TIỂU LUẬN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHUYÊN ĐỀ 6: SUY THOÁI KINH TẾ Không ai trong chúng ta mong đợi nhưng “suy thoái kinh tế” có lẽ là từ được nhắc đến nhiều nhất trên thị trường tài chính thế giới trong khoảng thời gian dài vừa qua từ năm 2008 đến nay. Trong thời đại giao thương mở cửa và toàn cầu hóa, sự suy thoái kinh tế ở một quốc gia hay khu vực sẽ ảnh hưởng lớn đến phần còn lại của thế giới và sẽ gây ra tác động trực tiếp đến đời sống của những người lao động khắp nơi trên thế giới, trong đó có chúng ta.
Trang 1TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
CHUYÊN ĐỀ 6: SUY THOÁI KINH TẾ
1 Võ Phương Thúy Anh
2 Nguyễn Thị Ngọc Diễm
3 Lê Trung Hiếu
4 Trần Văn Hội
5 Hồ Thái Yên Kha
6 Trần Thị Linh GVHD: TS DIỆP GIA LUẬT
7 Nguyễn Thị Ngọc LỚP: NGÀY 2 - K23
8 Đặng Hữu Phước
9 Trần Thanh Tâm
10 Nguyễn Phương Thảo
11 Nguyễn Hữu Thuận
12 Võ Thị Thanh Trúc
13 Nguyễn Ngọc Tươi
14 Nguyễn Thị Như Ý
Trang 2MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1 TỔNG QUAN VỀ SỰ SUY THOÁI KINH TẾ 2
1.1 KHÁI NIỆM 2
1.2 CÁC KIỂU SUY THOÁI 4
1.2.1 Suy thoái hình chữ V 4
1.2.2 Suy thoái hình chữ U 4
1.2.3 Suy thoái hình chữ W 5
1.2.4 Suy thoái hình chữ L 6
1.3 NGUYÊN NHÂN 7
1.3.1 Trường phái kinh tế học chủ nghĩa Keynes 7
1.3.2 Trường phái kinh tế học Áo 7
1.3.3 Trường phái tiền tệ 8
1.3.4 Xem xét từ thực tế 8
1.4 HỆ QUẢ CỦA SUY THOÁI KINH TẾ 9
1.4.1 Vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh 9
1.4.2 Đầu tư và tiêu dùng giảm mạnh 10
1.4.3 Bất ổn cán cân thanh toán 10
1.4.4 Vấn đề an sinh xã hội 10
1.4.5 Sự suy sụp của hệ thống tài chính và các thị trường bong bóng 10
1.5 GIẢI PHÁP CHUNG CHO SUY THOÁI KINH TẾ 11
1.5.1 Chính sách tài khóa 11
1.5.2 Chính sách tiền tệ 12
Trang 32 CÁC CUỘC SUY THOÁI KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI 16
2.1 ĐẠI SUY THOÁI Ở MỸ 1929-1933 16
2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội 16
2.1.2 Nguyên nhân 18
2.1.3 Tác động 20
2.1.4 Các giải pháp 23
2.2 SUY THOÁI KINH TẾ NĂM 1971-1975 25
2.2.1 Tình hình kinh tế xã hội 25
2.2.2 Nguyên Nhân 26
2.2.3 Tác động 26
2.2.4 Các giải pháp 29
2.3 SUY THOÁI KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC CHÂU MỸ LA TINH THẬP NIÊN 1980 30
2.3.1 Tình hình kinh tế xã hội 30
2.3.2 Nguyên nhân 30
2.3.3 Tác động 31
2.3.4 Các giải pháp 33
2.4 SUY THOÁI KINH TẾ 2008 - 2012 33
2.4.1 Tình hình kinh tế xã hội 33
2.4.2 Nguyên nhân 33
2.4.3 Tác động 35
2.4.4 Các giải pháp 39
3 ẢNH HƯỞNG CỦA SUY THOÁI KINH TẾ ĐẾN VIỆT NAM 41
3.1 ẢNH HƯỞNG CUỘC SUY THOÁI KINH TẾ 1997 41
3.1.1 Tác động đến tăng trưởng kinh tế 42
Trang 43.1.2 Tác động xuất nhập khẩu 42
3.1.3 Tác động đến thị trường ngoại hối 44
3.1.4 Ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 45
3.1.5 Một số giải pháp nổi bật của Việt Nam 46
3.2 ẢNH HƯỞNG CUỘC KHỦNG HOẢNG 2008 – 2012 46
3.2.1 Tốc độ tăng trưởng 47
3.2.2 Lạm phát 48
3.2.3 Vốn đầu tư toàn xã hội 49
3.2.4 Chỉ số sản xuất công nghiệp 50
3.2.5 Mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ 51
3.2.6 Doanh nghiệp đăng ký mới 52
3.2.7 Tín dụng và lãi vay bình quân 53
3.2.8 Tỉ giá ngoại tệ 53
3.2.9 Một số giải pháp Việt Nam đã thực hiện trong giai đoạn suy thoái năm 2008 - 2012 54
3.2.10 Một số bài học về đối phó suy thoái kinh tế 61
3.2.11 Một số kiến nghị cho chính sách tại Việt Nam trong thời gian tới 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
Trang 5LỜI NÓI ĐẦU
Không ai trong chúng ta mong đợi nhưng “suy thoái kinh tế” có lẽ là từ
được nhắc đến nhiều nhất trên thị trường tài chính thế giới trong khoảng thời gian dài vừa qua từ năm 2008 đến nay Trong thời đại giao thương mở cửa và toàn cầu hóa, sự suy thoái kinh tế ở một quốc gia hay khu vực sẽ ảnh hưởng lớn đến phần còn lại của thế giới và sẽ gây ra tác động trực tiếp đến đời sống của những người lao động khắp nơi trên thế giới, trong đó có chúng ta
Suy thoái kinh tế là một thực tế không thể nào tránh được trong thời đại ngày nay, tuy nhiên mỗi cuộc suy thoái kinh tế đã từng xảy ra trong lịch sử đều
có những nguyên nhân và giải pháp cụ thể để vượt qua nó Cho nên việc nghiên cứu các kiến thức về suy thoái kinh tế, các cuộc suy thoái kinh tế trong lịch sử sẽ cho chúng ta các bài học quý báu và để giúp chúng ta vững tin hơn trước những thử thách của cuộc sống Đề tài này khá rộng và trong tiểu luận này nhóm nghiên cứu và trình bày ba phần:
Phần 1: Tổng quan về sự suy thoái kinh tế
Phần 2: Tìm hiểu một số cuộc suy thoái kinh tế trong lịch sử
- Đại suy thoái 1929-1933
- Suy thoái kinh tế 1971-1975
- Suy thoái kinh tế ở các nước châu Mỹ Latinh thập niên 80
- Khủng hoảng kinh tế 2008 - 2012
Phần 3: Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến Việt Nam & kiến nghị giải pháp
Trang 61 TỔNG QUAN VỀ SỰ SUY THOÁI KINH TẾ
1.1 KHÁI NIỆM
Suy thoái kinh tế (recession/economic downturn) là sự suy giảm của tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm, nói cách khác là tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý Theo cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ thì suy thoái kinh tế là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng
Suy thoái kinh tế có thể liên quan đến sự suy giảm đồng thời của các chỉ
số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh nghiệp.Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát)
Suy thoái kinh tế là một giai đoạn của chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh Đó là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ) Vì pha phục hồi là thứ yếu nên cũng
