1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Skkn cấp tỉnh phát huy vai trò, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm và Đa dạng hóa nội dung tư vấn học Đường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại lớp chủ nhiệm

80 6 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phát huy vai trò, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm và đa dạng hóa nội dung tư vấn học đường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại lớp chủ nhiệm
Tác giả Nguyễn Như Tin, Lê Thị Thân, Võ Thị Bích Hà
Trường học Trường THPT Diễn Châu 5
Chuyên ngành Chủ nhiệm
Thể loại Sáng kiến kinh nghiệm
Năm xuất bản 2024
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 80
Dung lượng 6,2 MB

Nội dung

Và khi không thể có được điều đó từ gia đình, nhiều em đã xem thầy cô như một chỗ dựa tinh thần, cho các em những lời khuyên, định hướng đúng đắn, cho các em con đường phải đi, giúp các

Trang 1

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN

TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:

PHÁT HUY VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM

VÀ ĐA DẠNG HÓA NỘI DUNG TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TẠI LỚP CHỦ NHIỆM

Trang 2

MỤC LỤC

Nội dung Trang

2 Tính mới, tính khoa học và tính hiệu quả của đề tài 2

1.2.1 Khảo sát về thực trạng tư vấn tâm lí học đường đối với học sinh

thông qua công tác chủ nhiệm lớp (Đối với HS và GVCN)

1.2.2 Thực trạng của công tác chủ nhiệm lớp hiện nay đối với việc tư

vấn tâm lí học đường cho học sinh

6

1.2.2.2 Thực trạng về tư vấn tâm lí học đường tại đơn vị đang công

tác

8

1.2.3.2 Nguyên nhân quá trình tư vấn tâm lí từ phía gia đình 9 1.2.3.3 Nguyên nhân quá trình tư vấn tâm lí từ nhà trường 9

Trang 3

2 VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM 10 2.1 Vai trò của GVCN trong công tác tư vấn cho học sinh 10

2.2.2.1 Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp được quy định trong

2.4.2 Tin tưởng vào khả năng giải quyết của học sinh 12

3 ĐA DẠNG HÓA NỘI DUNG TƯ VẤN TÂM LÍ HỌC ĐƯỜNG

TẠI LỚP CHỦ NHIỆM

13

Trang 4

3.4.2 Kĩ năng xác định giá trị 14

4.2.2 Cần tránh các quan hệ nhiều tuyến với học sinh cần tư vấn 16

5 THỰC NGHIỆM CÁC NỘI DUNG TƯ VẤN TÂM LÍ HỌC

ĐƯỜNG TẠI LỚP CHỦ NHIỆM

17

5.2.2 Thực nghiệm phát huy về vai trò, nhiệm vụ của người GVCN 18

5.4.1 Những giải pháp chung cho các nội dung tư vấn tâm lí học

đường

18

5.4.1.1 Giải pháp 1 Thiết lập ‘‘nhật ký lớp chủ nhiệm” và xây dựng

mạng lưới theo dõi cập nhật thông tin

18

5.4.1.2 Giải pháp 2 Tạo môi trường gần gũi với học sinh và phụ

huynh qua việc GVCN và tập thể lớp đi thăm gia đình các thành viên

trong lớp

20

Trang 5

5.4.2 Những giải pháp cụ thể về công tác tư vấn tâm lí học đường cho học

5.4.2.1.1 Giải pháp 1.1: Phân loại nhóm học sinh có năng lực học tập

theo từng môn học để có những tác động tâm lý phù hợp

21

5.4.2.1.2 Giải pháp 1.2: Tác động tâm lý học sinh thông qua những lời

khen ngợi, khích lệ, động viên

23

5.4.2.1.3 Giải Pháp 1.3: Sử dụng “Bản mục tiêu phấn đấu trong năm

học” là đòn bẩy giúp học sinh có động lực trong học tập

23

5.4.2.2 Giải pháp 2: Tư vấn tâm lý học đường cho những học sinh có

vấn đề về giá trị sống, kĩ năng sống

25

5.4.2.2.1 Giải pháp 2.1: Giáo viên chủ nhiệm phải là một người bạn

đồng hành, một người thân vừa là một người thầy để luôn tinh tế, kiên

nhẫn, lắng nghe và chia sẻ

25

5.4.2.2.2 Giải pháp 2.2: Thay đổi tâm lý học sinh thông qua việc tổ

chức các tiết sinh hoạt cuối tuần theo chủ đề

27

5.4.2.2.3 Giải Pháp 2.3: Phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn

trường, nhà trường tổ chức các hoạt động bổ ích để rèn luyện kỹ năng

6.2.2 Phương pháp khảo sát và thang đánh giá 42

Trang 6

6.3 Đối tượng khảo sát 43 6.4 Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp

7.4 Khả năng ứng dụng, triển khai kết quả đề tài 48

Trang 7

PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ

1 Lí do chọn đề tài

Bước sang thế kỷ thứ XXI, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước đột phá, tạo sự chuyển biến nhanh về mọi mặt trong đời sống của người Việt Nam Tuy nhiên, những biến động của nền kinh tế thị trường mở cửa cũng gây ra không ít tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, mà lực lượng đông nhất chính là học sinh trung học phổ thông

Trong xã hội ngày nay, những tác động nhiều mặt trong đời sống xã hội, gia

đình và nhà trường luôn tạo nên những sức ép tâm lý không nhỏ đối với các em học sinh, dẫn đến tình trạng chán học, rối nhiễu tâm lý- trầm cảm, hoặc có những hành

vi lệch chuẩn trong các nhà trường ngày càng gia tăng Đối với học sinh THPT, đây

là thời kỳ phát triển “bùng nổ” về tâm lý, thể chất và quan hệ xã hội, nên các vấn

đề tâm lý – xã hội nảy sinh khá phong phú và phức tạp

Trong những trường hợp như thế, học sinh rất cần đến sự chia sẻ, sự thông hiểu từ người thân, gia đình, bạn bè,… Thế nhưng trong cuộc sống, người lớn chúng

ta thường đòi hỏi các em phải có ý thức trách nhiệm, có thái độ hợp lý, có tính độc lập, nhưng mặt khác lại cũng đòi hỏi các em phải chịu sự sắp đặt của người lớn Vì

lý do này hay lý do khác, các em đâm ra đề phòng cha mẹ, thầy cô, thủ thế với bạn

bè Trong khi đó, trên báo chí, trên các trang mạng xã hội, lại có những thông tin bất lợi đối với các em – những "người lớn - trẻ con" chưa đủ sức sàng lọc để lựa chọn, giữ lại những điều tốt và loại bỏ cái xấu Các chuyên gia giáo dục và tâm lý sư

phạm đã chỉ rõ: “Khủng hoảng tâm lý lứa tuổi và các vấn đề sức khỏe tâm thần trường học là một trong những nguyên nhân chính gây nên bạo lực học đường và khiến vấn nạn này gia tăng với con số chóng mặt trong thời gian gần đây …”

Có thể nói, lứa tuổi từ 15 đến 18 là một trong những giai đoạn khó khăn trong cuộc đời của mỗi người Sự trợ giúp kịp thời và đúng đắn từ phía người lớn là một nhu cầu bức thiết đối với trẻ, đặc biệt là khi các em đã rơi vào sự khủng hoảng tâm

lý Học sinh cần được giãi bày, cần được tâm sự, cần được những lời khuyên đúng đắn từ người lớn, mà gần gũi với các em nhất chính là cha mẹ, thầy cô Và khi không thể có được điều đó từ gia đình, nhiều em đã xem thầy cô như một chỗ dựa tinh thần, cho các em những lời khuyên, định hướng đúng đắn, cho các em con đường phải đi, giúp các em tìm lại niềm tin, niềm vui trong cuộc sống,… Đó là những điều mà người thầy cần phải thực hiện được để đáp ứng nhu cầu được tư vấn tâm lý, một nhu cầu có thực và vô cùng bức thiết của học sinh trong nhà trường phổ thông Chính vì

lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Phát huy vai trò, nhiệm vụ của GVCN và đa dạng hóa nội dung tư vấn học đường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại lớp chủ nhiệm” làm sáng kiến kinh nghiệm trong năm học 2023-2024 với mục đích được

trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp về đề tài mà chúng tôi đã và đang áp dụng rất có hiệu quả tại ngôi trường mình đang công tác Và chúng tôi cũng hy vọng cách làm

Trang 8

này sẽ được bổ sung, hoàn thiện và nhân rộng trong Trường THPT Diễn Châu 5 nói riêng và các trường THPT trên địa bàn của tỉnh Nghệ An nói chung

2 Tính mới, tính khoa học và tính hiệu quả của đề tài

2.1 Tính mới của đề tài

- Qua khảo sát, điều tra thực tế, sáng kiến đã phát hiện được “ Các tình huống

có vấn đề”, tìm ra giải pháp hợp lí khắc phục những khó khăn của học sinh lớp chủ nhiệm, về mặt nhận thức, về tâm sinh lí sức khỏe, về hoàn cảnh gia đình và mối quan

hệ với bạn bè, thầy cô, gia đình, xã hội một cách phù hợp và có hiệu quả Góp phần chia sẻ, động viên, uốn nắn kịp thời những nhận thức sai lệch, những suy nghĩ thiếu chín chắn, cùng những rắc rối trong đời sống gia đình, nhà trường và xã hội Đó là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thiết yếu của người giáo viên chủ nhiệm trong công tác tư vấn học đường

- Công tác tư vấn tâm lí học đường đạt hiệu quả giúp các em có chỗ dựa tinh thần, có niềm tin phấn đấu vươn lên trong học tập và cuộc sống hàng ngày, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện

2.2 Tính khoa học của đề tài

- Nội dung của đề tài được trình bày khoa học, các luận điểm, luận cứ và các thông số có tính chính xác

- Đề tài đáp ứng được quan điểm giáo dục tích cực đang được xã hội quan tâm 2.3 Tính hiệu quả của đề tài

- Đề tài áp dụng có hiệu quả trong quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh

về năng lực, phẩm chất và trí tuệ

- Đặc biệt là đề tài giải tỏa tâm lý căng thẳng và rèn luyện kỹ năng sống cho các em

3 Phương pháp tiến hành

- Phương pháp điều tra, khảo sát - Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp phân loại, thống kê - Phương pháp thực nghiệm sư phạm

4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp chủ nhiệm 10A1, 10A5 Trường THPT

Diễn Châu 5

- Phạm vi nghiên cứu: học sinh lớp chủ nhiệm 10A1, 10A5 Trường THPT Diễn Châu 5

5 Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm

- Ngoài phần đặt vấn đề, phần kết luận, đề tài còn có các nội dung sau:

Trang 9

- Cơ sở lí luận

- Thực trạng vấn đề

- Vai trò, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm và đa dạng hóa nội dung tư vấn tâm lí học đường tại lớp chủ nhiệm

PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1 Cơ sở lí luận

1.1.1 Khái niệm:Tư vấn

Tư vấn: Là quá trình nhà tư vấn đưa ra đề nghị, gợi ý những việc cần làm hay những giải pháp cho đối tượng được tư vấn nhằm giúp đối tượng giải quyết những tình huống khó khăn bất thường trong cuộc sống

Khái niệm tư vấn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên hoạt động tư vấn có đặc điểm sau:

- Tư vấn là một nghề chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có đào tạo bài bản, có trường lớp

- Tư vấn tập trung vào trợ giúp về vấn đề sống lành mạnh, thăng tiến đời sống quan hệ cá nhân, nghề nghiệp, và những quan tâm thuộc lĩnh vực bệnh lý tinh thần

- Tư vấn áp dụng với người có khả năng xử lý tốt và cả những người có vấn

đề về rồi loạn tâm thần dạng nhẹ

- Tư vấn phải dựa trên hệ thống lý thuyết về tư vấn

- Tư vấn là một quá trình phát triển trên bình diện ngăn ngừa và can thiệp

- Người ta thường tìm đến tư vấn khi gặp những tình huống nan giải, khó khăn bất thường trong cuộc sống khiến họ bối rối, đôi khi đến mức tổn thương, Vì vậy, các tình huống trong tư vấn còn được gọi là “nan đề”

