Thực trạng nói trên có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do hạn chế, bất cập của hoạt động quản lý LS&HNLS như thể chế quản lý LS&HNLS chưa hoàn thiện; Hiệu lực hiệu quả quản lý
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH
PGS.TS ĐẶNG MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2024
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các số liệu trong luận án đều được trích dẫn nguồn trung thực Những kết luận khoa học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
Tác giả luận án
NGUYỄN HỮU ƯỚC
Trang 4MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM 10
1.1 Các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài 10
1.2 Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài 26
1.3 Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 33
1.3.1 Những vấn đề đã được làm sáng tỏ, luận án có thể tiếp thu, kế thừa 34
1.3.2 Những vấn đề đã được đặt ra nghiên cứu nhưng chưa được giải quyết thấu đáo 35
1.3.3 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu về quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam 36
1.4 Lý thuyết nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 36
1.4.1 Lý thuyết nghiên cứu 36
1.4.2 Giả thuyết nghiên cứu 38
1.4.3 Câu hỏi nghiên cứu 38
Kết luận Chương 1 39
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM 40
2.1 Khái niệm về quản lý luật sư và hành nghề luật sư 40
2.1.1 Khái niệm và đặc điểm về luật sư 40
2.1.2 Khái niệm và đặc điểm về hành nghề luật sư 47
Trang 52.1.3 Khái niệm và đặc điểm của quản lý luật sư và hành nghề luật sư 53
2.2 Thể chế, nội dung, nguyên tắc quản lý, các yếu tố tác động và vai trò của quản lý luật sư và hành nghề luật sư 60
2.2.1 Khái niệm về thể chế quản lý luật sư và hành nghề luật sư 60
2.2.2 Nội dung quản lý luật sư và hành nghề luật sư 64
2.2.3 Nguyên tắc quản lý luật sư và hành nghề luật sư 66
2.2.4 Các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam 72
2.2.5 Vai trò của hoạt động quản lý luật sư và hành nghề luật sư 80
2.3 Nguyên tắc của Liên Hợp Quốc về vai trò của luật sư và một số mô hình quản lý luật sư và hành nghề luật sư trên thế giới 81
2.3.1 Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư năm 1990 của Liên Hợp Quốc 81
2.3.2 Một số mô hình quản lý luật sư và hành nghề luật sư trên thế giới 85
3.1.1 Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 2001 90
3.1.2 Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006 94
3.1.3 Giai đoạn từ năm 2006 đến nay 102
3.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý LS&HNLS kể từ đổi mới ở Việt Nam 115
3.2.1 Thực trạng quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư 115
3.2.2 Thực trạng tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư 132
Kết luận Chương 3 148
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 150
Trang 64.1 Quan điểm hoàn thiện thể chế nâng cao hiệu quả quản lý luật
sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam 150
4.1.1 Hoàn thiện thể chế quản lý LS&HNLS để thực hiện chiến lược cải cách
tư pháp, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN 150 4.1.2 Hoàn thiện thể chế quản lý LS&HNLS theo định hướng xây dựng
và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế 153 4.1.3 Hoàn thiện thể chế quản lý LS&HNLS ở Việt Nam theo nguyên
tắc tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và áp dụng chuẩn mực quốc tế theo nguyên tắc về vai trò đúng đắn của luật sư 154
4.2 Các giải pháp hoàn thiện thể chế nâng cao hiệu quả quản lý
LS&HNLS ở Việt Nam 156
4.2.1 Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với luật sư và hành nghề
luật sư 156 4.2.2 Hoàn thiện thể chế tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của