có thể chia chu kỳ kinh tế thành 2 pha đó là: suy thoái và hưng thịnh Suy thoái kinh tế ở mức độ chưa nghiêm trọng tức là GDP suy giảm nhưng vẫn còn mang giá trị dương thì gọi là suy giảm kinh tế Suy thoái kinh tế kéo dài và trầm trọng được gọi là khủng hoảng kinh tế
Trang 7Chu kỳ kinh tế
Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái kinh tế là tiêu dùng giảm
mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng
lên ngoài dự kiến Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo
đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm
sút Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm
xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm
bởi nguyên nhân cầu sút kém Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không
nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm
mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được
pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất
giảm xuống trong thời kỳ suy thoái Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu
hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại
Trang 81.2 CÁC KIỂU SUY THOÁI
Các nhà kinh tế học hay miêu tả kiểu suy thoái kinh tế theo hình dáng của
đồ thị tăng trưởng theo quý Có các kiểu suy thoái sau hay được nhắc đến:
1.2.1 Suy thoái hình chữ V
Đây là kiểu suy thoái mà pha suy thoái ngắn, tốc độ suy thoái lớn; đồng
thời, pha phục phồi cũng ngắn và tốc độ phục hồi nhanh; điểm đổi chiều giữa hai
pha này rõ ràng Đây là kiểu suy thoái thường thấy
Suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ năm 1953
1.2.2 Suy thoái hình chữ U
Đây là kiểu suy thoái mà pha phục hồi xuất hiện rất chậm Nền kinh tế sau
một thời kỳ suy thoái mạnh tiến sang thời kỳ vất vả để thoát khỏi suy thoái
Trong thời kỳ thoát khỏi suy thoái, có thể có các quý tăng trưởng dương và tăng
trưởng âm xen kẽ nhau
Trang 9Suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ trong các năm 1973-1975
1.2.3 Suy thoái hình chữ W
Đây là kiểu suy thoái liên tiếp Nền kinh tế vừa thoát khỏi suy thoái được một thời gian ngắn lại tiếp tục rơi ngay vào suy thoái
Trang 10Suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ đầu thập niên1980
1.2.4 Suy thoái hình chữ L
Đây là kiểu suy thoái mà nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng rồi suốt một thời gian dài không thoát khỏi suy thoái Một số nhà kinh tế gọi tình trạng suy thoái không lối thoát này là khủng hoảng kinh tế
Trang 11Thập kỷ mất mát (Nhật Bản)
1.3 NGUYÊN NHÂN
1.3.1 Trường phái kinh tế học chủ nghĩa Keynes
Theo Keynes, xu hướng tiêu dùng biên từ thu nhập quốc dân giảm xuống khi thu nhập quốc dân tăng lên làm gia tăng tiết kiệm trong nền kinh tế Mặt khác nghịch lý tiết kiệm lại chỉ ra rằng, khi dân chúng gia tăng tiết kiệm dẫn đến sự giảm sút của tổng cầu Và chính sự giảm sút của tổng cầu là nguyên nhân gây ra suy thoái, khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất và công nhân
bị thất nghiệp
1.3.2 Trường phái kinh tế học Áo
Trường phái kinh tế học Áo lại chỉ ra rằng, nguyên nhân của suy thoái kinh tế là do sự can thiệp của chính phủ vào thị trường Theo trường phái này thì suy thoái kinh tế bắt nguồn từ những kế hoạch kinh tế sai lầm của các cá nhân, có thể là kế hoạch kinh doanh hay kế hoạch tiêu dùng.Khi tất cả các kế hoạch đều là sai lầm thì sẽ tạo thành suy thoái Để tất cả các kế hoạch kinh tế cá nhân đều trở
Trang 12thành sai lầm thì phải có sự định hướng, vì chỉ có chính phủ mới đủ quyền lực để định hướng thị trường
1.3.3 Trường phái tiền tệ
Quan điểm của trường phái tiền tệ cho rằng suy thoái kinh tế là hệ quả của
sự quản lý tiền tệ yếu kém, họ chỉ trích sự can thiệp của chính phủ vào thị trường Theo họ thị trường vốn dĩ tự điều chỉnh, khi có sự can thiệp của chính phủ trong chính sách tiền tệ làm tổng cầu biến động
1.3.4 Xem xét từ thực tế
Sau khi điểm qua các quan điểm của các trường phái về nguyên nhân của suy thoái, chúng tôi rút ra một nhận xét: các quan điểm trên đều chỉ tập trung nhấn mạnh các yếu tố nội sinh của nền kinh tế mà đã bỏ qua một tác động không nhỏ của các yếu tố ngoại sinh
Vậy các yếu tố ngoại sinh là gì và chúng có tác động như thế nào? Các yếu tố ngoại sinh bao gồm:
1.3.4.1 Khủng hoảng tài chính
Đây là một yếu tố quan trọng và là nguyên nhân chủ yếu của các cuộc suy thoái kinh tế Khủng hoảng tài chính diễn ra đối với một quốc gia sẽ nhanh chóng lây lan qua các quốc gia khác do tính toàn cầu hóa của hệ thống tài chính Nó còn
là nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm tổng cầu trên quy mô toàn thế giới
VD: Khủng hoảng tài chính tại Mỹ 2008 đã nhanh chóng lay lan sang các nước khác Mặt khác Mỹ là quốc gia có tỷ trọng tiêu dùng lớn trên thế giới, như vậy khi người dân Mỹ giảm chi tiêu làm ảnh hưởng đến tổng cầu của các quốc gia khác
1.3.4.2 Giá nguyên liệu đầu vào gia tăng đột biến
Giá nguyên liệu đầu vào gia tăng làm giá đầu ra gia tăng theo, trong khi mức độ gia tăng của thu nhập không theo kịp mức độ gia tăng của giá cũng dẫn
Trang 13đến tổng cầu giảm Tổng cầu giảm một lần nữa sẽ tác động ngược trở lại tổng cung VD: Cuộc suy thoái giá dầu tại Trung Đông giai đoạn 1973 - 1975
1.3.4.3 Chiến tranh
Một nguyên nhân có vẻ không ảnh hưởng nhiều nhưng nó lại chính là nguyên nhân gây ra sự gia tăng đột biến của giá nguyên liệu đầu vào
VD: Các cuộc bạo loạn tại Trung Đông, Bắc Phi và Libya hồi đầu năm
2011 đe dọa nguồn cung dầu toàn cầu và kéo giá tăng vượt 100 USD/thùng
1.3.4.4 Các yếu tố trung lập
Ngoài những yếu tố ngoại sinh kể trên, chúng ta cần xem xét những các yếu tố được xếp vào loại trung lập (vừa mang tính nội sinh, vừa mang tính ngoại sinh):
Sự sai lầm trong việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô: Cũng như
