Theo Mác, sở hữu chính là phương thức chiếm hữu mang tính xã hội, lịch sử cụ thể của con người đối với những của cải vật chất và tinh thần được sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cả
Trang 1dé doe ngay hương, Mue phi hop (uhdy chuét oào tên
& Su dung cae phim DageUp, PageDown,
inter, phim mai tén trén ban phim hode các biểu tuong
mii tén trén thanh: công cụ để lật trang:
Tools View Window
Trang 2
KỶ YẾU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI CẤP BỘ 2000-2001
TÊN ĐỀ TÀI
“NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ
SỞ HỮU TRONG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA NHỮNG QUAN
ĐIỂM ĐÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH
PHẦN Ở NƯỚC TA THỜI KỲ ĐỐI MỚI “
Cơ quan chủ trì: VIỆN N.C KINH ĐIỂN MÁC XÍT
Chủ nhiệm đề tài: T.S Trần Ngọc Linh
Thư ký đề tài — - C.N Lê Trọng Hanh
HÀ NỘI- 2001
2A }03
Trang 3“Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm đó đối với quá trình phát
triển nên kinh tế nhiều thành phần ở nước ta trong thời kỳ đổi mới”
1 Tính cấp thiết của đề tài:
Những thành tựu về mọi mặt, mà nhân dân ta đã đạt được trong công
cuộc đổi mới do Đảng để xướng và lãnh đạo, là to lớn và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn bộ tiến trình đi tới những mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang diễn ra trên đất nước ta
Để tiếp tục thu hái được những thành quả to lớn hơn nữa, đưa
sự nghiệp cách mạng nước ta ngày càng tiến gần hơn nữa đến những mục tiêu đã dé ra, chúng ta cần phát huy những thành quả đạt được, đồng thời tìm ra và có biện pháp khắc phục những thiếu sót, khiếm khuyết nảy sinh ra trong thời gian vừa qua
Một trong những thiếu sót, khiếm khuyết trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua, gây ảnh hưởng hạn chế không ít đến nhịp đệ, thành quả của quá trình đổi mới, đó là tình trạng sử lý mối
quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn nhiều vướng mắc
Một mặt, thành phần kinh tế nhà nước còn chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo đối với các thành phần kinh tế khác Mặt khác, các thành phần kinh tế khác chưa phát huy được tác dụng trong việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội Điều này làm cho định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế nước ta chưa có cơ sở vững chắc, làm tăng
nguy cơ chệch hướng Đồng thời nước ta chưa có một lực lượng san xuất phát triển đủ mạnh làm cơ sở vật chất cho nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa
Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng trên Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến nguyên nhân về mặt cơ sở, nền tảng lý luận Đó
Trang 4riêng vào việc xây dựng, củng cố quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, xây dựng củng cố thành phần kinh tế nhà nước đồng thời với việc đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong nền kinh tế thời kỳ quá độ , đảm bảo vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác trong quá trình phát triển kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Dé tài: “Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề
SỞ hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm đó đối với quá trình phát triển nên kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thời kỳ đổi mới.” chính là nhằm đóng góp một phần vào việc khắc
phục tình trạng nói trên
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Trên sách báo trong nước và nước ngoài khoảng 10 năm Lrở lại đây đã
có nhiều công trình, bài báo, bài nói của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà
nước, của các nhà nghiên cứu khoa học về vấn đề liên quan đến đề tài Có thể điểm qua tình hình như sau
Sách báo khoa học ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa vào những năm cuối của thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90 da dé cập
nhiều đến vấn để mối quan hệ giữa các loại hình sở hữu trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đặc biệt là trong những năm gần đây, vấn đề sở hữu, mối quan
hệ giữa quyền sở hữu với quản lý kinh doanh, vai trò của hệ thống sở hữu trong hệ thống quản lý kinh tế cũng được nêu lên trên sách báo
lý luận Trung Quốc Điều đáng chú ý là những vấn đề cải cách hệ thống sở hữu được nêu ra gắn liền với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Trung quốc
Trang 5báo lý luận, trong nhiều cuộc hội thảo khoa học cũng như trong nhiều
vấn để sở hữu, để cập đến sự vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lê nin về vấn để sở hữu trong chủ nghĩa xã hội vào việc tìm ra hệ thống các loại hình sở hữu thích hợp, đảm bảo cho thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong toàn bộ tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời phát huy được mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế khác trong công cuộc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nước ta thời kỳ đổi mới
3 Mục tiêu nghiên cứu:
Nhằm hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn để sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, coi đó là cơ sở, nền tảng lý
luận cho việc tìm ra những biện pháp, phương ấn xây dựng một hệ
thống các loại hình sở hữu thích hợp bảo đảm cho thành phần kinh tế
nhà nước giữ được vị trí chủ đạo, đồng thời phát huy được mọi tiềm
năng của các thành phần kinh tế khác trong toàn bộ nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thời kỳ đổi mới
4 Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc
biệt là lý luận hình thái kinh tế-xã hội
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp
luận biện chứng duy vật Đồng thời áp dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp logic và lịch sử, phương
pháp phân tích và tổng hợp v v
Trang 6trong chủ nghĩa xã hội
Mở đầu
1.Khái niệm sở hữu
1I.Vị trí, vai trò của sở hữu trong hệ thống kinh tế - xã hội
1- VỊ trí, vai trò của sở hữu
2- Sở hữu và kiến trúc thượng tầng
_3- Sở hữu và lợi ích
4- Sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Phần II: Ý nghĩa những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu đối với quá trình phát triển nên kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta trong thời kỳ đổi mới
I Qua trình nhận thức của Đảng ta về vấn đề sở hữu từ năm 1976
đến nay
II Vé vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
1- Khái niệm thành phần kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó
2- Các yếu tố cấu thành của kinh tế nhà nước
3- Bản chất xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế nhà
nước ở Việt Nam
4- Nội dung, vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà
Trang 7phát huy ưu thế của lực lượng sản xuất hiện có trong thành phần
kinh tế nhà nước
2- Hoàn thiện mô hình Tổng công ty và việc cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước
3- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm khai thác tốt
hơn những lực lượng sản xuất hiện có
4- Xây dựng hợp tác xã, kinh tế trang trại kiểu mới, các
hình thức liên kết kinh tế khác
5- Cổ phần hoá, hợp tác hoá trong lĩnh vực nông gnhiệp
6- Sắp xếp, chuyển đối cơ cấu, đổi mới quản lý và nâng cao
hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
7- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý để các chủ sở hữu phát huy tính năng động và sáng tạo trong nền
kinh tế nhiều thành phần
Thay lời kết luận.
Trang 8TRONG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Trang 9QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ SỞ HỮU VÀ
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA
TS Trần Ngọc Linh
Sở hữu luôn luôn là vấn để chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin cũng như trong thực tiễn phong trào cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới
C Mác đã coi vấn đề sở hữu là vấn để sống còn của bất cứ
giai cấp nào trong xã hội Mác viết: “Vấn để sở hữu bao giờ cũng
là vấn để sống còn của giai cấp này hay giai cấp khác — tuỳ thuộc
vào trình độ phát triển của công nghiệp”!
Đối với những người cộng sản, vấn đề sở hữu còn là vấn đề hàng đầu, vấn để cơ bản của mọi phong trào cách mạng Điều này
được Mác va Ang ghen khẳng định trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản: “Tóm lại, ở tất cả mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị
hiện hành Trong tất cả phong trào ấy, họ đều đưa vấn đề chế độ
sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn dé cơ bản của phong trào” Hơn thế nữa, Mác và Ăng ghen còn nhấn mạnh, công thức duy
nhất tóm tắt lý luận của những người cộng sản chính là liên quan đến vấn để sở hữu: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không
phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản
Nhưng chế độ tư hữu hiện thời, chế độ sở hữu tư sản lại là
biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và
1 C.Mác - Ph.Anghen Toàn tập, T.4, Nxb CTQG, H, 1995, tr 428
2 Sdd, tr 645-646.
Trang 10Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý
luận của mình thành công thức duy nhất này (tôi nhấn mạnh- TNL) là: xoá bỏ chế độ tư hữu”!
Vì sao vấn để sở hữu lại được C Mác, cũng như những nhà
sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lê nin, coi là quan trọng như vậy?
Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong các tác phẩm của Mác,
khi Ông bàn về bản chất của sở hữu, về vị trí và vai trò của sở
hữu trong sự vận động và phát triển xã hội loài người
Sở hữu, trong quan niệm của Mác, không phải đơn giản chỉ
là mối quan hệ phi lịch sử giữa người và vật, với ý nghĩa là người chiếm hữu quan hệ với vật bị chiếm hữu Theo Mác, sở hữu chính
là phương thức chiếm hữu mang tính xã hội, lịch sử cụ thể của con người đối với những của cải vật chất và tinh thần được sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất (chiếm hữu tư liệu sản xuất, chiếm hữu sức lao động, chiếm hữu các yếu tố khác của lực lượng sản xuất), hoặc để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt về mọi mặt của cuộc sống con người (chiếm hữu tư liệu sinh hoạt) Đặc biệt, Mác nhấn mạnh mối liên quan mật thiết hữu cơ của sở hữu với quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội Trên bình điện này, sở hữu chính là mối quan hệ xã hội tổn tại một cách khách quan giữa người với người trong quá trình lao động sản xuất Nó chính là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải xã hội Nhờ có mối quan hệ khách quan này mà con người có thể tiến
hành được quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tỉnh thần, và nhờ có quá trình sản xuất này mà xã hội loài người mới có thể
tồn tại và phát triển Mác viết: “Nơi nào không có một hình thái
* Sdd, tr 616.
