THĂNGLONG-HÀNỘI NH ÌN TỪLỊCHSỬ-MỸTHUẬT Tượng đài vua Lý THái Tổ-một trong những công trình mừng Đại lễ 1000 năm ThăngLong- Hà NộiThăngLong - HàNội vốn là cố đô Ngàn năm văn hiến. Với nhà kh ảo cổ học lịchsử và nghệ thuật, còn là miền đất cổ, nơi đã tìm thấy dấu vết con người thời đại đá mới, đầu thời đại đồng thau và thời đồng thau cực thịnh. Đó là ngẫu tượng đá Văn Điển; Trống Đồng cùng với kho mũi tên đồng và v ết tích của lò đúc đồng cùng những mảnh gốm thô ở di chỉ Cổ Loa, kinh đô Nhà nước Âu Lạc của vua Thục, thế kỷ III TCN, là những dẫn chứng thuyết phục. Ngược bến thời gian, ThăngLong còn là thành Đại La, do Cao Biền, vi ên tướng, kiêm tiết độ xứ và nhà phong thuỷ đời Đư ờng, Trung Hoa xây dựng vào thế kỷ thứ IX thời Bắc thuộc. Về thời gian lịch sử, hai to à thành cách nhau hai thế kỷ. Nhưng về thuật ngữ và phong cách nghệ thuật, không ít nh à nghiên cứu còn ng ộ nhận, hoặc lầm lẫn giữa hai phong cách Đại La đời Đường và ThăngLong đời Lý. Điển hình là kiến trúc sư, Giáo sưlịchsửmỹthuật trường cao đẳng mỹthuật Đông Dương Hà N ội, Louis Bezacier(1), người Pháp, được Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại HàNội còn u ỷ quyền trông coi việc trùng tu các di tích cổ. Ông đã cho khai quật chân tòa b ảo tháp đá chùa Phật Tích - Bắc Ninh, đã thu thập được nhiều hiện vật đá và g ốm, lại có nguyên một cái nền bằng gạch, mỗi viên gạch có ghi niên hi ệu: “Lý Gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo (tức làm năm th ứ III triều Lý Thánh Tông, niên hiệu Long Thụy Thái Bình, 1057). Quanh n ền gạch lại đào được rải rác những hình rồng khắc bằng đất nung cũng có niên hi ệu đó và nhiều đồ đá không có niên hiệu. Nhưng nh ững con rồng đá chạm ở Phật Tích với những con rồng đá chạm ở trên bia chùa Long Đọi -Hà Nam, t ạc năm 1120 thời Lý; hoặc những con rồng tạc trên đá tìm th ấy ở Quần Ngựa, Ngọc Hà, Vĩnh Phúc (Ba Đình, Hà Nội) chúng đều giống hệt nhau. “Đó l à những con rồng mình tròn và thanh tú như mình r ắn, nhẵn nhụi hoặc có vẩy mờ, thoăn thoắt uốn lượn những khúc cong như th ắt túi, nhỏ dần về phía đuôi. Theo đại th ể ấy, mọi chi tiết đều phụ hoạ.” (Nguyễn Đỗ Cung. Mỹthuật Đại La hay Mỹthuật Lý? Tạp chí Thanh Nghị số 96. Ng ày 16/12/1944). Nhưng ông Louis Bezacier c ứ khăng khăng đem ra so sánh với những đồ điêu khắc ở hai động Vân Cương và Long Môn bên Tầu, dựa vào sự khảo sát của ông Osvald Siren, có từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VII. V à nếu so sánh với những hình chạm trên ngôi thiết tháp ở tỉnh H à Nam bên Tầu, cũng dựa theo ông Osvald Siren, là vào khoảng những năm 963- 967, thuộc đời Đường. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ Cung đã tr ả lời ông Louis Bezacier: “Tôi không đồng ý với ông L.Bezacier khi ông lấy linh khiếu m à bình phẩm cái này cùng lối với cái kia một cách quá gọn ghẽ Theo tôi, th ì tước bỏ danh từMỹthuật Đại La mà gọi là Mỹthuật Lý th ì không có gì là phản khoa học. Vì từ xưa tới nay mỗi khi thấy có niên hiệu ở những đồ đi êu khắc thuộc lối đó thì toàn là niên hiệu đời Lý cả. Gọi như th ế, đỡ cho ông L.Bezacier sự vội vàng kết luận.” (Nguyễn Đỗ Cung - đã dẫn). R õ ràng Nguyễn Đỗ Cung đã thắng L.Bezacier trong cu ộc đối thoại khoa học thật sòng