1.1.2 Tư vấn học đường

Tư vấn học đường ở nước ta hiện nay vẫn chưa thống nhất ý nghĩa và tên gọi (tham vấn hay tư vấn tâm lý, tư vấn tâm lý học đường có tư vấn hướng nghiệp hay không, ) Ngay trong lịch sử hình thành tư vấn trong trường học trên thế giới và nhất là ở nước Mỹ, đều phải trải qua một quá trình hình thành với nhiều cách hiểu khác nhau theo các trường phái học thuyết khác nhau Từ đầu thế kỷ XX, tư vấn học đường chỉ là tư vấn hướng nghiệp, nặng về tư vấn thông tin, sử dụng kết quả chẩn đoán tâm lý, tính cách con người và nghề nghiệp, và những thông tin về thị trường lao động, dự báo nhu cầu nhân lực được đưa vào trường học với Jesse B.Davis, Frank Parsons và Cliffort Beer Phải đợi đến những năm 1950, 1960, với những công trình công bố của Carl Rogers và những lý thuyết gia tiếp theo, góp phần làm nổi bật chức năng của hoạt động tư vấn tâm lý trong tư vấn học đường Như vậy, tư vấn học đường là tên gọi riêng của một hoạt động chuyên nghiệp có chức năng chủ yếu được định nghĩa, mô tả rõ ràng do chính những người tiên phong trong nghiệp vụ

Trang 10

xây dựng từng bước tạo nên những đặc điểm phẩm chất, tính nhân văn và địa vị khoa học ứng dụng trong đời sống Người làm công tác tư vấn tâm lý ngày nay đang hoạt động ở các lĩnh vực, các cơ sở khác nhau: trường học, bệnh viện, nhà điều dưỡng, trung tâm tâm thần, trại cải huấn, nhà tù,…

Tư vấn học đường là một tiến trình giúp đỡ sinh viên học sinh, các vị phụ huynh hoặc thầy cô giáo, tự tìm hiểu mình, biết được những đặc điểm tính cách, những năng lực tiềm ẩn và những hành vi của họ đã ảnh hưởng đến những người khác như thế nào Đồng thời giúp họ chọn cách giải quyết vấn đề tối ưu trong chiến lược định hướng phát triển của những người này khi có nhu cầu Từ đó, góp phần

làm tốt hoạt động giáo dục học sinh và mối quan hệ nhà trường - gia đình - xã hội

1.1.3 Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông

Ở trường phổ thông hiện nay, mỗi đơn vị lớp học khoảng từ 30 đến 45 học sinh thì nhà trường sẽ cử một người giáo viên đang giảng dạy ở lớp đó quản lí toàn diện học sinh của lớp

GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh quản lý và chịu trách nhiệm

về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp

1.2 Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Khảo sát về thực trạng tư vấn tâm lí học đường đối với học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp (Đối với HS và GVCN)

1.2.1.1 Khảo sát về thực trạng tư vấn tâm lí học đường thông qua học sinh

- Chúng tôi tiến hành phát phiếu điều tra đến HS hai lớp 10A1, 10A5 (PL 1)

- Số lượng: 81 HS

- Kết quả thu được như sau:

(81 HS)

Tỉ lệ %

1 Em đã từng được GVCN tư vấn TLHĐ lần nào

chưa? (Lựa chọn 1 phương án)

2 Em mong muốn mình sẽ được tư vấn TLHĐ ở

những nội dung nào sau đây? (Lựa chọn nhiều

phương án)

Trang 11

Mong muốn được tư vấn trong học tập 65 80,2

Mong muốn được tư vấn về tình bạn, tình yêu và

hôn nhân

Mong muốn tư vấn hướng nghiệp, dạy nghề 74 91,4

Qua bảng số liệu trên, có thể thấy phần lớn HS chưa được tư vấn tâm lí

từ GVCN, GV bộ môn, tổ TVTL nhà trường chiếm tỉ lệ cao (50,7 %) Số lượng HS được tư vấn nhiều lần còn thấp (7,4), HS thỉnh thoảng được tư vấn chiếm tỉ lệ còn khiêm tốn (41,9) Phần lớn HS mong muốn mình được tư vấn TLHĐ ở các nội dung chiếm tỉ lệ cao như tư vấn trong học tập (80,2%), tư vấn trong tình bạn, tình yêu và hôn nhân (85,2%), tư vấn trong hướng nghiệp, dạy nghề (91,4%) và tư vấn kĩ năng

sống (79%)

1.2.1.2 Khảo sát về thực trạng tư vấn tâm lí học đường thông qua GVCN

- Đối tượng khảo sát: Giáo viên trường THPT Diễn Châu 5 đã và đang làm công tác chủ nhiệm (PL 2)

- Số lượng: 60 giáo viên

- Kết quả thu được như sau:

Bảng 1: Khảo sát việc GVCN thực hiện nhiệm vụ trong công tác chủ nhiệm

1 GVCN tập trung vào khâu quản lí HS 60 100%

3 GVCN quan tâm giáo dục tư tưởng HS 27 45%

4 GVCN quan tâm tư vấn tâm lí học

đường cho HS

Từ kết quả khảo khát bảng 1 cho thấy hầu hết GVCN đều tập trung vào quản

lí học sinh (100%) và tập trung vào kết quả học tập (93,3%), còn quan tâm đến tư vấn tâm lí học đường cho HS còn thấp (15%)

Bảng 2: Khảo sát việc GVCN hiểu biết về vai trò, sự cần thiết và mức độ thực

hiện vai trò trong công tác chủ nhiệm lớp (Lựa chọn một đáp án)

Trang 12

Câu Nội dung Số lượng

(60 GV)

Tỉ lệ %

1 Mức độ hiểu biết về vai trò của GVCN trong việc

Tư vấn TLHĐ cho HS trong công tác chủ nhiệm

2 Đánh giá của GVCN về sự cần thiết tư vấn TLHĐ

cho HS trong công tác chủ nhiệm

3 Mức độ thực hiện vai trò của GVCN trong công

tác tư vấn TLHĐ cho HS trong công tác chủ nhiệm

Từ kết quả bảng 2 cho thấy hầu hết GV hiểu được vai trò, vị trí của GVCN trong tư vấn tâm lí học đường cho HS (83,3%) Bên cạnh đó, GVCN nhận thấy sự cần thiết của công tác tư vấn tâm lí học đường cho HS chưa cao (43,3%) Và vẫn còn (38,4%) chưa thấy được sự cần thiết của công tác tư vấn này trong chủ nhiệm lớp Cũng từ kết quả bảng 2 cho thấy còn ít GVCN thực hiện tư vấn TLHĐ thường xuyên cho HS (25%)

Thực tế trên đây cho thấy, GVCN cần phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tư vấn TLHĐ cho HS GVCN cần phải đa dạng nội dung tư vấn

TLHĐ để giúp các em phát triển năng lực, phẩm chất toàn diện

1.2.2 Thực trạng của công tác chủ nhiệm lớp hiện nay đối với việc tư vấn tâm lí

học đường cho học sinh

1.2.2.1 Thực trạng chung về tư vấn tâm lí học đường

Ở các trường THPT trên cả nước nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng, hoạt động tư vấn học đường vẫn còn đang mới lạ và trầm lắng Số trường có phòng TVHĐ cho HS chỉ đếm trên đầu ngón tay, trong khi nhu cầu của các em thì ngày càng lớn Một số trường đã có phòng TVHĐ nhưng phương pháp và cách thức hoạt động của

Trang 13

phòng tư vấn vẫn chưa hiệu quả, chưa làm đúng vai trò và đôi khi ngược lại với sự mong đợi của HS, phụ huynh và cả những người lập ra phòng tư vấn

Sau đây là mô hình truyền thống của các trường THPT đã và đang áp dụng:

HS có vấn đề => chia sẻ với ban cán sự lớp => gặp gỡ GVCN => Đưa lên BGH => gặp gỡ phụ huynh =>Nhắc nhở, trách mắng HS => HS chán nản => Vấn nạn học đường (không muốn tâm sự, trầm cảm, tự tử,…)

Mô hình

Hạn chế của mô hình như sau:

- Khi HS gặp phải vấn đề gì không tự giải quyết, có những chuyện các em không biết chia sẻ cùng ai, từ đó mọi việc có dồn nén tạo nên những áp lực khiến các em không thể tập trung cho việc học, thậm chí các em còn có những hành vi nông nổi bên ngoài Lúc đó, GVCN nhận thấy được những thay đổi từ các em nhưng một phần chưa nắm rõ tâm lí lứa tuổi học đường, mặt khác công việc của GVCN quá nhiều nên thường chỉ nhìn nhận ở một phía, sau đó đổ lỗi cho các HS của mình

mà không tìm hiểu rõ nguyên nhân bên trong Có GVCN dùng các hình phạt với HS làm cho mối quan hệ giữa GV và HS ngày càng xa cách, HS không muốn chia sẻ cùng GVCN vì không có niềm tin

- Trước mặt GVCN, nhiều HS không muốn nói về chuyện của mình, các em

tỏ ra ngang bướng khiến GV phải dùng biện pháp là đưa các em lên gặp Ban giám hiệu Sau đó, Ban giám hiệu lại mời phụ huynh của các em lên, thay vì để tìm ra

Đưa về gia đình

Không có nhà

tư vấn

Trang 14

nguyên nhân và điều chỉnh hành vi của các em thì BGH lại liệt kê các lỗi mà các em

đã mắc phải trong nhà trường và quy trách nhiệm cho phụ huynh

- Có nhiều phụ huynh biết được con cái mình học hành sa sút, bị nhà trường khiển trách thì tức giận, trách phạt và đổ mọi lỗi là do các em gây ra Chính vì vậy

mà HS tỏ ra chán nản, mất niềm tin, trầm cảm,…

- Mặc dù còn nhiều hạn chế như vậy nhưng mô hình này vẫn được duy trì ở nhiều nhà trường hiện nay

1.2.2.2 Thực trạng về tư vấn tâm lí học đường tại đơn vị đang công tác

- Hiện nay, trường THPT Diễn Châu 5 vẫn chưa có phòng TVHĐ, thỉnh thoảng có mở những buổi tư vấn hướng nghiệp tập thể dưới sân trường Các buổi hướng nghiệp này chỉ có thể đáp ứng một phần nhỏ những thắc mắc về lựa chọn nghề nghiệp của các em HS lớp 12 trước khi các em bước vào kì thi THPT Quốc gia xét tốt nghiệp và Đại học

- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quyết định đưa vị trí chuyên viên TVHĐ vào biên chế chính thức Nhưng hiện nay vẫn lộ “khoảng trống” TVHĐ GVCN trong trường gặp nhiều khó khăn trong công tác TVHĐ cho HS Nhiều GVCN chưa nhận thức sâu sắc về yêu cầu và chức năng tư vấn của mình GVCN chưa nắm được quy trình, công cụ tư vấn và các loại hình tư vấn Chính vì vậy nhiều GVCN khi tham gia hoạt động tư vấn cho HS chưa đem lại hiệu quả như chúng ta mong muốn

- Qua công tác điều tra, phỏng vấn HS tại trường THPT Diễn Châu 5, trong

số HS được phỏng vấn thì có 4/6 HS gặp phải những áp lực học tập thường xuyên, đặc biệt là trước những kì thi quan trọng Một số HS nam lớp 10 gặp nhiều áp lực

trong học tập cho biết: “Bây giờ chúng em cứ phải kiểm tra liên tục, mệt lắm!” Còn một số bạn HS nữ lớp 10 thì: “đến kì thi cuối kì, ngày nào em cũng thấy căng thẳng”

