1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

ÔN TẬP môn Lịch sử Nhà nước và Pháp luật thế giới

28 6K 154

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 28
Dung lượng 233 KB

Nội dung

tìm hiểu nên văn minh Phương Đông, ÔN TẬP môn Lịch sử Nhà nước và Pháp luật thế giới, nền văn minh phương đông, Những hạn chế của nề văn minh phương Đông, Những thành tựu của văn minh phương Đông, Tôn giáo và tư tưởng phương Đông

Trang 1

TÀI LIÊU ÔN TẬP NỀN VĂN MINH PHƯƠNG ĐÔNG

Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn bộ châu

Á và phần Đông Bắc châu Phi Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đếnnhững nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thểkhông nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địamang màu sắc phương Đông Tóm lại, phương Đông là một khu vực văn minh có “bản sắc”riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện đại Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử,chính trị, kinh tế, văn hoá, phương Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sửthế giới

Vấn đề thứ 1

Cơ sở cho sự hình thành văn minh phương Đông

Châu Á và Đông Bắc châu phi là nơi ra đời những nền văn minh cổ kính của phương Đôngnói riêng và của loài người nói chung Ở đây đã xuất hiện những quốc gia chiếm hữu nô lệ tối

cổ xây dựng trên sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy

1.Điều kiện tự nhiên:

Những nền văn minh cổ kính đó xuất hiện trên lưu vực những con sông lớn như sông Nile(Ai Cập), Tigris và Euphrates (Lưỡng Hà), sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) (Ấn Độ),sông Hoàng Hà và Trường Giang (Trung Quốc)…

- Nhìn chung lưu vực các con sông nói trên là những vùng đồng bằng phì nhiêu rất thuận lợicho việc phát triển nông nghiệp khí hậu ấm áp, nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ và dễcanh tác đã cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát triển nông nghiệp thuận lợi

- Người phương Đông cổ đại sống trên lưu vực các con sông từ thời nguyên thủy đã sớm pháthiện và lợi dụng những thuận lợi đó để phát triển sản xuất Cùng với nông nghiệp, thủ côngnghiệp cũng phát triển mạnh, xã hội sớm xuất hiện giai cấp và nhà nước

Cụ thể:

* Ai Cập ở Đông Bắc châu Phi, là một thung lũng nằm dọc theo lưu vực sông Nile Phía tâygiáp sa mạc Libi, phía đông giáp Hồng Hải, phía bắc giáp Địa Trung Hải, phía nam giáp dãynúi Nubi và Ethiopia Địa hình chia làm hai khu vực: Thượng Ai Cập ở phía nam là một dãithung lũng dài và hẹp, có nhiều núi đá Hạ Ai Cập ở phía bắc là vùng châu thổ đồng bằng sôngNile rộng lớn hình tam giác Sông Nile là một trong những con sông dài nhất thế giới, khoảng6500km, với bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, phần chảy qua Ai Cập dài 700km Hàng nămnước lũ dâng khiến cho phù sa từ thượng nguồn tuôn xuống gia tăng màu mỡ cho đồng bằngchâu thổ, thuận lợi cho việc trồng trọt Sông Nile cung cấp nguồn thực phẩm thủy sản dồi dàocho sư dân và là con đường giao thông quan trọng nhất của vùng này Do đất đai màu mỡ, cácloại thực vật như đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen, cây papyrus làm giấy… sinh trưởng và pháttriển quanh năm Ai Cập có một quần thể động vật đồng bằng và sa mạc rất phong phú, đa

Trang 2

dạng : trâu bò, voi, hươu cao cổ, tê giác, hà mã, cá sấu, hỗ, báo… các loại thủy sản cũng rấtnhiều, tạo thuận lợi cho nghề đánh cá

* Lưỡng Hà: Lưỡng Hà là vùng bình nguyên giữa hai con sông Tigris và Euphrates, người

Hy Lạp cổ đại gọi là Mésopotamie Từ xa xưa vùng này đã nổi tiếng là vùng đất phì nhiêu, rấtthuận lợi cho cuộc sống con người

* Ấn Độ: Ấn Dộ là một bán đảo ở Nam Á, thời cổ - trung đại bao gồm cả các nướcPakistan, Nepan, và Bangladesh ngày nay Ấn Độ có sự đa dạng về địa hình và khí hậu ở cácvùng Bắc Ấn, Trung Ấn và Nam Ấn Sông Ấn (Indus), sông Hằng (Gange hay Gangga) đã tạonên những vùng đồng bằng màu mỡ, có vai trò rất quan trọng dẫn đến sự ra đời sớm của nềnvăn minh nông nghiệp ở đây Nhìn chung điều kiện tự nhiên Ấn Độ rất phức tạp, vừa có núinon trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú, khí hậu có vùng nóng ẩmnhiều mưa, có vùng quanh năm tuyết phủ, lại có cùng sa mạc khô cằn nóng nực Tính đa dạng

và phức tạp của thiên nhiên Ấn Độ, một mặt là điều kiện thuận lợi cho cư dân cổ tụ cư và pháttriển, mặt khác là những thế lực đè nặng lên số phận con người Ấn Độ khi nhận thức của họcòn thấp kém

* Trung Quốc: Lãnh thổ Trung Quốc mênh mông nên địa hình đa dạng và phức tạp Phíatây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phìnhiêu, các sông lớn đều chảy ra Thái Bình Dương tạo nên khí hậu ôn hòa Trong số 5.000 dòngsông của nước này thì Hoàng Hà (dài 5.464km) và Dương Tử (dài 5.800) là hai con sông lớnnhất Tuy thường xuyên gây ra lũ lụt, nhưng Hoàng Hà và Dương Tử đã mang đến nguồn phù

sa bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển, manglại giá trị kinh tế cao Từ xa xưa, những con sông này là những tuyến giao thông huyết mạchnối liền các vùng trong lãnh thổ Trung Quốc Các triều đại đã xuất hiện, tồn tại và lớn mạnhtrên lưu vực hai dòng sông này và xây dựng nên nền văn minh Trung Quốc độc đáo

- Bên cạnh những thuận lợi nói trên, những con sông này lại bị ngăn cách bởi hệ thống núi nontrùng điệp và những vùng sa mạc mênh mông Địa thế hiểm trở đó cùng với những phươngtiện giao thông hết sức hạn chế thời cổ đại đã làm cho các nền văn minh này xuất hiện và pháttriển một cách độc lập Sự liên hệ buổi đầu hầu như không xảy ra, do đó mỗi nền văn minh đãphát triển một cách độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc Về mặt này, Ai Cập là một ví dụ điểnhình: Địa hình Ai Cập gần như đóng kín, phía Bắc và phía Đông giáp Địa Trung Hải và HồngHải, phía Tây bị bao bọc bởi sa mạc Sahara Ở Ấn Độ thì hai mặt Đông Nam và Tây Nam đềutiếp giáp với Ấn Độ Dương, phía bắc án ngữ bởi dãy Hymalaya (tức là xứ Tuyết) thành mộtvòng cung dài 2600km, trong đó có hơn 40 ngọn núi cao trên 7000m như những trụ trời

