Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật: * Dấu hiệu hành vi: Vi phạm pháp luật phải là hành vi của con người, tức là xử sự thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
TIỂU LUẬN MÔN
Sinh Viên
Mã SV: : Nguyễn Thị Hoài Thu: 23067097
Giảng viên hướng
Trang 2Hà Nội, ngày tháng , năm 202
1.Vi phạm pháp luật: khái niệm, các yếu tố cấu thành ?
Ví dụ minh hoạ về 1 vi phạm pháp luật?
Khái niệm“Vi phạm pháp luật” : là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
Vi phạm pháp luật tiếng Anh là “Law violation”.
Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật:
* Dấu hiệu hành vi: Vi phạm pháp luật phải là hành vi của con người, tức là
xử sự thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để điều chỉnh hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ C.Mác đã từng nói: “ ngoài hành vi của tôi ra, tôi không tồn tại đối với pháp luật, không phải là đối tượng của nó ” Vì vậy, phải căn
cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi phạm pháp luật Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động (ví dụ: Giết người, gây thương tích….) Hoặc bằng không hành động (ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế)
* Dấu hiệu trái pháp luật:
Vi phạm pháp luật là hành vi trái với các quy phạm của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ
- Một hành vi được coi là trái pháp luật khi nó không phù hợp với các quy định của pháp luật, xâm hại tới quyền của công dân, tài sản của Nhà nước….Thông thường, một người không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình nếu hành vi đó chưa được pháp luật quy định Sự quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để xác định tính trái pháp luật trong một hành vi cụ thể
- Hành vi của con người có thể được các quy phạm xã hội khác nhau cùng điều chỉnh
* Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý: Hành vi trái pháp luật xác định do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện Người có năng lực hành vi là người
có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện
Trang 3* Dấu hiệu lỗi:
Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi của chủ thể của hành vi Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi đó Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vô ý Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật
Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp luật Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử
sự có tính chất trái pháp luật nhưng chủ thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình nhưng không điều khiển được hành vi của mình thì không bị coi là có lỗi và không phải là vi phạm pháp luật
* Dấu hiệu quan hệ xã hội bị xâm hại:
Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, tức là làm biến dạng đi cách xử sự là nội dung của quan hệ pháp luật đó
Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật:
Cấu thành vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một vi phạm pháp luật cụ thể
Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là : mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng tùy thuô c vào mức đôj j xâm hại các quan hêj xã hôji được pháp luâjt bảo vêj
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong hành
vi trái pháp luật Là môt trong những căn cứ để phân loại hành vi vi phạmj pháp luâjt
Măjt chủ quan của vi phạm pháp luâjt gồm: lỗi, đông cơ, mục đích vi phạmj pháp luâjt:
Trang 4- Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả xấu trong hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi của mình mà vẫn thực hiện) và trong chính hành vi đó (hành
vi chủ động, có ý thức….) Tại thời điểm chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó
Lỗi được chia thành hai loại: Cố ý và Vô ý
1.Lỗi cố ý:
Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra
2.Lỗi vô ý:
+ Lỗi vô ý do cẩu thả :là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc cỏ thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và
có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
- Động cơ là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
- Mục đích là kết quả cuối cùng mà chủ thể vi phạm pháp luật mong đạt tới khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
Măjt khách quan của vi phạm pháp luâjt :