- Ngoài những khó khăn trong học tập thì 5/6 HS gặp phải những rắc rối trong

quan hệ bạn bè, áp lực từ thầy cô, nhà trường Khi được hỏi là “ngoài áp lực trong học tập, bạn còn gặp vấn đề gì nữa không?” thì bạn HS nam lớp 10 trả lời: “ cái đó thì,…với em thì… quan hệ bạn bè là nhiều” Đặc biệt là áp lực từ thầy cô cũng không nhỏ tới các bạn HS trường THPT Diễn Châu 5 Bạn HS nữ lớp 10 cho biết: “Mấy

cô trong trường khó lắm, chúng em sợ lắm rồi”, “chúng em sợ BGH lắm”

- Qua đó, chúng ta thấy rằng cùng một lúc HS phải chịu áp lực từ nhiều phía

Vì vậy, các em cần có nơi để giãi bày, chia sẻ những vấn đề mà các em đang gặp phải Chính vì thế mà 6/6 HS được phỏng vấn đều trả lời là các em mong muốn nhận được sự tư vấn từ GVCN và nhân viên tư vấn của nhà trường

1.2.3 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên

1.2.3.1 Nguyên nhân đời sống tâm lí học sinh

- Học sinh THPT là lứa tuổi ở giai đoạn chuyển từ lứa tuổi thiếu niên (11 – 15 tuổi) sang tuổi thanh niên (16 – 19 tuổi) Đây là lứa tuổi có đời sống tâm lý rất phong

Trang 15

phú nhưng rất phức tạp Cảm nhận về “tính người lớn” của chính bản thân mình là một trong những nét tâm lý đặc trưng xuất hiện ở lứa tuổi THPT Tuy nhiên, ở lứa tuổi này xuất hiện mâu thuẫn giữa ý muốn chủ quan và hiện thực khách quan: muốn trở thành người lớn song thanh niên ý thức được rằng mình chưa đủ khả năng Mâu thuẫn này đã tạo ra những thay đổi lớn trong lĩnh vực tình cảm của lứa tuổi thanh niên

- Mặt khác, lứa tuổi THPT đứng trước một thách thức khác quan trọng của cuộc sống đó là phải chuẩn bị lựa chọn cho mình một hướng đi sau khi tốt nghiệp phổ thông, phải xây dựng cho mình một cuộc sống độc lập trong xã hội Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan của cuộc sống dẫn đến sự xuất hiện

ở lứa tuổi thanh niên những nhu cầu về hiểu biết thế giới, hiểu biết xã hội và các chuẩn mực trong quan hệ giữa người với người và tự khẳng định mình trong xã hội

- Từ đó, lứa tuổi học sinh THPT nảy sinh những khó khăn về tâm lý, tình cảm bức xúc của lứa tuổi, vướng mắc trong học tập, hướng nghiệp,…cần được người lớn quan tâm, chia sẻ

1.2.3.2 Nguyên nhân quá trình tư vấn tâm lí từ phía gia đình

Các bậc phụ huynh luôn mong muốn con em mình trưởng thành Đa số phụ huynh quan tâm đến việc dạy dỗ con em mình Nhưng họ đôi khi còn bế tắc trong việc giáo dục con ở lứa tuổi vị thành niên Một số phụ huynh đi làm ăn xa, thời gian dành cho con còn hạn chế nên sự quan tâm đến con còn gặp những khó khăn Các

em ít có cơ hội nhận được sự quan tâm, tư vấn đúng cách từ cha mẹ

1.2.3.3 Nguyên nhân quá trình tư vấn tâm lí từ nhà trường

- Nhà trường đã có tổ TVHĐ nhưng chưa làm việc hiệu quả và không được phổ biến là do: chưa có sự phối hợp giữa chuyên viên tư vấn và các GVCN, cán bộ Đoàn, các bậc cha mẹ,… trong việc tư vấn, hướng dẫn cho HS

- Trường THPT Diễn Châu 5 đóng trên địa bàn các xã thuần nông, các em HS còn mang tâm lí e ngại, chưa cởi mở Thế nhưng GV tổ TVHĐ của nhà trường cũng chưa chủ động tìm đến các em khi họ gặp vấn đề khó khăn

1.2.3.4 Nguyên nhân quá trình tư vấn từ phía GVCN

- Đội ngũ GVCN tư vấn tâm lí học đường chưa có chuyên môn chuyên sâu về

tư vấn tâm lí học đường, dẫn đến kĩ năng tư vấn tâm lí còn hạn chế khiến cho công tác tư vấn gặp nhiều khó khăn và hiệu quả chưa cao

- Muốn học sinh có thể chia sẻ khó khăn về tâm lý của mình, người tư vấn GVCN cần nhiều thời gian, kiên trì trò chuyện, chơi cùng để trẻ có thể cởi mở hơn Thế nhưng GVCN vừa làm công tác chủ nhiệm, vừa giảng dạy bộ môn nên nhiều khi chưa dành nhiều thời gian để tìm hiểu kĩ các em học sinh cần tư vấn

- Bản thân một số giáo viên chưa tìm tòi, đầu tư nghiên cứu các nội dung và

kĩ năng tư vấn

Trang 16

1.3 Kết quả

- Công tác phối hợp trong quản lý, giáo dục học sinh chưa được quan tâm nhiều, nhất là chưa phát huy được vai trò của GVCN trong việc phát hiện sớm và phối hợp xử lý, can thiệp kịp thời đối với các học sinh có những biểu hiện khác thường, cần được giúp đỡ, cần được tư vấn, định hướng, giải tỏa tâm lí kịp thời sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, nhẹ thì chán học, bỏ học; nặng thì trầm cảm, bạo

lực học đường,…

- Các em không được tư vấn tâm lí học đường đúng cách nên chưa hình thành

và phát triển ở các em một cách đầy đủ và trọn vẹn về những tình cảm, giá trị, phẩm chất tốt đẹp

2 VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM

2.1 Vai trò của GVCN trong công tác tư vấn cho học sinh

- Tư vấn học đường tác động vào nhận thức, giúp các em tự nhận thức, tự giải quyết vấn đề, qua đó hình thành tính tự lập, độc lập, biết tự chịu trách nhiệm

- Tư vấn giúp các em lựa chọn cách xử lý đúng, góp phần ổn định đời sống tâm hồn, tình cảm và giúp học sinh thực hiện được nguyện vọng của mình

- Tư vấn học đường tạo ra môi trường thuận lợi, tích cực, thân thiện cho sự phát triển nhân cách của trẻ

2.2 Giáo viên chủ nhiệm với nhiệm vụ tư vấn

2.2.1 Chức năng của giáo viên chủ nhiệm

Chức năng của người GVCN lớp là lãnh đạo, tổ chức, quản lý, giáo dục tập thể lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động giáo dục, các mối quan hệ giáo dục của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhân cách học sinh toàn diện trong tập thể phát triển và môi trường học tập thân thiện

2.2.2 Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm

2.2.2.1 Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp được quy định trong các văn bản pháp lí

- Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của mọi học sinh

- Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên

bộ môn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp

- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ

Trang 17

2.2.2.2 Những công việc của giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện trong thực tế

- Lập kế hoạch năm học dựa trên kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học chung của nhà trường

- Tìm hiểu các thông tin, phân loại học sinh lớp chủ nhiệm (hoàn cảnh gia đình, đặc điểm học sinh về các mặt học lực, đạo đức, sức khoẻ, dự báo về diễn biến trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh), trong đó đặc biệt quan tâm đến học sinh là con thương binh, học sinh nghèo vượt khó,

- Tổ chức đội ngũ cán bộ tự quản và xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm

- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung, hoạt động giáo dục toàn diện (hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tư vấn trong công tác hướng nghiệp, dạy nghề, )

- Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường để đảm bảo sự thống nhất trong giáo dục học sinh và tăng cường sức mạnh đồng bộ nhằm đem lại hiệu quả

- Đánh giá kết quả giáo dục và học tập của học sinh lớp chủ nhiệm trong suốt quá trình cũng như sơ kết, tổng kết năm học

2.3 Những lợi thế trong tư vấn của GVCN

- Với chức năng, nhiệm vụ của GVCN cho phép người GVCN có nhiều cơ hội tiếp xúc gần gũi để am hiểu tường tận về học sinh lớp chủ nhiệm Có nhiều điều kiện thuận lợi hơn những lực lượng khác trong việc chia sẻ, đồng cảm và thuyết phục học sinh lớp chủ nhiệm ủng hộ những cái tốt, loại trừ cái sai, cái chưa phù hợp trong cuộc sống, lao động và học tập của các em

- GVCN thực hiện công tác giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm bên cạnh dạy cho các em về kiến thức cùng với các GV bộ môn khác, còn phải giúp các em hoàn thiện nhân cách, không chỉ là dạy chữ mà còn phải dạy người Vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục được mệnh danh là "trồng người" Việc “trồng người” này đòi hỏi phải có

sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội, mà quan trọng nhất là sự phối hợp

ăn ý, chặt chẽ giữa GVCN với gia đình và nhà trường

2.4 Nguyên tắc tư vấn của GVCN

2.4.1 Tôn trọng học sinh vô điều kiện

- GVCN khi tư vấn cần có một thái độ nhiệt tình đối với học sinh, chấp nhận các giá trị của các em bất kể địa vị, đạo đức, hành vi, tình cảm tích cực hay tiêu cực

ở học sinh, kính trọng học sinh về mặt nhân phẩm với các cốt cách riêng của các em;

là một sự ân cần không chiếm hữu, không có một đòi hỏi riêng tư nào; sự tôn trọng đòi hỏi nhà tư vấn phải chấp nhận cả sự bảy tỏ những xúc cảm tiêu cực (xấu xa, sợ hãi, ) cũng như tích cực (vui sướng, cởi mở, ) của học sinh Tôn trọng không có nghĩa là tán thành, chấp nhận hoặc không tán thành (nhà tư vấn có thể không tán

Trang 18

thành nhưng vẫn tôn trọng họ) Tôn trọng ở sự đối thoại không phê phán, đánh giá, phòng vệ, là sự thẳng thắn ở cả hai bên Các thành tố của sự tôn trọng:

+ Quyền được thừa nhận: trong mỗi cá nhân đều có những giá trị nhất định và

có quyền phát triển theo cách mà họ cho là đúng, vì vậy họ cũng không được vi phạm giá trị này ở những người khác

+ Tôn trọng năng lực và giá trị: Mỗi cá nhân đều có những năng lực, những khả năng riêng biệt và tương ứng với những giá trị nhất định, vì vậy chúng ta cần được tôn trọng

+ Có trách nhiệm với những lựa chọn của mình: Mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn hoặc những quyết định của riêng mình

2.4.2 Tin tưởng vào khả năng giải quyết của học sinh

Xuất phát từ quan điểm cho rằng “học sinh là chuyên gia giỏi nhất về lĩnh vực của mình”, các cá nhân luôn tin tưởng vào những gì mình nói và hành động, còn

những gì khác với mình thì thường đưa ra xem xét lại Do mỗi học sinh có hoàn cảnh riêng biệt, không lặp lại ở người khác, vì vậy để quá trình tư vấn khám phá ra những cái đơn lẻ, riêng biệt đó thì nhà tư vấn phải tin tưởng hoàn toàn vào học sinh, vào khả năng giải quyết vấn đề của các em Nhà tư vấn giúp đỡ bằng cách đặt ra những câu hỏi nói về cảm nghĩ của học sinh trong việc giải quyết vấn đề Cách hỏi này đã đặt học sinh vào một hoàn cảnh cụ thể và học sinh phải tự lập trong cách hành động giải quyết vấn đề Về nguyên tắc, nhà tư vẫn không đưa ra lời khuyên mang tính áp đặt đối với học sinh, tuy nhiên nếu học sinh bị rối loạn tâm thần, suy nhược, thì nhà

tư vấn vẫn có thể chủ động đưa ra một vài hướng để giải quyết cùng với học sinh

2.4.3 Giữ bí mật thông tin

Mỗi cá nhân có quyền sở hữu những vấn đề có liên quan đến mình, vì vậy thông tin của học sinh nói ra cho GVCN phải được đảm bảo giữ bí mật Tuy nhiên, không cần phải giữ bí mật khi học sinh cho phép tiết lộ, hoặc vấn đề đó đe dọa đến tính mạng của học sinh hoặc những người khác