trường phái Áo và trường phái tiền tệ, Krugman cũng chỉ trích các chính phủ Ông cho rằng chính phủ các nước trên thế giới đã sai lầm trong các chính sách nhằm khôi phục và kích thích nền kinh tế của mình VD: Cuộc khủng khoảng nợ công đang diễn ra tại châu Âu
Kỳ vọng của người dân và sự khủng hoảng niềm tin: Khi một trong
các nguyên nhân trên diễn ra, kỳ vọng về thu nhập của người dân sẽ giảm, họ sẽ gia tăng tiết kiệm Với mức độ suy giảm ngày càng nghiêm trọng của kỳ vọng sẽ dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin
1.4 HỆ QUẢ CỦA SUY THOÁI KINH TẾ
1.4.1 Vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh
Việc thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng
để quyết định sự thành công của nền kinh tế Nhưng trong giai đoạn suy thoái, việc cắt giảm đầu tư do tâm lý lo sợ của các nhà đầu tư nước ngoài là không thể tránh khỏi Mặt khác các khoản viện trợ cũng giảm do suy thoái là tình hình chung của tất cả các quốc gia
Trang 141.4.2 Đầu tư và tiêu dùng giảm mạnh
Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, tiêu dùng trong nước đều bị sụt giảm do thu nhập khả dụng giảm và rủi ro đầu tư tăng cao đồng thời dòng vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế, các nhà đầu tư
có xu hướng rút vốn về do lo ngại rủi ro đầu tư
1.4.3 Bất ổn cán cân thanh toán
Suy thoái kinh tế dẫn đến sự sụt giảm nhanh chóng về nhu cầu nhập khẩu trên thế giới do người tiêu dùng trên thế giới thắt chặt chi tiêu dẫn đến hoạt động xuất khẩu ra thị trường quốc tế bị suy giảm
1.4.4 Vấn đề an sinh xã hội
Suy thoái kinh tế tác động tiêu cực lên nền kinh tế dẫn đến xu hướng bất bình đẳng về thu nhập và phân hóa giàu nghèo trong xã hội có khả năng gia tăng Đồng thời gây ra những bất ổn trong xã hội do tội phạm tăng
1.4.5 Sự suy sụp của hệ thống tài chính và các thị trường bong bóng
Sự suy sụp của hệ thống tài chính:Suy thoái kinh tế xảy ra làm cho tình
hình tài chính cũng có nhiều bất ổn, các nhà đầu tư bắt đầu gặp khó khăn về dòng tiền do vòng xoáy nợ nần gây ra, làn sóng bán tháo do không có đối tác nào có thể bán tại mức giá chào bán cao được niêm yết trước đó, dẫn đến một sự suy giảm thanh khoản nặng nề và sụp đổ bất ngờ theo chiều thẳng đứng của thị trường tài chính, làm cho giá cổ phiếu giảm mạnh, nhà đầu tư hoảng sợ, thị trường chứng khoán đi xuống và chứng khoán bị bán ra ồ ạt Bên cạnh việc có những tác động tiêu cực lên thị trường chứng khoán, suy thoái kinh tế cũng làm cho các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, một số ngân hàng mất khả năng thanh khoản, có thể gây ra sự sụp đổ của các ngân hàng do nợ xấu tăng lên, người vay vốn không còn khả năng trả nợ và người gửi tiền hoảng loạn đua nhau rút tiền gởi, làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng
Trang 15Sự suy sụp của các thị trường bong bóng: Các thị trường bong bóng
trước suy thoái như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản sẽ có nguy
cơ tan vỡ sau một thời gian tăng trưởng quá nóng
1.5 GIẢI PHÁP CHUNG CHO SUY THOÁI KINH TẾ
1.5.1 Chính sách tài khóa
Sau những năm 1930, để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá bởi cuộc đại suy thoái, trên cơ sở học thuyết kinh tế của Keynes, các nước đã áp dụng chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô với chính sách tài khóa là chủ đạo Đối với chính sách tài khóa, thực tiễn chống khủng hoảng ở các nước cho thấy, khi chính sách tiền tệ trở nên “hụt hơi” trong vai trò tác động vào việc mở rộng cung tiền và kích thích kinh tế thì Chính phủ nhiều nước chuyển sang sử dụng chính sách tài khóa Đặc biệt, để đối phó với những cú sốc kinh tế thì chính sách tài khoá vẫn phát huy được vai trò sức mạnh vượt trội của nó, như trong cuộc khủng hoảng ở Nhật vào những năm 1990, gần nhất là việc đối phó của các nước với khủng hoảng tài chính thế giới 2008 - 2009
Ở giai đoạn đầu, khi đưa ra những giải pháp về chính sách tài khóa nhằm mục tiêu khôi phục nền kinh tế suy thoái, người ta đều dự kiến rằng tình trạng suy thoái sẽ kéo dài, do đó, chính sách tài khóa sẽ có đủ thời gian phát huy tác dụng Chính sách tài khóa được thực hiện theo hai hướng: thắt chặt và nới lỏng Thắt chặt hay nới lỏng chính sách tài khóa được thực hiện qua các công cụ như: chi tiêu ngân sách, thuế
1.5.1.1 Chính sách kích cầu thông qua chi tiêu ngân sách:
Việc sử dụng chính sách kích cầu dựa trên hai giả thuyết của Keynes:
Thứ nhất: Cuộc suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực sản suất
bị dư thừa, các yếu tố sản xuất đầu vào không sử dụng hết công suất, và hàng hóa
ế thừa Hiện tượng này khiến giá cả hàng hóa có khuynh hướng giảm trên tất cả các thị trường, nền kinh tế mắc vào cái bẫy suy thoái không tự thoát ra được
Trang 16Thứ hai: Chính phủ có khả năng chủ động chi tiêu, thậm chí còn nhiều
hơn thu nhập của mình Trong khi đó, khu vực tư (hộ gia đình và khu vực kinh tế
tư nhân) thì chi tiêu ít hơn tổng thu nhập vì họ muốn để dành (khuynh hướng tiêu dùng cận biên lớn hơn không và nhỏ hơn một) Trong điều kiện bình thường, khoản tiết kiệm được chuyển sang khu vực doanh nghiệp để đầu tư, nhưng trong thời kỳ suy thoái doanh nghiệp không muốn đầu tư nữa vì không có lợi Trong giả thuyết thứ nhất, Keynes cho rằng nền kinh tế suy thoái vì tạm thời không đủ cầu cho cung đang dư thừa Do đó, bài toán sẽ được giải quyết nếu xuất hiện một lượng cầu đủ lớn
1.5.1.2 Tác động của chính sách tài khóa mở rộng
Việc theo đuổi chính sách tài khóa mở rộng bằng các khoản chi lớn thực hiện các chương trình tài trợ là gia tăng các dịch vụ hàng hóa công cộng như cơ