Trang 11do đó cũng không có một xã hội nào cả”
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, C.Mác
đã chỉ ra vị trí và vai trò của sở hữu trong sự vận động và phát triển của xã hội loài người Chế độ sở hữu là yếu tố cơ ban chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội Mặt khác, bản thân chế
độ sở hữu cũng là một yếu tố động, luôn luôn biến đổi, luôn luôn
có sự cải biến Một trong những động lực chủ yếu, nguyên nhân
chủ yếu của sự vận động, biến đổi, cải biến đó là sự phát triển không ngừng cả về trình độ, tính chất và quy mô của lực lượng
sản xuất xã hội Khi chế độ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự thay
đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, cuối cùng sẽ làm thay đổi toàn bộ một hình thái kinh tế-xã hội, một chế độ xã hội nào
đó Mỗi một hình thái kinh tế-xã hội có một chế độ sở hữu cơ
bản đặc trưng cho hình thái kinh tế-xã hội đó Từ chế độ sở hữu,
trong những quan hệ sở hữu “bao giờ chúng ta cũng tìm được cái điều bí ẩn sâu xa nhất, cái nền móng thầm kín nhất của toàn bộ kết cấu xã hội” >
Mác chỉ ra rằng, giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó nắm quyển tổ chức quản lý
sản xuất, nắm quyển phân phối sản phẩm xã hội Giai cấp nào
nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị vật chất thì giai cấp đó cũng nắm quyền chi phối mọi lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội
Mác đã nêu lên các giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã
hội, trải qua 5 phương thức sản xuất, đánh dấu những bước tiến
của lịch sử xã hội loài người, tương ứng với các giai đoạn phát
triển xã hội đó là những hình thái (chế độ) sở hữu khác nhau: sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã hay sở hữu nhà nước thời cổ, sở hữu
1_C.Mác-Ph.Ängghen Toàn tập, T.46, Phần I Nxb CTQG, H, 1998, tr 43
2 C.Mác-Ph.Ăng ghen Toàn tập T.25, phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994 tr.499.
Trang 12những quy luật khách quan, trong đó chủ yếu là tác động của quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất
của lực lượng sản xuất
Mặc cho các giai cấp thống trị nói về quyển sở hữu thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của giai cấp đó đối với tư liệu sản xuất, một khi quan hệ sở hữu (nội dung kinh tế của quyền sở hữu) của
chế độ xã hội đó không còn cơ sở hiện thực để tồn tại, nghĩa là
không còn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì quan hệ sở hữu đó sẽ bị xoá bỏ và được thay thế bằng quan hệ sở hữu phù hợp hơn, và cái gọi là quyển sở hữu nói trên (sự thể hiện quan hệ sở hữu thông qua pháp lý, ý chí của
giai cấp thống trị) cũng sẽ trở thành vô nghĩa, mất đi tính hiện
thực của nó
Sự thay thế liên tiếp các chế độ sở hữu thực tế đã diễn ra
trong quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người Có thể nói,
không có chế độ sở hữu nào tổn tại vĩnh cửu Đúng như C Mác
đã nhận xét: “Quan hệ sở hữu cổ đại đã bị quan hệ sở hữu phong
kiến tiêu diệt và quan hệ sở hữu phong kiến thì bị quan hệ sở hữu
“tự sản ” tiêu diệt Như vậy chính lịch sử đã phê phán những quan hệ sở hữu đã qua”?
Chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển là kết quả của sự phát triển nền sản xuất xã hội, mà động lực chủ yếu của sự phát triển này là sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng của lực
lượng sản xuất xã hội Cũng có thể nói rằng, loài người bước vào
thời kỳ tư bản chủ nghĩa, chế độ xã hội (hình thái kinh tế-xã hội) TBCN đã thay thế chế độ xã hội phong kiến khi chế độ sở hữu tư
lem C.Méc-Ph.Ang ghen Toàn tập T.3., Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, tr.32 và 35
2 C.Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, T.16, Nxb CTQG, H, 1994, tr 41.
Trang 13tư nhân TBCN
Phân tích chế độ sở hữu TBCN, C.Mác đã nêu lên những
đặc trưng của chế độ sở hữu này, thừa nhận những đóng góp to lớn của nó đối với sự phát triển của xã hội loài người, cũng như chỉ ra những hạn chế, những mâu thuẫn nội tại, tự bản thân nó không thể khấc phục được Mác chỉ ra rằng, đến một giai đoạn nào đó của sự phát triển, với những quan hệ sản xuất và trao đổi
tư sản, với những quan hệ sở hữu tư sản, toàn bộ xã hội tư sản
hiện đại đã bất lực trước những lực lượng sản xuất mạnh mẽ,
“giống như một tay phù thuỷ không còn đủ sức trị những âm binh
mà y đã triệu lên” “Lực lượng sản xuất hiện đại đã nổi dậy
chống lại những quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan
hệ sở hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp
tư san”! Những mâu thuẫn nội tại này của chế độ xã hội TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN, sẽ tất yếu dẫn đến sự phủ định bản.thân nó Mác gọi đây là sự phủ định cái phủ định Bởi vì trước đó, chế độ tư hữu TBCN đã hoàn thành sự phủ định đối với chế độ sở hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân người lao động Mác viết: “Phương thức chiếm hữu TBCN xuất phát từ
phương thức sản xuất TBCN, và do đó cả chế độ tư hữu TBCN,
đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa
trên lao động của bản thân Nhưng nền sản xuất TBCN lại đẻ ra
sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự
nhiên Đó là sự phủ định cái phủ định Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá
nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại TBCN: trên cơ sở sự hợp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra””
1 C.Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, T.4, Nxb CTQG, H, 1995, tr 604
? Sđd, T.23, tr 1059-1060.
Trang 14luật vĩnh cửu của tự nhiên và cia ly tri”
Việc xoá bỏ, thủ tiêu chế độ sở hữu TBCN là một tất yếu khách quan, một kết quả đương nhiên trong quá trình phát triển
của lịch sử loài người Chính giai cấp tư sản chứ không phải là ai khác, với chế độ sở hữu của mình, ngoài ý muốn chủ quan của
giai cấp đó, đã không những “rèn những vũ khí sẽ giểt mình”, mà
còn “tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy” - đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu XHCN
Vì chế độ sở hữu TBCN tồn tại trên cơ sở tước bỏ sở hữu của đại đa số cư dân trong xã hội, nên khi thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình, đem lại lợi ích cho bản thân mình, giai cấp vô sản cũng đồng thời đem lại lợi ích cho toàn xã hội
Vấn đề là ở chỗ, giai cấp vô sản sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình như thế nào, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn để sở hữu
— một trong những nội dung cơ bản của cuộc cách mạng CSCN ?
'C Mác nhấn mạnh rằng, giải quyết vấn để sở hữu phải nhằm mục đích tạo điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy toàn bộ
lực lượng sản xuất, xoá bỏ sự tách rời người lao động khỏi những điều kiện lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn nữa, bảo đảm cho việc cung cấp đầy đủ sản phẩm thoả mãn nhu
cầu về vật chất và tỉnh thần của mọi thành viên trong xã hội
C Mác cũng chỉ ra rằng, quá trình xoá bỏ chế độ sở hữu
TBCN không phải là quá trình phủ định sạch trơn sở hữu, mà là
1, Mác - Ph.Ängghen Sdd, T4, tr 619.
Trang 15động, trong đó sở hữu vận động Đó chính là “sự phủ định cái phủ định”, là sự khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại TBCN
Đối với tư bản, đó là quá trình chuyển biến tính chất xã hội
của sở hữu, xoá bỏ tính chất tư sản của sở hữu, xoá bỏ quyền dùng chiếm hữu để nô địch người khác Đối với lao động, đó là
quá trình xoá bỏ tính chất bị thảm của phương thức chiếm hữu TBCN, “cái phương thức khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những
lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi”!,
C Mác khẳng định, giải quyết vấn để sở hữu với hai nội
dung: xóa bỏ chế độ sở hữu TBCN và xây dựng chế độ công hữu
XHCN là một quá trình, phải dựa trên những điều kiện hiện thực
và là kết quả của hoạt động hiện thực
Những điều kiện hiện thực của CNTB hiện đại thời Mác, đặc biệt là trong thời kỳ quá độ của nhân loại từ CNTB lên CNXH sau Cách mạng XHCN Tháng 10 Nga vĩ đại được đánh dấu bởi sự phát triển ngày càng nhanh chóng, mạnh mẽ hơn của lực lượng sản xuất, với một quy mô xã hội hoá chưa từng thấy
Cùng với điều này, sự phân chia giai cấp trong xã hội trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ và những quan hệ xã hội cũ ngày càng gay gat hơn, căng thẳng hơn, thể hiện qua những cuộc đấu tranh giai cấp giữa công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động với giai cấp tư sản
dưới mọi hình thức, dẫn đến những chấn động, những khủng hoảng trong xã hội và những biến chuyển không thể đảo ngược trong