Măjt khách quan của vi phạm pháp luâ jt là những biểu hiê jn ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luâ t Nó bao gồm hành vi trái phápj luâjt, sự thiêjt hại cho xã hô ji và quan hê nhân quả giữa hành vi trái phápj luâjt và sự thiêjt hại cho xã hôji, thời gian, địa điểm, công cụ vi phạm Trước hết phải xác định xem vụ viê c vừa xảy ra có phải do hành vi củaj con người hay không, nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luâ t không, nếuj trái pháp luât thì trái như thế nào Sự thiê t hại cho xã hôi là những tổnj j j thất về vât chất hoăc tinh thsn do hành vi trái pháp luâ t gây ra.j j j
- Quan hê nhân quả giữa hành vi trái pháp luâ t và sự thiêt hại cho xã hô ij j j j
là viêc xác định xem hành vi trái pháp luâ t có phải là nguyên nhân trựcj j tiếp dẫn tới sự thiêjt hại cho xã hôji hay không và sự thiêjt hại cho xã hôi cój phải kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luâ t hay không, vì thực tế cój
Trang 5trường hợp hành vi trái pháp luâ t không trực tiếp gây ra sự thiê t hại choj j
xã hôi, mà sự thiêt hại đó do nguyên nhân khác Ngoài ra con phải xácj j định: thời gian vi phạm pháp luât là giờ, ngày, tháng, năm nào Địa điểm vij phạm pháp luât là ở đâu Phương tiêj jn thực hiêjn hành vi vi phạm pháp luâjt
là gì
- Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành
vi trái với các yêu csu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc những thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức
là giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau Hành vi đã chứa đựng msm gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên nhân khác
- Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp luật
- Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật
- Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật của mình
Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp luật luôn luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp luật, còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không
là tuỳ từng trường hợp vi phạm Có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định
Ví dụ về Vi phạm pháp luật cụ thể :
- Tháng 9/2008, Bộ tài nguyên môi trường đã phát hiện ra vụ việc sai phạm của công ty Bột ngọt Vedan (Công ty TNHH Vedan Việt Nam)
- Theo đó thì công ty Vedan đã hằng ngày sả nước thải bẩn (chưa qua xử lý) trực tiếp ra sông Thị Vải (Đồng Nai) suốt 14 năm qua kể từ khi đi vào hoạt động (1994): khoảng 45000m3/1tháng
- Hành động này gây ô nhiễm nặng cho dòng sông Thị Vải, gây chết các sinh vật sống ở sông này và ảnh hưởng trsm trọng đến sức khỏe người dân ven sông…
Trang 6 Yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật trong ví dụ này như sau :
Chủ thể vi phạm:
+ Công ty Vedan (thuộc Công ty TNHH Vedan Việt Nam) là một công ty thực phẩm với 100% vốn đsu tư Đài Loan
+ Được xây dựng từ năm 1991
+ Có giấy phép hoạt động từ năm 1994 Dẫn đến, là một tổ chức có đsy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi trái pháp luật này
Khách thể:
Việc làm của công ty Vedan đã xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước:
vi phạm trật tự quản lý nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
Mặt chủ quan:
+ Lỗi: là lỗi cố ý gián tiếp Vì, Công ty Vedan khi thực hiện hành vi này thì nhận thấy trước hậu quả, tuy không mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy ra
+ Mục đích: nhằm giảm bớt chi phí xử lý nước thải Theo quy định thì công
ty Vedan phải đsu tư khoảng 1 chục triệu để xử lý 1m3 dịch thải đậm đặc Đáng ra phải chi từ 15%-20% vốn đsu tư cho việc xử lý nước thải thì Công
ty Vedan chỉ dành 1,5% vốn cho việc đó
Mặt khách quan:
+ Hành vi nguy hiểm: sả nước thải bẩn chưa qua xử lý ra sông Thi Vải: 45000m3/1tháng Đây là hành vi trái pháp luật hành chính
+ Hậu quả: dòng sông bị ô nhiễm nặng, phá hủy môi trường sống và làm thủy sản chết hàng loạt, gây thiệt hại cho các hộ nuôi thủy sản và ảnh hưởng trsm trọng đến sức khỏe người dân sống ven sông Những thiệt hại
đó do hành vi trái pháp luật của công ty Vedan gây ra trực tiếp và gián tiếp
2 Phân tích thực trạng vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên hiện nay và giải pháp phòng chống vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên.
* Thanh niên là ai ?