sở hạ tầng và giáo dục… tác động của những khoản chi này có thể đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế thông qua việc làm tăng sức mua của người dân như lý thuyết của trường phái Keynes Tuy nhiên, khi Chính phủ mở rộng chi tiêu quá lớn cũng
sẽ có tác động ngược chiều làm giảm tăng trưởng kinh tế, bởi vì nó sẽ dịch chuyển nguồn lực từ khu vực sản xuất hiệu quả trong nền kinh tế sang khu vực Chính phủ kém hiệu quả Việc mở rộng chi tiêu công sẽ làm phức tạp thêm những nỗ lực thực hiện các chính sách thúc đẩy tăng trưởng như chính sách thuế
và an sinh xã hội, được Chính phủ tài trợ bằng nguồn ngân sách sẽ làm mức bội chi ngân sách tăng lên quá lớn Và thực tế cho thấy, thời gian cần thiết để đưa ra
và thực thi các chính sách lại khá dài Mặt khác, chính sách tài khóa chỉ phát huy được trong điều kiện áp lực về nợ của các Chính phủ không lớn
1.5.2 Chính sách tiền tệ
Từ những năm 1980 trở lại đây, chính sách tiền tệ trở nên giữ vai trò rõ rệt hơn bởi vì:
thuyết lợi thế tương đối của D Ricardo là không hiệu quả
Trang 17 Thứ hai, chính sách tiền tệ có thể duy trì khoảng cách ổn định và nhỏ nhất giữa mức sản lượng thực tế với mức sản lượng tiềm năng
dần khối lượng cho vay của chính phủ, còn ở các nước đang phát triển thì
sự hạn chế các khoản vay nợ nước ngoài đã làm giảm khả năng thực thi chính sách tài khoá chống khủng hoảng
khoá, và hiện nay các chu kỳ suy thoái kinh tế ngày càng trở nên ngắn hơn, đã làm cho những giải pháp của chính sách tài khoá không thể kịp thời phát huy được tác dụng
thế lực chính trị nhiều hơn so với chính sách tiền tệ Hơn nữa, trong những thời kỳ kinh tế tăng trưởng, người ta vẫn hướng tới chính sách tài khoá thận trọng, ngay cả trong trung hạn, các nền kinh tế đang phát triển vẫn ưu tiên sử dụng hệ thống các công cụ tự điều chỉnh mà không chấp nhận những giải pháp bất thường
1.5.2.1 Chính sách tiền tệ thắt chặt
Các công cụ của chính sách tiền tệ được tiến hành theo hướng thắt chặt và
sử dụng trần lãi suất để kiềm chế lạm phát như tăng dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc; điều chỉnh lãi suất cơ bản; tăng lãi suất tái cấp vốn; và tăng lãi suất chiết khấu; tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
1.5.2.2 Chính sách tiền tệ mở rộng
Được sử dụng cho các thời kỳ chặn đà suy thoái kinh tế để duy trì mục tiêu tăng trưởng hỗ trợ lãi suất, giảm lãi suất như hạ lãi suất cơ bản; giảm lãi suất chiết khấu & lãi suất tái cấp vốn; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc Cơ sở đển ngân hàng Trung ương (NHTW) xác định được các tỷ lệ lãi suất trong ngắn hạn khi các điều kiện kinh tế thay đổi nhằm đạt được hai mục tiêu là ổn định kinh tế trong ngắn hạn và kiểm soát lạm phát trong dài hạn (quy tắc Taylor) Theo quy tắc này, việc xác định mức lãi suất thực ngắn hạn dựa trên 3 yếu tố: lạm phát
Trang 18thực tế so với lạm phát mục tiêu; chênh lệch giữa sản lượng thực tế so với sản lượng tiềm năng; mức lãi suất ngắn hạn, tại đó nền kinh tế đạt mức toàn diện nhân công Trong trường hợp nền kinh tế suy thoái, quy tắc Taylor khuyến nghị xác định mức lãi suất tương đối thấp để thúc đẩy tăng trưởng Thực tiễn của cuộc khủng hoảng cho thấy tỷ lệ lạm phát thấp mà tất cả các NHTW theo đuổi đã không cho phép các NHTW đưa ra những giải pháp chống khủng hoảng hiệu quả
Tác động: Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm tăng
tổng phương tiện thanh toán Một mặt, làm cho khả năng cung ứng tín dụng của
hệ thống các NHTM tăng lên, các doanh nghiệp có thể tiếp cận đượcnguồn vốn tín dụng dễ dàng tài trợ cho các dự án đầu tư Sự thay đổi tỷ giá khi đồng tiền trong nước bị đánh giá thấp hơn ngoại tệ cũng góp phần hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa Tuy nhiên, chính sách tiền tệ mở rộng cũng có những tác động tiêu cực đối với sự phát triển của nền kinh tế như: việc tăng trưởng tín dụng nhanh, có sự dễ dàng khi xét duyệt tín dụng, cũng như các doanh nghiệp có tư tưởng ỷ lại vì được sựhỗ trợ lãi suất nên thường chấp nhận những dự án đầu tư mạo hiểm hoặc hiệu quả thấp, sẽ làm tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng Với áp lực tăng cầu quá mức, do tác động của các gói kích thích kinh tế của Chính phủ với độ trễ nhất định kết hợp với chính sách tiền tệ mở rộng có thể đẩy chỉ số giá lên cao quá tầm kiểm soát của Chính phủ gây thương hại cho nền kinh tế
1.5.3 Điều tiết kinh tế vĩ mô hiệu quả - sự bảo đảm của ổn định kinh tế
Để ổn định kinh tế cần kết hợp cả hai chính sách tài khóa và tiền tệ một cách hợp lý Việc lý giải về kết quả sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô trong các cuộc khủng hoảng vừa qua còn rất nhiều điều phải bàn, nhưng có điều
đã rõ là cần phải điều chỉnh chính các cơ chế thực thi chính sách kinh tế vĩ mô
sách tiền tệ minh bạch, cam kết theo các nguyên tắc khoa học như Quy tắc Taylor, cơ chế Operation Twist để ổn định giá, ổn định tỷ lệ lạm phát, góp phần
Trang 19khắc phục nguyên nhân cơ bản của tình trạng mất ổn định kinh tế vĩ mô là mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, từ đó làm giảm tình trạng dễ bị tổn thương trong điều kiện kinh tế thế giới có biến động
cụ điều hành khác, bởi vì lãi suất chiết khấu không phải là công cụ có thể giải quyết vấn đề đòn bẩy quá mức và rủi ro, cũng như sự chênh lệch quá mức của giá một số tài sản so với các chỉ tiêu cơ bản Do đó, cần tăng giá trị các hệ số bảo đảm vốn nếu đòn bẩy của các ngân hàng quá lớn, cần quy định mức thanh khoản tối thiểu nếu thanh khoản thấp, định giá thấp hơn giá trị của bất động sản khi cấp tín dụng thế chấp trong điều kiện cần giảm giá bất động sản Để hạn chế chạy đua lãi suất, đưa mặt bằng lãi suất về mức hợp lý nên áp dụng mức lãi suất trần cho vay thay cho trần lãi suẩt huy động, nên áp dụng giới hạn tăng trưởng tín dụng nếu cung tiền tăng nóng Các công cụ này sẽ tỏ ra hiệu quả hơn lãi suất chiếc khấu để xử lý những mất cân đối nhất định trong hệ thống tài chính và ngăn cản các nhà đầu tư lao vào các dự án rủi ro không lường trước được