thế giới TBCN Những điều kiện hiện thực đó khiến cho việc xoá bỏ
chế độ TBCN trở thành có thể và cần thiết Vấn để là ở chỗ, giai cấp
vô sản cần tiến hành những hoạt động hiện thực như thế nào trong
1 Sđd, tr 617.
Trang 16cũng đã được Mác và Ăng ghen chỉ ra
Bước đầu tiên là, giai cấp vô sản phải làm “nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã
hội quan phương”, giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyển, biến thành giai cấp thống trị Sau đó, với công cụ chính quyển nhà nước trong tay, giai cấp vô sản sẽ “từng bước một ” thực hiện
quá trình thay đổi tính chất xã hội của sở hữu, chuyển sở hữu tư
nhân TBCN sang công hữu XHCN
Nhấn mạnh sự cần thiết phải tiến hành sự chuyển biến sở
hữu “từng bước một”, Mác và Ăng ghen đã để cập đến những điều kiện vật chất khách quan đảm bảo cho sự chuyển biến này
C.Mác viết: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi
tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản
xuất mới cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước những điều kiện vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong
lòng bản thân xã hội cũ”'.Điêu kiện vật chất đó chính là sự phát
triển của công nghiệp hay nói khác đi, đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội Đúng như Ăng ghen đã chỉ ra: “Thủ tiêu
chế độ tư hữu là cách nói vắn tất nhất và tổng quát nhất về việc
cải tạo toàn bộ chế độ xã hội Việc cải tạo này là kết quả tất yếu
của sự phát triển của công nghiệp”
Mặt khác, Mác cũng đã đề cập đến những hình thức quá độ
trong quá trình thực hiện “sự phủ định cái phủ định” của chủ nghĩa tư bản Mác coi các hợp tác xã lao động cũng như các xí
nghiệp cổ phần, ở trình độ này hay trình độ khác đều là những hình
1 C.Mác-Ph.Ăng ghen Toàn tập T.13., Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tr.15- L6
? C.Mác-Ph.Ăng ghen Toàn tập T.4 Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, tr.467
Trang 17thức sở hữu quá độ dẫn đến việc chuyển tư bản thành sở hữu của những người sản xuất, không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ, mà với tư cách là sở hữu của những
người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp `:
Sau này, V.I.Lê nin đã phát triển quan điểm nói trên của
Mác, đã coi những hợp tác xã lao động, trong điều kiện giai cấp
vô sản nắm quyền lực chính trị, là “tất cả những cái cần thiết và
đây đủ” để tiến hành công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và là
“bước quá độ sang chế độ mới bằng con đường giản đơn nhất, dễ
dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân”*
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã chỉ ra mục tiêu cuối cùng mà cuộc cách mạng của chúng ta phải đi tới Trong những văn kiện của Cương lĩnh cách mạng đầu tiên, Đảng ta đã xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”3
Trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cao đẹp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam vượt
qua muôn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh tiến lên không ngừng
trên con đường cách mạng, đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
Trong lĩnh vực kinh tế, và hẹp hơn nữa, trong phạm vi vấn
để sở hữu, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp
(1954), chúng ta đã chủ trương xây dựng chế độ sở hữu XHCN ở
miền Bắc và sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1975), chúng ta đã tiến hành xây dựng chế độ sở hữu
XHCN trên cả nước Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV,
Đảng ta đã chỉ ra rằng, vấn để mấu chốt hiện nay là phải mau
chóng tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và tổ
1 xem C.Mác-Ph.Ăng ghen Toàn tập T 25, phần II., Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tr.668
2V.I.Lê nin Toàn tập T.45, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tr.422
3 Hồ Chí Minh Toàn tập T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, tr.l.
Trang 18chức lại sản xuất XHCN theo hướng tiến lên nền sản xuất lớn
XHCN, ià nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu công cộng XHCN
về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể, lấy đại công nghiệp làm nền tang
Những quan điểm nói trên, về nguyên tắc lý luận, là hoàn toàn đúng đấn, không có gì cần phải bàn cãi Nhưng trong quá trình thực hiện, chúng ta đã mắc những sai lầm do quá để cao, tuyệt đối hoá vị trí, vai trò của công hữu hoá tư liệu sản xuất, quá nhấn mạnh tính ưu việt của kinh tế quốc doanh và hợp tác xã, không tính đến trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất nước tả lúc đó Chúng ta đã coi việc quốc hữu hoá, tập thể hoá tư
liệu sản xuất là tiêu chí đánh giá trình độ xây dựng chủ nghĩa xã
hội, coi những quan hệ sở hữu tư nhân, cá thể, là những quan hệ
đối lập với chủ nghĩa xã hội cần phải xoá bỏ càng nhanh càng
tốt Chúng ta đã thực hiện sự phủ định cực đoan siêu hình đối với mọi quan hệ sở hữu khác với quan hệ sở hữu công cộng và sở hữu
tập thể theo cách hiểu phiến diện của chúng ta lúc đó
Điều này đã dẫn đến tình trạng tách rời người lao động
khỏi những điều kiện lao động Nhiều người có sức lao động
nhưng không có việc làm, hoặc có việc làm nhưng chưa sử dụng hết khả năng sức lao động vốn có Ngay trong khu vực kinh tế nhà nước và tập thể , việc kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất cũng không đạt hiệu quả cao
Trong khi khu vực kinh tế nhà nước và tập thể thiếu vốn thì
nguồn vốn tiểm ẩn trong nhân dân không có điều kiện để sử dụng vào sản xuất và kinh doanh
Có thể thấy, những sai lầm trong việc giải quyết vấn để sở
hữu, cùng với cơ chế quản lý quan liêu bao cấp trong kinh tế đã tạo ra sức cản lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội cuối cùng
dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội gay gắt.
Trang 19Đối mặt với cuộc khủng hoảng, trên nền tảng lý luận chủ
nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã phát huy
cao độ ý chí, quyết tâm, tỉnh thần độc lập suy nghĩ sáng tạo để
đưa ra các giải pháp khắc phục sai lầm một cách có hiệu quả
Đồng thời, do yêu cầu cấp bách, bức xúc của thực tiễn cuộc sống
đòi hỏi sự đổi mới từng bộ phận từ các cơ sở, các địa phương
Chính sự đối mới từ bên dưới này đã cung cấp những cứ liệu sống
động để Đảng ta có thể từ việc tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh rút ra những kết
luận có tính lý luận, để ra những quyết sách cụ thể có ý nghĩa đổi
mới từng phần Có thể nói, chính từ đây, tư duy mới từng bước được hình thành và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VỊ,
đường lối đổi mới lần đầu tiên đã được nêu lên một cách đây đủ
và có hệ thống
Một trong những nội dung đổi mới rất cơ bản trong tư đuy kinh tế, liên quan đến vấn dé sở hữu của Đảng, được Đại hội VỊ
khẳng định là, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế, coi nên kinh tế có nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ Đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Với giải pháp đúng đắn này, các quan hệ sở hữu từng bước
được pháp lý thừa nhận, có tính đến sự phù hợp với trình độ phát triển đa dạng, phong phú của lực lượng sản xuất, do đó tạo thêm
sức mạnh cho các thành phần kinh tế
Chúng ta chủ trương phát triển đan xen nhiều loại hình và hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo Những nghành nghề, hoạt động kinh doanh nào mà kinh tế hợp tác
xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền
kinh tế, có lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất thì hết sức
Trang 20tạo điều kiện cho hoạt động và phát triển Tư nhân được hoạt động kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động trong những nghành nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, dịch vụ mà luật pháp không cấm Đối với người lao động, Đảng ta chủ trương xoá
bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá và đối xử với người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau
Cho đến nay, đường lối đổi mới của Đảng vẫn tiếp tục được
khẳng định và thực hiện Chính sách kinh tế nhiều thành phần vẫn
được thực hiện một cách nhất quán và lâu dài Đại hội đại biểu lần
thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nên kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”!
Thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
chính là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lê nin, trong đó có quan điểm của C.Mác về sở hữu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam Thực hiện chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là thực hiện quan điểm của Mác về việc thay đổi tính chất xã hội của sở hữu, chuyển chế
độ sở hữu tư nhân TBCN sang chế độ công hữu XHCN theo “từng
bước một”, thông qua những hình thức sở hữu quá độ thích hợp
Việc chuyển chế độ sở hữu từ một loại hình công hữu dưới
hai hình thức quốc doanh và tập thể sang chế độ đa sở hữu về tư
1 Đảng Cộng sản Việt Nam - Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng Khoá VHI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng - Tháng 4 - 2001, tr 40.