2) Cơ sở dân cư:

Trên cơ sở những điều kiện tự nhiên như vậy, cư dân ở phương Đông ra đời sớm và pháttriển nhanh chóng Tuy nhiên, quá trình hình thành các cộng đồng dân cư ở phương Đông diễn

ra rất đa dạng và phức tạp

Cụ thể:

- Ai Cập: Ở lưu vực sông Nile từ thời đồ đá cũ đã có con người sinh sống người Ai Cập thời

cổ là những thổ dân châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc Do đi lại săn bắntrên lục địa, khi đến vùng thung lũng sông Nile, họ định cư ở đây phát triển nghề nông và nghề

Trang 3

chăn nuôi từ rất sớm Về sau, một chi của bộ tộc Hamites từ Tây Á xâm nhập vùng hạ lưu sôngNile, chinh phục thổ dân người châu Phi ở đây Trải qua quá trình hỗn hợp lâu dài, ngườiHamites và thổ dân đã đồng hóa với nhau, hình thành ra một tộc người mới, đó là người AiCập.

- Lưỡng Hà: Người Sumer từ thiên niên kỉ IV.TCN đã di cư tới đây và sáng lập ra nền vănminh đầu tiên ở lưu vực Lưỡng Hà, chung sống và đồng hóa với người Sumer Ngoài ra còn rấtnhiều bộ lạc thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau ở các vùng xung quanh di cư đến Trải hàng ngànnăm, qua quá trình lao động, họ đã hòa nhập thành một cộng đồng dân cư ổn định và xây dựngnên nền văn minh rực rỡ ở khu vực Tây Á

- Ấn Độ: Cư dân Ấn Độ đa dạng về tộc người và ngôn ngữ Có hai chủng tộc chính là ngườiDravida chủ yếu cư trú ở miền Nam, và người Aria cư trú ở miền Bắc Ngoài ra còn có nhiềutộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập cũng sinh sống ở đây…

- Trung Quốc: Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ xa xưa, vùng châu thổ Hoàng Hà đã là quêhương của các bộ tộc Hạ, Thương, Chu Họ chính là tổ tiên của dân tộc Hán – người sáng tạo

ra nền văn minh Hoa Hạ

Phía Tây và Tây Nam là nơi sinh sống của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Hán – Tạng, Môn –Khmer

Phía Bắc, Đông Bắc là nơi cư trú của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Tungut Con cháu của họ saunày là các dân tộc ít người như Mông Cổ (lập ra nhà Nguyên), Mãn (lập ra triều Mãn Thanh),Choang, Ngô, Nhĩ… các dân tộc trên đất này còn rất nhiều dân tộc khác sinh sống, cùng ngườiHán xây dựng đất nước

3) Cơ sở kinh tế:

- Về kinh tế, các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội đang ởtrình độ hết sức thấp kém Với một trình độ sản xuất như vậy không cho phép các quốc gia cổđại phương Đông phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ của mình một cách thuần thục và điểnhình

- Sự phát triển rất yếu ớt chế độ tư hữu ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng những tổ chức công xãnông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc nguyên thủy có thể coi là những nguyên nhân gây nêntình trạng trì trệ, yếu kém của các nền văn minh cổ đại phương Đông

4) Cơ sở chính trị-xã hội:

- Ở phương Đông ra đời và tồn tại một hình thức nhà nước đặc thù, nhà nước quân chủ chuyênchế trung ương tập quyền mà mọi quyền lực đều ở trong tay nhà vua và một bộ máy quan lạicồng kềnh, quan liêu

- Các quốc gia cổ đại phương Đông đã duy trì lâu dài chế độ nô lệ gia trưởng và các hình thức

áp bức bóc lột kiểu gia trưởng nên vai trò của nô lệ trong xã hội chưa nổi bật

Chính trên cơ sở như vậy mà nền văn minh phương Đông ra đời và phát triển và cũng chínhcác yếu tố đó đã ảnh hưởng, chi phối tạo nên những nét đặc thù của nền văn minh phươngĐông

Vấn đề thứ 2

Trang 4

Trình độ sản xuất và chinh phục tự nhiên của các quốc gia phương Đông

Trên cơ sở điều kiện tự nhiên thuận lợi, cư dân phương Đông cổ đại đã sớm biết lợi dụngđiều kiện tự nhiên để sản xuất, chế tạo công cụ lao động, chinh phục tự nhiên xây dựng nhữngnền văn minh đầu tiên trên thế giới

- Muốn chinh phục được tự nhiên, con người phải có công cụ lao động, bởi công cụ lao động

là tiêu chí để đánh giá trình độ sản xuất của một xã hội

Ngay từ thời nguyên thủy con người đã biết chế tạo công cụ lao động, từ những công cụthô sơ bằng đá, gốm đến những công cụ bằng đồng, sắt… đã cho phép con người tạo ra mộtnăng suất lao động ngày càng cao

Người Ai Cập ngay từ thời Cổ vương quốc đã biết dùng cuốc bằng đá hoặc bằng gỗ đểtrồng trọt, dùng liềm bằng đá để gặt lúa, dùng trâu bò để đập lúa Thời Trung vương quốc,người ta đã biết mở rộng các công trình thủy lợi thành một hệ thống rộng lớn với nhiều côngdụng khác nhau như điều tiết thủy lượng, dẫn, tháo nước để chống hạn và chống úng… người

Ai Cập còn biết xây hồ Mơrit thành một bể chứa nước lớn ăn thông với sông Nile, có khả năngcung cấp nước cho một vùng rộng lớn có thể gieo trông hai vụ trong năm

Ở Lưỡng Hà người ta đã xây dựng một hệ thống đê điều hoàn chỉnh gồm đập nước, mươngdẫn… như mạng nhện.Từ đầu thiên niên kỉ II, người Ấn Độ đã biết dùng lưỡi cày bằng đá đểcày ruộng.Còn ở Trung Quốc, thời Ân-Thương người ta dùng liềm bằng đá hoặc vỏ ngao đểgặt lúa, dùng lưỡi cày bằng gỗ Sang thời Xuân Thu, người ta đã biết dùng những công cụ bằngsát, có những lò luyện sắt có trên 300 công nhân

Những công cụ bằng kim loại đã cho phép con người nâng cao năng suất lao động

- Bên cạnh việc sáng tạo ra những công cụ lao động, cư dân cổ đại phương Đông cũng đãđạt một trình độ tổ chức sản xuất tương đối cao