hợp lý Các nước đang phát triển với nền kinh tế mở cửa ở mức độ thấp, cần coi trọng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái tương tự như kiểm soát lạm phát
khoản chi tiêu của Chính phủ trên cơ sở các chương trình dài hạn có tính đến tính chu kỳ của nền kinh tế, đảm bảo tất cả các khoản chi ngoài ngân sách phải được tính hết khi xây dựng dự án ngân sách
khủng hoảng thông qua việc các NHTW cung cấp các khoản tín dụng, mua lại và nhận một số loại tài sản dưới dạng tài sản thế chấp cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ đưa vào bảng cân đối của mình những tài sản rủi ro cao, còn các ngân hàng sẽ biến tướng các khoản tiết kiệm ngắn hạn thành các khoản cho vay dài hạn, để rồi họ lại mất khả năng thanh khoản Vì vậy, cần sử dụng cơ chế bảo hiểm và cấp các khoản tín dụng với số tiền nhỏ hơn so với giá trị bảo đảm Ở thời
kỳ hậu khủng hoảng, cần hạn chế các khoản mua lại trực tiếp của Chính phủ để
Trang 20không làm tăng tỷ trọng sở hữu của Chính phủ trong nền kinh tế, trên cơ sở hoàn thiện hệ thống điều tiết, xây dựng danh mục những tài sản được sử dụng làm tài sản thế chấp, cấp thanh khoản bổ sung cho các tổ chức tài chính với những qui định nghiêm ngặt hơn
thang đánh thuế lũy tiến chặt chẽ hơn và thang trợ cấp xã hội rộng rãi hơn, trên
cơ sở hài hòa phát triển xã hội và đưa ra các qui tắc cho phép thay đổi mức thuế
và trợ cấp khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn mới của chu kỳ kinh tế Nghĩa là các khoản thuế và trợ cấp sẽ được tăng lên khi một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nào đó giảm xuống dưới mức quy định
sách tài khóa ở mức độ cao hơn, và bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, tăng cường trao đổi thông tin giữa các cơ quan chủ trì thực thi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát cung tiền, bảo đảm mục tiêu về lạm phát, thực hiện dự toán ngân sách nhà nước, xác định quy mô thâm hụt dự kiến, hỗ trợ tài chính, nhu cầu vay nước ngoài, phát hành trái phiếu Chính phủ
2 CÁC CUỘC SUY THOÁI KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI
2.1 ĐẠI SUY THOÁI Ở MỸ 1929-1933
2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội
Sau chiến tranh thế giới lần 1 (1914-1918), nền kinh tế của Mỹ phát triển mạnh trong thập niên 1920s Từ năm 1921-1929, sản lượng công nghiệp tăng khoảng 40%, ngành nông nghiệp ứng dụng các thành tựu khoa học & công nghệ vào sản xuất, người nông dân vay mượn để đầu tư vào sản xuất nông nghiệp dẫn đến sản lượng nông nghiệp dư thừa Ngân hàng phát triển tín dụng cho phép người dân vay mua sắm các loại hàng hóa tiêu dùng lâu bền, xe hơi, nhà cửa
Trang 21Thị trường chứng khoán phát triển nhanh chóng Từ năm 1921-1928, chỉ
số công nghiệp Dow Jones tăng từ 63.9 đến 200 điểm Nhà đầu tư chứng khoán
nhanh chóng chuyển từ đầu tư sang đầu cơ dẫn đến thị trường chứng khoán tăng
nóng Nhà đầu cơ dễ dàng vay mượn ngân hàng để đầu cơ chứng khoán do điều
kiện vay dễ dàng và lãi suất thấp Chỉ số Dow Jones tăng từ 200 đến 381.17 trong
vòng 1 năm ( 1928-1929) Tháng 8/1929, tổng số nợ vay chứng khoán lên đến
8,5 tỷ USD, lớn hơn tổng lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế Hệ số P/E bình
quân của các cổ phiếu thuộc chỉ số chứng khoán tổng hợp S&P lên đến 32,6 vào
tháng 9/1929
Từ tháng 4/1929, lãi suất bắt đầu tăng dần khiến lợi nhuận từ đầu cơ chứng
khoán yếu đi và theo đó là người vay nợ để đầu cơ mất dần khả năng trả nợ
Trong khi đó nền kinh tế đã bộc lộ sự yếu kém từ đầu năm 1929, sản xuất bị sụt
giảm do thiếu vốn sản xuất Lợi nhuận chứng khoán không còn đủ để trả nợ, các
nhà đầu cơ bán tháo cổ phiếu, kéo theo giá cổ phiếu giảm Hiện tượng bán tháo
cỗ phiếu diễn ra từ các ngày 18 đến 23/10/1929 Đến ngày 24/10/1929 thì thị
trường chứng khoán ở New York tuột dốc tự do gây ra hoảng loạn Kết quả là chỉ
số Dow Jones giảm từ 381.17 còn 41.22 từ năm 1929 đến giữa năm 1932
Biểu đồ thể hiện sự thay đổi chỉ số Dow Jones trong thế kỷ 20
Trang 222.1.2 Nguyên nhân
Nguyên nhân của cuộc Đại Suy Thoái được giải thích trên nhiều quan điểm khác nhau, được trình bày theo từng quan điểm dưới đây:
Theo trường phái Áo: nguyên nhân bắt nguồn từ sự can thiệp của Chính
phủ vào thập kỷ 1920 Sự dễ dãi trong tăng tín dụng đẩy các ngân hàng dễ dàng cho vay, dẫn tới bùng nổ quá mức cung tiền ngay trước khi khủng hoảng, đẩy thị trường chứng khoán bùng nổ quá mức, ngân hàng cho vay quá nhiều, rủi ro quá
Trang 23mức không được quản lý Khi thị trường chứng khoán sụp đổ, kéo theo sụp đổ dây chuyền của các thể chế tài chính do các khoản nợ xấu không đòi được
Theo trường phái Keynes: cơ chế tự điều chỉnh của thị trường tự do
không hoạt động được Dù lãi suất giảm nhưng đầu tư không tăng được do kỳ vọng về tương lai quá bi quan
Theo trường phái của kinh tế tiền tệ: khủng hoảng là do sự xiết chặt quá
mức của cung tiền năm 1930, và rằng Cục dự trữ Liên Bang đã sử dụng sai chính sách tiền tệ, đáng lẽ phải tăng cung tiền, thay vì đã giảm cung tiền
Khủng hoảng nợ dưới chuẩn: Khi nợ bị đánh giá khó đòi, việc bán ra số
lượng lớn với giá rẻ, làm cho tài sản nhìn chung lại càng mất giá, khiến các khoản nợ còn tồn lại càng giảm chất lượng (do tài sản thế chấp bị giảm giá) Vòng xoáy này như quả bóng tuyết càng ngày càng to, đẩy cả thị trường nợ và tài sản xuống, làm cho các thể chế tài chính và cá nhân trên thị trường vỡ nợ Khi vỡ