Trang 21liệu sản xuất đã từng bước khắc phục được sự trì trệ, đồng thời phát huy được khả năng sáng tạo của từng chủ sở hữu, làm cho nền kinh tế ngày càng trở nên sống động Trong tổ chức quản lý sản xuất, việc chuyển từ cơ chế quản lý quan liêu sang cơ chế thị trường là sự bảo đảm cho quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay và tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất đó phát triển
Về phân phối, xoá bỏ hình thức phân phối cào bằng, bình
quân chủ nghĩa sang hình thức phân phối theo lao động và hiệu
quả sản xuất kinh doanh, đã tạo chất men kích thích lợi ích chính
đáng của người lao động Phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ khơi dạy động lực lợi ích mà còn tạo ra
nhu cầu khơi dạy động lực đó Đây chính là yếu tố vô cùng quan
trọng, quyết định sự tăng trưởng kinh tế
Quá trình đổi mới là quá trình chuyển từ tư duy dựa trên mô
hình kinh tế hiện vật, với sự tuyệt đối hoá chế độ công hữu một
cách hình thức chủ nghĩa sang tư duy kinh tế mới, xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần Quá trình đổi mới chính là thể hiện sự nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo những quy luật khách quan tác động trong tiến trình cách mạng mà chủ nghĩa Mác-
Lê nin đã chỉ ra, trong đó có quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Có thể nói thành công lớn nhất trong công cuộc đổi mới là, thông qua những quan hệ sở hữu-quan hệ sản xuất thích hợp, đã giải
phóng được sức lao động, làm cho lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ Chính cơ cấu quan hệ sở hữu mới đã giải
phóng triệt để mọi lực lượng sản xuất, góp phần tạo đà cho sự phát
triển nền kinh tế, tạo cơ sở cho việc xây dựng chế độ công hữu XHCN
đích thực, biến lý tưởng CSCN thành hiện thực trong đời sống
Trang 22TÌM HIỂU KHÁI NIỆM SỞ HỮU
TRONG CÁC TÁC PHẨM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
CN Trần Kim Cúc, CN Đới Kừm Thoa
Trong sự nghiệp đối mới của chủ nghĩa xã hội, sở hữu là một trong những vấn để quan trọng được xem xết và thay đổi không chỉ
trong lý luận mà cả trong thực tiễn Nếu như trước đây, việc nghiên cứu và nhận thức về vấn để sở hữu còn có nhiều điều chưa thoả đáng, thì từ khi đổi mới đến nay vấn để này đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm đúng mức Có nhiều công trình, bài viết đã để cập đến vấn
để sở hữu từ nhiều góc độ khác nhau Song trong phạm vi bài viết
này, chúng tôi muốn trở lại với di sản kinh điển của C.Mác và
Ph.Ăngghen, mà trực tiếp là đi sâu nghiên cứu khái niệm sở hữu trong các tác phẩm của các ông, nhằm làm sáng tỏ khái niệm này và
từ đó góp phần cung cấp những cơ sở nhận thức đúng đắn cho việc
nghiên cứu các vấn đề sở hữu có liên quan đến khái niệm này
Khái niệm sở hữu đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu đời Trong suốt nhiều thế kỷ trước khi hình thành các hình thái
kinh tế - xã hội phát triển, khái niệm “sở hữu” hoặc là tuyệt nhiên không được sử dụng, hoặc đã được dùng với những nghĩa khác xa
nghĩa ngày nay Chẳng hạn, khi nói về tài sản, của cải, AristôL có nói
tới chiếm giữ chúng, chứ không phải là sở hữu
Khái niệm “sở hữu” đã xuất hiện vào thế kỷ XVH trong thời
kỳ mà tư tưởng quyền tự nhiên được phổ biến rộng rãi Chung quanh quan niệm về sở hữu đã có hai khuynh hướng tư tưởng: đó là tư tưởng
! Xem T/c “Những vấn để kinh tế (T.Nga), số 2, năm 2001, tr 4.
Trang 23của các nhà triết học và các nhà luật học, mà các đại biểu nổi tiếng là Locke, Smit, Ricardo, Héghen, Savigny, Rútxô
Theo Locke - nha triét hoc duy vat Anh, khái niệm sở hữu được coi như là sự chiếm hữu Quan niệm này được ông thể hiện rõ trong cuốn “Luận án thứ II về chính phủ” Cũng như Locke, Hêghen - đại biểu của triết học duy tâm khách quan Đức thế kỷ XVIII - XIX, đã coi sở hữu là sự chiếm hữu Theo Hêghen, sở hữu không phải là một
quan hệ xã hội đặc biệt, mà là một quan hệ của con người, với tư
cách là con người với “tự nhiên”, một quyền tuyệt đối về chiếm hữu
liên quan đến mọi vật của con người Ngược lại với Hêghen, Savigny
- nhà bác học người Đức, một trong những người sáng lập ra trường phái lịch sử pháp luật La mã thời đó, đã không coi sở hữu là một quyền tuyệt đối về chiếm hữu Theo ông, việc “nắm giữ” là cơ sở của bất cứ loại hình sở hữu nào; một người nắm giữ một đồ vật là ở trong điều kiện có khả năng ngăn chặn hay loại trừ bất kỳ một người nào khác tác động về mặt vật chất lên nó Khía cạnh đáng chú ý nhất của
sự nắm giữ, theo Savigny là: nó không phải là một khái niệm pháp lý hay pháp quy, nó cũng không phải là một pháp luật, mà đúng hơn, nó
là cái nền hay điều kiện cho sự xây dựng pháp luật
C.Mác và Ph.Ängghen - những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã tiếp thu một cách có chọn lọc những quan điểm nêu trên về sở hữu Điểm mà các ông tiếp thu ở đây là: sở hữu trước hết đó là sự chiếm hữu đối với những công cụ lao động và sản phẩm
lao động Tuy nhiên, tư tưởng “chiếm hữu” ở các ông có sự biến đổi
rõ rệt Các ông khẳng định rằng, sở hữu không phải là bất kỳ sự
chiếm hữu nào, bởi vì sở hữu là quan hệ xã hội và do đó, sở hữu là sự chiếm hữu mang tính chất xã hội
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm sở hữu trong tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen, cần lưu ý một điều rằng, đối với các ông, sở
hữu không phải là mục đích mà chỉ là điều kiện, phương tiện của sản
Trang 24xuất Các ông không hề có ý định đặt thành vấn để “sở hữu là gì?” do
đó các ông không dành riêng một tác phẩm nào để nói về khái niệm
sở hữu Tuy vậy, khi phân tích, nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các ông đã buộc phải nghiên cứu vấn để sở hữu và không thể không để cập đến các khái niệm sở hữu Chính vì vậy,
chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều khái niệm về sở hữu mà các ông đã
đưa ra ở một loạt tác phẩm của mình như: “Tư bản”, “Sự khốn cùng của triết học”, “Bàn về Pruđông”, “Bản thảo kinh tế triết học năm 1844”, “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, “Hệ tư tưởng Đức,” v.v và một loạt thư từ, bài báo khác Qua việc tổng hợp các ý
kiến mà các nhà kinh điển đã nêu ra trong các tác phẩm nói trên,
chúng tôi có thể đi đến một số nhận định sau đây:
Thứ nhất, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, không có một khái
niệm sở hữu riêng biệt nằm ngoài quan hệ xã hội Chúng ta sẽ làm rõ
nhận định này bằng cách trở lại với tác phẩm của C.Mác “Bàn về Pru-
đông” Trong tác phẩm này, khi phê phán các nhà kinh tế học tư sản trong cách đặt vấn đề vẻ sở hữu, C.Mác đã chỉ ra rằng, Pruđông đã bộc lộ sai lầm ngay trong cách đặt nhan để cuốn sách của mình “Sở
hữu là gì?” Sai lầm của Pruđông là ở chỗ coi sở hữu là một khái
niệm riêng biệt, một quan hệ độc lập nằm ngoài những quan hệ xã hội Trong thư gửi A-nen-cốp ngày 28/12/1846, C.Mác có viết: “khi
định nghĩa sở hữu là một quan hệ độc lập thì ngài Pruđông đã phạm
phải một điều tồi tệ hơn là sai lầm có tính chất phương pháp luận:
ông ta đã tỏ ra không hiểu mối liên hệ đã gắn bó tất cả các hình thức của nền sản xuất tư sản; ông ta đã tỏ ra không hiểu tính chất lịch sử
và tính chất nhất thời của các hình thức sản xuất trong một thời đại
nhất định .”! Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sở hữu nằm trong quan
hệ xã hội của một nền sản xuất nhất định, cho nên các ông cho rằng, nếu muốn định nghĩa sở hữu như là một quan hệ độc lập, một phạm
1_C.Mác và Ph.Ängghen Toàn tập, t.27, H, Nxb CTQG, 1996, tr 662-663.
Trang 25trù riêng biệt, một ý niệm trừu tượng và vĩnh cửu, thì như thế chỉ là sa vào
một ảo tưởng siêu hình hay mang tính chất luật học mà thôi
Thứ hai, với quan niệm nói trên, C,Mác và Ph.Ăngghen khẳng
định rằng; sở hữu là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác có viết: “Trong
mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau,
và trong một loạt những quan hệ xã hội hoàn toàn khác nhau”! Do vậy, khi định nghĩa về sở hữu (C.Mác nói về sở hữu tư sản), thì sở
hữu “không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã
hội của sản" xuất Từ đó C.Mác đã chỉ ra phương pháp luận để
nghiên cứu khái niệm sở hữu, đó chính là việc phân tích nên sản xuất
xã hội Chỉ có dựa vào việc nghiên cứu những điều kiện vật chất của đời sống xã hội mới cụ thể đưa ra được định nghĩa về sở hưũ và chỉ ra
vị trí, vai trò của nó trong hệ thống các mối quan hệ xã hội nói chung
Thứ ba, sở hữu là quan hệ đối với những điều kiện của sản
xuất Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cơ sở của sở hữu là mối quan hệ qua lại của con người đối với tư liệu sản xuất Phương thức chiếm hữu tư liệu sản xuất quy định phương thức chiếm hữu sản phẩm làm
ra Hơn nữa, các quan hệ kinh tế của sự chiếm hữu những vật phẩm
tiêu dùng cho sản xuất và phi sản xuất cũng không tồn tại bên ngoài
những giai đoạn tái sản xuất xã hội, mà lại tạo ra nội dung hiện thực
của những giai đoạn ấy Chính vì vậy, trong “Phê phán khoa kinh tế chính trị” C.Mác đã viết “chúng tôi quy sở hữu ấy thành quan hệ đối
với những điều kiện của sản xuất” Mối quan hệ đó là mạch khởi
nguồn và cơ bản của con người trong quá trình sản xuất và chiếm hữu của cải vật chất Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và