Do yêu cầu phải hợp sức với nhau để xây dựng các công trình thủy lợi nên việc tổ chức sảnxuất là một công việc rất cần thiết để thống nhất kế hoạch, và tập trung sức sản xuất

Ở Ai Cập vào thời Tân vương quốc, sản xuất đã được chuyên môn hóa và được phân công

tỉ mỉ Có Thừa tướng là (Vidia) chịu trách nhiệm quan sát, điều hành sản xuất nông nghiệptrong toàn quốc việc tổ chức điều hành sản xuất trong toàn quốc có ý nghĩa sống càn đối vớicác quốc gia phương Đông cổ đại, bởi vì nền văn minh phương Đông chủ yếu hình thành trênlưu vực của những con sông lớn Nhà nước đã đứng ra huy động sức người sức của để xâydựng và bảo vệ các công trình thủy lợi

- Các quốc gia cổ đại phương Đông cũng đã biết thuần dưỡng súc vật làm vật nuôi phục vụsản xuất và cung cấp thực phẩm cho đời sống hằng ngày

- Nhờ quan tâm đến sản xuất nông nghiệp mà trình độ tổ chức sản xuất của nhà nước vàcông xã nông thôn được nâng cao đem lại hiệu quả đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cư dân.Trong những ngành thủ công nghiệp người ta cũng đã biết làm đồ gốm, đồ thủy tinh, thuộc da,dệt … ở Ấn Độ người ta đã biết làm đồ trang sức tinh xảo và chạm trổ trên đá

- Nhờ sản phẩm của nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển đã thúc đẩy việc giao lưubuôn bán với các nước Từ chổ chỉ dùng vật trung gian để trao đổi, người ta đã biết chế ra tiềnbằng đồng và bằng vàng thuận tiện cho việc buôn bán Việc mở rộng giao lưu buôn bán giữa

Trang 5

các quốc gia đã tạo điều kiện để giao lưu văn hóa và thúc đẩy sản xuất làm cho xã hội phươngĐông cổ đại phát triển ngày càng cao hơn.

Vấn đề thứ 3

Sự ra đời của nhà nước và trình độ quản lý xã hội của các quốc gia phương Đông

Nhà nước xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử vào khoảng cuối thiên niên kỉ IV - đầu thiênniên kỉ III.TCN Những nhà nước cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ … là nhữngnơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nơi mà quá trìnhphân hóa xã hội, tập trung của cải tư hữu và đấu tranh giai cấp diễn ra sớm nhất

- Do nhu cầu chống chọi với thiên nhiên và tổ chức sản xuất mà các nhà nước phương Đông

đã ra đời

Vào nửa sau thiên niên kỉ IV TCN, cư dân Lưỡng Hà đã bắt đầu xây dựng nhà nước củamình trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ Mỗi thành thị kết hợp với vùng đất đai phụ cận hợpthành một quốc gia nhỏ Đứng đầu mỗi quốc gia là một ông vua gọi là Patesi Patesi lúc đầu doquý tộc bầu ra, về sau trở thành cha truyền con nối Patesi đại diện cho nhà nước chịu tráchnhiệm trước Thần coi sóc các công trình thủy lợi, quản lý kinh tế, chỉ huy đội quân Ở Sumer,ngoài Patesi còn có hội nghị nhân dân và hội đồng bô lão Các cơ quan này bầu ra các quanchức của tòa án, và bộ máy hành chính cũng như có quyền tuyên chiến hay hòa hoãn

Ở Ai Cập, nhiều công xã nông thôn liên minh lại thành một liên minh công xã lớn hơn gọi

là “nôm” (hay châu), về sau các châu đó hợp nhất lại và phát triển thành nhà nước Ai Cập.Châu là hình thức nhà nước phôi thai, đứng đầu châu là một “nômáccơ” vưa là thủ lĩnh quân

sự, một thẩm phán và là một tăng lữ tối cao Nômáccơ đước coi như một vị thần sống Dần dần

do nhu cầu thống nhất lại thành thượng và hạ Ai Cập, đến cuối thiên niên kỉ IV.TCN thốngnhất lại thành quốc gia Ai Cập

Ở Ấn Độ, người Arian ở vùng Tây Bắc đã liên hiệp các bộ lạc lại thành liên minh bộ lạc.Đứng đầu các liên minh bộ lạc có vua (Radjah) mà thực chất là tù trưởng hay thủ lĩnh quân sự,quyền lực chủ yếu vẫn thuộc về đại hội các thành viên nam giới của bộ lạc Về sau Radjah tậptrung quyền lực vào trong tay mình và truyền ngôi cho con cháu Xung quanh nhà vua có độingũ quan lại lo các công việc như chỉ huy quân đội, thu thuế, tế lễ, thủy lợi… Đến vương triềuMôria (321-184.TCN), bộ máy nhà nước của Ấn Độ cổ đại tương đối hoàn chỉnh có những đặctrương của một bộ máy nhà nước chuyên chế phương Đông Vua được tôn sùng như một vịthần sống và được coi như người đại diện cho thần Dưới nhà vua là hội đồng cơ mật “Parisát”gồm đại biểu của những gia đình quý tộc tiếng tăm nhất Trong bộ máy nhà nước cồng kềnh,đứng đầu là các thừa Tướng cùng nhiều chức thượng thư trông coi các bộ

Đơn vị hành chính cơ sở ở địa phương là làng Ấn Độ được chia thành nhiều khu vực hànhchính lớn nhỏ khac nhau, đứng đầu các khu vực hành chính đó là những người trong hoàng tộchoặc cận thần được nhà vua tin cẩn Nhà vua cũng có một đội quân hùng hậu gồm đủ các binhchủng như bộ binh, kị binh, tượng binh…

Ở Trung Quốc bộ máy nhà nước cũng tiêu biểu cho kiểu nhà nước chuyên chế phươngĐông Nhà Hạ mở đầu cho nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc Đứng đầu nhà nước lànhà vua, dưới là “lục khanh” (6 chức tướng) giúp vua cai trị đất nước Nhưng nhà nước hoàn

Trang 6

chỉnh nhất là vào thời Tây Chu Vua được coi là thiên tử (con trời), dưới vua là tầng lớp quýtộc quan lại phụ trách các công việc hành chính, quân đội, nông nghiệp… Vua và tước hiệuquý tộc được truyền lại cho con cháu.