nợ nhiều quá, đẩy sản xuất và lợi nhuận xuống thấp, đầu tư đình trệ, việc làm mất
và dẫn tới bẫy đói nghèo
Sự bất công bằng trong giàu nghèo và thu nhập: Sự bất công bằng
trong giàu nghèo được Waddill Catchings và William Trufant Foster cho là nguyên nhân của Đại Khủng Hoảng Sản xuất ra quá nhiều hơn khả năng mua của thị trường (vốn đa số là người nghèo) Lương tăng chậm hơn so với mức tăng năng suất, dẫn tới lợi nhuận cao, nhưng lợi nhuận lại bị rót vào thị trường chứng khoán, mà không phải đưa tới cho người tiêu dùng Do thị trường chứng khoán tăng nhanh, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, FED lại để mức lãi xuất cho vay rất thấp, làm đẩy mạnh đầu tư quá mức Nền kinh tế tăng nóng trong một thập kỷ, đến mức khả năng sản xuất quá cao so với mức hiệu quả và so với mức cầu Như vậy, nguyên nhân của khủng hoảng là do đầu tư quá mức vào các ngành công nghiệp nặng thay vì vào lương và doanh nghiệp vừa và nhỏ Nền kinh tế tăng quá mức hiệu quả và lạm phát quá cao
Trang 24Cấu trúc thể chế tài chính: Các ngân hàng bị cho là quá rủi ro, khi dự trữ
quá ít, đầu tư quá nhiều vào thị trường chứng khoán và các tài sản rủi ro Khối nông nghiệp thì quá rủi ro khi giá đất tăng quá cao, hiệu suất nông nghiệp thấp, trong khi nông dân đi vay quá nhiều để sản xuất, khi lãi suất đột ngột tăng cao thì
họ lâm vào phá sản vì không thể sản xuất để trả lãi vay cao
Chế độ bản vị Vàng: Để chống lạm phát, các nước sau Thế chiến Thứ
nhất áp dụng bản vị vàng (đồng tiền gắn chặt với một lượng vàng nhất định) Sốc bắt đầu từ vụ Sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ, nhưng vì chế độ bản vị vàng mà khủng hoảng từ Mỹ lan rộng ra khắp thế giới Chính vì các chính phủ tiếp tục giữ chế độ bản vị vàng, họ không thể đưa ra các chính sách tiền tệ nới lỏng để chữa khủng hoảng Từ giữa năm 1929 - 1933, cung tiền tại Mỹ giảm 33%, dẫn đến mức giá chung giảm phát trong giai đoạn này là 29%
Sụp đổ thương mại quốc tế: Do các nước châu Âu sau Thế chiến Thứ
nhất nợ Mỹ nhiều, họ phải trả nợ hàng năm Họ cũng xuất khẩu sang Mỹ để lấy ngoại hối trả nợ, đồng thời họ cũng nhập khẩu hàng từ Mỹ cho nhu cầu Đến cuối thập kỷ 1920, nhu cầu nhập hàng Mỹ giảm do khủng hoảng và do thiếu tiền để trả nợ Đồng thời khi hàng rào thuế quan của Mỹ tăng cao theo Luật Thuế quan Smoot–Hawley, xuất khẩu vào Mỹ giảm, dẫn tới các nước trên thế giới càng gặp khó khăn
2.1.3 Tác động
Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã đưa nước Mỹ vào suy thoái Tiêu dùng và đầu tư bị ảnh hưởng trực tiếp Giá chứng khoán rớt khiến người ta thấy mình nghèo đi, lo lắng cho việc làm và thu nhập trong tương lai nên tiêu dùng ít hơn Sự suy giảm đáng kể trong đầu tư xây dựng nhà ở cũng góp phần làm việc làm và tiêu dùng giảm Số lượng ngân hàng phá sản tăng mạnh do: nhà đầu cơ chứng khoán không còn khả năng trả nợ do cổ phiếu đầu cơ không còn giá trị và mặt khác những người gửi tiền tiết kiệm đua nhau rút tiền gửi Từ năm 1931-1933, tại Mỹ đã có hơn 9000 ngân hàng bị phá sản, điều ngày góp phần
Trang 25khiến các doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn vay để đầu tư và dẫn đến
số lượng việc làm mới tạo ra thấp GDP của Mỹ giảm hơn 29%, xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt được của 1/4 thế kỷ trước đó Sản lượng công nghiệp bị tác động mạnh nhất, giảm đến 50%
Biểu đồ dưới đây thể hiện tỉ lệ thất nghiệp tại Mỹ lên đến 25% trong khoảng thời gian này:
Trang 26Cuộc đại khủng hoảng 1929 bắt đầu từ Mỹ nhưng tác động của nó ảnh hưởng trên toàn thế giới do các nước châu Âu sau Thế chiến Thứ nhất nợ Mỹ nhiều, họ phải trả nợ hàng năm Họ cũng xuất khẩu sang Mỹ để lấy ngoại hối trả
nợ, đồng thời họ cũng nhập khẩu hàng từ Mỹ cho nhu cầu Đến cuối thập kỷ
1920, nhu cầu nhập hàng Mỹ giảm do khủng hoảng và do thiếu tiền để trả nợ Đồng thời khi hàng rào thuế quan của Mỹ tăng cao theo Luật Thuế quan Smoot–Hawley, xuất khẩu vào Mỹ giảm, dẫn tới các nước trên thế giới càng gặp khó khăn
Ngay sau khi Đại suy thoái diễn ra, các quốc gia ngay lập tức áp dụng mọi biện pháp để bảo vệ sản xuất công nghiệp của quốc gia mình trong đó biện pháp nâng cao thuế quan để giảm nhập khẩu hàng hóa nước ngoài Việc này ngay lập tức cũng nhận được “sự trả đũa” của các quốc gia khác, và thương mại quốc tế dường như bị chặn đứng Thương mại quốc tế đình trệ càng làm cho khủng hoảng kinh tế năm 1930 thêm tồi tệ
Trang 272.1.4 Các giải pháp
Năm 1933, tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã đưa ra chương trình kinh
tế - xã hội có tên là “New Deal” Đây là hàng loạt các chính sách được soạn thảo bởi nhóm giáo sư và chuyên gia thuộc trường phái Keynes Các chính sách này dựa trên tác phẩm của Keynes “Lý thuyết tổng quát về sử dụng lao động, lãi suất
và tiền tệ”
Trên lĩnh vực ngân hàng: New Deal có quy ước Emerging Banking Act
thiết lập ra hệ thống điều phối và giám sát, đặt ra quy ước các hoạt động tín dụng
để giảm thiểu đầu cơ chứng khoán, thành lập SEC (Securities and Exchange Commission) để giám sát hoạt động đầu tư chứng khoán, tách ngân hàng đầu tư
ra khỏi ngân hàng thương mại…
Trên lĩnh vực công nghiệp: New Deal có quy ước National Industrial
Recovery Act khuyến khích mỗi ngành nghề tự lập ra các điều lệ cạnh tranh trung thực được thiết lập trên quy ước thương lượng giữa chủ và nhân công, quy định bác bỏ thu nhận trẻ em làm nhân công, ấn định mức lương tối thiểu và giảm giờ làm cho công nhân
Về xã hội: New Deal có quy ước Social Security Act thiết lập chế độ bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểmlương hưu được tài trợ bởi chủ và công nhân, tiền giúp đỡ xã hội dành cho người thất nghiệp được tài trợ bởi chính phủ
Để thực hiện New Deal, thâm hụt ngân sách là điều cần thiết Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn bàn cãi về hậu quả của chi tiêu chính phủ trong giai đoạn này, cho rằng nó đã gây ra thâm hụt ngân sách
Trang 28Biểu đồ sau đây thể hiện khối lượng cung tiền M1:
New Deal đã góp phần rất lớn trong việc thay đổi cấu trúc kinh tế và mang vào nền tư bản một cơ sở hạ tầng phức tạp và giàu có: xây dựng tầng lớp hành chánh công quyền, điều tiết và thể chế hóa các hoạt động kinh tế giúp khôi phục lòng tin của dân chúng Di sản của New Deal còn lại đến ngày nay chính là hệ thống an sinh xã hội, ủy ban kiểm soát thị trường chứng khoán và Fannie Mae- một công ty được chính phủ trợ cấp nhằm hỗ trợ người Mỹ mua nhà
Trang 292.2 SUY THOÁI KINH TẾ NĂM 1971-1975
2.2.1 Tình hình kinh tế xã hội
2.2.1.1 Thỏa thuận Bretton Woods 1944 – 1971
Năm 1944 tại Bretton Woods, 44 nước thành viên thỏa thuận:
Hoa Kỳ sẵn sàng hoán đổi USD và vàng ở mức giá cố định này
biên độ dao động 1% Tất cả các nước thành viên cam kết sẽ can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ giá trị đồng tiền của mình
Kỳ giữ vàng Đồng tiền của các quốc gia phá triển như Đức, Nhật, Thụy Sĩ tăng giá trung bình 8% so với đồng đôla; mức dao động xung quanh tỷ giá cố định với
2.2.1.2 Sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods
Từ nửa cuối thập niên 60, Hoa Kỳ bắt đầu có thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao và tiếp diễn năm này qua năm khác Nói cách khác, Hoa Kỳ dùng đồng
USD của mình để nhập siêu hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài
Các nước đối tác thương mại tích lũy USD và một số đổi USD lấy vàng Cuối thập niên 60, nợ với mệnh giá USD của Hoa Kỳ đã vượt xa mức dự trữ vàng, tạo nên phỏng đoán rằng tỷ giá USD/vàng sẽ bị thay đổi Đứng trước khả năng suy giảm niềm tin vào hệ thống bản vị vàng, Chính phủ Hoa Kỳ quyết định chấm dứt khả năng chuyển đổi thành vàng của USD vào tháng 8/1971
2.2.1.3 Thỏa thuận Smithsonianvà việc thả nổi tỷ giá từ 1973
Tháng 12/1971, IMF cố gắng thiết lập lại chế độ bản vị vàng với mức tỷ giá được nâng từ $35/ounce lên $38/ounce (tương đướng mức phá giá 8,6% của đồng USD) Biên độ dao động tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của một nước thành viên với USD được tăng lên 2,25% Áp lực đối với USD vẫn tiếp diễn và tháng
Trang 302/1973 Hoa Kỳ buộc phải tăng tỷ giá USD-vàng lên $42,22/ounce (tương đương mức phá giá 11,1%.)
2.2.2 Nguyên Nhân
nhiệm Nixon đưa ra là chính sách tiền tệ đặt trọng tâm vào đồng USD theo “hệ thống Bretton Woods” đã phá sản, nước Mỹ không tiếp tục theo đuổi việc đáp ứng các nghĩa vụ đổi USD thành vàng cho các nước khác Hậu quả trực tiếp của việc đồng đô la tách rời khỏi vàng là: đôla rớt giá thảm hại, giá hàng công nghiệp tăng vọt Các nước OPEC, chủ yếu là các nước vùng Vịnh, vốn lệ thuộc vào việc xuất khẩu dầu thô đổi lấy đô la Mỹ để mua những mặt hàng công nghiệp và lương thực cần dùng “Chính sách kinh tế mới” Nixon tung ra khiến đô la dầu mỏ của họ rớt giá, các nước này không còn đường nào khác ngoại trừ việc tăng giá dầu
Nguyên nhân khác làm cho giá dầu mỏ tăng cao là do“cuộc chiến tranh Yom Kippur” (Yom Kippur là tên ngày lễ lớn nhất của người Do thái - lễ Sám
hối) xảy ra ngày 06/10/1973 Đây là cuộc chiến tranh giữa một bên là Ai Syria cùng các đồng minh thuộc thế giới Ả Rập và một bên là Israel cùng các đồng minh chính là Mỹ, Nhật và một số nước trong EU hiện nay Trong cuộc chiến tranh này, một động thái hỗ trợ chiến tranh quân sự của bên Ai Cập-Syria chính là việc ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang các nước ủng hộ Israel
Cập-2.2.3 Tác động
Khủng hoảng dầu mỏ bắt đầu diễn ra từ ngày 17/10/1973 khi các nước thuộc Tổ chức Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) quyết định ngừng cung cấp nhiên liệu sang Mỹ, Nhật và Tây Âu Lượng dầu bị cắt giảm tương đương với 7% sản lượng của cả thế giới thời kỳ đó Sự kiện này đã khiến giá dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 trên quy mô toàn cầu Ngày 16/10/1973, giá dầu mỏ từ 3,01 USD nhảy lên 5,11USD một thùng, và tăng đến gần 12 USD vào giữa 1974 Tháng 10 và tháng 12 năm 1973, 6 thành viên vùng Vịnh của OPEC liên tiếp 2 lần nâng giá dầu thô, từ mức 3,01 USD/thùng lên tới
Trang 3111,65 USD/thùng, mức tăng là gần 4 lần Trong bầu không khí hoảng loạn, từng hàng xe xếp dài trước các trạm đổ xăng trên khắp nước Mỹ
Các nước kém phát triển( LDCs) không xuất khẩu dầu cũng gặp khó khăn đặc biệt, một mặt là do giá dầu nhập khẩu tăng và mặt khác do kinh tế các nước công nghiệp bị suy thoái nên xuất khẩu vào các nước này bị giảm sút Để hỗ trợ các nước kém phát triển IMF thiết lập “hạn mức tín dụng dầu” bằng cách đi vay các nước OPEC để cho vay lại các nước LDCs
Mức độ ảnh hưởng của cú sốc giá dầu lên các nước phụ thuộc nhiều vào
tỷ lệ nhập khẩu nhiều của mỗi nước Do mức độ ảnh hưởng là khác nhau và do các Chính phủ sử dụng các chính sách để phản ứng với cú sốc giá dầu là khác nhau đã làm cho tỷ lệ lạm phát giữa các nước cũng chênh lệch nhau đáng kể
Đồng tiền Yên Nhật Bản trước đây được phép tăng giá so với đồng đôla
Mỹ sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods Tuy nhiên sau đó tiền Yên Nhật Bản sụt giảm, từ mức giá 265 Yên cho một đôla Mỹ xuống còn 300 Yên cho 01 đôla vào giữa năm 1974, rồi dao động hẹp xung quanh mức này Đồng Mác Đức cũng phải đối mặt với một chiều hướng tương tự như đồng Yên Nhật, nhưng sự Biểu đồ: Tỉ lệ lạm phát của % quốc gia phát triển trong giai đoạn 1950-1980