1_C.Mác và P:.Ăngghen Toàn tập, ¡.3, Nxb CTQG, H, 1995, tr 234-235
2 Sdd, tr, 234-235
3 C.Mác và Ph.Ăng shen Toàn tập, t.46 Phan I Nxb CTQG, H, 1998, tr 783.
Trang 26Ph.Ăngghen đã nhiều lần chỉ ra rằng, bản thân vật thể, vật dụng không thể là sở hữu Sở hữu chỉ có thể tồn tại ở nơi mà ở đó con
người có những mối quan hệ nhất định với nhau trong quá trình sản xuất và chiếm hữu những vật dụng đó Nhưng khi xem xét sở hữu như
là một hình thức chiếm hữu của cải vật chất thì không thể chỉ dừng
lại ở chỗ hiểu được tính chất tự nhiên của chiếm hữu Vấn đề là ở chỗ, một số nhà kinh tế học tư sản, bảo vệ cho chế độ tư hữu, đã cố tình đồng nhất khái niệm “sở hữu” với việc “chiếm hữu những vật dụng của tự nhiên” Bởi vậy, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
trước khi đưa ra luận dé xoá bỏ chế độ tư hữu, C.Mác - Ph.Ăngghen
đã dé cập đến hai phạm trù “sở hữu” và “chiếm hữu” Nghiên cứu
những nội dung được trình bày trong tác phẩm này, tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, và một số tác phẩm khác của C.Mác và Ph.Ăngghen có liên quan đến hai phạm trù
nêu trên có thể hiểu: “chiếm hữu” là hành vi tất yếu tự nhiên của con người để tồn tại Khi “chiếm hữu” là quan hệ mang tính chất tự nhiên (như việc người ta chiếm lấy không khí, áng sáng, năng lượng mặt
trời và và những tặng vật của rừng nguyên sinh v.v ), thì đó chính là quan hệ giữa con người với tự nhiên, là quan hệ tất yếu, vĩnh viễn
trong các giai đoạn lịch sử của nên sản xuất xã hội Xét về góc độ lịch sử thì chiếm hữu có trước sở hữu C.Mác đã viết: “Người ta, trên thực tế bắt đầu từ chỗ chiếm hữu những vật dụng của thế giới bên
ngoài làm tư liệu để thoả mãn những nhu cầu của bản thân, v.v và
v.v rồi sau họ mới đi tới chỗ dùng ngôn ngữ tiếp tục đánh dấu
chúng là tư liệu để thoả mãn những nhu cầu của minh”’ Mặt khác,
khi “chiếm hữu” mang tính chất xã hội, thì đó là quan hệ giữa người với người về đối tượng của sự chiếm hữu Khi “chiếm hữu” được xem
xét từ góc độ thứ hai thì đó chính là “sở hữu” Như vậy, “sở hữu”
chính là mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu của
! C.Mác và Ph.Ängghen Toàn tập, t.7 Nxb CTQG, H, 1995, tr 539.
Trang 27cải vật chất xã hội, là quan hệ kinh tế khách quan, là điều kiện của sản xuất và được thực hiện về mặt kinh tế thông qua quá trình tái sản
xuất xã hội Và như đã nêu ở phần trên, sở hữu vận động và biến đối
theo sự thay đổi của những điểu kiện kinh tế - xã hội trong một không gian và thời gian nhất định
Việc phân biệt hai phạm trù “sở hữu” và “chiếm hữu” có ý nghĩa nhiều mặt: một là, thừa nhận sở hữu là quan hệ xã hội luôn có
sự biến đổi không ngừng, do đó cần phải có những cách tiếp cận linh hoạt, phù hợp với sự biến đổi đó Muốn hiểu được quan hệ sở hữu thì phải phân tích sự vận động của điều kiện kinh tế xã hội, bởi vì sở hữu cũng vận động và biến đổi theo sự vận động của điều kiện kinh tế -
xã hội đó Điều đó đòi hỏi nhận thức của con người phải luôn luôn mềm dẻo, linh hoạt và khách quan mới phản ánh đúng những biến đổi của thực tiễn, của lịch sử sinh động Hiểu “sở hữu” quá đơn thuần,
hay tiếp thu một cách quá cứng nhắc, giáo điều về các hình thức sở
hữu sẽ dẫn đến sai lầm, khủng hoảng trong thực tiễn và bế tắc trong
lý luận Hai là, nếu lẫn lộn hai phạm trù “sở hữu” và “chiếm hữu” sẽ
trượt sang cách hiểu tầm thường, biện hộ cho chế độ tư hữu, coi chế
độ tư hữu cũng tổn tại vĩnh viễn như “chiếm hữu” tự nhiên Con
người muốn tổn tại và duy trì hoạt động sản xuất xã hội, bao giờ cũng cần phải có quan hệ chiếm hữu Chiếm hữu là nhu cầu, là bản năng
sinh tổn của con người Còn sở hữu là một trong những hình thức biểu hiện về mặt xã hội của quan hệ chiếm hữu Ứng với một tình trạng và trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, có một hình thức
sở hữu thống trị phù hợp với nó Vì thế, coi chế độ tư hữu cũng tồn tại vĩnh viễn như “chiếm hữu” theo C.Mác và Ph.Ăngghen là một sự nhầm lẫn phản khoa học
Như vậy, qua những phân tích tích nêu trên, theo quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít, “chiếm hữu” là khái niệm gốc của “sở hữu” Song, “sở hữu” có nội dung, phạm vi, qui mô rộng lớn hơn g
Trang 28“chiếm hữu” Tuy các ông không đưa ra một định nghĩa nào đầy đủ
về sở hữu, nhưng rải rác ở đây đó trong các tác phẩm của mình các ông cũng đã đưa ra một số khái niệm cơ bản về sở hữu Chẳng hạn,
trong tác phẩm “Phê phán khoa kinh tế chính trị” C.Mác viết:
“Sở hữu ban đầu không có ý nghĩa gì khác hon là quan hệ của
con người đối với các điều kiện tự nhiên của sản xuất của con
người”! Hay ở đoạn khác trong cùng tác phẩm đó ông nêu: “sở hữu,
do đó, ban đầu có nghĩa là (và nó là như vậy dưới các hình thái sở
hữu châu Á, Xla-vơ, cổ đại, kiểu Đức) quan hệ của chủ thể lao động (chủ thể sản xuất hay tái sản xuất ra bản thân) đối với những điều:
kiện của hoạt động sản xuất hoặc tái sản xuất của mình như là những điều kiện của chính mình”? Tiếp đó ông đã đưa ra một định nghĩa mà theo chúng tôi thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của khái niệm sở hữu Ông viết: “Sở hữu của người ấy, nghĩa quan hệ đối với những
tiền để tự nhiên của sản xuất mà người ấy tiến hành như là những điều kiện tự nhiên thuộc về người ấy, như là những điều kiện của
chính mình,- sở hữu ấy biểu hiện một cách gián tiếp, bằng cách là bản thân nó là thành viên tự nhiên của công xã Ngôn ngữ với tư cách là sản phẩm của từng người riêng lẻ là một điều phi lý Nhưng
sở hữu thì cũng như vậy”? Ở đây, khái niệm sở hữu thể hiện những
đặc trưng cơ bản đó là: quan hệ của con người đối với tư liệu sản
xuất, sở hữu là điều kiện của sản xuất và là sự chiếm hữu mang tính
xã hội Sở hữu luôn luôn gắn liên với vật dụng - đối tượng của sự chiếm hữu Đồng thời sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa con người với nhau về vật dụng Cho nên nói đến
sở hữu là nói đến chủ thể sở hữu và đối tượng sở hữu C.Mác đã viết
“sở hữu có nghĩa là một cá nhân thuộc về một bộ lạc nào đó (tập thể nào đó) (có nghĩa là có được trong bộ lạc đó một cơ sở cho sự tồn tại
1C.Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, t.46, phân I Nxb CTQG, H, 1998, tr 781