luật sư, xây dựng nguyên tắc, mô hình và xác định lộ trình tự quản của tổ chức luật sư 164 4.2.3 Nhà nước có chính sách để thực hiện Nguyên tắc cơ bản về vai
trò của luật sư năm 1990 của Liên Hợp Quốc và hỗ trợ phát triển nghề luật sư ở Việt Nam 171
Kết luận Chương 4 173 KẾT LUẬN 175 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 178 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 179
Trang 7DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐLS: Đoàn luật sư ĐĐNNLS: Đạo đức nghề nghiệp luật sư LĐLSVN: Liên đoàn luật sư Việt Nam LLS: Luật Luật sư
LS&HNLS: Luật sư và hành nghề luật sư PLVLS&HNLS: Pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư QLLS&HNLS: Quản lý luật sư và hành nghề luật sư VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật
VPLS: Văn phòng Luật sư XHCN: Xã hội chủ nghĩa
Trang 8DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 3.1 Sự phát triển của luật sư Việt Nam từ năm 1987 đến nay 116 Biểu đồ 3.1 Thống kê kết quả hoạt động hành nghề luật sư 117 Biểu đồ 3.2 Luật sư tham gia tố tụng và tố tụng hình sự 124 Biểu đồ 3.3 Thống kê phân bố luật sư ở các Đoàn Luật sư 126 Biểu đồ 3.4 Kết quả thực hiện các quyền và nghĩa vụ của luật sư 137
Trang 9MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau gần 40 năm đổi mới (1986- 2023) và sau 78 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về luật sư, đội ngũ luật sư của chế độ mới và hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ Số lượng luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư đang ngày càng tăng, trình độ và chất lượng hoạt động hành nghề của luật sư cũng từng bước được nâng cao Đội ngũ luật sư Việt Nam đang có những đóng góp to lớn trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam Đội ngũ Luật sư cũng đã tham gia tích cực vào công tác xây dựng pháp luật, tuyên truyền và phổ biến pháp luật, trợ giúp, hỗ trợ pháp lý nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân và doanh nghiệp, góp phần phát triển đất nước, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Tuy nhiên bên cạnh các kết quả đã đạt được, hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam còn có các khó khăn, hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống Đội ngũ luật sư và hành nghề luật sư vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển đất nước và đòi hỏi của các cuộc cải cách để đưa đất nước phát triển Vị thế, vai trò của luật sư và hoạt động hành nghề luật sư chưa được nâng cao, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu dịch vụ pháp lý trên bình diện số lượng và chất lượng, trong nước và quốc tế Việc tiếp cận luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư còn hạn chế khi hơn 80% các vụ án hình sự chưa có luật sư tranh tụng, bào chữa cho người bị buộc tội, bị can, bị cáo; vẫn còn có người bị kết tội oan sai; hơn 90% các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính chưa có luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các đương sự,
Trang 10chưa ngang tầm nhiệm vụ cung cấp dịch vụ pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam, dẫn đến chịu nhiều thua thiệt và khi xảy ra tranh chấp vẫn phải thuê luật sư nước ngoài với chi phí rất cao Ở một phương diện khác, việc cản trở hoạt động hành nghề của luật sư vẫn xẩy ra mà chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời, quyền hành nghề của luật sư chưa được bảo vệ thích đáng Mặt khác, có không ít luật sư chạy theo lợi ích vật chất, không giữ được phẩm chất đạo đức nghề nghiệp luật sư, dẫn đến vi phạm pháp luật, phạm tội, đánh mất niềm tin của nhà nước và xã hội vào LS&HNLS
Thực trạng nói trên có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do hạn chế, bất cập của hoạt động quản lý LS&HNLS như thể chế quản lý LS&HNLS chưa hoàn thiện; Hiệu lực hiệu quả quản lý bao gồm quản lý nhà nước và tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với luật sư chưa cao; Kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư chưa được tăng cường; Luật sư chưa được xác định đúng địa vị pháp lý để thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và vai trò đúng đắn của mình theo quy định pháp luật Một bộ phận không nhỏ người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân, người có thẩm quyền khác có nhận thức chưa đúng và thực hiện chưa đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo quyền bào chữa, quyền được giúp đỡ pháp lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư Đôi khi còn gây khó khăn khi luật sư thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với khách hàng theo đúng quy định của pháp luật Quản lý nhà nước vẫn lấn lướt đối với hoạt động LS&HNLS làm cho tự quản của tổ chức luật sư, một trong phương diện quản lý nội bộ nhằm phát huy vai trò, vị thế của luật sư chưa trở thành nguyên tắc độc lập trong hoạt động quản lý, chưa phát huy được đầy đủ vai trò đúng đắn của luật sư Chính vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện chính sách pháp luật và đề ra các giải pháp, xây dựng nguyên tắc quản lý LS&HNLS, tăng cường công tác đào
Trang 11tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay là rất cấp bách Việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý LS & HNLS để có các giải pháp giải quyết, tháo gỡ, thúc đẩy nghề luật sư Việt Nam phát triển, phát huy được chức năng xã hội nghề nghiệp của mình đóng góp vào sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới
Mặt khác, trên phương diện khoa học, cho đến nay mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu pháp luật về luật sư, pháp luật về nghề luật sư, quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam,v.v… nhiều nhà nghiên cứu, nhiều chuyên gia pháp luật quan tâm và có các đề tài nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau nhằm góp phần hoàn thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn về LS&HNLS và các hoạt động tư pháp nói chung Tuy nhiên cho đến nay, có thể khẳng định rằng chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống và toàn diện quản lý LS&HNLS ở Việt Nam ở cấp độ Luận án tiến sỹ Đây là góc nhìn về khoa học pháp lý cần được bổ khuyết trong nghiên cứu về quản lý LS&HNLS theo pháp luật Việt Nam
Xuất phát từ những trình bày trên đây, NCS chọn đề tài: “Quản lý luật sư
và hành nghề luật sư ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ luật
học, chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện thể chế quản lý LS&HNLS, tạo cơ sở khoa học cho việc kiến nghị và hoàn thiện thể chế, pháp luật về quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là tạo ra một công trình nghiên cứu tương đối
Trang 12LS&HNLS trong giai đoạn từ đổi mới ở Việt Nam Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về quản lý LS & HNLS, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quản lý LS&HNLS, luận án đề xuất những định hướng và giải pháp cụ thể hoàn thiện thể chế để nâng cao hiệu quả quản lý LS&HNLS, thúc đẩy sự phát triển nghề luật sư ở Việt Nam
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên đây, Luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về LS&HNLS, quản lý LS&HNLS, làm rõ nội dung quản lý và thể chế quản lý LS&HNLS;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về quản lý, thực trạng quản lý LS & HNLS trong thời kỳ nghiên cứu, từ đó chỉ ra được những ưu điểm và các hạn chế, bất cập và nguyên nhân;