Trang 32sụt giảm không nhiều như đồng Yên và cũng hồi phục nhanh hơn so với đồng Yên Đồng Mác đã giảm từ 2,40 Mác cho 01 Đôla xuống còn 2,80 Mác cho 1 đôla vào tháng 1/1974
Thêm vào đó, một biến cố lớn nữa xảy đến với thị trường chứng khứng toàn cầu vào năm 1973 - 1974 Chỉ số FT30 (khi ấy tương đương với chỉ số Dow Jones) của Sở giao dịch chứng khoán London bốc hơi 73% giá trị, khiến đôla Mỹ mất giá và làm cuộc khủng hoảng dầu lửa thêm tồi tệ Thị trường chứng khoán
Mỹ bốc hơi 97 tỷ đôla, số tiền khổng lồ thời điểm đó, chỉ sau một tháng rưỡi Trong suốt cuộc khủng hoảng, tại Mỹ, GDP giảm 3,2%, tỷ lệ thất nghiệp chạm mức 9% Suy thoái và lạm phát lan rộng gây ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu cho tới tận thập niên 1980
Biểu đồ: Tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của Hoa Kỳ
Trang 332.2.4 Các giải pháp
Italia và Anh là những nước đã áp dụng chính sách mở rộng kinh tế vĩ mô nhằm mong muốn tránh được một cuộc suy thoái, có thể sử dụng hai công cụ chính sách cơ bản như: chính sách tài chính bao gồm nhiều mức độ khác nhau về việc mua vào các hàng hoá và dịch vụ của chính phủ và trong các mức độ thuế để tác động lên nền kinh tế, chính sách tiền tệ liên quan đến nhiều mức độ khác nhau của việc cung ứng tiền tệ và các mức độ của tỷ lệ lãi suất để tác động lên nền kinh tế, như vậy cùng với ảnh hưởng của cú sốc giá dầu tăng làm cho tỷ lệ lạm phát tăng lên nhanh chóng và cán cân vãng lai trở nên xấu đi trầm trọng, theo
đó tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng cao và dẫn đến trạng thái lạm phát đình đốn
Bên cạnh đó, các quốc gia như Đức và Nhật, do có sự tập trung vào việc kiểm soát tỷ lệ lạm phát nên đã áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ Đồng tiền Yên Nhật Bản trước đây được phép tăng giá so với đồng đôla Mỹ sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods vào năm 1971
Biểu đồ: Tỷ lệ thất nghiệm của 5 quốc gia phát triển trong giai đoạn 1970-1980
Trang 342.3 SUY THOÁI KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC CHÂU MỸ LA TINH THẬP NIÊN 1980
2.3.2 Nguyên nhân
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ này là do vào những năm 60, 70, các nước Châu Mỹ Latinh như Brazil, Argentina và Mexico vay mượn một số tiền lớn từ các nhà cho vay tín dụng quốc tế để thực hiện công nghiệp hóa, đặc biệt là đầu tư vào các chương trình cải thiện và xây dựng cơ sở hạ tầng Những nước này thời đó có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh vì vậy các nhà cho vay tín dụng rất tin tưởng vào khả năng trả nợ Giữa năm 1975 và 1982, Châu Mỹ Latinh nợ các ngân hàng thương mại tăng với tốc độ tích lũy 20,4%/năm Vay mượn tràn lan khiến Mỹ latinh bị nợ nhiều gấp 4 lần từ 75 tỉ đôla vào 1975 đến hơn 315 tỉ đôla vào năm 1983, chiếm tới 50% tổng thu nhập quốc nội của khu vực
Khi nền kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái thập kỉ 70 và 80, giá dầu tăng đột biến, tạo ra một điểm phá đối với hầu hết các nền kinh tế trong khu vực Các nước đang phát triển còn nhận thấy việc thiếu trầm trọng về tính lỏng Các nước xuất khẩu dầu lửa - có lượng tiền mặt dồi dào sau khi giá dầu tăng năm 73-74 đã đầu tư tiền của mình vào các ngân hàng quốc tế, điều đó tạo ra một phần vốn mà các ngân hàng sử dụng để cho các nước Mỹ Latinh vay Khi lãi suất
Trang 35gia tăng ở Mỹ và Châu Âu năm 1979, các khoản nợ phải trả cũng tăng cao hơn khiến việc trả nợ đối với các nước vay mượn trở nên khó khăn
2.3.3 Tác động
Ngày 19/10/1987 được xem là ngày thứ Hai đen tối khi thị trường chứng khoán trên toàn thế giới sụp đổ với sự sụp giảm mạnh giá chứng khoán chỉ trong thời gian ngắn Vụ sụp đổ bắt đầu tư Hồng Kông, sau đó lan sang châu Âu rồi tác động thị trường chứng khoán Hoa Kỳ Chỉ số công nghiệp Dow Jones (DJIA) giảm 508 điểm, còn 1737,74 điểm (giảm 22,61%) Đây được xem là một trong những mức giảm mạnh nhất của chỉ số DJIA trong một ngày trên thị trường chứng khoán Hoa Kỳ Các thị trường chứng khoán khác cũng không khá hơn Vào cuối tháng 10, thị trường chứng khoán ở Hồng Kông giảm 45,5%, Úc giảm 41,8%, Anh giảm 26,45%, Canada giảm 22,5%
Giá dầu tăng:
Trang 36Ngân hàng sụp đổ:
Trang 372.3.4 Các giải pháp
Để đối phó với cuộc khủng hoảng, hầu hết các nước Mỹ Latinh đã từ bỏ
chiến lược Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và thay vào đó bằng chiến lược
Công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu Các nguồn vốn rất khổng lồ chảy ra bên
ngoài đặc biệt là chảy sang Mỹ, đã được sử dụng để làm tỷ giá hối đoái giảm, từ
đó làm tăng tỉ suất lợi nhuận thực tế
2.4 SUY THOÁI KINH TẾ 2008 - 2012
2.4.1 Tình hình kinh tế xã hội
Sau khi bong bóng Dot-com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11 tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng Chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn 1,75% Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo Điều này kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh tế
Trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay Hệ quả là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở Năm 2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để không Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và
vỡ Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung bình của giá nhà giảm 3,3% Thời điểm đó, tổng giá trị lũy tích các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ dollar
2.4.2 Nguyên nhân
Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt obligations) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản