bị giảng dạy ở trường phổ thông
7. Đổi mới việc dạy học lịch sử “Lấy học sinh làm trung tâm”. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới việc dạy học lịch sử “Lấy học sinh làm trung tâm”
Nhà XB: Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
8. Phạm Văn Đồng. Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực – một phương pháp vô cùng quí báu. Tạp chí trung học phổ thông – Khoa học xã hội, số 1 - 1995 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực – một phương pháp vô cùng quí báu
9. Exipôp B.P. Những cơ sở của lí luận dạy học. Tập I, Nxb Giáo dục, H, 1971. (Nguyễn Ngọc Quang dịch) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những cơ sở của lí luận dạy học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
10. Đinh Thị Bảo Hoa. Bản đồ đại cương. ĐHQG Hà Nội, Trường ĐHKH Tự nhiên, H, 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản đồ đại cương
11. Lênin. Bút kí triết học. Nxb Sự thật, H, 1963 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bút kí triết học
Nhà XB: Nxb Sự thật
12. Lịch sử lớp 11 (sách giáo viên). Nxb Giáo dục, H, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử lớp 11 (sách giáo viên)
Nhà XB: Nxb Giáo dục
14. Phan Ngọc Liên. Bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Cục đo đạc và bản đồ nhà nước, H, 1987 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
16. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi. Phương pháp dạy học lịch sử. Tập I, Nxb Đại học sư phạm, H, 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp dạy học lịch sử
Nhà XB: Nxb Đại học sư phạm
17. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi. Phương pháp dạy học lịch sử. Tập II, Nxb Đại học sư phạm, H, 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp dạy học lịch sử
Nhà XB: Nxb Đại học sư phạm
18. Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Phan Thế Kim, Nguyễn Hữu Chí, Phạm Hồng Việt. Phương pháp dạy học lịch sử. Nxb Giáo dục, H, 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp dạy học lịch sử
Nhà XB: Nxb Giáo dục
19. Phan Ngọc Liên, Phạm Kì Tá. Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông cấp hai. Nxb Giáo dục, H, 1976 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông cấp hai
Nhà XB: Nxb Giáo dục
20. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị. Phương pháp dạy học lịch sử. Tập I, Nxb Giáo dục, H, 1978 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp dạy học lịch sử
Nhà XB: Nxb Giáo dục
21. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng. Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trung học cơ sở. Nxb Giáo dục, H, 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trung học cơ sở
Nhà XB: Nxb Giáo dục
22. Phan Ngọc Liên, Trương Hữu Quýnh. Giáo trình phương pháp luận sử học. Nxb ĐHSP Hà Nội I, H, 1982 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình phương pháp luận sử học
Nhà XB: Nxb ĐHSP Hà Nội I

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 2.1. Lược đồ trận phản công Xtalingrat năm 1942 - Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học Lịch sử thế giới lớp 11 trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn
Hình 2.1. Lược đồ trận phản công Xtalingrat năm 1942 (Trang 80)
Bảng so sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động - Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học Lịch sử thế giới lớp 11 trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn
Bảng so sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động (Trang 98)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w