Như vậy, ở phương Đông cổ đại đã xuất hiện và tồn tại một hình thức nhà nước đặcbiệt.Nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, còn gọi là chủ nghĩa chuyên chếphương Đông Đặc trưng của kiểu nhà nước này là quyền lực vô hạn của nhà vua về thần dân

và ruộng đất Nhà vua đã cùng với bộ máy quan lại tổ chức quản lí xã hội tương đối chặt chẽ từtrung ương đến địa phương, trong đó hình pháp được đề cao

Việc xuất hiện nhà nước và trình độ tổ chức quản lí xã hội ở phương Đông cổ đại đã gópphần xây dựng nên những nền văn minh rực rỡ ở khu vực này

Vấn đề thứ 4

Những đặc điểm của văn minh phương Đông

Văn minh phương Đông rất rộng lớn về quy mô, lãnh thổ, rất đa dạng về màu sắc và có sựtồn tại rất lâu dài về mặt lịch sử Khái quát cho đúng, cho hết những đặc điểm của văn minhphương Đông quả là một công việc không hề đơn giản, nếu không nói là hết sức khó khăn.Đây là vấn đề phức tạp và còn phải nghiên cứu nhiều Ở đây chúng tôi mới chỉ tập hợp và nêulên một số nhận xét bước đầu

1 Văn minh phương Đông mang đậm tính chất văn minh nông nghiệp, văn minh sông nước.

Tính chất nông nghiệp, sông nước là đặc điểm nổi bật nhất, là bản sắc dễ thấy nhất của văn minh phương Đông Đặc điểm này thuộc về loại hình văn minh: Văn minh phương Đông

chủ yếu là văn minh gốc nông nghiệp, trong khi văn minh phương Tây chủ yếu thuộc loại hìnhgốc du mục và thương nghiệp Tất nhiên nói như thế không có nghĩa là trong văn minh phươngĐông không có các yếu tố du mục và thương nghiệp nhưng nhìn một cách tổng thể thì tính chấtnông nghiệp, tính sông nước là nét chủ đạo

a) Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có mặt của những con

sông lớn: Sông Nile ở Bắc Phi; sông Tigrơ, sông Ơphơrat ở Tây Á; sông Ấn (Hindus), sôngHằng (Gangga) ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông Dương Tử (Trường Giang) ở Trung Quốc;sông Mekong ở bán đảo Trung - Ấn, sông Menam ở Thái Lan, sông Hồng ở Trung Quốc, ViệtNam, v.v Lưu vực các con sông này tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phươngĐông và thế giới Và cũng chính từ các dòng sông ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – cácnền văn minh phương Đông Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đưa ra các cụm từnhư “văn minh sông Nile”, “văn minh sông Hoàng Hà, Trường Giang”, “văn minh sông Ấn-sông Hằng”, v.v Có thể nói, ngay từ đầu, văn minh phương Đông đã là văn minh nông nghiệp

Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn minh phương Đông cho đến tận ngày nay

Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc gia phương Đông, và đó là

cơ sở tạo ra tính chất nông nghiệp- sông nước của văn minh phương Đông

Trang 7

b) Tính chất nông nghiệp – sông nước được thể hiện ở rất nhiều bình diện văn minh và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn minh phương Đông

Những biểu hiện của tính chất nông nghiệp-sông nước của văn minh phương Đông rất đadạng Có thể nêu ra ở đây một vài ví dụ

Trước hết xin nói về văn hoá vật chất liên quan đến những nhu cầu thiết yếu nhất của con người, đó là ăn, mặc, ở, đi lại.

Nguồn lương thực chính của người phương Đông chủ yếu là lúa gạo và các loại ngũ cốc donền sản xuất nông nghiệp tạo ra Người phương Đông thường ăn cơm với các loại thực phẩmmang tính tự cung tự cấp như rau, cá và một số loại thịt gia cầm Các loại gia vị, hương liệunhư ớt, tiêu, rau thơm, cari, v.v vốn là sản phẩm của sản xuất nông nghiệp cũng được dùngphổ biến ở nhiều nơi

Cách ăn mặc của cư dân phương Đông cũng phù hợp với công việc sản xuất nông nghiệp:Nói chung mặc ấm về mùa lạnh (hoặc ở xứ lạnh) và mát mẻ về mùa nóng (hoặc ở xứ nóng);mặc gọn gàng, tiện lợi (khố, váy, v.v.)

Nói chung, trừ một số khu vực dân cư theo loại hình kinh tế du mục nên ở lều di động, đa

số cư dân còn lại sống trong một ngôi nhà cố định Đó có thể là nhà “nửa nổi nửa chìm”, tức làđào sâu xuống lòng đất một chút, hoặc là ngôi nhà sàn tiện lợi về mọi mặt

Trong số các phương tiện đi lại thì thuyền phổ biến ở nhiều nơi, và hình thức di chuyển này

ở phương Đông rõ ràng trước hết gắn với sông nước, sau đó mới đến yếu tố thương mại

Tính chất nông nghiệp của văn minh phương Đông còn được biểu hiện ở các tín ngưỡng

và sinh hoạt văn hoá dân gian rất độc đáo của cư dân phương Đông.

Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nông nghiệp phương Đông là niềm tin tín ngưỡng

và các sinh hoạt văn hoá dân gian như lễ hội Tín ngưỡng là cội nguồn của lễ hội Lễ hội vừa

là dịp tiến hành các nghi lễ có tính ma thuật để cầu xin thần linh giúp đỡ, xua đuổi tà ma, vừa

là dịp để người dân vui chơi giải trí

Trong số các loại tín ngưỡng tồn tại ở phương Đông, phổ biến nhất là tín ngưỡng sùng bái

tự nhiên Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ở thời kì

sơ khai khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, gần như tất cả đều phụ thuộc vào thiên nhiên,vào ý Trời Vì vậy, ở khắp nơi, từ Đông Bắc Phi-Tây Á đến lưu vực sông Hoàng Hà rộng lớnv.v đâu đâu người ta cũng thờ cúng các vị Thần liên quan đến sản xuất nông nghiệp như ThầnMặt trời, Thần Đất, Thần Nước, Thần Lúa, Thần Gió, Thần Sông

Gắn liền với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là hàng loạt các lễ hội nông nghiệp như lễ hội ténước, lễ hội cầu mưa, cầu nắng, hội đua thuyền, lễ tịch điền, lễ hội mừng được mùa

Nông nghiệp gắn liền với nông thôn Tính chất nông nghiệp của phương Đông được nảysinh, nuôi dưỡng và phát triển trong một mô hình xã hội đặc biệt: mô hình làng xã Các công

xã nông thôn, theo cách nói của K Marx, có ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống của cư dânnông nghiệp phương Đông

2 Văn minh phương Đông nặng về tính cộng đồng

Trong sản xuất nông nghiệp, các gia đình nông dân cùng canh tác trên một cánh đồng,ruộng đất nhà này tiếp giáp ruộng đất nhà kia Để có được năng suất, những người nông dân

Trang 8

trong làng không thể không liên kết với nhau Chỉ có đoàn kết con người mới chống được thiêntai Muốn chống hạn, diệt sâu bọ, cũng cần sức mạnh của cả làng Môi trường canh tác mang

tính tập thể như thế chính là cơ sở để nảy sinh tính cộng đồng

Đặc trưng này của văn minh phương Đông khiến mỗi người khi hành động luôn luôn phảinghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, xã hội Trong làng, người dân thường tránh những việc làmphương hại đến tập thể Từ đây nảy sinh quan điểm sống vì tập thể Vì tập thể, người ta sẵn

sàng hi sinh lợi ích cá nhân Cũng vì thế mà người phương Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm (trong khi phương Tây thì coi trọng quyền lợi) Quả thực, trong việc chống chọi

với thiên tai, địch hoạ, nếu không có tinh thần trách nhiệm được đề lên thành nghĩa vụ thìkhông thể có được chiến thắng

Từ tính cộng đồng, từ sự đùm bọc làng xã, sau này truyền thống tốt đẹp ấy phát triển thành

tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước phương Đông.

Nếu so sánh với văn hoá phương Tây thì cũng thấy một sự khác biệt nhất định Có thể nói,

trong quan hệ ứng xử, phương Tây thiên về cá thể, trọng lí Điều này có điểm mạnh là phát

huy cao độ sức sáng tạo cá nhân, tránh được sự dựa dẫm, ỷ lại

Cũng có người cho rằng, ở phương Đông, tâm thức duy cộng đồng luôn luôn chiếm ưu thế đối với tâm thức duy cá nhân

3 Hoà đồng, thuận tự nhiên

Đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên của văn minh phương Đông thường được đặt trong sự

so sánh với đặc điểm chinh phục tự nhiên của văn hoá phương Tây Văn hoá phương Tây thiên

về giải thích, cải tạo thế giới Tất nhiên nói như trên không có nghĩa là đối lập tuyệt đối giữavăn minh phương Đông và văn minh phương Tây trong vấn đề đối xử với môi trường tự nhiên.Thái độ hoà đồng với tự nhiên của văn minh phương Đông đã được hình thành từ rất lâu vàđịnh hình trên cơ sở của những quan niệm về con người trong các học thuyết phương Đông.Theo nhiều tác giả, con người trong quan niệm của tất cả các tôn giáo phương Đông và tronghầu hết các học thuyết triết học phương Đông truyền thống đều không đối lập với giới tựnhiên Nó luôn luôn được coi là một thành tố, một bộ phận của giới tự nhiên

Có thể cắt nghĩa đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên bằng cơ sở kinh tế – xã hội của phương

Đông

Trước hết có thể giải thích bằng nền sản xuất nông nghiệp Như đã nói ở trên, sản xuất

nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên Bởi vậy từ trong tâm khảm của người dân, tự

nhiên là đấng tối cao Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả khi thuận theo tự nhiên Một trong những biểu hiện của sự thuận theo ấy là tính thời vụ Có thể nói, kinh nghiệm sống,

nói cụ thể hơn là kinh nghiệm sản xuất, đã khiến cư dân nông nghiệp phương Đông phải hànhđộng thuận theo tự nhiên Trái ý tự nhiên, trái ý Trời sẽ bị trả giá Không còn cách nào khác,Nhật Bản vẫn phải “sống chung với động đất”, Indonesia phải “sống chung với núi lửa”,Philippines phải “sống chung với bão” còn đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thì phảichấp nhận “sống chung với lũ” như là một lẽ tự nhiên

Một lí do khác nữa cắt nghĩa cho đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên là ở tổ chức của xã hội truyền thống phương Đông, đó là xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn Chế

độ này, như đã nói, mang lại cho mỗi đơn vị nhỏ bé (làng xã) một cuộc sống cô lập, tách biệt

Trang 9

Công xã tổ chức theo lối gia đình tự cấp, tự túc Con người bị trói buộc bởi những quy tắc

truyền thống, do đó hạn chế sự phát triển của lí trí, từ đó rất dễ trở thành nô lệ của những điều

mê tín dị đoan Những công xã nông thôn phương Đông, do vậy, hạn chế con người ở việc chủ yếu phục tùng những hoàn cảnh bên ngoài, phục tùng tự nhiên chứ không có ý thức và năng lực làm chủ hoàn cảnh, chinh phục tự nhiên Đây cũng chính là lí do để chế độ chuyên chế

phương Đông tồn tại và phát triển

4 Văn minh phương Đông hướng nội và khép kín

Cuộc sống nông nghiệp luôn luôn cần một sự ổn định Người dân thường rất sợ những điềuxảy ra bất thường Lối sống hài hoà với tự nhiên, tình cảm với mọi người, suy cho cùng, cũng

là nhằm đạt tới sự ổn định Từ đây xuất hiện phương thức sống hướng nội và khép kín.

Sống trong các công xã nông thôn cô lập, tách biệt, xét ở một góc độ nào đó, tính tự trị đồng nghĩa với hướng nội và khép kín Trong xã hội phong kiến, mô hình làng xã “kín cổng

cao tường” cùng với những thiết chế xã hội ngặt nghèo của nó càng làm cho “tầm nhìn” của cưdân nông nghiệp không vượt khỏi “lũy tre làng”

Nền nông nghiệp tự cấp tự túc chỉ tạo ra được những sản phẩm vừa đủ để lưu thông trongphạm vi “chợ làng”, không trở thành hàng hoá thương nghiệp của nền kinh tế thị trường kiểuphương Tây Đó cũng là hướng nội, khép kín

Lối sống hướng nội và khép kín không thể tạo ra sự phát triển đột biến Có lẽ đây cũng làmột trong nhiều nguyên nhân làm cho chế độ phong kiến phương Đông kéo dài sự trì trệ nhiềuthế kỉ

Trái với phương Đông, phương Tây hướng ngoại và cởi mở Điều này cũng dễ hiểu Ở đó nền kinh tế thương mại và du mục buộc người ta phải năng động, phải đi tìm thị trường ở bên

ngoài và mở rộng quan hệ

Vấn đề thứ 5

Lịch sử hình thành các nền văn minh phương Đông

1 Phương Đông là nơi có điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng Vì vậy, ngay từ khi có

xã hội loài người, nơi đây đã từng là khu vực sinh tồn của bầy người nguyên thuỷ Rồi theo sựphát triển của lịch sử, ở phương Đông dần dần xuất hiện công xã thị tộc, bộ lạc và sau đó là cácnhà nước

Ngày nay các nhà khoa học đã khẳng định một cách chắc chắn rằng phương Đông là nơi xuất hiện những nhà nước chiếm hữu nô lệ tối cổ Các nhà nước ấy chính là các nền văn minh.