Trang 19

2.4.5 Mềm dẻo, thích nghi cùng học sinh

Vấn đề của học sinh giải quyết nhanh hay chậm phụ thuộc vào tiến trình nhanh hay chậm trong công việc thay đổi trong học sinh GVCN phải có thời gian dành cho học sinh GVCN phải biết lắng nghe, biết khuyến khích trấn an để học sinh nói ra vấn đề của mình, biết phản hồi để hiểu chính xác những ý nghĩa của thông tin, biết thông đạt để trải nghiệm những gì học sinh nói ra, và biết kết hợp giữa quan sát hành

vi cử chỉ phi ngôn ngữ với lời nói của học sinh, để đưa lên từ tầng bậc vô thức của cảm xúc bản năng đến những tình cảm, lí trí và những hành vi làm chủ được

3 ĐA DẠNG HÓA NỘI DUNG TƯ VẤN TÂM LÍ HỌC ĐƯỜNG TẠI LỚP

CHỦ NHIỆM

3.1 Tư vấn trong học tập

- GVCN cũng là giáo viên dạy một môn học nào đó ở lớp mình đang phụ trách Do đó, việc nắm được đặc điểm hoạt động học của cá nhân học sinh cũng như kết quả học tập của học sinh với bất kì môn học nào là trong tầm tay

- Việc học sinh lớp chủ nhiệm học giỏi môn này mà không giỏi môn khác (thậm chí kém), cũng như phương pháp dạy, không có phương pháp học nào vạn năng cho mọi tình huống Mỗi môn học thuộc một khoa học khác nhau và cũng nhằm hình thành nên những năng lực khác nhau cho học sinh nên việc vận dụng các phương pháp học cũng cần linh hoạt

- Các phương pháp học, cách học được lựa chọn cần căn cứ vào đặc điểm khoa học của môn học, căn cứ vào mục tiêu, nội dung của bài học, tùy vào điều kiện vật chất dụng cụ học tập, tùy vào sở trường, đặc điểm nhận thức của học sinh

3.2 Tư vấn tình yêu

- Tình yêu là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý, và thái độ khác nhau Bản chất của tình yêu là một đề tài tranh luận thường xuyên Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc gắn bó

- Nhà tâm lý học Robert Sternberg đã đưa ra một lý thuyết tam giác tình yêu

và cho rằng tình yêu có ba thành phần khác nhau: sự thân mật, sự cam kết và niềm đam mê Sự thân mật là một hình thức trong đó hai người chia sẻ những tâm sự và nhiều chi tiết khác nhau về cuộc sống cá nhân của họ, và thường được thể hiện trong tình bạn và những chuyện tình lãng mạn Hình thức cuối cùng của tình yêu là sự hấp dẫn và đam mê tình dục Tình yêu đam mê được thể hiện trong sự mê đắm cũng như tình yêu lãng mạn Tất cả các hình thức của tình yêu được xem là sự kết hợp khác nhau của ba thành phần này

3.3 Tư vấn hướng nghiệp, dạy nghề

- Tư vấn nghề nghiệp rất có ích cho học sinh vì nó không chỉ đề cập đến nhân cách, mơ ước, sở thích, nguyện vọng, mà học sinh còn được biết đến những đại lượng khác trong bức tranh nghề nghiệp rộng lớn, từ đó họ hiểu thêm về xã hội các

Trang 20

em đang sống Nhất là giáo viên chủ nhiệm cho học sinh một cái nhìn "từ bên trong"

để các em có cơ hội chọn lựa, an tâm với chính mình, giành hết năng lực và công sức của bản thân một khi đã chọn ra một nghề thích hợp cho mình

- Giáo viên chủ nhiệm nên giúp học sinh của mình nắm bắt thông tin nghề nghiệp bằng những cách sau:

+ Khuyến khích học sinh tham gia hội chợ nghề nghiệp được đông đảo các đơn vị kinh doanh, tổ chức kinh tế, xí nghiệp, nhà máy, các trường đại học, tham dự

+ Cập nhật thông tin mới về nghề nghiệp qua hệ thống thư viện

+ Kêu gọi các cơ quan hãy tạo những nỗ lực chiêu sinh, tuyển việc đến gần hơn nữa với giới lao động và các học sinh, sinh viên

+ Có những buổi nói chuyện chuyên đề bởi những chuyên viên trong nghề trên tivi, đài, báo, về ngành nghề

3.4 Tư vấn giá trị sống, kĩ năng sống

3.4.1 Kĩ năng tự nhận thức

- Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân

- Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu, của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng

- Tự nhận thức là một kĩ năng sống rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội Ngược lại, đánh giá không đúng

về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác

- Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác

3.4.2 Kĩ năng xác định giá trị

- Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái

độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó,

- Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng Kĩ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình Kĩ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người Kĩ năng này còn

Trang 21

giúp chúng ta biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác

3.4.3 Kĩ năng kiểm soát cảm xúc

- Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân

và đối với người khác như thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp Kĩ năng xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm xúc, kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc

- Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn Kĩ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng xử với người khác và

kĩ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần củng cố các kĩ năng này

3.4.4 Kĩ năng ứng phó căng thẳng

- Khi bị căng thẳng, tùy từng tình huống, mỗi người có thể có cách ứng phó khác nhau Cách ứng phó tích cực hay tiêu cực khi căng thẳng phụ thuộc vào cách suy nghĩ tích cực hay tiêu cực của cá nhân trong tình huống đó Kĩ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ

và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng

- Chúng ta cũng có thể hạn chế những tình huống căng thẳng bằng cách sống

và làm việc điều độ, có kế hoạch, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, sống vui

vẻ, chan hòa, tránh gây mâu thuẫn không cần thiết với mọi người xunh quanh, không đặt ra cho mình những mục tiêu quá cao so với điều kiện và khả năng của bản thân,

3.4.5 Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ

- Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ bao gồm các yếu tố sau:

+ Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ

+ Biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy

+ Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó

+ Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp

3.4.6 Kĩ năng thể hiện sự tự tin

- Tự tin là có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ

- Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày

tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết

Trang 22

vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống

- Kĩ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng,

ra quyết định, đảm nhận trách nhiệm

4 TỔ CHỨC TƯ VẤN CHO HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM

4.1 Các giai đoạn thực hiện tư vấn

4.1.1 Giai đoạn 1: Trước tư vấn

- Gặp gỡ trao đổi thông tin, hồ sơ

- HS và GVCN thống nhất các nguyên tắc và điều khoản làm việc

4.1.2 Giai đoạn 2: Trong tư vấn

Khảo sát toàn diện về HS

Đào tạo nhận thức

Định vị các nhóm vấn đề cốt lõi

Xây dựng các chương trình, giải pháp tư vấn

Ứng dụng các giải pháp và điều chỉnh

Chuyển giao kết quả

4.1.3 Giai đoạn 3: Sau tư vấn

Phản hồi

Chăm sóc tư vấn

4.2 Một số kĩ năng tư vấn cho lớp chủ nhiệm

4.2.1 Luôn đảm bảo tính khách quan trong tư vấn

- Đảm bảo tính khách quan là nguyên tắc của bất kì một hoạt động chuyên môn, hoạt động nghiên cứu nào Tư vấn là một hoạt động chuyên môn, là việc ứng dụng kết quả nghiên cứu của một số chuyên ngành khoa học trong thực tiễn, đó là tâm lý học tư vấn, giáo dục học đường Chính vì vậy đảm bảo tính khách quan là yêu cầu bắt buộc

- Việc đảm bảo tính khách quan trong tư vấn học đường còn thể hiện ở chỗ trong quá trình tư vấn, chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó là hỗ trợ HS cần tư vấn tự nhận thức và tự giải quyết được những khó khăn của mình Người tư vấn không có mục tiêu cá nhân nào trong khi tư vấn

4.2.2 Cần tránh các quan hệ nhiều tuyến với học sinh cần tư vấn

Các mối quan hệ cần tránh trong tư vấn là:

- Quan hệ xã hội: Người tư vấn là bạn bè với HS cần tư vấn

- Quan hệ đồng nghiệp: Người tư vấn với HS cần tư vấn là đồng nghiệp hoặc con đồng nghiệp

Trang 23

- Quan hệ gia đình, ruột thịt: Người tư vấn không tư vấn cho những người là gia đình, họ hàng ruột thịt của mình

- Quan hệ lãnh đạo: như cấp trên, cấp dưới

- Quan hệ tình cảm: Những quan hệ thân tình, yêu đương,

- Quan hệ công việc: như người tư vấn cùng HS cần tư vấn tham gia một công việc, hoạt động yêu thích

4.2.3 Cần tôn trọng học sinh cần tư vấn

- Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ người tư vấn không phân biệt văn hóa, dân tộc, nguồn gốc xuất thân, tuổi tác, tôn giáo, khiếm khuyết, hay bệnh tật của HS cần

tư vấn Việc tôn trọng HS cần tư vấn còn thể hiện ở cách hành xử của người tư vấn: không bao giờ làm thay những gì chúng có thể tự làm, hay tăng cường tối đa khả năng tự nhận thức, tự giúp đỡ bản thân Sự tôn trọng còn thể hiện ở chỗ người tư vấn cần tôn trọng sự lựa chọn và chịu trách nhiệm của HS cần tư vấn Việc áp đặt các quyết định của người tư vấn lên HS không những thiếu tôn trọng HS mà còn không trang bị cho các em những công cụ cần thiết để trẻ có thể tự giải quyết những khó khăn của mình

- Người tư vấn không thể ép buộc trẻ ra quyết định mà chỉ có thể làm cho trẻ

tự nhận thức và ra quyết định Đối với cha mẹ hoặc người bảo trợ các em, sự tôn trọng thể hiện ở chỗ: người tư vấn cần tôn trọng quyền và trách nhiệm của họ Gia đình rất quan trọng đối với HS Khi tư vấn cho HS, cần thiết lập mối quan hệ hợp tác, sự thông cảm và sự tham gia của cha mẹ trong việc tạo ra cho trẻ một cuộc sống tốt nhất

4.2.4 Cần giữ bí mật thông tin trong tư vấn

Trong quá trình tư vấn, người tư vấn cần:

- Bảo đảm những bí mật mà HS cần tư vấn cung cấp, chia sẻ; bảo đảm bí mật các hồ sơ tư vấn

- Thống nhất nguyên tắc bí mật thông tin với HS cần tư vấn, với các thành viên tham gia tư vấn nhóm, tư vấn gia đình

- Trong trường hợp khẩn cấp, thông tin HS cung cấp có liên quan đến sự việc đảm bảo an toàn cho chính HS và những người liên quan, cộng đồng; liên quan đến

an ninh thì người tư vấn cần báo cho những người chịu trách nhiệm cao nhất biết để

xử lý Đồng thời thông báo cho HS cần tư vấn biết để phòng tránh

- Người tư vấn thường hỏi ý kiến của những người có chuyên môn giỏi về cách xử lý các tình huống cụ thể Khi hỏi ý kiến, người tư vấn cần đảm bảo thay đổi

họ tên HS nhằm đảm bảo bí mật về nhân thân HS

5 THỰC NGHIỆM CÁC NỘI DUNG TƯ VẤN TÂM LÍ HỌC ĐƯỜNG TẠI LỚP CHỦ NHIỆM

5.1 Kế hoạch thực nghiệm

- Xây dựng nội dung đề tài

- Phân chia GV (khảo sát, soạn giáo án)

- Thực nghiệm, đánh giá

Trang 24

5.2 Mục tiêu thực nghiệm

5.2.1 Thực nghiệm đa dạng hóa nội dung TVHĐ

- Giúp HS tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hóa GV chỉ đóng vai trò tư vấn để các em hòa mình, làm chủ các hoạt động và phát huy được năng lực và phẩm chất