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận án nghiên cứu đề xuất các định hướng và đưa ra kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế nâng cao hiệu quả quản lý LS&HNLS trong giai đoạn hiện nay
3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án có đối tượng nghiên cứu là: - Các quan điểm, quan niệm về LS&HNLS, quản lý LS&HNLS; vai trò của quản lý LS&HNLS trong việc thúc đẩy phát triển nghề luật sư; Các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về vai trò của luật sư; các mô hình quản lý luật sư;
- Thực trạng hoạt động quản lý LS&HNLS ở Việt Nam; - Các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý LS&HNLS ở Việt Nam; - Thể chế quản lý về LS&HNLS ở Việt Nam và thực tiễn thi hành các quy định này;
Trang 133.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn về dung lượng, với những nội dung nghiên cứu như đã nêu ở tiểu mục 3.1, Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những nội dung chủ yếu như sau:
- Luận án nghiên cứu về thể chế quản lý LS & HNLS, thực trạng về thể chế quản lý LS & HNLS Luận án sẽ không nghiên cứu các khía cạnh quản lý LS & HNLS trong Tổ chức hành nghề luật sư; Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
- Về phạm vi thời gian, Luận án tập trung nghiên cứu về quản lý LS &
HNLS trong thời kỳ đổi mới đất nước, từ năm 1986 đến nay Thời điểm cụ thể là từ năm 1987 khi Việt Nam ban hành Pháp lệnh tổ chức luật sư, tập trung từ giai đoạn 2006 khi Luật Luật sư được ban hành, sửa đổi bổ sung năm 2012 và 2009 khi Liên đoàn luật sư Việt Nam được thành lập đến nay
4 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Để nghiên cứu có hiệu quả những vấn đề do đề tài đặt ra, Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để giải thích các sự vật và hiện tượng liên quan đến LS&HNLS Luận án sử dụng các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam là phương pháp luận nghiên cứu về LS&HNLS Đây là phương pháp luận chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ quá trình nghiên cứu của Luận án, đưa ra những nhận định, kết luận khoa học bảo đảm tính khách quan, chân thực
- Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành và bảo đảm chất lượng của Luận án, trong quá trình nghiên cứu đề tài, NCS sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, khoa học pháp lý như:
Trang 14+ Phương pháp lịch sử được sử dụng trong việc nghiên cứu lịch sử
hình thành luật sư và hoạt động hành nghề luật sư, các văn bản pháp luật về LS&HNLS, các văn bản pháp luật về quản lý LS&HNLS, các báo cáo về thực hiện pháp luật về LS&HNLS, các công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, các sách chuyên khảo, các tạp chí trong và ngoài nước,v.v… theo diễn biến hình thành thể chế quản lý LS&HNLS qua các thời kỳ lịch sử
+ Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình thu thập, đối
chiếu số liệu về tình hình phát triển của đội ngũ luật sư, hành nghề luật sư, quản lý luật sư ở Việt Nam tại Bộ Tư pháp từ năm 1987 đến năm 2023 Thống kê, nghiên cứu các báo cáo tổng kết công tác năm của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư của các tỉnh thành trong cả nước,v.v… Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 3 của luận án
+ Phương pháp phân tích và Phương pháp tổng hợp được sử dụng để
phân tích và tổng hợp các quan điểm, chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước ta về việc đảm bảo thực hiện pháp luật về LS&HNLS, thực trạng quản lý LS&HNLS trong thời gian qua Trên cơ sở đó, xác định bản chất, đặc điểm của các hiện tượng được nghiên cứu, sự phù hợp và bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của Luật Luật sư theo pháp luật Việt Nam Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong các chương của luận án
+ Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng xuyên suốt toàn bộ các
chương của luận án nhằm trình bày các vấn đề, nội dung của luận án theo một trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích, yêu cầu đã được xác định trong luận án
+ Phương pháp luật học so sánh, Luận án sử dụng phương pháp này
để làm rõ các quyền và nghĩa vụ của của Cơ quan, Tổ chức quản lý và khách thể quản lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay, các mô hình quản lý LS&HNLS
Trang 15của các nước trên thế giới Trên cơ sở đó phát triển, bổ sung, thay đổi cách tiếp cận của hoạt động quản lý LS&HNLS cho phù hợp với thực tiễn Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong các chương của luận án
5 Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trước đây về quản lý LS & HNLS theo pháp luật Việt Nam; cùng với quá trình nghiên cứu độc lập và nghiêm túc luận án có những đóng góp mới về khoa học như sau:
Thứ nhất, Luận án đã nghiên cứu tổng quan của các tác giả trong và
ngoài nước về Đề tài Quản lý LS&HNLS ở Việt Nam, làm rõ các nội dung, vấn đề đã được các giả quan tâm, nghiên cứu, đó là quản lý nhà nước LS&HNLS, tự quản của tổ chức luật sư, các khó khăn vướng mắc trong quản lý LS&HNLS, kỷ luật luật sư, các mô hình quản lý LS&HNLS Các vấn đề chưa được đề cập cần được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết đó là sự cần thiết và phạm vi quản lý nhà nước về LS&HNLS; Nguyên tắc tự quản và phạm vi quản lý của Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, trả lời được các câu hỏi về lý luận và thực tiễn quản lý LS&HNLS đang đặt ra một cách cấp thiết, đòi hỏi phải tháo gỡ để tạo cơ chế cho sự phát triển của nghề luật sư trong giai đoạn mới của đất nước Đó là thể chế và hoàn thiện thể chế quản lý LS&HNLS ở Việt Nam và nâng cao tự quản đối với LS&HNLS ở Việt Nam theo nguyên tắc pháp quyền và chuẩn mực quốc tế
Thứ hai, bằng các luận cứ khoa học và xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở
đối chiếu, so sánh các mô hình quản lý luật sư và hành nghề luật sư của các nước trên thế giới, tác giả đã đưa ra được các khái niệm khoa học pháp lý về luật sư; hành nghề luật sư; quản lý LS&HNLS; thể chế quản lý về LS&HNLS, phân tích các Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư năm 1990 theo chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở cho việc đề xuất nâng cao vai trò đúng đắn của luật sư ở Việt Nam Đồng thời Luận án đã nghiên cứu mô hình quản lý LS&HNLS điển hình trên thế giới Trên cơ sở phân tích các ưu điểm, hạn chế của từng mô hình, làm rõ được
Trang 16nhu cầu đổi mới quản lý LS&HNLS ở Việt Nam hiện nay đi đến đề xuất mô hình quản lý LS & HNLS phù hợp với Việt Nam
Thứ ba, luận án khái quát và phân tích tương đối toàn diện về thực
trạng pháp luật về LS&HNLS, thực trạng quản lý LS&HNLS ở Việt nam, luận án chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế, bất cập trong hoạt động quản lý LS&HNLS hiện nay và những khó khăn, vướng mắc trong quản lý LS&HNLS đồng thời chỉ ra các nguyên nhân của các khó khăn, vướng mắc, bất cập
Thứ tư, trên cơ sở giải đáp những vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn
nêu trên, luận án đã xây dựng được quan điểm đổi mới quản lý luật sư và hành nghề luật sư; hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước, thể chế tự quản để quản lý LS&HNLS theo hướng đề cao hoạt động tự quản của luật sư, xây dựng chế độ tự quản luật sư thành nguyên tắc độc lập và xác định là giải pháp đổi mới quản lý LS&HNLS ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo những nguyên tắc pháp quyền Đồng thời, Luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý LS&HNLS, đáp ứng nhu cầu phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam và xác định đúng vị trí pháp lý và vai trò đúng đắn của luật sư trong hệ thống tư pháp, hành chính – tư pháp để luật sư Việt Nam hành nghề trong hành lang pháp lý an toàn thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và vai trò đúng đắn của mình
6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt khoa học, luận án sẽ là công trình nghiên cứu trực tiếp, toàn
diện các vấn đề quản lý LS&HNLS theo pháp luật Việt Nam hiện nay Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn cung cấp cho các nhà nghiên cứu, các nhà lập pháp trong việc soạn thảo, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về luật sư, hành nghề luật sư
Về mặt thực tiễn, luận án được nghiên cứu thành công sẽ là công trình
Trang 17khoa học về quản lý LS&HNLS, góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn hành nghề luật sư đang đặt ra ở Việt Nam hiện nay, đồng thời phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo pháp luật, đào tạo nghề luật sư tại Việt Nam
7 Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung Luận án được cấu trúc làm 04 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý luật sư và hành
nghề luật sư ở Việt Nam
Chương 2: Những vấn đề lý luận về quản lý luật sư và hành nghề
luật sư ở Việt Nam
Chương 3: Thực trạng quản lý luật sư và hành nghề luật sư kể từ Đổi
mới ở Việt Nam
Chương 4: Định hướng và giải pháp hoàn thiện thể chế nâng cao hiệu
quả quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam
Trang 18CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
1.1 Các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài
Quản lý LS & HNLS là một vấn đề nhận được sự quan tâm lớn của các tác giả nước ngoài Có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả ở nhiều nước về vấn đề này Các công trình nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau, đã bàn luận những nội dung đa dạng về việc quản lý LS & HNLS ở mỗi nước Tác giả luận án xin nêu một số công trình được xuất bản gần đây và nhận được nhiều sự quan tâm như sau:
- Cuốn sách chuyên khảo của GS TSKH Smolenskiy M B Адвокатская
деятельность и адвокатура в Федеральной Россий “Hành nghề luật sư và
nghề luật sư ở Liên bang Nga” (2004, tái bản 2009) [93] phân tích một cách rất chi tiết về nhiều nội dung liên quan đến luật sư, đặc biệt về quản lý luật sư và hành nghề luật sư, nghề luật sư ở CHLB Nga Mục đích của GS TSKH Smolenskiy M B khi xuất bản cuốn sách "Hành nghề luật sư và nghề luật sư ở Liên bang Nga" là nhằm trả lời cho các luật sư hành nghề các câu hỏi cơ bản liên quan đến các đặc điểm chung của nghề luật sư và biện hộ, lịch sử phát triển của nghề luật sư Nga, ứng xử chuyên nghiệp trong các tổ chức nghề nghiệp của mình, nghệ thuật hùng biện, các nền tảng đạo đức của nghề luật sư Tác giả đã khái quát những vấn đề lý luận chung về nghề luật sư, nhiệm vụ của luật sư và nghề luật sư trong giai đoạn mới và đường lối phát triển Các ví dụ về công việc và sự tham gia của luật sư trong các loại thủ tục khác nhau của tòa án và trong các giai đoạn điều tra đã được nghiên cứu chi tiết và trình bày dưới dạng phân tích Xem xét các trường hợp điển hình, các thủ thuật phỏng vấn nhân chứng, các phương pháp thu thập chứng cứ mới trong
Trang 19hoạt động của luật sư theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự Liên bang Nga Tác phẩm sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau, chẳng hạn như các tạp chí định kỳ, sách chuyên khảo của các luật sư nổi tiếng, nghiên cứu về lịch sử luật sư, tác phẩm của các nhân vật tư tưởng pháp luật, tài liệu nội bộ của hội đồng pháp luật, bài phát biểu của các luật sư hiện tại và các mẫu tài liệu của họ Đây là một cuốn sách khái quát sự chuyển biến của hành nghề luật sư và nghề luật sư tại Liên bang Nga sau khi Duma Quốc gia Nga thông