Người ta thường nói đến bốn nền văn minh Phương Đông: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ vàTrung Quốc Và có một nét đặc biệt là những nhà nước gắn liền với các nền văn minh phươngĐông thường xuất hiện trên lưu vực những dòng sông lớn từ bờ biển phía đông Địa Trung Hảiđến bờ biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương: Lưu vực sông Nin ở Ai Cập; lưu vực Lưỡng

Hà tạo bởi sông Tigrơ (Tigre) và Ơphơrat (Euphrate) cùng chảy ra vịnh Persi; lưu vực đồngbằng Bắc Ấn Độ tạo bởi sông Ấn (Hindus) và sông Hằng (Gangga); và lưu vực hai con sônglớn Hoàng Hà và Dương Tử (Trường Giang) tạo ra vùng đồng bằng Hoa Bắc và Hoa Trung

Trang 10

màu mỡ Phân lập các lưu vực rộng lớn nói trên là những hệ thống núi non trùng điệp và những

sa mạc mênh mông: sa mạc Arập ở đông Ai Cập, dãy núi Zagrôt ở phía đông Lưỡng Hà, dãyHimalaya và cao nguyên Pamir ở bắc và đông bắc Ấn Độ, rồi vùng sa mạc Nội Mông, NgoạiMông ở Bắc và Tây Bắc Trung Hoa Địa thế hiểm trở cùng với những phương tiện giao thông

hết sức hạn chế thời đó đã làm cho các nền văn minh cổ đại phương Đông xuất hiện và phát triển một cách tương đối độc lập, vì vậy mỗi nền văn minh có tính chất độc đáo riêng và mang dấu ấn dân tộc đậm đà

Nói chung, các lưu vực sông ở phương Đông nói trên đều tạo thành những đồng bằng rộnglớn và phì nhiêu, rất phù hợp với sự phát triển của nông nghiệp Ở đây, điều kiện tự nhiênthuận lợi: thuỷ lượng cao, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ, dễ canh tác Chính vì vậy cư dân cáckhu vực nói trên đã sớm gắn bó với việc sản xuất nông nghiệp, nhất là nghề trồng lúa nước.Bên cạnh trồng trọt, các gia đình còn chăn nuôi gia súc và gia cầm, một số làm các nghề thủcông như sản xuất nông cụ, dệt vải, làm đồ gốm, v.v Tuy nhiên nghề thủ công phương Đôngchỉ có tính chất bổ trợ cho nền kinh tế khép kín của làng xã, không phát triển thành kinh tếhàng hoá thị trường Như vậy là kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo của các quốc giaphương Đông

2 Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ – xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử phát triển của nhân loại – tương đối sớm Điều này cũng dễ hiểu Như trên đã nói, nông nghiệp

ở phương Đông ra đời sớm và giữ vai trò chủ đạo Khi nông nghiệp phát triển thì tổ chức xãhội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân hoá thành giai cấp và hệ quả là nhà nướcsớm ra đời Thời gian xuất hiện nhà nước phương Đông cổ đại sớm nhất (dưới hình thức nhànước chiếm hữu nô lệ) là vào khoảng thế kỉ thứ IV TCN Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô

lệ không ra đời cùng một lúc và cũng không chấm dứt cùng một lúc Ra đời sớm nhất là nhànước chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập và Lưỡng Hà (thế kỉ thứ IV TCN), sau đó mới đến các nhànước ở khu vực sông Ấn, sông Hằng và Hoàng Hà, Dương Tử (thế kỉ thứ III TCN) Về sự “lụitàn” của các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông cũng tương tự Nếu như đế quốc Ba Tư ởvùng Trung Cận Đông sụp đổ ngay từ thế kỉ thứ IV TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ còn kéodài mãi đến tận những thế kỉ đầu công nguyên

Các nhà nước cổ đại phương Đông không chỉ có những đặc trưng chung của một xã hội

chiếm hữu nô lệ mà còn có những đặc điểm riêng mang màu sắc phương Đông, như sau.

- Do các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội đang còn ởtrình độ thấp kém, tức là ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá mới, nên xã hội chiếm hữu nô lệkhông thể phát triển nhanh chóng, khiến các quốc gia đó, nói chung, không trở thành những xãhội chiếm hữu nô lệ phát triển thành thục và điển hình

- Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ chức công xã nông thôn, tàn tích của xã hội thịtộc thời nguyên thuỷ, và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruộng đất trong các xãhội cổ đại phương Đông

- Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia trưởng và của các hình thức áp bức, bóc lột kiểugia trưởng, việc sử dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành sản xuất xã hội

và vai trò của nô lệ trong sản xuất kinh tế chưa chiếm vị trí chủ đạo Nô lệ phương Đôngkhông phải là lực lượng chính làm ra của cải vật chất Tuyệt đại đa số nô lệ được sử dụng để

Trang 11

hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý Điều này cũng dễ hiểu bởi ởcác quốc gia nông nghiệp phương Đông, nhà nước bóc lột nông dân là chính, bằng chế độ laodịch, thuế khoá.

- Sự xuất hiện và phát triển mạnh của một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt - nhà nước

quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền – gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông Các

quốc gia phương Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi vua các nước đó nắmđược quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả nước Có thể nói khắp dướigầm trời không đâu không phải đất nhà vua, khắp dưới mặt đất không đâu không phải thần dâncủa nhà vua Do nắm được tư liệu sản xuất là toàn bộ ruộng đất nên các nhà vua đã dùng nó đểràng buộc các thần dân và nắm trọn quyền chính trị Một lí do nữa về sự tồn tại của nhà nướcquân chủ chuyên chế trung ương tập quyền là yêu cầu của việc trị thuỷ, đắp đê phòng lụt, bảo

vệ mùa màng Nhu cầu này đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào trung ương để có thể huyđộng được sức người sức của, nhân tài vật lực Ngoài ra các nhà nước chiếm hữu nô lệ phươngĐông còn phải tiến hành các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi hoặc bảo vệ lãnh thổ củamình, do đó cũng cần phải tập trung quyền lực vào tay trung ương để huy động lực lượng vậtchất và tinh thần

Tóm lại, với bộ máy bạo lực to lớn, với việc đề cao đến mức thần thánh hoá nhà vua, cácnhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã phục vụ đắc lực cho giai cấp chủ nô, bảo vệ quyềnlợi và tài sản của giai cấp thống trị, đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân, giữ vững địa

vị thống trị của chủ nô Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng, phát triển được những nền văn hoá đa dạng, độc đáo, với nhiều thành tựu rực rỡ về chữ viết, văn học nghệ thuật, khoa học tự nhiên, triết học, v.v và hàng loạt những công trình văn hoá vật chất đồ sộ vẫn sống mãi với thời gian Những thành tựu văn hoá rực rỡ ấy đã làm cho các quốc gia cổ đại phương Đông trở thành những trung tâm của các nền văn minh thế giới cổ đại.