Theo Điều 1 Luật Thanh Niên năm 2020, “ thanh niên” được quy định là những người từ đủ 16 tuổi cho tới 30 tuổi Đây là giai đoạn khá quan trọng
Trang 7trong việc hình thành suy nghĩ một cách chín chắn, đsy đủ và là khởi điểm cho việc bắt đsu phải chịu trách nhiệm pháp lý trước những hành vi vi phạm pháp luật
- Về cơ sở khoa học, tâm sinh lý của thanh, thiếu niên ở giai đoạn từ 16 tuổi còn non nớt, chưa hoàn thiện nên dễ bị tổn thương, dễ bị lợi dụng làm lệch lạc về hành vi, thái độ và nhận thức điều này đồng nghĩa với việc dễ bị
vi phạm quyền lợi và lợi ích hợp pháp cũng như có nguy cơ gây ra các hành vi vi phạm pháp luật với tỉ lệ cao
Phân tích thực trạng vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên hiện nay:
- Theo thống kê của các cơ quan pháp luật gsn đây cho thấy rằng tình hình
vi phạm pháp luật của thanh niên ngày càng tăng Các loại vi phạm pháp luật không chỉ tăng về số lượng mà chủ thể và tính chất nguy hiểm của vụ việc cũng tăng lên Đa số các đối tượng vi phạm pháp luật đều bỏ học sớm, thiếu sự quản lý của gia đình, thực hiện các hành vi trộm cắp, gây mất trật tự xã hội, trong đó không ít em còn đang ngồi trên ghế nhà trường Đáng báo động là tình trạng vi phạm pháp luật của thanh niên diễn ra ở nhiều lĩnh vực của đời sống như: kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, văn hóa…
- Theo số liệu của Cục cảnh sát điều tra tội phạm hình sự - Bộ Công An, chỉ riêng trong 5 năm (2000 – 2005) thực hiện đề án 4 Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em và phạm tội trong lứa tuổi vị thành niên thuộc Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, đã phát hiện 47.000 vụ vi phạm pháp luật hình sự do 64.500 người trong độ tuổi vị thành niên gây ra Trong đó, đối tượng từ 16 – 18 tuổi chiếm 52% Phạm tội giết người có 616 người, chiếm 1,3%; phạm tội cướp, cưỡng đoạt, cướp giật có 5169 người, chiếm 11%; phạm tội trộm cắp tài sản có 30.235 người, chiếm 64,3%; phạm tội cố ý gây thương tích, gây mất trật tự công cộng có 10.188 người, chiếm 21,6%
Từ năm 2005 – 2007, tình hình phạm tội ở lứa tuổi thành niên đang có dấu hiệu ngày càng cao hơn, cả về mức độ lẫn sự nghiêm trọng của các vụ án Chỉ trong năm 2006, riêng trẻ em dưới 14 tuổi có gsn 8000 vụ vi phạm pháp luật, chiếm đến 70% tội phạm vị thành niên (VTN) Con số này là một lời cảnh báo về tình trạng trẻ em nhỏ tuổi phạm tội
- Đặc biệt đáng lo ngại là cùng với sự phát triển của đất nước, thời gian gsn đây (hsu hết là ở những thành phố lớn, nơi đô thị có điều kiện kinh tế
Trang 8xã hội phát triển) đã nổi lên tình trạng một số thanh niên, học sinh sinh viên, độ tuổi từ 14 đến 18, tụ tập ăn chơi thác loạn hoặc hình thành các băng nhóm tội phạm, tổ chức các vụ cướp giật, giết người hoặc đâm chém nhau hết sức nghiêm trọng, gây xôn xao dư luận mà các phương tiện thông tin đại chúng đã thường xuyên đăng tải Thống kê của ngành Công an cho biết hiện tại cả nước có khoảng 20.000 trẻ em trong độ tuổi tới trường lang thang bụi đời, tụ tập băng nhóm ngoài xã hội Đó chính là msm mống của tội phạm đã và đang nảy sinh trong lứa tuổi VTN
- Tình trạng vi phạm pháp luật của thanh niên ngày càng tăng theo mỗi năm Theo tổng kết sơ bộ của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ Công an), trong 6 tháng đsu năm 2011, Cục đã xử lý 15.000 vụ phạm pháp hình sự, xử lý trên 22.000 đối tượng, trong đó có hơn 75% là thanh thiếu niên Điều đáng nói là so với những năm trước, đối tượng phạm tội ngày càng trẻ hóa và hành vi phạm tội cũng như tính chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn Và cho tới nay, những thanh niên vi phạm pháp luật gây ra những sự vụ nghiêm trọng vẫn chưa có sự giảm đáng kể
- Đơn cử là theo Báo cáo nghiên cứu pháp luật về phòng ngừa, xử lý, phục hồi tái hoà nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam của nhóm tác giả trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam với UNICEF cho thấy rằng, tỷ lệ thanh niên, đặc biệt là người chưa đủ
18 tuổi vi phạm pháp luật khá cao Tính đến năm 2019, trung bình, mỗi năm có gsn 13.000 người chưa thành niên vi phạm pháp luật Tỷ lệ này biến động qua từng năm nhưng không có sự giảm sút đáng kể Điều đáng nói tới là hành vi vi phạm pháp luật trong giới thanh thiếu niên đang ngày càng trẻ hoá thậm chí ảnh hưởng tới cả đối tượng trẻ em
Nguyên nhân dẫn tới việc thanh niên vi phạm pháp luật
- Nguyên nhân khách quan: đây là là những nguyên nhân bắt nguồn từ gia đình, nhà trường và xã hội
+ Bản thân những yếu tố trên (gia đình, nhà trường và xã hội) có ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành và sự phát triển lành mạnh về đạo đức và ý thức của mỗi thanh niên Ngay từ khi còn nhỏ, gia đình là nền tảng hình thành nhân cách cho mỗi người