qua Luật về hành nghề luật sư và nghề luật sư năm 2002 [94] và Bộ quy tắc
ứng xử nghề nghiệp của luật sư Liên bang Nga năm 2003 [92] Lần đầu tiên
trong một cuốn sách chuyên khảo về luật sư, GS TSKH Smolenskiy M B đã đưa ra những nhận định vô cùng sắc bén, đánh thức cả hệ thống tư pháp vốn ngủ yên trong một thời gian dài Ông chỉ ra rằng quá trình dân chủ hóa hệ thống chính trị và kinh tế đang diễn ra ở Nga, việc công bố Hiến pháp của một nhà nước xã hội hợp pháp đòi hỏi phải tổ chức lại triệt để các hình thức và phương thức hoạt động của các tổ chức pháp lý và các hiệp hội tự nguyện liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Vị trí quan trọng nhất của quá trình này là sự hoàn thiện của nghề luật sư - thể chế của xã hội dân sự, có liên quan chặt chẽ đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và pháp nhân [93, tr.1] GS Smolensky đề cập đến nghề luật sư như là một thể chế pháp lý quan trọng nhất của bất kỳ nhà nước nào, đại diện
cho việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân và các hiệp hội của họ Ông
cho rằng, niềm tin của mỗi công dân vào hạnh phúc và thịnh vượng của mình, vào sự thành công của doanh nghiệp của họ phần lớn phụ thuộc vào mức độ vững chắc, cách tổ chức tốt và được bảo vệ hợp pháp của thể chế này Ở Nga, với sự hiện diện của truyền thống chủ nghĩa hư vô pháp lý, thái độ đối với nghề luật sư và luật sư đã và đôi khi vẫn còn tiêu cực ở một mức độ nhất định, đặc biệt là về phía các cơ quan thực thi pháp luật Luật sư thường được coi là
Trang 20người bào chữa cho tội phạm hoặc hành vi sai trái Trong khi đó, mục đích chính của nghề luật sư là trợ giúp pháp lý cho toàn xã hội và các thành viên và bảo vệ các quyền và tự do Luật sư bảo vệ pháp luật khỏi sự tùy tiện, và do đó hoạt động của luật sư đáp ứng cả lợi ích của một công dân hoặc tổ chức cụ thể và lợi ích pháp luật công cộng của nhà nước và xã hội nói chung [93, tr.2] Gần đây, nhiều người đã nhận ra điều này và thái độ đối với nghề luật sư trong xã hội, mặc dù chậm, nhưng đang thay đổi Điều này buộc các nhà chức trách phải hết sức thận trọng đối với các vấn đề cải cách lập pháp của nghề luật sư
- Bài viết The Legal service Act 2007: An Act of revolution for the
Legal Profession (Đạo luật Dịch vụ Pháp lý năm 2007: một cuộc cách mạng
đối với Nghề Luật) của Michael Zander QC FBA, Giáo sư danh dự, Trường
Kinh tế London đăng trong Tạp chí Legal Services Institute, số Tháng Năm 2011 đã phân tích rất sâu sắc những đặc điểm của nghề luật sư ở Anh Quốc và hành trình đến “Đạo luật Dịch vụ Pháp lý 2007” GS Michael Zander đã phân tích sự bất cập của việc phân biệt hai nhánh luật sư ở Anh: Luật sư tranh tụng (barristers) và Luật sư Tư vấn (solicitors) và đã mệt mài tranh đấu cho việc hợp nhất hai nhánh luật sư Đạo luật Dịch vụ Pháp lý năm 2007 đã phần nào làm dịu đi việc cạnh tranh nghề nghiệp trong việc hành nghề giữa luật sư tranh tụng, luật sư tư vấn và những người không có chuyên môn về luật nhưng được phép hành nghề tư vấn trong một số lĩnh vực Tác giả bài viết cũng đã đề cập đến Sách Xanh năm 1989 (Green Paper) và dẫn lời của Lord Lane, Chánh án Tòa án, cho biết Green Paper là “một trong những tài liệu nham hiểm nhất từng xuất phát từ Chính phủ” [89, tr.3], đe dọa sự độc lập của nghề luật sư và ngành tư pháp Tuy nhiên, sau đó, Sách Trắng, được xuất bản vào tháng 7 năm 1989, và Đạo luật về Tòa án và Dịch vụ Pháp lý năm 1990 đã thể hiện một sự nhượng bộ lớn của Chính phủ M Thatcher Nhiều đề xuất trong Sách xanh đơn giản đã bị bỏ rơi Tuy vậy, Đạo luật về Tòa án và Dịch