3 Vào những năm cuối cùng TCN hoặc những năm đầu công nguyên, nhìn chung các quốcgia phương Đông đều kết thúc chế độ nô lệ và lần lượt chuyển sang xã hội phong kiến

Vào thời kì trung đại, nền kinh tế chủ yếu của các nhà nước phong kiến phương Đông vẫn

là nền kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp Trong xã hội phong kiến, giai cấp phong kiến quýtộc và sau này thêm tầng lớp địa chủ, là giai cấp nắm tư liệu sản xuất, nắm ruộng đất nên làgiai cấp thống trị Giai cấp bị trị là nông dân Ở phương Đông, khi kinh tế phong kiến là điềntrang thái ấp thì nông dân chịu thân phận nông nô còn khi kinh tế phong kiến chuyển sang hìnhthức địa chủ thì nông dân trở thành tá điền

Trong các nhà nước phong kiến phương Đông, nhà nước phong kiến Trung Hoa là một

điển hình Đặc trưng của kiểu nhà nước này là có một chính thể quân chủ chuyên chế tập quyền cao độ, hoàn hảo Dưới chế độ phong kiến, vua là người nắm trong tay toàn bộ quyền

lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp Vua được mệnh danh là Thiên tử Và bộ máy nhà nước dovua đứng đầu có một uy quyền vô cùng to lớn

Trong lịch sử, chế độ phong kiến phương Đông tồn tại dai dẳng: khoảng 20 thế kỉ (tính từđầu công nguyên đến những năm đầu của thế kỉ XX) Thời điểm bắt đầu suy thoái của của cácnhà nước phong kiến phương Đông có thể tính từ thế kỉ XVI-XVII trở đi Vào thời điểm đó,

Trang 12

giai cấp phong kiến phương Đông trở nên phản động, kìm hãm sự phát triển của đất nước Cácnhà nước phong kiến phương Đông vẫn duy trì tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế nôngnghiệp lạc hậu, bóp chết những mầm mống của nền kinh tế hàng hoá và những quan hệ sảnxuất mới - quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa

Hơn nữa các nhà nước còn thi hành chính sách bế quan toả cảng, đóng cửa, không giao lưuvới thế giới bên ngoài Trong khi đó thì cũng đúng vào thời điểm ấy, các nước phương Tây tiếnhành cách mạng tư sản, xác lập chủ nghĩa tư bản và tiến hành xâm lược các nước nhằm mởrộng thị trường mà đối tượng được chúng “để mắt đến” chính là các quốc gia phương Đông.Khi cuộc chiến tranh xâm lược của phương Tây nổ ra, giai cấp phong kiến phương Đông nóichung đều nhân nhượng, thoả hiệp và đầu hàng Do vậy từ thế kỉ XVI đến XIX, trừ Nhật Bản,tất cả các nước phương Đông đều bị biến thành nước nửa thuộc địa hoặc thuộc địa của cácnước tư bản phương Tây

Nhìn chung, trong chế độ phong kiến, các nền văn minh phương Đông vẫn toả sáng Những “chiếc nôi” văn hoá cổ đại phương Đông vẫn có sức lan toả mạnh mẽ ra các khu vực xung quanh: Nhiều yếu tố văn minh Ấn Độ được truyền bá sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Bắc

Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới; văn minh Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo,

có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản, Korea, Việt Nam và các nước khác; Văn hoá Ai Lưỡng Hà mặc dù tồn tại không lâu song những thành tựu của nó không chỉ có ảnh hưởngtrong khu vực mà còn toả sáng ra các khu vực khác của thế giới, v.v Cùng với sự lan toả của

Cập-các nền văn hoá cổ đại là sự xuất hiện của Cập-các nền văn hoá mới như Arập, Nhật Bản, Korea, v.v Bức tranh văn minh phương Đông, do vậy càng phong phú, đa dạng, nhiều sắc vẻ Thêm

nữa, vừa đấu tranh chống lại sự đô hộ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, các dân tộc phương

Đông vừa tiếp thu những yếu tố văn minh mới, tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho văn minh của dân tộc mình Văn minh phương Đông từ đây càng ngày càng phát triển đa dạng và

phong phu

Vấn đề thứ 6

Những hạn chế của nề văn minh phương Đông

Văn minh phương Đông, như đã nói ở trên ở trên, có nhiều thành tựu vĩ đại Tuy nhiên vănminh phương Đông không phải không có những hạn chế nhất định.Các hạn chế của văn minhphương Đông, suy cho cùng, chủ yếu do đời sống nông nghiệp chi phối

1 Văn minh gốc nông nghiệp mang tính làng xã của phương Đông đã tạo ra những hạn chế.

Nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp với tính tự trị làng xã buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đìnhphải tự làm ăn, tự lo liệu cuộc sống của mình Do khoa học kĩ thuật chưa phát triển, sản xuất

phụ thuộc vào thiên nhiên nên người dân thường chỉ đủ ăn, đủ mặc Đó là cơ sở tạo ra tính tư hữu, tính ích kỉ, gắn với nó là tâm lí sợ người khác hơn mình Họ dễ bì tị, đố kị với những

người giàu có, với những người có cuộc sống dư dả hơn mình Hơn nữa tính cộng đồng làng xã

lại có mặt trái là dễ tạo ra thứ chủ nghĩa tập thể bình quân, lối sống ỷ lại, dựa dẫm, cam phận

trong cái tôi nhỏ bé của mình, làm cản trở tính sáng tạo của mỗi cá nhân Chính vì lối sống ấy

mà ý thức cá nhân trong mỗi con người không phát huy mạnh mẽ để trở thành ý thức sáng tạo

Trang 13

Người ta không nghĩ hay không dám hướng đến một cung cách làm ăn khác hơn để cải tiếncuộc sống đơn sơ, thiếu thốn của mình, và cam chịu, chấp nhận nó như một điều tất yếu Họbằng lòng với cuộc sống theo cách thức sản xuất mà ông cha để lại, không dám đi xa, mạohiểm vì cả đời chỉ quen với làng xã và mảnh ruộng cỏn con của mình Thêm nữa lối sống nông

nghiệp còn tạo ra cho người nông dân tính cách lề mề, tuỳ tiện và sự yếu kém về tính tổ chức.