- Thông qua các hoạt động tư vấn giúp các em tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong học tập, trong quan hệ bạn bè, tình yêu và trong việc định hướng nghề nghiệp giúp các em trở thành người HS tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp, có những phẩm chất tốt đẹp về năng lực cần thiết để trở thành người công dân tốt

- Thông qua các tiết sinh hoạt theo chủ đề, không chỉ tháo gỡ những khó khăn

về tâm lí học đường cho các em mà còn nâng cao năng lực sử dụng công nghệ thông tin trong việc tìm kiếm tư liệu, xây dựng nội dung chương trình, thiết kế các video, hình ảnh, bảng biểu để trình bày

5.2.2 Thực nghiệm phát huy về vai trò, nhiệm vụ của người GVCN

- Quá trình thực nghiệm đòi hỏi người GVCN phải có đủ phẩm chất, năng lực mới đảm bảo vai trò tự chủ trong việc thực hiện quá trình giáo dục nói chung và TVHĐ cho HS nói riêng

- GVCN phát huy được vai trò, nhiệm vụ của mình thì mới tác động hỗ trợ từng HS, hoàn thiện nhân cách, phát huy năng lực cho các em

5.3 Đối tượng và thời gian thực nghiệm

5.3.1 Đối tượng thực nghiệm

- Tại lớp 10A1- Trường THPT Diễn Châu 5

- Tại lớp 10A5- Trường THPT Diễn Châu 5

5.3.2 Thời gian thực nghiệm

- Tháng 9/ 2023 → tháng 3/ 2024: Tổ chức thực nghiệm tư vấn tâm lí, học tập tại lớp 10A1, 10A5

- Tháng 11/ 2023: Tổ chức thực nghiệm tư vấn tình bạn, tình yêu thông qua tiết sinh hoạt chủ đề tại lớp 10A1,10A5

- Tháng 2/ 2024: Tổ chức thực nghiệm tư vấn định hướng nghề nghiệp thông qua tiết sinh hoạt tại lớp 10A1, 10A5

5.4 Mô tả kế hoạch nội dung thực nghiệm

Sau khi tìm hiểu kỹ tầm quan trọng của công tác tư vấn tâm lý cho học sinh, chúng tôi đã thực hiện một số giải pháp trong công tác tư vấn tâm lý học đường cho học sinh lớp 10A1,10A5 nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục Nội dung trong công tác

tư vấn tâm lý học đường cho các em HS, chúng tôi tập trung ở các nội dung cơ bản

đó là: Tư vấn trong học tập; tư vấn tình bạn, tình yêu; tư vấn hướng nghiệp; tư vấn giá trị sống, kĩ năng sống

Trang 25

5.4.1 Những giải pháp chung cho các nội dung tư vấn tâm lí học đường

5.4.1.1 Giải pháp 1 Thiết lập ‘‘nhật ký lớp chủ nhiệm” và xây dựng mạng lưới theo dõi cập nhật thông tin

Đây là giải pháp chung cho các nội dung tư vấn cơ bản, ngay khi tiếp nhận lớp, chúng tôi thiết lập một sổ tay ghi nhật ký lớp chủ nhiệm Trong đó có phần ghi thông tin học sinh, mỗi trang ghi họ tên đặc điểm tính cách hoàn cảnh gia đình, vắn tắt mối quan hệ bạn bè (những người bạn thân) của từng học sinh trong lớp Chúng tôi tạo những trang nhật ký này bằng những hình ảnh đẹp của các em, và nhờ các em

về nhà ghi rõ thông tin trên trang và chúng tôi đóng lại thành cuốn (PL 3) Qua cuốn nhật ký lớp chủ nhiệm, chúng tôi có thể nắm được hoàn cảnh kinh tế gia đình, tình hình nhà ở, mối quan hệ gia đình, xã hội, những ước muốn, sở trường, những khó khăn (nếu có),… Với những thông tin đầu tiên này, chúng tôi có thể sàng lọc chọn

ra những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, thu thập thêm thông tin về các em thông qua bạn bè, cha mẹ, giáo viên bộ môn, GVCN cũ của các em Tuy nhiên, trong cuộc sống, không có gì là không thể xảy ra Vì vậy, đối với những học sinh được đánh giá thật bình thường về hoàn cảnh, về tâm lý, cũng không nên chủ quan cho rằng không cần phải quan tâm đến các em Chúng tôi phải thể hiện sự quan tâm của mình đến với từng học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng điểm ở một số học sinh cá biệt trong lớp 10A1 như em: Thái Bá Dương, Nguyễn Đình Đông, Bùi Sĩ Hoàng, Thái Trung Kiên, Đoàn Thùy Dung, Nguyễn Thu Hiền; trong lớp 10A5 có các em như Hoàng Minh Quang, Hồ Danh Thức, Nguyễn Hữu Tú, Lê Kiều Oanh, Nguyễn

Cẩm Linh, Nguyễn Thị Lợi

Bên cạnh đó, chúng tôi đã tự hình thành cho mình một mạng lưới thu thập thông tin riêng từ các nguồn: Giáo viên bộ môn, cha mẹ, bạn bè của học sinh Bản thân là một giáo viên chủ nhiệm, song không phải thời gian nào chúng tôi cũng có mặt trên lớp và bám sát các em 24/24h Chúng tôi xây dựng cho mình một mạng lưới một lớp gồm 10 em thuộc các tổ Đây là những em năng nổ, được các bạn trong lớp tin tưởng và yêu quý Nhóm này là bí mật, chỉ giáo viên chủ nhiệm biết Nhóm các em học sinh này sẽ giúp chúng tôi cập nhật những thông tin từ các bạn Nguồn thông tin mà chúng tôi thu thập phải giữ bí mật tuyệt đối và từ đó chúng tôi có thể biết những tâm tư, mong muốn của các em học sinh trong lớp Bởi việc chia sẻ tâm

tư tình cảm của mình với các bạn dễ hơn việc tâm sự với giáo viên Từ đó, chúng tôi

sẽ có các giải pháp tư vấn tâm lý phù hợp và kịp thời

Với công nghệ 4.0 bùng nổ như hiện nay, mỗi em học sinh trong lớp

10A1,10A5 đều có một địa chỉ facebook Do vậy, bên cạnh “nhật ký yêu thương”

bằng giấy, chúng tôi thành lập một nhóm kín trên Facebook của lớp, có đầy đủ các thành viên trong lớp Qua nhóm kín này, chúng tôi ngầm theo dõi các hoạt động cũng như diễn biến tâm lý của các em trên Facebook, từ đó có những hỗ trợ kịp thời khi các em gặp vấn đề khó khăn Đồng thời nhóm kín này sẽ ghi lại những khoảnh khắc đẹp trong đời học sinh của các em

Trang 26

Nhóm kín của hai lớp 10A1, 10A5

Hiệu quả sau khi thực hiện giải pháp 1:

100% các em khi nhận được trang nhật ký được GVCN chuẩn bị cho mỗi bạn đều rất hào hứng và điền đầy đủ thông tin và nội dung theo hướng dẫn Các em cảm thấy gần gũi khi được tâm sự với GVCN về những ước mơ, hoài bão và mong muốn của mình trong tương lai Không những thế, chúng tôi có thể kịp thời nắm bắt những khó khăn bất thường trong học tập và trong cảm xúc, hành vi để lắng nghe, tư vấn

và chia sẻ với các em

5.4.1.2 Giải pháp 2 Tạo môi trường gần gũi với học sinh và phụ huynh qua việc GVCN và tập thể lớp đi thăm gia đình các thành viên trong lớp

Lớp 10A1, 10A5 là hai lớp có nhiều học sinh ở các xã phía nam Diễn Châu, 100% phụ huynh đều làm nông nghiệp nên điều kiện kinh tế của gia đình các em còn gặp nhiều khó khăn Đầu năm học, chúng tôi đã ra chỉ tiêu, mỗi tháng sẽ bố trí thời gian để cùng các em trong lớp đến thăm gia đình của 3 đến 5 học sinh theo khu vực xã

Đồng hành cùng các em đến từng gia đình của các thành viên trong lớp giúp tình cảm cô trò khăng khít hơn, phụ huynh học sinh thấy GVCN quan tâm đến con

em mình, bản thân phụ huynh cũng phấn khởi và phối hợp với giáo viên chủ nhiệm tốt hơn Qua việc đến thăm từng gia đình học sinh, được tận mắt nhìn thấy chỗ ăn, chỗ ở, chỗ học tập của các em, giúp chúng tôi hiểu hoàn cảnh của các em cặn kẽ hơn Nhiều em học sinh có điều kiện hoàn cảnh gia đình rất khó khăn ở lớp 10A1 như em Cao Thanh Bình ở xóm 3 Diễn An, Diễn Châu; em Cao Trọng Nam ở xóm

6 Diễn Trung, Diễn Châu; em Cao Thu Thủy ở xóm 9 Diễn Lợi, Diễn Châu,… Lớp 10A5 có các em như Nguyễn Kiều Oanh ở xóm 5, Diễn Trung, Diễn Châu; em Lê Thị Thường ở xóm 6 Minh Châu, Diễn Châu; em Biền Thị Phương Thảo ở xóm Tây Thọ, Diễn Thọ, Diễn Châu Mặc dầu hoàn cảnh khó khăn nhưng các em vẫn cố gắng chăm ngoan và đi học đều Đến thăm gia đình từng học sinh trong lớp, giúp tăng cường mối quan hệ giữa phụ huynh, học sinh và GVCN ngày càng khăng khít hơn Các em học sinh chưa chăm ngoan thấy GVCN quan tâm cũng tự giác và thay đổi thái độ học tập và làm việc tốt hơn Hình ảnh GVCN lớp 10A1,10A5 thăm nhà học sinh (PL 4)

Trang 27

GVCN lớp 10A1, 10A5 và các bạn học sinh thăm gia đình một số học sinh trong lớp

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 2:

Sau khi đến thăm các gia đình học sinh, chúng tôi nhận thấy các em cởi mở hơn, gần gũi hơn với cô giáo Các em coi chúng tôi như một người bạn, một người thân của các em để có thể chia sẻ tâm sự những khó khăn Đến thăm gia đình học sinh, giúp chúng tôi biết chính xác hoàn cảnh gia đình từng em, từ đó sẽ có những phương pháp nắm bắt và tư vấn tâm lý phù hợp Bên cạnh đó, chúng tôi liên hệ với nhà trường, hội chữ thập đỏ để có những hỗ trợ về tài chính động viên các em có hoàn cảnh đặc biệt để giúp các em giảm bớt khó khăn trong quá trình học tập

5.4.2 Những giải pháp cụ thể về công tác tư vấn tâm lí học đường cho học sinh

5.4.2.1 Giải pháp 1: Tư vấn tâm lý học đường cho những học sinh gặp khó khăn trong học tập

5.4.2.1.1 Giải pháp 1.1: Phân loại nhóm học sinh có năng lực học tập theo từng môn học để có những tác động tâm lý phù hợp

Học tập kiến thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhà trường THPT Lớp 10A1 đặc thù là lớp cơ bản tự nhiên, các em có lực học trung bình và yếu ở các môn khoa học xã hội Còn lớp 10A5 đặc thù là lớp cơ bản xã hội, các em

có lực học trung bình và yếu các môn khoa học tự nhiên Chúng tôi dựa vào kết quả khảo sát đầu năm học lớp 10 để phân loại từng nhóm học sinh, bao gồm 4 nhóm:

+ Nhóm học sinh có lực học yếu các môn thuộc ban khoa học tự nhiên + Nhóm học sinh có lực học yếu các môn thuộc ban khoa học xã hội

+ Nhóm học sinh học yếu môn tiếng Anh

+ Nhóm học sinh học yếu tất cả các môn

Sau mỗi buổi học, chúng tôi lần lượt quan sát trên sổ đầu bài và sổ điểm xem điểm kiểm tra của các em ở các môn học Nhiều giáo viên sẽ quát hoặc la mắng khi các em bị điểm kém làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp Nhưng chúng tôi không làm như vậy Khi một học sinh bị điểm kém môn học nào đó, chúng tôi sẽ tìm hiểu

Trang 28

nguyên nhân vì sao em bị điểm kém để đưa ra giải pháp phù hợp, giúp các em học tập tốt hơn

Ví dụ 1: Thời gian đầu năm học, ba tuần liên tục em Trịnh Phương Anh lớp

10A5 thường xuyên bị điểm yếu các môn Toán, Lý Qua việc phân nhóm, chúng tôi biết em Anh thuộc nhóm các em học sinh có lực học yếu các môn thuộc Ban khoa học tự nhiên Chúng tôi đã gặp riêng em, nhẹ nhàng trao đổi cởi mở, ban đầu em rụt

rè, sợ hãi không dám nói suy nghĩ của mình Sau đó khi được cô khích lệ động viên,

em Phương Anh tâm sự:“ Em không hiểu các phép toán và các công thức sau mỗi lần cô dạy, vì cô dạy toán dạy khá nhanh Em chưa kịp suy nghĩ thì các bạn đã hiểu rồi, về nhà em không làm được bài tập Cứ vậy em cảm thấy chán và ngại học môn toán.”

