Như vậy, công nghiệp hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành nước công nghiệp hiện đại với trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, có năng suất lao động cao trong các
Trang 1TIỂU LUẬN THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚCGẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN,
MÔI TRƯỜNGMỤC LỤCLỜI CẢM ƠN
CHƯƠNG 1: CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA GẮN LIỀN VỚI KINH
TẾ TRI THỨC
1 CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA
2 NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
CHƯƠNG 2: KINH TẾ TRI THỨC
1 TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC
A) KHÁI NIỆM
B) XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ TRI THỨC
2 ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ TRI THỨC
3 CÁC NGÀNH KINH TẾ TRI THỨC
4 VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TRI THỨC
5 THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
CHƯƠNG 3: CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG
1 HẬU QUẢ
2 GIẢI PHÁP
ĐÁNH GIÁ CẢ NHÓM
Trang 2LỜI CẢM ƠNTrong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và ngày càng nhanh chóng như hiện nay,quốc gia nào muốn phát triển phải đi nhanh vào nền kinh tế tri thức Bởi vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là bước đi tất yếu mà Việt Nam sẽ phải trải qua Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng đều đưa ra những chủ trương,đường lối, chính sách thiết thực nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay Vậy nên chúng em đã lựa chọn chủ đề này để cùng nhau tìm hiểu,
Trang 3CHƯƠNG 1: CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA GẮN LIỀN VỚI KINH
TẾ TRI THỨC
1 CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA
Lịch sử công nghiệp hóa trên thế giới đã trải qua hàng trăm năm Vào giữa thế kỷ XVIII, một số nước phương Tây, mở đầu là nước Anh đã tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ công sang lao động cơ khí Đây là mốc đánh dấu sự khởi đầu cho tiến trình công nghiệp hóa của thế giới Tuy vậy, phải đến thế kỷ XIX, khái niệm công nghiệp hóa mới được dùng
để thay thế cho khái niệm cách mạng công nghiệp, mặc dù sau cách mạng công nghiệp ở Anh, một thế hệ công nghiệp hóa đã diễn ra ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ
và Nhật Bản
Có thể khái quát, công nghiệp hóa là quá trình tạo sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp với nền kinh tế lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất thấp sang nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại, dựa trên lao động sử dụng bằng máy móc, tạo ra năng suất lao động cao Như vậy, công nghiệp hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành nước công nghiệp hiện đại với trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, có năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân Hiện đại hóa là quá trình tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại
Trong điều kiện của Việt Nam, Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - côngnghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
2 NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Các nước phát triển hiện nay đều chứa đựng trong nó nhiều yếu tố của nền kinh tế tri thức, như nền công nghiệp công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, lao động trí tuệ cóchuyên môn kỹ thuật cao Vì vậy, bước chuyển sang kinh tế tri thức là bước chuyển có tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật chung Việt Nam là nước
Trang 4có nền kinh tế nông nghiệp đang tiến hành công nghiệp hóa để phát triển kinh tế tránh tụt hậu Đội ngũ cán bộ khoa học của Việt Nam có khả năng tiếp cận và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới Trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư, khai thác ứng dụng những thành tựu mới của thời đại nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ phần mềm Như vậy, chúng ta có cơ sở khoa học để đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển kinh tế tri thức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định:
“Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học vàcông nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”
Như vậy, muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần phảinắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại và những yếu tố của nền kinh tế tri thức với phương châm tăng tốc, đi tắt, bỏ qua lối mòn màcác nước đã vượt qua Chủ trương của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh công nghiệphóa, hiện đại hóa và đồng thời phát triển kinh tế tri thức là có căn cứ khoa học, phùhợp với xu thế chung của thời đại Nhưng chủ trương này chỉ thành công khi hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau bằng cách tăng cường đào tạo, sử dụng khuyến khích tăng nhanh tiềm năng tri thứcquốc gia, đầu tư vào các ngành kinh tế tri thức Từ chủ trương “từng bước phát triển kinh tế tri thức” trong Đại hội IX đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Coi kinh tế tri thức là yếu tố quyết định của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Báo cáo chính trị tại Đại hội chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh
tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp sử dụng nguồn vốn của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
Trang 5chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, trong điều kiện của thế giới và khu vực có nhiều biến động, với sự xuất hiện nhiều nhân tố mới, trong đó nổi bật là xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển kinh tế tri thức Những nhân tố đó đã có tác động nhiều mặt (cả tích cực và tiêu cực) đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI dự báo, toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ chủ yếu được nêu
ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI là “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”
Như vậy, Đảng ta đã đưa ra đường lối có căn cứ lý luận và thực tế vững chắc để tranh thủ thời cơ phát triển nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại với nền tảng là kinh tế tri thức
Trang 6CHƯƠNG 2: KINH TẾ TRI THỨC
1 TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC
A) KHÁI NIỆM
Nền kinh tế tri thức (Knowledge - Based Economy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vàotri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao Là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin Trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với
sự phát triển kinh tế, xã hội; tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống Kinh tế tri thức là nền kinh tế được phát triển chủ yếu dựa vào tri thức và công nghệ hiện đại Cơ sở của nền kinh tế tri thức là tri thức (thể hiện trong con người và trong công nghệ)
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tri thức là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội Nó được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển nhanh, mang tính đột phá của công nghệ thông tin Sự xuất hiện ngày càng nhiều các sáng kiến, phát minh khoa học, đã tạo ra tính linh hoạt, hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất, cao hơn so với kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội Khái niệm kinh
tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ trước, tiên phongbởi Fritz Machlup và Peter Drucker Trong những thập kỷ qua, đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải thích cơ chế của nền kinh tế này
Năm 1996, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đưa ra khái niệm tổng hợp về kinh tế tri thức: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin" Năm 1999, Ngân hàng Thế giới định nghĩa, “Kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm việc thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho các nhu cầu riêng”
Trang 7Năm 2000, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) đã đưa ra một khái niệm mới hơn và cụ thể hơn: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong
đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế" Năm 2001, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho rằng “Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc tạo ra, phân phối và sử dụng tri thức
và thông tin”
Như vậy, dù tiếp cận theo các góc độ khác nhau, thì bản chất của nền kinh tế tri thức vẫn là vai trò quyết định hàng đầu của tri thức đối với sự phát triển kinh tế Trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội nhằm tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống Theo các chuyên gia kinh tế, sự ra đời và phát triển của nền kinh tri thức là kết quả tất yếu của quá trình phát triển mức độ cao hơn của lực lượng sản xuất xã hội Nó được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) với sự phát triển nhanh, mang tính đột phá của công nghệ thông tin.B) XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ TRI THỨC
Kinh tế tri thức đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới, được nhiều quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển, điển hình như: Mỹ, Canada, Tây Âu, Australia, Nhật Bản, Singapore - nơi các yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức khá cao, trong đó các ngành công nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp trên 40% GDP Cụ thể, theo Báo cáo của nhóm nghiên cứu đặc trách thuộc APEC về kinh tế tri thức cho thấy, tỷ lệ đóng góp các ngành công nghiệp dựa trên tri thức vào GDP ở Singapore 57,9%, Mỹ 55,3%, Nhật Bản 53%, Canada 51% và Australia 48%
Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và ngày càng dựa vào công nghệ, hiệnnay, nhiều quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan… cũng đang đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức Cùng chung xu thế đó, Việt Nam đã và đang thúc đẩy kinh tế tri thức gắn với kinh tế số Ở Việt Nam, quan điểm phát triểnkinh tế tri thức đã được đề cập, bàn bạc từ các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý…và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau từ những năm đầu thời kỳ đổi mới Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và
Trang 8nhiều văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vị trí, vai trò kinh tế tri thức trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, rất coi trọng vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ và đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định: “… Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”.