?C.Mác - Ph.Ängghen Sđd, tr 789
3 Sdd, tr 778-779.
Trang 29chủ thể - khách thể của mình), và thông qua quan hệ của tập thể này
đối với đất đai như là vật thể vô cơ của mình, - sở hữu đó có nghĩa là
quan hệ của cá nhân đối với đất đai, đối với điều kiện bên ngoài ban
đầu của sản xuất (bởi vì ruộng đất đồng thời còn là nguyên liệu, là
công cụ, là thành quả) như là tiền để không thể thiếu được của cá tính
của con người, như là phương thức tổn tại của cá tính ấy”' Như vậy, chỉ có thông qua mối quan hệ chủ thể sở hữu - khách thể sở hữu thì
sở hữu mới tồn tại Chủ thể sở hữu (hay chủ sở hữu) là người có
quyền chiếm hữu đối tượng (hay khách thể) sở hữu Chủ thể sở hữu
bao giờ cũng là một người cụ thể hoặc một cộng đồng người cụ thể
Đối tượng sở hữu là thực thể vật chất biểu hiện dưới dạng tự nhiên,
đất đai, năng lượng, của cải vật chất, tư liệu sản xuất, sức lao động,
tư bản Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy đối tượng của sở hữu luôn biến đổi Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đối tượng
chủ yếu của sở hữu là người nô lệ (công cụ biết nói), đàn gia súc và một bộ phận đáng kể đất đai Chủ nô - là chủ sở hữu Dưới chế độ phong kiến, đối tượng chủ yếu của sở hữu là đất đai, địa chủ là chủ
sở hữu Đến chủ nghĩa tư bản - đối tượng của sở hữu có sự biến đổi phong phú và đa dạng: đó là tư liệu sản xuất, gid tri thang dw Trong giai đoạn hiện nay thì - thông tin là dạng đặc biệt của đối tượng sở hữu Trong chủ nghĩa xã hội, tức là khi mà giai cấp công nhân được giải phóng thực sự thì theo Mác, đối tượng của sở hữu là toàn bộ tư liệu lao động và sản phẩm lao động, và chủ sở hữu chính là những người lao động Việc xác định đúng đối tượng sở hữu và chủ thể sở hữu là rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Nếu chỉ nói đến sở hữu tư liệu sản xuất mà không đề cập đến sở hữu sức lao động và quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất thì đó là sự nhận thức không đầy đủ Sức lao động luôn luôn là
sở hữu riêng của từng người lao động Khác với tư liệu sản xuất, nó
1 C,Mác và Ph.Ängghen Toàn tập, t.46, Phần I Nxb CTQG, H, 1998, tr 783.
Trang 30không bao giờ công hữu hoá được Vì vậy cần phải chú ý đến đặc
điểm này khi kết hợp nó với tư liệu sản xuất đã được công hữu hoá
Khi xác định chủ thể sở hữu cũng cần phải cụ thể hoá nó Nếu không
xác định rõ chủ thể sở hữu sẽ dẫn đến sở hữu hình thức, kém hiệu
quả Chẳng hạn, khái niệm “sở hữu công cộng”, nếu hiểu đơn thuần là
“đồng chủ sở hữu” thì trở thành một khái niệm trừu tượng hư vô Chính nó
đã dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, “không là của ai”
Tìm hiểu khái niệm sở hữu, phải nhận thức được nội dung của
nó Sở hữu luôn có hai nội dung kinh tế và pháp lý, bởi vì, dù nó tồn tại dưới hình thức nào thì cũng luôn phản ánh các mối quan hệ kinh
tế, giai cấp, quan hệ xã hội và pháp lý nhất định Nhìn vào một chế
độ sở hữu nhất định nào đó người ta có thể biết ngay được xã hội đó
do giai cấp nào thống trị, quan hệ kinh tế, chính trị giữa các giai cấp
xã hội thế nào, xã hội đó bảo vệ lợi ích cho ai Cũng bởi vậy nên sở hữu vừa là phạm trù kinh tế vừa là phạm trù pháp lý
Nội dung kinh tế của sở hữu trước hết thể hiện ở chỗ, nó là cơ
sở, là điều kiện của sản xuất Nói đến sở hữu là nói đến sản xuất, đến
những điều kiện của sản xuất, của kinh tế Điều đó đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen nói đến rất nhiều trong các tác phẩm của mình Chẳng
hạn, trong “Lời nói đầu” viết cho các bản thảo kinh tế 1857-1858
C.Mác viết rằng “sở hữu (sự chiếm hữu) là một điều kiện của sản xuất”, và “nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả”!, bởi vì, theo ông, “một
sự chiếm hữu mà không chiếm hữu gì cả là một sự mâu thuẫn ngay
trong vấn đề Mặt khác, nội dung kinh tế của sở hữu là xét về mặt lợi
ích kinh tế, mặt quyền lợi vật chất, là xem sở hữu đã đem lại lợi ích kinh tế như thế nào cho chủ sở hữu, lợi ích kinh tế đó là gì, bao nhiêu v.v Đây là nội dung cơ bản nhất, có tính chất quyết định Trong
“Báo cáo của Tổng hội về quyển thừa kế” C.Mác có viết: “Ruộng đất
1 C.Mác và Ph.Ängghen Toàn tập, t.12, Nxb CFQG, H, 1993, tr 860.
Trang 31đem lại cho người sở hữu lúc còn sống quyển chiếm đoạt thành quả lao động của người khác, dưới hình thức địa tô mà không hề phải bồi thường Tư bản đem lại cho người sở hữu cũng chính cái quyền chiếm
đoạt thành quả lao động của người khác như vậy dưới hình thức lợi
nhuận và lợi tức Quyền sở hữu các chứng khoán có giá của nhà nước
đem lại cho người chủ khả năng sống dựa vào thành qủa lao động của người khác mà không phải lao động”! Theo C.Mác, người nào đã là chủ sở hữu một đối tượng sở hữu nhất định thì người đó được hưởng
lợi về mặt kinh tế từ đối tượng sở hữu đó Trong tác phẩm “Tư bản” C.Mác khẳng định rằng, quyền sở hữu đó là một nguồn thu nhập Nó
là một chứng thư, một phương tiện cho phép kẻ sở hữu điều kiện sản
xuất đó có thể chiếm đoạt trong lĩnh vực sản xuất mà đối tượng sở
hữu của họ tham gia với tư cách là một điều kiện sản xuất, một phần lao động không trả công Ngay cả khi người chủ sở hữu không phải là
người sử dụng trực tiếp đối tượng sở hữu ấy vẫn được hưởng lợi về
mặt kinh tế C.Mác viết: “Người sản xuất trực tiếp, cũng như trước là
người chiếm hữu ruộng đất, do kế thừa hay nói chung do truyền thống anh ta phải cung cấp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hưũ điều kiện sản xuất chủ yếu nhất một số lao động cưỡng bức đôi ra, - tức là một số lao động không công và không được trả bằng hiện vật ngang giá,
dưới hình thái một sản phẩm thặng dư đã chuyển hoá thành tiền”2
Nội dung pháp lý của sở hữu là xét về mặt chính trị, mặt tĩnh
thần, mặt quyền hạn pháp lý được pháp luật quy định và bảo vệ đối
với chủ thể sở hữu Trong tác phẩm “Quốc hữu hoá ruộng đất” C.Mác
đã nhận định rằng, trong tiến trình lịch sử, những kẻ chiếm đoạt đều nhận thấy cần phải thông qua những luật pháp do chính bản thân họ
đặt ra, để đem lại một tính ổn định xã hội (sự thừa nhận) nào đó cho cái quyền nguyên thuỷ này sinh ra từ sức mạnh thô bạo Cho nên, theo C.Mác, những quan hệ sở hữu tư sản hiện đại được duy trì là nhờ
1 C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, t.16, Nxb CTQG, H, 1994, tr 497
?C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, t.25, phần II Nxb CTQG, H, 1994, tr 508-509.
Trang 32pháp luật do giai cấp tư sản đặt ra để bảo vệ những quan hệ sở hữu của nó Trong “Lời nói đầu” viết cho bản thảo kinh tế chính trị 1857-
1858 C.Mác đã nêu hai điểm cơ bản mà các nhà kinh tế học đặt ra đó
là: “1) sở hữu, 2) việc bảo vệ sở hữu bằng bộ máy tư pháp, cảnh sát
v.v ”1, Và ông khẳng định “hình thái sản xuất đều sản sinh ra những
quan hệ pháp lý”? Như vậy sở hữu chính là sự thống nhất giữa các
quan hệ pháp lý với các quan hệ kinh tế đang vận động trong hiện
thực xã hội
Hai nội dung nêu trên của sở hữu có quan hệ biện chứng với nhau Sở hữu với tính cách là một quan hệ pháp lý nó luôn phản ánh các quan hệ kinh tế Song khác với các quan hệ kinh tế khách quan của sở hữu, quan hệ pháp lý của sở hữu luôn được xác lập phụ thuộc vào ý chí và nhận thức của con người tham giả vào quan hệ ấy Mặc
đù là sự phản ánh được qui định bởi các quan hệ kinh tế, các quan hệ của pháp lý vẫn tôn tại một cách tương đối độc lập Quan hệ pháp lý
có tính thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động của quan hệ sở hữu Hơn
nữa, quan hệ sở hữu không thể tự mình vận hành một cách rõ ràng mà phải thông qua hệ thống pháp lý thì sở hữu mới được thể chế hoá Song về nguyên tắc, không phải quan hệ pháp lý quyết định sự tồn tại
và tính chất của quan hệ sở hữu, mà ngược lại, chính sự đòi hỏi khách quan của quan hệ sở hữu phát triển đến trình độ nhất định đồi hỏi có
những quan hệ pháp lý thích hợp, đúng như Ph.Ăngghen nêu trong tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội pháp lý” đã khẳng định: “mọi khái niệm pháp lý, chính trị, triết học tôn giáo và những khái niệm tương tự của
con người, xét đến cùng, đều do những điều kiện kinh tế của đời sống con người, phương thức sản xuất và sự trao đổi sản phẩm của họ, quyết định”3, Trong khi đó, nội dung kinh tế của sở hữu lại luôn vận
động và biến đổi do sự phát triển của lực lượng sản xuất Vì vậy, nếu
1C,Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, t.12, Nxb CTQG, H, 1993, tr 860