Ngay sau đó, chúng tôi gặp riêng tất cả các em học yếu các môn thuộc Ban khoa học tự nhiên để cùng tìm nguyên nhân Sau đó, chúng tôi nói chuyện với các thầy cô dạy môn Toán và các thầy cô dạy các môn Ban khoa học tự nhiên nhờ các thầy cô quan tâm thêm đến các em trong mỗi tiết học chính khóa và phụ khóa Chúng tôi giao nhiệm vụ cho các em học tốt hơn môn Toán trong lớp như em Cẩm Tú, em Nam kèm cặp thêm cho em Phương Anh và các bạn học yếu môn Toán Trong các tiết sinh hoạt 10 phút đầu giờ, chúng tôi dành thời gian để hỏi han em Phương Anh

và các em học yếu xem các em có hiểu bài hơn không? Đã làm bài tập về nhà chưa? Các bạn Cẩm Tú và Nam có hỗ trợ em nhiệt tình không? Và luôn động viên khích

lệ đồng thời nhắc nhở em tập trung hơn cho việc học tập Không những thế, chúng tôi còn trao đổi với các phụ huynh có con học yếu môn Toán để cùng phối hợp trong việc giúp con học tập ở nhà

Sau một thời gian, chúng tôi thấy lực học của em Phương Anh và một số em

có sự thay đổi trong môn Toán Các em dần hiểu vấn đề và không còn ngại học nữa

Từ đó kết quả học tập của HS đã có nhiều chuyển biến tốt

Ví dụ 2: Trong lớp 10A1 có một nhóm nam như em Đặng Nam Hà,Thái Bá

Hà, Đinh Công Nho, Cao Ngọc Tùng ham chơi điện tử không chịu khó học tập, nhiều môn không ghi bài, các thầy cô giáo bộ môn phàn nàn bất lực Chúng tôi gặp riêng các em trên phòng nề nếp của nhà trường, đề nghị các em cùng chúng tôi xem video Chúng tôi sưu tầm 1 số video về ảnh hưởng của game đến học tập; chứng loạn thần khi ham game,… để các em xem đi xem lại Sau đó để các em tự rút kinh nghiệm và viết ra giấy là các em muốn làm gì? Bên cạnh đó, chúng tôi kiểm tra nhóm học sinh này thuộc nhóm học sinh học non tất cả các môn, tôi đề nghị một số bạn học sinh học tốt môn xã hội như em Tú, em Thảo Anh và nhóm các bạn học tốt các môn khoa học tự nhiên như em Quang, em Mạnh hỗ trợ các bạn, nhắc nhở các bạn ghi bài đầy đủ và chuẩn bị bài ở nhà Không những thế, chúng tôi luôn bám sát các học sinh này để hỗ trợ động viên kịp thời

GVCN hỗ trợ HS trong học tập (PL 5)

Trang 29

Hình 1 Hình 2

Hình 1: GVCN hỗ trợ học tập qua ZOOM cho HS lớp 10A1

Hình 2: GVCN hỗ trợ học tập tại lớp cho HS lớp 10A5

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 1.1:

Các bạn học tốt hơn giúp các bạn học yếu hơn để cả lớp cùng tiến bộ Hai lớp 10A1 và 10A5 đầu năm có rất nhiều học sinh thiếu tự tin trong học tập, nhưng sau một thời gian thực hiện giải pháp nêu trên thì 100% học sinh đều tự tin tham gia đợt khảo sát do nhà trường tổ chức và kết quả rất đáng khích lệ Như em Trịnh Phương Anh đã đạt 6.2 điểm môn toán trong kỳ khảo sát, em Đặng Nam Hà đạt 18,2 điểm, Thái Bá Hà đạt 16,6 điểm, Đinh Công Nho đạt 17,75 điểm, Cao Ngọc Tùng đạt 20

điểm/3 môn Toán, Văn, Anh

5.4.2.1.2 Giải pháp 1.2: Tác động tâm lý học sinh thông qua những lời khen ngợi, khích lệ, động viên

Ở nhà, các em học tập kém, bố mẹ vì quá kỳ vọng vào con mà la mắng Nhiều

em không dám nói cho bố mẹ biết kết quả học tập của mình Hoặc nhiều em bị một con điểm kém là lo lắng sợ hãi Nếu ở trường, thầy cô giáo cũng chê bai và phê bình các em nữa sẽ làm cho các em mất tự tin và chán nản trong việc học tập Việc GVCN cần làm là luôn cố gắng quan sát để tìm ra những ưu điểm của các em thông qua những công việc hằng ngày để kịp thời khéo léo ngợi khen và khích lệ các em, tạo niềm vui, sự hứng khởi và động lực để các em học tập tốt hơn

Ví dụ: Trong lớp 10A5 nhóm nữ ngồi học không tập trung, hay nói chuyện

riêng có em Phan Thanh Thảo, trong một tiết Ngữ Văn do tôi giảng dạy, em xung phong trả lời câu hỏi Tôi liền gọi em lên bảng, mặc dù câu trả lời chưa thực sự tốt, song nếu giáo viên khác sẽ cho em ngồi xuống và nói câu trả lời chưa chính xác, thì

em Thảo lần sau sẽ ngại suy nghĩ và không xung phong trả lời bài nữa Tôi thì khác, sau khi nghe câu trả lời của em, tôi nhẹ nhàng đi xuống chỗ em ngồi vỗ nhẹ vai em

và nói: “Em đã rất tự tin và trả lời rất tốt, cô mong em sẽ suy nghĩ thêm chút nữa để câu trả lời hoàn thiện hơn nhé Cố gắng phát huy tinh thần xung phong cho các câu trả lời sau và với các môn học khác nữa nhé Cô tin tưởng và chờ đợi em” Tôi tiếp

tục quan sát và theo dõi em Thảo và thấy em dần thay đổi Với những thay đổi dù

Trang 30

nhỏ của em, tôi kịp thời khích lệ động viên để em cảm thấy luôn được quan tâm và

tự tin cố gắng

Ở giải pháp này, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có sự quan sát tinh tế, ai cũng muốn được ngợi khen, khích lệ Ngay cả những em học sinh hay vi phạm nội quy, nếu GVCN chỉ phạt và phạt mà không tìm được ưu điểm dù nhỏ của các em để khích lệ, ngợi khen thì các em sẽ thấy mình vô dụng và không cần cố gắng nữa

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 1.2:

Không có một học sinh nào yếu kém, chỉ là chúng ta chưa biết khai thác hết điểm mạnh và khả năng của các em mà thôi Trong quá trình giảng dạy và giáo dục, thầy cô để ý quan sát và động viên khích lệ kịp thời, uốn nắn những sai sót chỉ bảo cho các em chân tình thì các em sẽ có nhiều chuyển biến đáng khích lệ Rất nhiều

em học sinh trong lớp 10A1, 10A5 đã tự tin và cố gắng hơn trong học tập

5.4.2.1.3 Giải Pháp 1.3: Sử dụng “Bản mục tiêu phấn đấu trong năm học” là đòn bẩy giúp học sinh có động lực trong học tập

Một trong những lí do khiến học sinh gặp vấn đề khó khăn trong học tập là các em không có hứng thú trong học tập, các em không xác định được mục tiêu học tập cho mình và phương pháp học phù hợp Để có được kết quả học tập cao, mỗi em học sinh cần tự xây dựng cho mình một kế hoạch học tập và mục tiêu phấn đấu cụ thể Qua đó giúp các em hình thành những thói quen tích cực của bản thân, làm việc

có kế hoạch, phân chia thời gian học tập một cách khoa học và hiệu quả nhất Mỗi học sinh phải đặt ra cho mình nguyên tắc học tập và rèn luyện và phải nỗ lực để đạt được mục tiêu đó Việc chăm chỉ học tập và rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp sẽ giúp các em dành phần lớn thời gian cho mục tiêu của bản thân, hạn chế tối đa thời gian cho các mục đích khác như “ nghiện game”, “nghiện facebook” GVCN phải

có định hướng nghề nghiệp cho học sinh và giúp các em xác định được mục tiêu của bản thân sau khi học xong

Để thực hiện giải pháp này, ngay từ đầu năm học, GVCN đã cho học sinh viết bản mục tiêu phấn đấu trong năm học 2023-2024, có chữ ký xác nhận của phụ huynh,

sau đó đóng thành tập treo phía sau bàn làm việc của giáo viên Bản “mục tiêu phấn đấu trong năm học” không phải viết cho có, mà tùy theo năng lực của từng đối tượng

học sinh các em sẽ đề ra cho mình một mục tiêu phù hợp mà bản thân có thể thực

hiện được Ví dụ: em Bùi Sĩ Hoàng lớp 10A1 do học lực yếu nên có tâm lí chán học,

ham chơi, hay bỏ giờ, bỏ tiết dẫn đến kết quả học tập đầu năm học nhiều môn kết quả chưa đạt, kết quả rèn luyện trong tháng cũng xếp loại chưa đạt Mục tiêu phấn đấu của em trong năm học là học lực đạt, kết quả rèn luyện khá, không bỏ giờ, bỏ tiết, không nghỉ học vô lý do

Tổng kết học kì I năm học 2023-2024 vẫn còn một số em chưa hoàn thành được mục tiêu mà bản thân đã đề ra từ đầu năm học Đó là các em: Cao Thanh Bình, Cao Diệu Linh, Bùi Sĩ Hoàng lớp 10A1, Cao Quỳnh Linh, Cao Tiến Quân, Nguyễn

Trọng, Lê Thiếu Anh lớp 10A5 Tuy nhiên, GVCN luôn theo dõi và không ngừng

động viên khích lệ các em để các em nỗ lực phấn đấu để có kết quả vượt bậc ở những tháng đầu của học kì 2 Chúng tôi luôn tin tưởng vào khả năng phấn đấu của các em

và tạo điều kiện tốt nhất để các em hoàn thành mục tiêu đã đề ra Việc phấn đấu để

Trang 31

đạt được mục tiêu cuối năm sẽ giúp các em chăm chỉ học tập, biết được mục tiêu thật sự của cuộc đời trong giai đoạn này

Bản mục tiêu học tập của lớp chủ nhiệm năm học 2023-2024 (PL 6)

Bản mục tiêu học tập của lớp chủ nhiệm 10A1 năm học 2023-2024

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 1.3:

Tổng kết học kì I và những tháng đầu của học kì 2, nhiều em học sinh lớp 10A1,10A5 đã dần hoàn thành được mục tiêu phấn đấu về học tập và rèn luyện, có

em hoàn thành vượt mức như các em: Trần Tuấn Đạt, Thái Trung Kiên, Nguyễn Đình Đông, Hoàng Thị Mỹ Duyên, Cao Phương Linh, Hoàng Thúy Nghĩa, Võ Kim Oanh lớp 10A1; các em như Nguyễn Kiều Oanh, Biền Thị Phương Thảo, Cao Hoàng