phẳng, phân minh. Gần như vậy, điều đáng tiếc đã x ẩy ra lại có sự lầm lẫn phong cách và niên đại của ngôi chùa Tây Phương n ổi tiếng nay thuộc HàNội mà tác giả Lư ợc sửMỹthuật Việt Nam Trịnh Quang Vũ (NXB Từ điển Bách Khoa. Tái bản lần 2 năm 2010) đã xếp niên đại chùa thuộc thời L ê Trịnh - thế kỷ XVII. Thật may mắn các nhà nghiên cứu đã phát hiện đư ợc tấm bia hậu phật bị che khuất lâu năm của ngôi chùa Kim Liên có niên đ ại làm chùa là “Quang Trung Ngũ Niên.” Ai cũng biết chùa Kim Liên r ất giống ngôi chùa Tây Phương. Mà niên đại làm chùa Tây Phương còn ghi dòng ch ữ trên thượng lương “Giáp Dần niên tạo ”. Nhiều năm làm đau đ ầu, trằn trọc với các nhà nghiên cứu. Từ tấm bia chùa Kim Liên, c ộng với nhiều đồ rải rác ở nhiều nơi có phong cách Tây Phương mà nhà nghiên c ứu Nguyễn Đỗ Cung đã xem và suy nghĩ rất nhiều như ông đã tự bạch, nay tra niên đại, đ ã giải mã được dòng chữ trên thượng lương của ngôi ch ùa. Đó là vào năm 1794 (tức năm Giáp Dần, năm thứ hai đời Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn)(2). S ự việc đã xác định thật rõ ràng. Thế nhưng tác giả Lư ợc sửMỹthuật Việt Nam không nghiên cứu phong cách điêu khắc kiến trúc Tây Sơn, đã vội xếp ch ùa Tây Phương vào thời Lê - Tr ịnh, đầu thế kỷ 17, rằng “Năm 1632 thời Trịnh Tráng cho xây dựng quy mô và làm tượng.”(?) thật dễ dàng! Phát hiện, và tìm ra mỹthuật thời Tây Sơn một lần nữa cũng là công đ ầu của nhà nghiên cứu nổi tiếng Nguyễn Đỗ Cung cùng v ới những cộng sự của ông là các nhà nghiên cứu trẻ được ông đào tạo. Nhân sự kiện này, ta nên lưu ý khi niên đại di tích đã được xác định chính xác và phong cách đã ổn định rồi, thì không nên đưa ra những tư liệu mơ hồ, võ đoán mà đ ặt lại vấn đề, gây ngạc nhiên cho mọi người về lịch sử. Làm như thế, l à gây thêm hoang mang và đảo lộn tư liệu gốc với các thế hệ nghiên cứu kế tiếp. Thiếu nghiên cứu t ư liệu và điền dã, nhà nghiên cứu cần cảnh giác với chính mình. MỹthuậtThăng Long- HàNội cùng với xứ Kinh Bắc, quê hương c ủa tám triều vua Lý, thì ThăngLong-HàNội là m ột trung tâm chính trị, tôn giáo, kinh tế, văn hoá, mỹthuật quan trọng như lịchsử đã mô t ả: “Các vua Lý đều ở lầu gác 4 tầng Lầu gác đều sơn son, vẽ rồng hạc, tiên n ữ Các thuyền rồng lớn cũng được thiết kế 3 tầng để nhà vua sinh hoạt”(3). Đạo phật đư ợc xem là quốc giáo. Ngoài Thăng Long, khắp nơi trong nước “N ơi nào có núi cao cảnh đẹp là ở đấy có chùa - tháp”. ở ThăngLongnổi tiếng nhất có ch ùa Một Cột (Diên Hựu Tự hay Nhất Trụ Tự) cấu trúc theo hình tư ợng hoa sen về giấc mơ của vua Lý. Lan can chùa còn vẽ tranh tường khá quy mô về đ ề tài Thập Điện và các tích nhà phật, giữa hồ Linh Chiếu. Tiếp đến l à Chùa Báo Ân và tháp Báo Thiên. Tháp Báo Thiên 12 tầng, cao 10 trư ợng, khoảng 60m. ThăngLong còn trải qua các triều Trần - Lê Sơ - Mạc - Lê Tr ịnh (từ thế kỷ XIII, XIV đến các thế kỷ XVII- XVIII) v ới không ít dấu ấn mỹthuật đậm nét. Vì vậy có lẽ nên gọi tên đầy đủ là “Thăng Long- Đông Đô -Hà N ội” mới trọn nghĩa nội dung lịch sử. Cuộc khai quật những năm đầu thế kỷ 21 đ ã tìm thấy không ít dấu vết hoàng thành c ũ với cả một tập hợp hiện vật gồm đồ đất nung, đồ gốm có men, đồ đá Với các đề tài rồng, phượng, uy ên ương, tr ụ hoa sen, đầu đao, con