Thực tế cho thấy, phsn lớn thanh niên vi phạm pháp luật đều có hoàn cảnh gia đình không tốt, thiếu sự quan tâm, các bậc phụ huynh thì buông lỏng
Trang 9con em khiến cho chúng có cơ hội tiếp cận với văn hóa không tốt, hình thành trong suy nghĩ những hành vi phạm pháp Nhà trường là bước đi đsu tiên cho mỗi người bước ra khỏi sự chở che của gia đình, từ bạn bè, thanh thiếu niên dễ dang tiếp thu cả những thói quen xấu và tốt Có nhiều trường hợp do ghen tỵ với bạn bè mà nhiều thanh niên đã trở thành kẻ sát nhân, gây ra những vụ án động trời làm đau lòng các bậc làm cha mẹ
Theo sau nhà trường, môi trường lớn, phức tạp và nhiều cám dỗ hơn là xã hội Khi bên ngoài luôn xảy ra nhiều trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng, đe dọa sự tồn tại yên bình của xã hội thì đó chính là nguồn khiến cho tâm lý của thanh niên bị ảnh hưởng Đơn cử là dưới sự phát triển của công nghệ thông tin, các văn hoá phẩm mạng được lưu truyền rộng rãi, việc không kiểm soát được toàn bộ các nội dung tranh ảnh, phim truyện, video truyền tải tới người nghe, người xem, người đọc khiến không ít văn hoá phẩm mạng có tính bạo lực, kích động thanh niên vi phạm pháp luật được truyền tải đi và được hoan nghênh, cổ suý trong lớp trẻ Việc thanh niên bắt chước theo các video có nội dung vi phạm diễn ra rất nhiều Và một thực trạng đang buồn là chính thể hệ trẻ em có vẻ cũng thích thú và khá đam mê với các nội dung không lành mạnh đó
- Nguyên nhân chủ quan: đây là nguyên nhân gây ra bởi chính bản thân mỗi người Gia đình, nhà trường và xã hội chỉ là một phsn Cái chính là xuất phát từ ý thức chủ quan của cá nhân người thanh niên Sống trong một môi trường tốt, được tạo điều kiện hết sức để phát triển nhưng nếu những thanh niên đó cố tình đi lệch lạc thì điều tất yếu không tránh khỏi là gây ra tai họa cho mình và ảnh hưởng nghiêm trọng tới người bị hại (như trường hợp của Nguyễn Đức Nghĩa) Xét cho cùng, trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân nào cũng quan trọng Trước thực trạng và nguyên nhân trên, thiết nghĩ csn phải đề ra những giải pháp khắc phục tình trạng thanh niên vi phạm pháp luật một cách có hiệu quả
Giải pháp kiến nghị
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa Thanh Thiếu Niên Vi Phạm Pháp Luật: Để công tác phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm và
vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên nói riêng có hiệu quả thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là rất
Trang 10cần thiết nhằm nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức tự giác chấp hành pháp luật trong nhân dân bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú với nội dung phù hợp với từng nhóm đối tượng
* Cụ thể:
- Đối với quần chúng nhân dân là người tốt, lương thiện: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong quần chúng nhân dân, phổ biến về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các quy định pháp luật, tuyên truyền phát huy giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ;
- Đối với học sinh, sinh viên trong các trường học: Sở Giáo dục - Đào tạo, các trường trung học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phải nghiên cứu, nâng cao chất lượng dạy, học; chú trọng giáo dục lối sống, đạo đức, văn hóa ứng xử, tăng cường phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho trẻ, học sinh, sinh viên ở từng độ tuổi khác nhau;
- Đối với các nhóm đối tượng có nguy cơ vi phạm pháp luật: Lực lượng Công an, nhất là cấp cơ sở phải chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Đoàn thanh niên, Mặt trận, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, thông qua công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, quản lý đối tượng thường xuyên rà soát, theo dõi, quản lý để có biện pháp giáo dục phù hợp và hiệu quả Ngoài ra, lực lượng Công an phải trực tiếp triệu tập, mở các lớp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với nhóm thanh thiếu niên hư, vi phạm pháp luật ở địa bàn;
- Đối với đối tượng đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo: Ủy ban nhân dân xã, phường có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan, cộng đồng dân cư và
Gia đình người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng này Tập trung phổ biến các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi hành án hình sự, xử lý vi phạm hành chính;
- Đối với người đang chấp hành án phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc: Giám thị trại giam, trại tạm giam, hiệu