Hà Linh, Nguyễn Hà Linh, Cao Như lớp 10A5 100% học sinh lớp 10A1,10A5 tự

tin tham gia kỳ khảo sát kiến thức giữa kì 2, và nhiều em tham gia thi học sinh giỏi cấp trường do nhà trường tổ chức Nhiều em đạt kết quả cao lớp 10A5 như: em Biền Thị Phương Thảo giải Nhất môn Văn lớp 10, Phạm Minh Thư đạt giải Nhì Môn Lịch

sử, Cao Hoàng Hà Linh giải Ba môn Địa lí,… Lớp 10A1 có các em như: Cao Trọng Nam giải Nhì môn Toán, Nguyễn Cẩm Tú giải Nhì môn Sinh, Lưu Hà Sen, Nguyễn Phương Linh đồng giải Ba môn Vật lí

5.4.2.2 Giải pháp 2: Tư vấn tâm lý học đường cho những học sinh có vấn đề về giá trị sống, kĩ năng sống

5.4.2.2.1 Giải pháp 2.1: Giáo viên chủ nhiệm phải là một người bạn đồng hành,

một người thân vừa là một người thầy để luôn tinh tế, kiên nhẫn, lắng nghe và chia

sẻ

Ở giải pháp này, GVCN cần trang bị cho mình kỹ năng quan sát Quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những hiện tượng bất thường trong đời sống học đường, quan sát những biểu hiện của học sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý Đó

có thể là những biểu hiện nhỏ: đi trễ, không mang giày, cáu gắt với bạn, lo lắng, bất an,… hay lớn hơn như nghỉ học không xin phép, bỏ tiết Và nghiêm trọng hơn, như

vi phạm nội quy kiểm tra, vô lễ với giáo viên,… Với những học sinh cá biệt, việc

Trang 32

nghỉ học, bỏ tiết là chuyện thường ngày, nhưng với những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu hiện nhỏ nhất cũng là điều cần lưu ý

Ví dụ 1: Em Phạm Thị Trang lớp 10A5 là một học sinh ngoan trong lớp Một

học sinh học khá, chưa một lần đi trễ hay nghỉ học, thế nhưng hôm sáng thứ 2 lại đi học trễ Khi được hỏi trước lớp về lý do đi trễ, em đã im lặng Tôi liền gọi riêng em

Trang ra hỏi han, em tâm sự: “Thời gian gần đây cha mẹ hay cãi vã nhau Tối hôm

đó, bố em về nhà khi đã say rượu, đánh mẹ con em và bắt em nghỉ học Bố lấy dao đâm nát bánh xe của chiếc xe đạp em vẫn đi học để em không đi học được nữa Sáng

ra, em phải đi bộ hơn ba cây số để đến trường, vì ở quê sáng sớm chưa có nơi sửa

xe nào mở cửa, em Trang nấc nghẹn…” Với trường hợp này, nếu GVCN cứ cứng

nhắc áp dụng kỷ luật mà không cần hỏi han, có thể sẽ gây một chấn động tâm lý cho học sinh

Trước những học sinh cần tư vấn, bản thân chúng tôi là GVCN cần thật nhẹ nhàng, kiên nhẫn, biết lắng nghe và biết thấu hiểu Khi thầy cô lắng nghe và thể hiện

sự thấu hiểu, các em sẽ dễ dàng bày tỏ những điều đang chất chứa trong lòng Tuy nhiên, việc cần làm của GVCN trong công tác tư vấn không phải là chỉ ra cho các

em vấn đề nằm ở đâu và giải quyết vấn đề thay cho các em, mà là tạo điều kiện để học sinh tự nói ra vấn đề, tự nhìn nhận, đánh giá vấn đề, tự giải quyết vấn đề, nếu như vấn đề nằm trong khả năng của các em Nói cách khác, GVCN với tư cách là người tư vấn, phải khơi dậy được ở học sinh niềm tin vào bản thân, gạt bỏ những rào cản tâm lý để các em có thể đối mặt với những vấn đề của mình Tuy nhiên, khi vấn đề không chỉ thuộc về cá nhân học sinh, thì GVCN lại phải trợ giúp cho các em bằng nhiều cách, trong đó có việc tiếp xúc với các đối tượng có liên quan

Ví dụ 2: Như trường hợp của em Nguyễn Văn Trường lớp 10A1 em rất có ý

thức trong học tập và có tư duy tốt nhưng bỗng nhiên hai ngày liên tục em vắng học không có lý do Chúng tôi gọi về gia đình thì được biết em bỏ nhà đi mấy hôm nay không về, nếu em về gia đình sẽ cho em nghỉ học Chúng tôi nhờ các bạn trong lớp liên hệ với bạn bè của Trường và tìm thấy Trường làm phụ bàn trong một quán phở, Trường nói bỏ học đi làm kiếm tiền để không phải phụ thuộc vào bố mẹ Tôi đã đến tận quán phở nơi em Trường nhận làm phụ bàn, nhìn thấy chúng tôi, em rưng rưng

nước mắt Cô trò ngồi nói chuyện, em nức nở kể: “Bố mẹ em không biết để tiền ở đâu mà bị mất một triệu hai trăm nghìn Bố mẹ em đổ cho em lấy trộm và đánh em, rồi ông bà nội em cũng hùa theo, không một ai tin em Cả nhà chửi bới em thậm tệ,

và không cho em đi học Em thề với cô là em không lấy Giờ em muốn nghỉ học đi làm kiếm tiền tự nuôi bản thân không phụ thuộc vào bố mẹ em nữa” Với tình huống

này, trước tiên tôi trấn an và động viên Trường, phân tích cho em thấy những mất mát khi em bỏ học giữa chừng sẽ ảnh hưởng đến tương lai đang rạng ngời phía trước Mặt khác tôi đến nhà phụ huynh em Trường, tìm hiều kỹ nguyên nhân và chân thành lắng nghe, phân tích cho phụ huynh thấy rõ mức độ thiệt hơn nếu để Trường nghỉ

Trang 33

học Và tôi đưa Trường về nhà Bố mẹ nào cũng thương con, chúng ta cần bao dung

và tạo điều kiện tốt nhất để cho con phát triển Tiền bạc mất đi đều có thể kiếm lại được Sau đó một thời gian tôi được Phụ huynh của em Trường gọi điện cảm ơn vì

đã tìm thấy số tiền đã mất Trong tình huống này, nếu tôi không bám sát học sinh và tìm nguyên nhân, giải tỏa cho các em thì hậu quả sẽ khôn lường

Ví dụ 3: Hay như tình huống của em Lê Kiều Oanh và em Nguyễn Thu Thủy

lớp 10A5, hai em này có khúc mắc trên Facebook với ba bạn học sinh lớp 10 Sau khi nghe nguồn tin cung cấp từ các bạn trong lớp là năm em này sẽ gặp và xử lý theo cách “đàn chị”, GVCN đã kịp thời gặp trực tiếp năm em học sinh, lắng nghe chia sẻ

và để các em có thời gian tự bộc bạch suy nghĩ của mình Sau khi nghe mỗi em tự nói ra những điều bức xúc trong lòng, các em hiểu nhau hơn và cùng bắt tay xin lỗi nhau, xóa bỏ hiểu lầm Tuổi đang suy nghĩ bồng bột và do tâm lý lứa tuổi các em thường thổi bùng sự việc lên, do đó rất dễ xảy ra xung đột đánh nhau GVCN cần tinh tế quan sát những thay đổi tâm lý và nhận ra sự bất thường để kịp thời giải tỏa tránh sự việc đau lòng (PL 7)

Những hình ảnh HS được GVCN tư vấn tâm lí học đường

5.4.2.2.2 Giải pháp 2.2: Thay đổi tâm lý học sinh thông qua việc tổ chức các tiết sinh hoạt cuối tuần theo chủ đề

Nếu ở các lớp, tiết sinh hoạt cuối tuần là tiết “khủng khiếp” nhất vì là tiết để giáo viên chủ nhiệm “xả” những lỗi mà học sinh mắc phải trong một tuần Học sinh ngán ngẩm vì cứ nghe đi nghe lại những lời nhắc nhở, ra lệnh của thầy cô giáo chủ nhiệm thì các lớp chúng tôi lại ngược lại Tiết sinh hoạt cuối tuần là tiết mà các em hào hứng nhất, bởi tiết sinh hoạt là tiết cả cô và trò đều được thể hiện những khả năng của mình theo chủ đề hoạt động

Ví dụ: Trong tuần nếu có những em bỏ giờ đi chơi điện tử thì tiết sinh hoạt

cuối tuần tôi tổ chức cho các em xem video Chúng tôi tìm kiếm những video về các câu chuyện vì ham chơi điện tử có thể gây loạn thần, hoặc bỏ bê học tập tương lai

mờ mịt Kết hợp với việc xem video, chúng tôi cho cả lớp nghe các bản nhạc ngợi

Trang 34

ca về mẹ hay như “nhật ký của mẹ” hay bài “mẹ thương con”,… Không la mắng,

không nói nhiều, chính những điều các em xem, các em nghe và tự các em cảm nhận

đã thay đổi nhận thức tư duy của các em rất lớn

Ngoài ra, chúng tôi chuẩn bị các trò chơi tập thể, giúp các em rèn luyện kỹ năng, đồng thời tạo tâm lý thoải mái sau một tuần làm việc vất vả Qua các hoạt động, chúng tôi luôn quan sát để nhận biết những học sinh có tâm lý bất ổn, không hòa đồng vui cùng các bạn để tìm hiểu và tư vấn kịp thời

Bên cạnh đó, chúng tôi lựa chọn thêm một số chủ đề như giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên, hoặc chủ đề về an toàn giao thông được thể hiện qua các video hoặc bộ phim mang tính giáo dục để các em cùng xem, sau đó rút ra bài học cho mình (PL 8)

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 2.2:

Sau khi thực hiện giải pháp 2.2, chúng tôi nhận thấy các em cởi mở hơn, chia

sẻ với tôi nhiều điều hơn Có em chia sẻ bằng những bức thư tay, hoặc những dòng tin nhắn trên điện thoại,… Nhưng quan trọng hơn hết tôi nhận thấy tâm lý của các

em thay đổi, vui tươi thoải mái hơn, các em được mong muốn đến lớp mỗi ngày, và coi lớp học như một gia đình Quan tâm, và yêu thương, gắn kết các thành viên trong tập thể để các em hiểu nhau và sống chân thành với nhau hơn Bên cạnh đó, những video giáo dục kỹ năng sống qua tiết sinh hoạt lớp cũng giúp các em rèn luyện và rút ra cho mình nhiều bài học quý báu

5.4.2.2.3 Giải Pháp 2.3: Phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn trường, nhà trường tổ chức các hoạt động bổ ích để rèn luyện kỹ năng cho học sinh

Việc giáo dục học sinh, nâng cao chất lượng học tập và nề nếp không phải là việc làm một mình của GVCN Muốn đạt được kết quả cao nhất phải có sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với các giáo viên bộ môn, Đoàn trường và nhà trường

Để thực hiện giải pháp này đầu tiên tôi trao đổi với các giáo viên bộ môn tuyệt đối không để cho học sinh sử dụng điện thoại trong giờ học Tất cả những học sinh

sử dụng điện thoại trong giờ học thì các giáo viên bộ môn đều thông tin lại cho giáo viên chủ nhiệm biết để có biện pháp xử lý theo qui định của nhà trường Trong năm học 2023-2024 vừa qua, tất cả lớp 10A1,10A5 có năm trường hợp học sinh sử dụng điện thoại trong giờ học Dù các em sử dụng với mục đích gì đều vi phạm nội quy của trường, của lớp GVCN yêu cầu các em này viết bản kiểm điểm hứa không tái phạm có xác nhận của phụ huynh Vì vậy trong các giờ học trên trường hầu như học sinh lớp 10A1,10A5 không sử dụng điện thoại di động, chất lượng giờ dạy tăng cao