giống, nền gạch, bố cục mặt bằng, có cả giếng nước là những bằng chứng cụ thể về kinh thành tráng lệ đã tr ải qua mấy triều đại. Về mặt kiến trúc, điêu khắc và ngh ệ thuật gốm có nhiều loại hình, cấu trúc, tạo hình, màu men, ch ất đất giầu tính độc đáo cả về kỹ thuật và nghệ thuật. Không lấy làm lạ ở ngay bên b ờ sông Hồng, đối diện với kinh đô ThăngLong- Đông Đô -HàNội đã có cả một làng làm gốm Bát Tràng n ổi tiếng, vừa phục vụ cung đình, vừa phục vụ đời sống dân dụng -Từ các thời Lê Sơ - Mạc - Lê - Trịnh (thế kỷ XV - XVI- XVII). Và chính từ những chiếc b ình thờ, đèn thờ, lư đỉnh gốm chạm nổi hoặc vẽ nét hoa lam có ghi rõ các niên đại như Diên Thành, Hồng Ninh, Hưng Tr ị, Đoan Thái Thuộc thời Mạc Mậu Hợp (thế kỷ 16) mà nhà nghiên cứu nổi tiếng Nguyễn Đỗ Cung đ ã xem đó làm điểm tựa, đối chiếu với các mảng chạm khắc còn xót l ại ở các ngôi đình chùa làng mà bấy lâu chưa được xác định, đã đưa ra ánh sáng n ền mỹthuật Mạc đích thực. Một lần nữa lịchsửmỹthuật lại ghi công nh à nghiên cứu lão thành xuất sắc Nguyễn Đỗ Cung. HàNội vừa mở rộng theo quy hoạch mới. Như một vòng tay lớn đã ôm c ả Xứ Đoài gồm hai tỉnh Hà Đông, Sơn Tây cũ. Biết bao công trình m ỹ thuật đình làng; mỹthuật thủ công cùng những tên tuổi nghệ nhân dân gian t ài năng từ đây được tính vào văn vật Hà Thành. Nổi bật vẫn là nh ững công trình điêu khắc kiến trúc đình chùa làng đã được liệt hạng - Như Chùa Th ầy, Chùa Đậu, Chùa Mía; Đình Chu Quyến, Đình Tây Đằng, Đình Cam Đà, Đình Đông Viên, Đình Hoàng Xá; Làng cổ Đường Lâm, Cam Lâm, qu ê hương của Ngô Quyền và Phùng Hưng, Đền Hai Bà Trưng ở M ê Linh, Phúc Thọ và làng Đồng Nhân cũ trong nội thành. Những làng nghề nổi tiếng nh ư Sơn Đồng, Chàng Sơn chuyên tạc tượng thờ và nghề mộc, nghề s ơn. Các làng như Già Kiều, Nhân Hiền, ngoài nghề mộc còn có nghề tạc tư ợng rối nước, làm nhà, đóng đồ gia dụng thật tài khéo. Bên kia sông H ồng, sông Đuống có các làng như Phù Khê, Kim Thiều, Thiết ứng (xưa thu ộc Bắc Ninh nay là Đông Anh, Hà Nội) cũng làm ngh ề mộc chạm, đủ loại. Huyện Thường Tín có các làng nghề khảm xà cừ Chuôm - Tre; Phú Xuyên có ngh ề thêu của làng Quất Động; làng Vạn Phúc, Hà Đông có nghề dệt lụa vân tơ tằm; Nghĩa Đô dệt lĩnh và ngay giữa trung tâm HàNội có cả một d òng Tranh Thờ và Tranh Tết Hàng Trống; có làng Ngũ Xã, Tây Hồ làm ngh ề đúc đồng nổi tiếng Tài năng khắp nước, tứ xứ di cư về Thủ đô ThăngLong-HàNộitụ hội, thi tài rồi lập nghiệp làm dân của Thủ đô ThăngLong-Hà Nội. Cái ý nghĩa ngàn năm Văn hiến - Văn vật là thế. Với mỹthuật hiện đại - đương đại của HàNội hôm nay, là ngh ệ thuật tranh giá vẽ, tượng đài ngoài trời, điêu khắc trang trí kiến trúc nội ngoại thất, và c ả những công trình kiến trúc mới của Thủ đô hiện đại. Lịchsử khởi đầu v à biến động của mỹthuật Thủ đô phải kể từsự có mặt của trư ờng cao đẳng mỹthuật Đông Dương đầu thế kỷ (1925) với lớp họa sĩ, nhà điêu kh ắc, kiến trúc sư được đào tạo và tiếp xúc với nền nghệ thuật Phương Tây c ổ điển, Tân Cổ Điển, ấn Tượng và một số xu hướng trư ờng phái hiện đại. Các thế hệ mỹthuật Đông Dương đã tác động tích cực vào đ ời sống văn hoá, nghệ thuật Thủ đô. Thuật ngữ “Mỹ thuật Đông Dương “, “Kiến trúc Đông Dương” đ ã trở thành quen thuộc với người Hà Thành, đ ặc biệt với giới doanh nhân, trí thức thời tư bản thuộc địa và ngày nay với giới trí thức - doanh nhân th ời kinh tế thị trường. Sau mỹthuật Đông Dương, Hà N ội lại tiếp xúc với nền mỹthuật của các nước XHCN Đông Âu cũ, điển hình là trường phái m ỹ thuật tả thực Liên Xô, Hiện thực XHCN. Ngày nay với cuộc giao lưu - h ội nhập - phát triển, toàn cầu hoá, là sự tiếp xúc đa phương, đa dạng giữa H à Nội với các nền văn hoá nghệ thuật khu vực và các châu lục. Mỹthuật H à Nội đang mở ra các xu hướng mới với không ít phong cách và th ể loại của thời toàn cầu hoá. Nhưng dù giao lưu - phát triển theo hướng đa phương - đa dạng, thì m ỹ thuật Thăng LongHàNội vẫn ý thức được bản sắc dân tộc, theo nghĩa h ài hoà giữa truyền thống và hiện đại - đương đại. Với mục tiêu chiến lư ợc “Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà b ản sắc dân tộc” chắc chắn mỹthuậtHàNội sẽ không ngừng phát triển, luôn giữ vững vị trí Dân Tộc - Hi ện Đại. Các triển lãm m ỹ thuật, sách báo mỹ thuật, trang trí nội ngoại thất mỹthuật đã đi vào từng góc phố, căn nhà và c ả đời sống cá nhân với cái đẹp ứng dụng. Triển lãm mỹthuật Việt Nam ra nước ngoài và triển lãm m ỹ thuật nước ngoài vào Hà Nội, là những sinh hoạt nghệ thuật đã trở thành thư ờng xuyên trong đời sống văn hoá tinh thần của người Hà Nội. Con đư ờng gốm sứ ven đê sông Hồng chạy dài gần 5500m từ An Dương đ ến Vạn Kiếp với bốn chủ đề lớn: Di sản mỹthuậttừ Đông Sơn đến Lý - Trần - Lê - Nguy ễn; Hoa văn thổ cẩm đặc trưng và trang trí ki ến trúc 54 dân tộc trong đại gia đình Việt Nam; Tranh thiếu nhi Việt Nam và quốc tế về Hà Nội, thành ph ố hoà bình; Tranh hiện đại - đương đại của các họa sĩ Việt Nam và quốc tế l à những đóng góp quan trọng, có ý nghĩa với 1000 năm ThăngLong-Hà N ội, mãi mãi xứng đáng là Thủ đô văn hiến, là trung tâm nghệ thuật của cả nư ớc. Dấu ấn và đặc điểm Thăng Long- HàNội đã in sâu trong ti ềm thức mọi người, trong đó có bạn bè quốc tế. Nói đại ý như hai nhà nghiên c ứu mỹthuật Việt Nam và Phương Đông: Bà Corinne de Menonville, ngư ời Pháp, trong tác phẩm: “Hội họa Việt Nam, cuộc phiêu lưu giữa truyền thống v à hiện đại”; và cô Nora annesley Taylor với tác phẩm Hội họa Hà N ội rằng mỹthuật Việt Nam hiện đại đã có một trường phái. Đó là trường phái HàNội- Hội họa Hà Nội. TRẦN THỨC (1) Louis Bezacier có 2 công trình về m ỹ thuật Việt Nam: Những tiểu luận về nghệ thuật An Nam, Nghệ thuật Việt Nam. (2) Nguyễn Đỗ Cung -Mỹthuật thời Tây Sơn. T ạp chí Tác phẩm mới số 1 (1969). Nội san Mỹthuật số 5 (1969), Hà Nội. (3) Theo Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán. Nghiên cứu lịch sử. S ố 83/1996 trang 12. . THĂNG LONG - HÀ NỘI NH ÌN TỪ LỊCH SỬ - MỸ THUẬT Tượng đài vua Lý THái Tổ-một trong những công trình mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội Thăng Long - Hà Nội vốn là cố. Mỹ thuật Thăng Long- Hà Nội cùng với xứ Kinh Bắc, quê hương c ủa tám triều vua Lý, thì Thăng Long - Hà Nội là m ột trung tâm chính trị, tôn giáo, kinh tế, văn hoá, mỹ thuật quan trọng như lịch. Tr ịnh (từ thế kỷ XIII, XIV đến các thế kỷ XVII- XVIII) v ới không ít dấu ấn mỹ thuật đậm nét. Vì vậy có lẽ nên gọi tên đầy đủ là Thăng Long - Đông Đô - Hà N ội” mới trọn nghĩa nội dung lịch sử.