2 Sdd, tr 861
3 C.Méc - Ph.Angghen Toan tap, 21, Nxb CTQG, H, 1995, tr 694.
Trang 33không tìm kiếm, lựa chọn những hình thức pháp lý thể hiện nội dung
kinh tế của sở hữu cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng chính là vi phạm các qui luật kinh tế khách quan
Nói tóm lại, nhận thức về sở hữu là phải nhận thức đúng cả hai nọi dung kinh tế và pháp lý của nó trong mối quan hệ biện chứng
Như đã nêu ở trên, theo các nhà kinh điển mác-xít, sở hữu về
thực chất là quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người đối với việc chiếm hữu của cải xã hội, trước hết là tư liệu sản xuất và kết quả của lao động sản xuất Bởi vậy, khi nói đến khái niệm sở hữu, cũng
đồng thời là nói đến quan hệ sở hữu Quan hệ sở hữu là các quan hệ thể hiện sự chiếm hữu tư liệu sản xuất, thể hiện sự “tha hoá của người
lao động” trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất của họ Nói cách khác, đây là những quan hệ nói lên khoảng cách giữa kẻ chiếm hữu
và người sản xuất đối với tư liệu sản xuất và kết quả của lao động sản
xuất Như vậy, quan hệ sở hữu chính là quan hệ sản xuất chứ không phải là quan hệ ý chí Điều đó đã được C.Mác khẳng định trong tác
phẩm “Bàn về Pruđông”: “Những quan hệ sở hữu ấy, không phải
trong biểu hiện pháp quyền của chúng với tư cách là những quan hệ ý chí, mà là trong hình thái hiện thực của chúng, tức với tư cách là
„1
những quan hệ sản xuất” Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu
là bộ phận cơ bản quyết định các quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối Người nào sở hữu tư liệu sản xuất, thì người đó có quyền quyết
định phương thức tổ chức, quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm
Trong “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” C.Mác đã viết: “Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm trong tay những kẻ không lao động, dưới hình thức sở hữu tư bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng thì chỉ là kẻ
sở hữu những điều kiện người của sản xuất, tức là sức lao động Nếu những yếu tố của sản xuất được phân phối như thế thì việc phân phối
‡C,Mác - Ph.ĂÄngghen Toàn tập, t.16, Nxb CTQG, H, 1994, tr 42.
Trang 34hiện nay về tư liệu tiêu dùng tự nó cũng do đó mà ra Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là nhờ sở hữu tập thể của bản thân những người lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối những tư liệu tiêu
dùng khác với sự phân phối hiện nay”!
Qua phân tích nêu trên của Mác về phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, chúng ta có thể hiểu rằng quan hệ sở hữu là bộ phận cấu
thành có tính quyết định trong quan hệ sản xuất, và do đó nó cũng phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất C.Mác đã chỉ ra rằng “bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan
hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực
lượng sản xuất mới”? Điều đó được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng
định rõ hơn trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”: “Sự chiếm hữu đó trước hết được qui định bởi đối tượng cần chiếm hữu, ở đây là những
lực lượng sản xuất đã phát triển thành một tổng thể xác định và chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến Dưới góc độ này,
sự chiếm hữu đó đã nhất thiết phải có tính chất phổ biến, phù hợp với
những lực lượng sản xuất và với sự giao tiếp” Việc nhận thức đúng qui luật đó có một ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa Tuy nhiên, trước đây nhiều người cộng sản
do không nhận thức được như vậy nên dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý
chí, nóng vội xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu một
cách hình thức, làm cẩn trở sự phát triển của lực lượng sản xuất Thậm chí ở nước ta trước đây còn thịnh hành một quan điểm sai lầm cho rằng có thể và cần phải sử dụng tính chủ động của chuyên chính
vô sản để đưa quan hệ sở hữu đi trước một bước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển Việc chúng ta dùng các biện pháp hành
chính (chứ không phải bằng biện pháp kinh tế) để thủ tiêu hét thay mọi hình thức khác nhau của tư hữu đã làm suy giảm đến mức đáng
1C.Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, t.19, Nxb CTQG, H, 1995, tr 37
? C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, t.4, Nxb CTQG, H, 1995, tr 467
3 C,Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, t3, Nxb CTQG, H, 1995, tr 97.
Trang 35kể sự phát triển và ổn định của nền kinh tế xã hội Chúng ta đã không
coi trọng đúng mức những chỉ dẫn vô cùng quan trọng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về quan hệ sở hữu, rằng “chỉ có công nghiệp lớn mới có
khả năng xoá bỏ được sở hữu tư nhân”, hoặc “chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”
Quan hệ sở hữu không những là quan hệ sản xuất, mà còn là quan hệ xã hội, là quan hệ giữa con người với con người về đối tượng chiếm hữu Chính vì vậy quan hệ sở hữu cũng mang tính giai cấp Giai cấp nào nắm quyền thống trị thì dùng nhà nước mà giai cấp đó dựng lên để bảo vệ quan hệ sở hữu của giai cấp đó Cho nên vấn để sở hữu bao giờ cũng là vấn để sống còn của giai cấp này hay giai cấp
khác C.Mác viết: “Ở thế kỷ XVII và thế kỷ XVII, khi vấn đề đặt ra
là thủ tiêu những quan hệ sở hữu phong kiến thì vấn đề sở hữu là vấn
để sinh tử của giai cấp tư sản Ö thế kỷ XIX, khi vấn để đặt ra là thủ
tiêu những quan hệ sở hữu tư sản thì vấn để sở hữu là vấn để sống còn của giai cấp công nhân”Ẻ Vào thời C.Mác và Ph.Ăngghen, các
ông chủ yếu phân tích quan hệ sở hữu tư sản, trong đó những nhà tư bản là những người chiếm hữu tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, còn giai cấp vô sản thì bị tước đoạt mọi quyển sở hữu vẻ tư liệu sản xuất Các ông cũng đã chỉ ra rằng, việc mất quyển sở hữu này trở
thành tài sản chuyển cho các thế hệ sau thừa hưởng không hề thay
dodỏi và giai cấp vô sản không thể tìm thấy sự thể hiện mọi mặt những điều kiện sống còn của họ trong ảo tưởng pháp lý của giai cấp
tư sản Do đó giai cấp vô sản chỉ có thể giải phóng mình nếu họ xoá
bỏ quan hệ sở hữu tư sản
Khi tìm hiểu khái niệm sở hữu, chúng ta cũng cần xem xét thuật ngữ “chế độ sở hữu” Nhiều ý kiến cho rằng, quan hệ sở hữu
! C.Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, t.3, Nxb CTQG, H, 1995, tr.95
2 Sdd, 1.4, tr 469
3 C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tap, t.4, Nxb CTQG, H, 1995, tr 428
Trang 36được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, kể cả các quy định dưới luật
thì tạo nên chế độ sở hữu Thuật ngữ “chế độ sở hữu” được C.Mác và
Ph.Ăngghen dùng đến rất nhiều trong các tác phẩm của mình, chẳng
hạn như “chế độ sở hữu tư nhân”, “chế độ sở hữu công cộng”, “chế >
độ sở hữu của giáo hội”, “chế độ sở hữu của phong kiến”, “chế độ sở hữu nông dân” v.v Tuy nhiên các ông chưa đưa ra một định nghĩa
cụ thể nào, mà chỉ đi sâu vào việc phân tích chế độ tư hữu tư sản Các
ông cho rằng “chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và đây đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”! Qua những ý kiến mà các ông nêu về chế
độ sở hữu trong các tác phẩm của mình, chúng ta có thể hiểu rằng,
ứng với mỗi phương thức sản xuất nhất định thì có một chế độ sở hữu
thống trị tương ứng Các ông còn chỉ ra rằng, “xã hội chính là gốc rễ của chế độ sở hữu”, Chế độ sở hữu nảy sinh từ những quan hệ xã hội, có xã hội mới có chế độ sở hữu và chế độ sở hữu được tồn tại và
duy trì thông qua hệ thống pháp luật
Do C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đưa ra định nghĩa cụ thể nào về chế độ sở hữu, hơn nữa do cách dùng thuật ngữ (có thể do công việc dịch thuật từ nguyên bản sang tiếng Việt không được chuẩn xác) nên
trong giới nghiên cứu ở Việt Nam có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chế độ sở hữu , nhất là thuật ngữ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, chế độ sở hữu bao gồm tất cả
các loại hình sở hữu tồn tại trong chế độ xã hội đó Chẳng hạn, chế
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa bao gồm tất cả các loại sở hữu (của các
thành phần kinh tế) tôn tại trong thời kỳ quá độ, vì có định hướng lên
chủ nghĩa xã hội Loại ý kiến thứ hai cho rằng trong một chế độ xã hội có nhiều loại chế độ sở hữu Chẳng hạn, ở thời kỳ quá độ có nhiều loại chế độ sở hữu như chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, chế độ
1 C,Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, t.4, Nxb CTQG, H, 1995, tr 615
? C.Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, t.26, phần I Nxb CTQG, H, 1995, tr 490.