Nền sản xuất nông nghiệp vốn ít có những đòi hỏi khắt khe về thời gian, người ta không phải

lo cạnh tranh gay gắt, không bị ai thúc ép Vì thế nên khi bước vào xã hội hiện đại với yêu cầuphát triển công nghiệp thì tính cách tuỳ tiện, thiếu kỉ luật, thiếu tính tổ chức mới bộc lộ tất cảnhững yếu kém của nó Đó là mặt hạn chế cơ bản của con người nông nghiệp phương Đôngtrong sự so sánh với con người phương Tây vốn quen tác phong nhanh nhẹn, chính xác và làmviệc hết mình

Tư tưởng cục bộ địa phương cũng là một hạn chế của con người nông nghiệp quen sống

trong cộng đồng làng xã mình mà ít mở rộng hiểu biết, giao tiếp ở phạm vi rộng hơn, xa hơn.Tâm lí “người cùng làng” trong phạm vi cộng đồng có thể dễ đố kị nhau nhưng khi ra ngoàilàng thì họ lại bênh vực cho những người cùng làng xã mình, hay có thể từ một việc va chạmnhỏ nhưng nếu động đến làng thì cả làng sẵn sàng kéo nhau ra bảo vệ làng mình một cách cựcđoan bất kể tốt, xấu, phải, trái

2 Như đã phân tích ở trên, xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn cô lập, tách

biệt, cộng với những xiềng xích nô lệ của các quy tắc hà khắc cổ truyền “đã làm hạn chế lí trí của con người trong những khuôn khổ chật hẹp và trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín Những công xã này chủ yếu làm cho con người phục tùng những hoàn cảnh bên ngoài chứ không nâng con người lên địa vị làm chủ những hoàn cảnh ấy”.

Xã hội phương Đông, vì vậy, mang tính chất thụ động, quân bình, ít thay đổi Tình trạng tĩnh tại, trì trệ của xã hội phương Đông kéo dài đến tận mươi năm đầu của thế kỉ XIX Và đó chính là cơ sở để chế độ chuyên chế phương Đông tồn tại quá dai dẳng, làm cản trở sự phát triển của xã hội.

Lối tư duy thiên về trực giác của phương Đông, ít óc duy lí, phân tích, mổ xẻ cũng phần nào làm cho khoa học kĩ thuật không phát triển mạnh được như phương Tây Những phát kiến

về khoa học – kĩ thuật của phương Đông trước đây chủ yếu gắn với sản xuất, nảy sinh từ sảnxuất.Trên một ý nghĩa nào đấy, đó cũng là một hạn chế của văn minh phương Đông

3 Phương Đông đã có những tấm gương sáng về sự phát triển vượt trội: Nhật Bản, HànQuốc, Singapore, Trong số những bài học có thể rút ra được từ các quốc gia nói trên có bài

học về giữ gìn bản sắc ưu việt của văn hoá truyền thống, loại bỏ những yếu tố văn hoá lạc hậu, lỗi thời, hạn chế do nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu gắn liền với công xã nông thôn quy định, và tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, tiên tiến của phương Tây Nói cách khác, đồng thời với việc bảo tồn và phát huy những thành quả, những yếu tố tích cực xây dựng một nền văn minh công nghiệp (và hậu công nghiệp) tiên tiến cho sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và toàn khu vực.

Vấn đề thứ 7

Trang 14

Những thành tựu của văn minh phương Đông

(1) Những thành tựu về chữ viết-văn học:

1 Ai Cập:

+ Ở giai đoạn đầu văn học mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các thần, miêu tả nghi lễthờ cúng và tang lễ Đến thời Tân và Trung Vương quốc, văn học đã phản ánh những mâuthuẫn xã hội, phê phán bọn quan lại và nói lên nỗi khổ của những người lao động

- Tiêu biểu là các tác phẩm: “Truyện kể của Lpouer”, “Truyện Sinouhé” (Xinuhê), tậptruyện “Người nông phu biết nói những điều hay” phê phán tầng lớp quan lại ức hiếp ngườidân và sự khốn khổ của những người lao động

- Thơ ca trữ tình: Các bài thơ ca ngợi tình yêu, và sự gắn bó giữa con người với thiên nhiênđược tập hợp trong cuốn “Papyrus Haris 500”

- Văn học mang tính chất triết lí: Tiêu biểu là cuốn “Đối thoại một người thất vọng với linhhồn của mình”, nói đến sự suy sụp của người Ai Cập trước sự đổ vỡ của các giá trị truyềnthống, tâm trạng chán đời

+ Văn học Ai Cập đã có những bước tiến khá rõ rệt, từ những tác phẩm thô sơ mang tínhchất tôn giáo, đến chỗ xuất hiện nhiều tác phẩm với nhiều thể loại, phản ánh tình hình xã hội,thể hiện sức sáng tạo kì diệu cỉa người Ai Cập cổ đại

2 Lưỡng Hà:

+ Chữ viết

Chữ viết ở Lưỡng Hà xuất hiện từ khá sớm Người Sumer sáng tạo ra chữ tượng hình vàokhoảng đầu TNK III.TCN Đầu tiên người Sumer dùng những hình vẽ về sau là những nétvạch hợp lại thành ý Họ dùng một thanh gỗ hay sậy nhỏ, vót nhọn một đầu, ấn trên phiên đấtmềm tạo thành một đầu nhọn, đáy bằng, trở ngược thanh gỗ vạch một đường thẳng, trông nhưmũi tên hay chiếc đinh Một số chiếc đinh này tập hợp lại thành từ

Chữ viết của người Lưỡng Hà được viết trên đất sét, mỗi tấm đất sét là một trang sách.Chữ có hình như những góc nhọn, nên thường được gọi là chữ hình góc nhọn, chữ hình nêmhay chữ tiết hình

Rất nhiều dân tộc ở Tây Á thời cổ đại đã dùng loại chữ viết này để ghi lại sinh hoạt kinh tế, xãhội và những diễn biến chính trị thời đó Vì vậy, có thể coi chữ viết của người Sumer phátminh ra là nguồn gốc của nhiều chữ viết khác của người Akkad, Babylone, Hittiles, Assyria,

Ba Tư

+ Văn học:

Văn học Lưỡng Hà phong phú về nội dung và thể loại, với nhiều tác phẩm có giá trị nghệthuật cao Các thể loại văn học chính là văn học dân gian, thơ và anh hùng ca Nội dungthường gắn liền với tín ngưỡng và phản ánh đời sống thường ngày của người lao động Điểnhình nhất là hai trường ca: Anuma Elit và Gilgamesh

- Trường ca Anuma Elit ca ngợi sự sáng tạo của vũ trụ, một khối hỗn mang thuở ban đầu,

từ đó sinh ra con người và muôn vật trên trên mặt đất

- Trường ca Gilgamesh ca ngợi tinh thần anh dũng của những nhân vật có thật được thầnthánh hóa, phản ánh với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên Đó là nhữnh cuộc đấu tranh

Ngày đăng: 22/10/2014, 14:39

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w