Trong xu thế toàn cầu hóa và bối cảnh cuộc CMCN 4.0, chắc chắn rằng tăng trưởng kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ sẽ nhường chỗ cho nền kinh tế tăng trưởng dựa vào hàm lượng công nghệ cao, đa dạng hóa và nâng cao giá trị gia tăng Do vậy, để tiếp tục nâng cao tiềm lực, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu, bảo đảm cho đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030
2 ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ TRI THỨC
Thứ nhất, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp Tri thức là nguồn lực vô hình to lớn, quan trọng nhất trong đầu tư phát triển, nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức Nền kinh tế tri thức lấy tri thức là nguồn lực có vị trí quyết định nhất của sản xuất,
là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển
Thứ hai, nền kinh tế dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học - công nghệ Nếu trong nền kinh tế công nghiệp, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào tối ưu hóa và hoàn thiện công nghệ hiện có, thì trong nền kinh tế tri thức lại dựa chủ yếu vào việc nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao Các quyết sách kinh tếđược tri thức hóa
Thứ ba, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng lao động trí tuệ Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm số lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lao động trí tuệ Lao động trí tuệ chiếm tỷ trọng ngày càng cao Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa,
sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người Học suốt đời, xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức
Trang 9Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng Quyền sở hữu trí tuê ¤ là
sự bảo đảm pháp lý cho tri thức và sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được tạo ra, duy trì và phát triển Trong nền kinh tế tri thức, nguồn lực trí tuê ¤ và năng lực đổi mới làhai nhân tố then chốt để đánh giá khả năng cạnh tranh, tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng của một quốc gia Các tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càngtrở nên quan trọng Viê ¤c bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc
cơ bản trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế tri thức
Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu Nền kinh tế tri thức chỉ được hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển ở trình độ cao, phân công lao động mang tính quốc tế và theo đó là hệ thống sản xuất mang tính kết nối giữa các doanh nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trị sản phẩm Bởi vậy, nó mang tính toàn cầu hóa Trong nền kimh tế tri thức, sự sản sinh, truyền bá
và sử dụng tri thức không còn nằm trong phạm vi biên giới một quốc gia Nền kinh
tế tri thức còn được gọi là nền kinh tế toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức
Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn là một nền kinh tế hướng đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi trường; nền kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang giá trị xã hội, làm xuất hiện các cộng đồng dân cư kiểu mới, các làng khoa học, các công viên khoa học, vườn ươm khoa học
3 CÁC NGÀNH KINH TẾ TRI THỨC
4 VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TRI THỨC
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), “Kinh tế tri thức là nền kinh
tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống” Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế
Một số vai trò của nền kinh tế tri thức là:
Trang 10- Tạo ra những giá trị mới, nâng cao năng suất và chất lượng xã hội bằng cách sử dụng thông tin và tri thức làm nguồn lực sản xuất.
- Thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ, tối ưu hóa các công nghệ có sẵn
và chế tạo những công nghệ tiên tiến hiện đại hơn
- Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của con người bằng cách dùng tri thức để vận dụng các nguồn lực kinh tế
- Khẳng định vị thế vượt trội của các quốc gia trên thế giới bằng cách đầu tư vào trithức, đào tạo con người có kỹ năng cao
- Sáng tạo, đổi mới liên tục để tạo ra những sản phẩm có giá trị cao trong thời gian ngắn, đáp ứng được các nhu cầu của xã hội
5 THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”
Như vậy, muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, chúng ta phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại và những yếu
tố của nền kinh tế tri thức, với phương châm tăng tốc, đi tắt đón đầu, bỏ qua lối mòn mà các nước đi trước đã vượt qua Kinh tế tri thức là vận hội để chúng ta đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nước ta không thể chần chừ, bỏ lỡ cơ hội lớn
đó, mà phải đi nhanh vào kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước khác Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam là có căn cứ khoa học, phù hợp với xu thế chung của thời đại; khác với các nước đi trước là sau khi hoàn thành cơ bản công nghiệp hóa cao rồi mới chuyển sang nền kinh tế tri thức, với lợi thế của người đi sau, nước ta thực hiện cả hai nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức
Trang 11Trên thế giới hiện nay chưa có quốc gia nào thực sự có một nền kinh tế tri thức hoàn chỉnh Tất cả hiện đang ở thời kỳ đầu, hoặc đã hình thành tương đối rõ nét, hoặc chỉ mới có biểu hiện Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế của các nước côngnghiệp phát triển (OECD) đề xuất đo lường mức độ phát triển nền kinh tế tri thức căn cứ vào 4 yếu tố: đầu tư sản xuất, phân phối tri thức, mạng tri thức và học tập Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế tri thức gồm 4 nhóm và 148 chỉ tiêu Hiện nay, WB đã tính KAM (Knowledge Assessment Matrix) cho 146 nước, liên tục cập nhật những số liệu mới nhất và công bố trên Internet
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới về chỉ số kinh tế tri thức của Việt Nam, năm
2012 Việt Nam đứng thứ 104 tăng 9 bậc trong bảng xếp hạng KEI (kinh tế tri thức)
so với thứ hạng 113 ở năm 2000 nhờ có những tiến bộ trong tiêu chí cải tiến kỹ thuật và công nghệ thông tin (ICT), nhưng lại sụt mất 4 hạng so với thứ hạng 100 vào năm 2010
Chỉ số KEI, Năm 2000, Việt Nam đạt 2,72 điểm, xếp hạng 113/145 quốc gia; Năm
2010 đạt 3,51 điểm, xếp hạng 100/146 quốc gia và theo số liệu mới công bố tháng 4/2012 của Ngân hàng thế giới, Việt Nam chỉ đạt 3,4 điểm xếp hạng 104/146 quốc gia
Chỉ số KI (tri thức), năm 2000 của Việt Nam đạt 2,71 điểm; năm 2010 đạt 3,74 điểm, tăng 1,03 điểm và năm 2012 đạt 3,6 điểm
Về Giáo dục và đào tạo: chỉ số giáo dục của VN từ 2,82 vào năm 2000, lên 3,50 trong năm 2006, tăng lên 3,66 ở năm 2010 và năm 2012 chỉ còn 2,99 Chỉ số này dưới mức bình quân của thế giới (4,35) và dưới bình quân của khu vực (5,26) So với Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam hầu như đứng thấp hơn ở tất cả khía cạnh: từ chất lượng quản lý các trường, đào tạo cán bộ và giáo dục trung học mặc
dù số công nhân có tay nghề nhìn chung có chuyển biến tăng trong vài năm gần đây
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, đến cuối năm 2011, có 57/63 tỉnh, phành phố trực thuộc trung ương đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tỷ lệ trẻ đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học là 97% Tỷ lệ người trên 15 tuổi biết đọc biếtviết là 93,7%, tăng so năm 2009 Tất cả các tỉnh thành trong cả nước được công nhận chuẩn quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục
Trang 12trung học sơ sở Tuy nhiên, khoảng cách phát triển giáo dục và đào tạo giữa các vùng trong nước chưa được thu hẹp, giáo dục ở những vùng sâu, vùng xa có chuyển biến nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và khoảng cách khá lớn với thành thị Chính phủ đã có chủ trương xã hội hóa giáo dục, đồng thời có chính sách đầu tư cho giáo dục, cho đào tạo nghề, nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, chỉ đạt 16,1% theo thống kê năm 2011 Tỷ lệ dân số trong độ tuổi 15 trở lên có trình độ sơcấp là 2,6%, trung cấp là 4,7%, chỉ có 1,6% tốt nghiệp cao đẳng, 4,2% tốt nghiệp đại học và 0,21% tốt nghiệp thạc sĩ trở lên.
Đội ngũ Giảng viên có học hàm, học vị cao giảng dạy ở bậc đại học hiện nay vẫn chưa đáp ứng được về số lượng và chất lượng Giáo viên trường nghề thiếu, nhất làgiáo viên có trình độ nghiệp vụ cao, thích ứng những thay đổi nhanh chóng của công nghệ mới Chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo tuy đã có những chuyển biến, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp so với yêu cầu Một bộ phận học sinh, sinh viên còn học tập một cách thụ động, chưa tích cực phát huy tư duy độc lập, sáng tạo và thiếu vận dụng kiến thức vào cuộc sống Chương trình đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ ứng dụng, thực hành; phương tiện giảng dạy một số nơi nhất là vùng sâu, vùng xa còn thiếu thốn Việc gắn giáo dục đào tạo ở các trường nghề, cao đẳng, đại học với doanh nghiệp có thực hiện trong thời gian gần đây nhưng hiệu quả vẫn chưa cao và chưa rộng khắp
Đa số học sinh phổ thông chọn con đường là học lên đại học, việc học nghề ở các trình độ thấp hơn còn hạn chế Việc lựa chọn ngành nghề của học sinh chưa phù hợp với nhu cầu kinh tế-xã hội của cả nước và khu vực, gây nên tình trạng mất cân đối ngành nghề, thừa thầy, thiếu thợ, nhất là các ngành kỹ thuật thiếu nguồn lực trầm trọng
Sáng tạo, tại Việt Nam, trong những năm 1990, công tác R&D chủ yếu thực hiện trong phạm vi các viện nghiên cứu và đại học, khi Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, số viện nghiên cứu tăng đáng kể Bài báo khoa học có tăng, nhưng đa số được công bố trên các ấn bản Việt Nam mà rất ít ấn phẩm quốc tế Mặt khác, sự gia tăng con số nhà khoa học lại không dẫn tới nhiều phát minh như năng lực có thể Chỉ số về đổi mới của Việt Nam khá thấp, tăng nhẹ Năm 2000, Việt Nam đạt 2,4 điểm, năm 2010, đạt 2,72 điểm và năm 2012 đạt 2,75, trong khi
đó Thái Lan đạt 5,95 điểm, Malaysia đạt 6,91 điểm, Singapore đạt 9,19 điểm