Ngoài ra, GVCN còn phối hợp với Đoàn trường, nhà trường trong các buổi sinh hoạt đầu tuần tuyên truyền cho học sinh cách ứng xử văn minh, lịch sự, có văn hóa với bạn bè, thầy cô và mọi người Thầy Thái Bá Qúy - Bí thư Đoàn trường còn hướng dẫn các em cách tháo gỡ những khúc mắc trong cuộc sống thay vì sử dụng bạo lực GVCN kết hợp với Đoàn trường tăng cường tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh giúp tăng cường sự giao lưu tiếp xúc “thực” giữa các em học sinh, tạo

Trang 35

môi trường cho các em được hòa mình vào những hoạt động sôi nổi, bổ ích sau những giờ học

Ví dụ: Hội thi văn nghệ nhân dịp 20/11, Hội thi làm bình hoa từ nhựa tái chế,

Hội thi làm bánh nhân dịp 20/10, Hội thi gói bánh chưng, viết thư pháp nhân dịp Tết

cổ truyền, Hội thi kéo co nhân dịp 26/3, tham gia văn nghệ tại Lễ hội Đền Cuông (15/2 âm lịch), Hội thi trang trí phòng học thân thiện,… (PL 9)

Hình 1: Hình ảnh trang trí phòng học lớp 10A1 và lớp 10A5

Hình 2: Hình ảnh HS thi kéo co lớp 10A1 và lớp 10A5

Hình 3: Hình ảnh thi văn nghệ lớp 10A1 và lớp 10A5

Trang 36

Kết quả thực hiện giải pháp 2.3:

Trong tất cả các phong trào thi đua của nhà trường, chúng tôi đều khuyến khích học sinh trong lớp tích cực tham gia và đạt kết quả cao Lớp 10A5 đạt giải Nhất cuộc thi gói bánh chưng và làm bình hoa từ vật liệu tái chế, đạt giải Nhì hội thi làm bánh; lớp 10A1 đạt giải Ba cuộc thi gói bánh chưng (PL 10) Lợi ích nó mang lại cho các em không hề nhỏ và chính khoảng thời gian “thực” này sẽ giúp các em

có sự cân bằng trong cuộc sống, thay vì sống “ảo” với mạng xã hội Facebook hoặc vùi đầu vào những trận game không có hồi kết Các thành viên của lớp 10A1, 10A5 rất tích cực trong các hoạt động chung, gắn kết thêm tình cảm bạn bè trong lớp Ngoài ra qua các hoạt động này, các em còn được giáo dục thêm về kỹ năng sống,

kỹ năng giao tiếp

5.4.2.3 Giải pháp 3: Tư vấn tâm lí tình yêu thông qua tiết sinh hoạt lớp theo chủ

- Giúp HS hiểu được tình yêu trong sáng, lành mạnh ở lứa tuổi vị thành niên

và ý nghĩa của những tình cảm đó trong việc hình thành nhân cách của các em

- Các em hiểu được mình có quyền bày tỏ và bảo vệ quan điểm của mình về tình yêu

- Có được những nhận thức đúng đắn về tình yêu để từ đó biết cách ứng xử

có văn hóa và cùng hợp tác xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, bình đẳng

- Tạo không khí giờ sinh hoạt sôi nổi, gây hứng thú đối với HS thông qua hoạt động trải nghiệm

- Tạo tinh thần đoàn kết, hiểu biết, quan tâm, chia sẻ cho nhau

2 Về năng lực: HS phát triển các năng lực

- Năng lực chung: Tự chủ, tự học, giao tiếp, hợp tác, giải quyết các vấn đề sáng tạo

- Năng lực riêng:

+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ

+ Năng lực sử dụng CNTT: Mạng internet khai thác tư liệu, hình ảnh

+ Thể hiện được cách giao tiếp, ứng xử phù hợp với tình huống hoạt động + Biết điều khiển, tổ chức sinh hoạt tập thể, sinh hoạt ngoại khóa

Trang 37

- Chuẩn bị các không gian cho các hoạt động theo chủ đề như đóng vai, sân

khấu hóa, trò chơi,… phục vụ cho chủ đề tình yêu tuổi học trò

- Giao nhiệm vụ cho HS: Viết báo cáo sơ kết, tìm hiểu, sưu tầm thông tin liên

quan đến chủ đề, chuẩn bị các trò chơi, các tiết mục văn nghệ phù hợp với chủ đề

2 Học sinh:

- Chuẩn bị các nội dung cho phần sơ kết tuần: báo cáo tình hình lớp / tổ trên

các mặt hoạt động, rèn luyện nề nếp và các hoạt động khác

- Khảo sát thực tiễn, chuẩn bị tư liệu, đạo cụ,… phục vụ cho hoạt động chủ đề

- GVCN chọn vị trí thích hợp trong lớp để bao quát, trao đổi, ghi chép, kiểm

soát về nội dung và thời gian để điều chỉnh hoạt động cho phù hợp Khi cần thiết sẽ

kịp thời can thiệp, hỗ trợ HS

- Hoạt động 1: Sơ kết tuần: (7 phút)

- Đại diện tổ báo cáo tình hình của tổ: nêu rõ ưu điểm, tồn tại chung, kết quả

rèn luyện của từng thành viên trong tổ,…(khuyến khích cách báo cáo dí dỏm, hấp

dẫn và sáng tạo)

- Đại diện cán sự lớp tổng hợp kết quả chung: so sánh với kế hoạch đã đặt ra

của tuần/ tháng trước/ kết quả của khối/ của trường; nhận xét rõ điểm mạnh, sự tiến

bộ, vấn đề tồn tại cần giải quyết,…

- HS trong lớp đóng góp ý kiến, bổ sung

- Hoạt động 2: Phổ biến kế hoạch tuần tới (8 phút)

- Đại diện cán sự lớp phổ biến kế hoạch của lớp, của trường (công việc phải

làm, chỉ tiêu cần đạt, biện pháp thực hiện,…)

- Các tổ thảo luận thống nhất kế hoạch của tổ

- GVCN nhận xét, nhấn mạnh và chốt lại những vấn đề chung (có thể khen

thưởng những HS tiến bộ, hoạt động tích cực,…)

PHẦN II SINH HOẠT THEO CHỦ ĐỀ (26 PHÚT)

Hoạt động 1: Khởi động (3 phút)

MC: Phổ biến luật chơi bằng trò chơi tìm chữ: Cung bậc tình yêu

- Trong vòng 30 giây, khi có tiếng chuông kết thúc trò chơi, đội nào kể tên

nhiều nhất 5 cụm từ diễn tả trạng thái cảm xúc tình yêu, bài hát tình yêu thì đội đó

chiến thắng

- MC: Tình yêu tuổi học trò là tình cảm đẹp nhất, trong sáng nhất, thánh thiện

nhất và giàu mơ mộng nhất Nhưng mối tình thời cấp III nên hay không nên khi

chúng ta đang còn là HS ngồi trên ghế nhà trường? Bất kể tình yêu nào cũng vậy,

Trang 38

hãy dùng cảm xúc để cảm nhận và dùng cái đầu để suy nghĩ Đặc biệt tình yêu tuổi học trò còn đang non dại Và bạn đã hiểu hết về tình yêu tuổi học trò, đã dám thổ lộ

và tâm sự với bất cứ ai về tình cảm của mình, đã tự tin khi nói rằng chưa rung động hay đã rung động trước bạn khác giới, đã dám đối mặt và nhìn nhận điểm tốt, điểm xấu khi bản thân mình đã từng yêu và rung động trước ai không? Vô vàn lí do để chúng ta nên có những suy nghĩ thật chín chắn, thẳng thắn về vấn đề này Chủ đề này thật vô cùng hấp dẫn khi cô giáo chủ nhiệm đưa ra để các tổ thảo luận và tìm hiểu

- Mở đầu chương trình là bài hát : Đúng người đúng thời điểm của Hà Minh Tuấn do hai Hoàng Linh Chi và Trần Tuấn Đạt lớp 10A1 thể hiện, bài Nhớ lắm của

Khổng Tú Quỳnh do bạn Hoàng Thanh Lam lớp 10A5 thể hiện Những ca từ sâu lắng trong giai điệu đầy vui tươi được các bạn mang đến cho buổi sinh hoạt theo chủ

đề tình yêu thêm sinh động và tràn đầy thú vị Đây cũng chính là lí do của hoạt động

hôm nay

- Kính thưa cô giáo chủ nhiệm cùng toàn thể các bạn! Chương trình sinh hoạt của lớp chúng ta gồm các phần sau:

Phần thứ nhất: Giao lưu tìm hiểu về Tình yêu tuổi học trò

Phần thứ hai: Giải quyết tình huống

Phần thứ ba: Hiểu ý đồng đội

Hoạt động 2: Tình yêu tuổi học trò (23 phút)

Phần thứ nhất: Giao lưu tìm hiểu về Tình yêu tuổi học trò (8 phút)

Trước khi vào phần thi, các em tham gia khảo sát về tình yêu tuổi học trò (PL 10)

Bảng tỉ lệ khảo sát tình yêu tuổi học trò 10A1 và 10A5

Qua bảng điều tra khảo sát, chúng ta thấy tỉ lệ học sinh có tình yêu ở lứa tuổi học trò tương đối cao lớp 10A1 là 80,5%, lớp 10A5 là 77,5% Đó cũng là lí do mà chúng

ta cần phải trang bị cho các em kiến thức về tình yêu tuổi học trò

Ở phần chơi này, Ban tổ chức đưa ra các câu hỏi về chủ đề: Tình yêu tuổi học trò

- MC dẫn chương trình điều hành lớp 10A1; 10A5 đọc câu hỏi và bạn nào nhanh tay được quyền trả lời đúng và nhiều câu hỏi nhất sẽ được phần quà từ Ban tổ chức

Trang 39

Câu hỏi, đáp án (PL 11)

Câu hỏi 1: Tình yêu là gì?

Câu hỏi 2: Thế nào là tình yêu tuổi học trò?

Câu hỏi 3: Ý nghĩa của tình yêu tuổi học trò?

Câu hỏi 4: Tại sao chúng ta lại nảy sinh tình yêu tuổi học trò?

Câu hỏi 5: Phụ huynh cần nhìn nhận về tình yêu tuổi học trò như thế nào?

Phần thứ hai: Giải quyết tình huống (10 phút)

- MC: Lớp 10A1- Nguyễn Thị Thu Hiền

Lớp 10A5- Trịnh Phương Anh

- MC: đưa ra 2 tình huống để giải quyết Các nhóm thảo luận để đưa ra cách giải quyết theo quan điểm của nhóm, cá nhân

- Thực hiện nhiệm vụ: Đáp án câu hỏi

- Tình huống 1: Theo bạn nên yêu hay không nên yêu ở lứa tuổi học trò?

- Tình huống 2: Nếu bạn bị bố mẹ phát hiện bạn đã có người yêu và bạn bị bố mẹ ngăn cản tình yêu, bạn sẽ có cách xử lí tình huống đó như thế nào?

Trang 40

Bạn Cao Tuấn Mạnh lớp 10A1 cho rằng: “Tình yêu tuổi học trò thì không nên vì

tình yêu rất khó đoán, khó giữ được lâu dài và ảnh hưởng đến học tập”

Với bạn Hoàng Thị Quỳnh Linh 10A5 cũng bày tỏ ý kiến của mình: “Về vấn

đề nên hay không nên yêu tuổi học trò thì tùy thuộc vào mỗi người Nếu cảm thấy mình ý thức được, mình nghiêm túc và mình coi đó là một động lực để học hành, để phấn đấu thì mình nên yêu Còn nếu mình chỉ yêu cho bằng bạn bằng bè và yêu theo phong trào thì mình không nên yêu vì có thể ảnh hưởng tới cả hai”

- Đánh giá kết quả thực hiện hoạt động

Phần thứ ba: Hiểu ý đồng đội (5 phút)

- MC: Triển khai thể lệ trò chơi

Ngày đăng: 09/03/2025, 21:29

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w