Trang 37sở hữu tư nhân Theo cách hiểu này thì chế độ sở hữu đồng nhất
với hình thức sở hữu Theo cách hiểu của chúng tôi thì (trong một phương thức sản xuất chỉ có một chế độ sở hữu thống trị, và nó bao
gồm tất cả các loại sở hữu Trong mỗi loại sở hữu có nhiều hình thức,
qui mô, cấp độ khác nhau
Bởi vì “xã hội ” là gốc rễ của chế độ sở hữu, cho nên nói đến
một chế độ sở hữu là phải gắn nó với một thượng tầng kiến trúc nhất
định Chế độ sở hữu thông qua những hình thức pháp lý bao hàm các quan hệ sở hữu trong đó gồm nhiều mối quan hệ như của ai? ai sở hữu? ai quản lý, kinh doanh (sử dụng)? v.v và thực hiện lợi ích
kinh tế như thế nào? Dưới hình thức nào? Với mức độ nhận thức như vậy, người ta đã dé ra các thuật ngữ: quyền chiếm hữu, quyển sử
dụng, quyển định đoạt, quyền chỉ phối v.v C.Mác và Ph.Ăngghen không nêu định nghĩa cụ thể về quyển sở hữu nói chung, nhưng các
ông đã nêu những nét chung nhất về nó, rằng trong mỗi thời đại lịch
sử, quyển sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt
những quan hệ xã hội hoàn khác nhau Do đó các ông đã định nghĩa
về quyền sở hữu tư bản như sau: “Quyền sở hữu tư bản không phải là
gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư
bản”! Quyển sở hữu có tính chất phái sinh, nó là kết quả của một phương thức sản xuất nhất định C.Mác đã phân tích những biểu hiện của quyển sở hữu trong phương thức sản xuất tư bản Ông viết: “Về phía nhà tư bản, quyền sở hữu thể hiện ra là quyển chiếm hữu lao động không công của người khác, hay sản phẩm của lao động đó, còn
phía người công nhân thì quyền đó lại có việc không thể chiếm hữu
được sản phẩm của chính mình”? Khi nghiên cứu về quyển sở hữu, trong các tác phẩm của mình, các nhà kinh điển đã dùng các khái
oF 66
niệm “quyền sử dụng”, “quyền định đoạt”, “quyền chiếm hữu”
1 C Mác - Ph Ẩngøhen Toàn tâp, t.4 Nxb CTOG H 1995, tr 234
2 C.Mác:- Ph.Ăngghen Toàn tập, t.23, Nxb CTQG, H, 1993, tr, 824 -?3-824.:
Trang 38Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên, bao trùm của sở hữu Nó tương đối ổn định, tĩnh, tại, nhưng đôi khi chỉ là quyển danh nghĩa
Đó là trường hợp chủ sở hữu không thực hiện nó, không sử dụng nó,
mà lại giao nó cho người khác và chỉ giữ quyền thu nhập và sở hữu
Điều này được C.Mác nói rất rõ khi phân tích về lợi tức và địa tô
trong cuốn “Tư bản” Ông viết: “Một trong những kết quả lớn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là nó hoàn toàn tách ruộng đất với tư cách là tư liệu lao động khỏi quyền sở hữu ruộng đất và người sở hữu ruộng đất; đối với người này thì ruộng đất không có ý
nghĩa gì khác hơn là một khoản thuế bằng tiền mà độc quyền của hắn
cho phép hắn thu được của nhà tư bản công nghiệp, tức là người Phéc-mi-ê; phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã cắt đứt mọi mối liên hệ giữa người sở hữu ruộng đất với ruộng đất, đến mức là người
chủ đất có thể suốt đời sống ở Công-xtăäng-ti-nô-phơ, trong khi ruộng đất của hắn lại nằm ở Xcốt-len”"
Qua phân tích nêu trên của C.Mác, chúng ta nhận thấy rằng,
không phải bao giờ quyền sở hữu và quyền sử dụng đối tượng sở hữu
cũng thống nhất ở một người Thế có nghĩa là người sử dụng đối tượng sở hữu có thể không phải là người chủ sở hữu, hoặc ngược lại, người chủ sở hữu có thể không phải là người sử dụng đối tượng sở hữu (vì đã chuyển quyền sử dụng đó cho người khác rồi)
Khái niệm quyển định đoạt đã được C.Mác và Ph.Ăngghen dé cập đến trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Theo các ông, quyền định đoạt có liên quan chặt chẽ với quyền sử dụng Các ông viết: “quyền
sử dụng và lạm dụng, tức là quyền định đoạt theo ý mình”?
Như vậy, quyển định đoạt là quyển thực hiện toàn diện đối với
đối tượng với đối tượng sở hữu Quyền định đoạt đem lại cho chủ thể quyển va khả năng sử dụng đối tượng sở hữu theo bất cứ cách nào
1 C,Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, t.25, phần H Nxb CTQG, H, 1994, tr 244-245
? C.Mác - Ph.Ängghen Toàn tập, 1.3, Nxb CTQG, H, 1995, tr 91.
Trang 39Chủ thể của quyền định đoạt cũng có khả năng thực hiện những thẩm
quyền cơ bản của người chủ sở hữu: xác định các phương thức sử dụng đối tượng (hay khách thể) sở hữu, ký kết các hợp đổng liên quan đến các đối tượng sở hữu (bán, cho thuê, tặng .) Trên thực tế người chủ sở hữu chỉ thực sự là người chủ sở hữu khi anh ta có quyền hoặc có khả năng hiện thực định đoạt đối tượng sở hữu Do vậy, người sử dụng đối tượng sở hữu cũng có thể là người chủ sở hữu, nếu anh ta có quyền chiếm hữu và quyền định đoạt Về thực chất khi trao hoặc chuyển quyển định đoạt cho người khác, cũng có nghĩa là
chuyển các thẩm quyền sở hữu cho người khác
Như vậy, có thể hiểu quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyển sử dụng và quyền định đoạt Khi phân tích về quyền sở hữu ruộng đất C.Mác đã viết; “Quyền sở hữu ruộng đất giả định rằng đã
có một số người nào đó độc quyền chiếm những bộ phận nhất định của trái đất mà họ có thể sử dụng hoàn toàn theo ý muốn riêng của
họ, và gạt tất cả những người khác ra ngoài Giả định như thế thôi thì vấn để đặt ra là phải làm rõ cái giá trị kinh tế của độc quyển ấy, nghĩa là sử dụng cái độc quyền ấy trên cơ sở sản xuất tư bản chủ nghĩa Quyển lực về mặt pháp lý của những người đó cho phép họ được sử dụng và lạm dụng những phần trên trái đất còn chưa giải
quyết được vấn để gì hết Việc sử dung quyền lực đó hoàn toàn phụ
thuộc vào những điều kiện kinh tế độc lập với ý chí của họ Bản thân quan niệm pháp lý ấy cũng chỉ có nghĩa là người sở hữu ruộng đất có thể sử dụng ruộng đất của họ, cũng như mỗi người sở hữu hàng hoá
ol
đều có thể sử dụng hang hoá của họ”!
Việc phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng có một ý nghĩa
rất quan trọng trong việc cải tiến cơ chế quản lý kinh doanh Về vấn
để này đã được V.I.Lênin chỉ rõ trong tác phẩm “Quyền sở hữu ruộng
‘ C.Méc - Ph.Àngghen Toàn tập, t.25, phần HH, Nxb CTQG, H, 1994, tr 241-242.
Trang 40đất và những kẻ phê phán Mác”, ông viết: “Khi giả định rằng nông
nghiệp tổ chức theo lối tư bản chủ nghĩa, tất nhiên cũng bao hàm cả
cái ý giả định rằng tất cả ruộng đất đều bị các doanh nghiệp tư nhân riêng rẽ, chiếm giữ nhưng tuyệt nhiên không bao hàm cái ý giả định
rằng toàn bộ ruộng đất là tài sản tư hữu của những nghiệp chủ đó hay
của những người khác, hoặc giả định rằng đó là sở hữu tư nhân nói chung Độc quyền về sở hữu ruộng đất dựa trên quyền sở hữu va độc
quyển về kinh doanh ruộng đất là hai việc hoàn toàn khác nhau
không phải chỉ về mặt lôgíc mà cả về mặt lịch sử nữa Về mặt lôgíc, chúng ta hoàn toàn có thể hình dung được nền nông nghiệp tổ chức thuần tuý theo lối tư bản chủ nghĩa, trong đó hoàn toàn không có sở hữu tư nhân về ruộng đất, ruộng đất là sở hữu của nhà nước hay của một công xã v.v Về mặt thực tế, chúng ta thấy rằng, trong tất cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển thì toàn bộ ruộng đất đều do các
doanh nghiệp tư nhân, riêng rẽ chiếm giữ, nhưng các doanh nghiệp đó không những kinh doanh đất đai của mình, mà còn kinh doanh cả ruộng đất thuê của các tư nhân chủ ruộng đất, của nhà nước hay của công xã”!,
Như vậy, theo các nhà kinh điển mác-xít thì bên cạnh loại sở
hữu gắn bó chặt chẽ quyển sở hữu với quyền sử dụng, còn có loại sở hữu tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng Loại sở hữu này hình
thành và phát triển hoàn toàn mang tính khách quan, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội quy định Một
mặt, đó là vì khi lực lượng sản xuất phát triển, bản thân người chủ sở hữu không có đủ khả năng để quản lý điều hành mà lại thấy rằng giao
quyền sử dụng cho người khác thì thấy lợi nhuận cũng không giảm
đi Mặt khác, người được giao quyển sử dụng phải là người giỏi về
chuyên môn, và có trình độ quản lý tốt, phải có hiệu quả hơn người
sở hữu Trong xã hội phong kiến, địa chủ có nhiều ruộng đất đem
phát canh thu tô Trong chủ nghĩa tư bản thì địa chủ cho tư bản thuế
Lenin V.L Toan tap, t.5, M, TB, 1979, tr 139-140.