Trang 21vụ Pháp lý năm 1990 lại cho phép những người không phải là luật sư trở thành “người hành nghề được ủy quyền” trong cuộc cạnh tranh với các luật sư để chuyển giao công việc Như vậy, mối đe dọa không đến từ những người thực hiện các việc về chuyển nhượng được cấp phép như trước đây, mà đến từ các tổ chức tài chính như ngân hàng và các hiệp hội xây dựng Kết quả chung của Sách Xanh khét tiếng trong những năm 1990 là hoạt động kinh doanh của những luật sư tư vấn ít nhiều bị ảnh hưởng, tuy nhiên, sau đó họ được thuê luật sư tranh tụng, đặc biệt là trong các vụ do Dịch vụ truy tố Hoàng Gia thực hiện (CPS), họ giành được quyền đủ điều kiện để xuất hiện với tư cách là những người biện hộ trong các tòa án cấp cao hơn Sau một thập kỷ, vào tháng 3 năm 2001, Văn phòng Thương mại Công bằng (OFT- Office of Fair
Trading) ban hành Báo cáo Cạnh tranh trong các ngành nghề Theo GS
Michael Zander, cả Luật sư tranh tụng và Luật sư tư vấn đều phản ứng bảo vệ với báo cáo của OFT Trong các năm sau đó, việc hành nghề luật sư ở Anh liên tiếp có một số thay đổi đáng kể khác như tháng 4 năm 2002, OFT đã ban hành một tuyên bố với tiêu đề: “Cạnh tranh trong các ngành nghề - cải tiến nhưng cần hành động nhiều hơn” Vào tháng 12 năm 2004, Báo cáo Clementi, được xuất bản Vào tháng 5 năm 2006, Chính phủ Anh đã công bố Dự thảo Luật Dịch vụ Pháp lý và đã được gửi đến Ủy ban hỗn hợp của cả hai viện để xem xét và đã được thông qua 28 tháng 10 năm 2007 Trong bài viết của
mình, GS Michael Zander đã dành phần lớn dung lượng để phân tích Đạo
luật Dịch vụ Pháp lý năm 2007 như là một cuộc cách mạng thực sự về cải
cách tư pháp về luật sư ở Anh Quốc Theo đó, Đạo luật với độ dài gần 400 trang đã mô tả về các hệ thống mới chính mà Đạo luật áp dụng liên quan đến quy định của các cơ quan quản lý tuyến đầu hiện tại, đến việc xử lý các khiếu nại và các hình thức cấu trúc kinh doanh mới trong nghề luật sư Đạo luật cũng có các điều khoản quan trọng về những gì được gọi là các hoạt động
Trang 22dành riêng Theo GS M Zander, việc thông qua Đạo luật cũng có nhiều tác động khác - đặc biệt là sự tách biệt trong từng cơ quan quản lý giữa cơ quan quản lý và chức năng đại diện [89, tr.6] Vì vậy, Ban tiêu chuẩn luật sư tranh tụng và Cơ quan quản lý luật sư tư vấn hoàn toàn tách biệt với Hội đồng luật sư và Hiệp hội luật sư và mỗi bên đều có một thành phần lớn những người không có chuyên môn (lay) Theo quy định, Đạo luật đã thành lập Ban dịch vụ pháp lý (LSB) với tư cách là cơ quan quản lý của tất cả các cơ quan chuyên môn cung cấp dịch vụ pháp lý: Cơ quan quản lý luật sư tư vấn, Ban tiêu chuẩn luật sư tranh tụng, Ban tiêu chuẩn nghề nghiệp của Viện hành pháp pháp lý, Hội đồng dành cho Người thực hiện chuyển nhượng được cấp phép, Viện luật sư bằng sáng chế được công nhận, Viện luật sư thương hiệu, Hội đồng tiêu chuẩn luật sư chi phí và Công chứng viên LSB đã hoạt động đầy đủ kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2010 Đạo luật cũng đã thành lập Văn phòng Khiếu nại Pháp lý (OLC) để giải quyết các khiếu nại liên quan đến các dịch vụ pháp lý ngoài các khiếu nại về vấn đề kỷ luật Vào tháng 2 năm 2009, LSB thông báo việc bổ nhiệm các thành viên đầu tiên của OLC Liên quan đến cấu trúc kinh doanh mới, Đạo luật đề cập đến hai hình thức: Thực hành kỷ luật pháp lý (LDP) và Cấu trúc kinh doanh thay thế (ABS) LDP là các công ty cung cấp dịch vụ pháp lý có thể có tới 25% đối tác hoặc người quản lý không phải là luật sư, miễn là họ là cá nhân Ngoài ra, Hoạt động dành riêng là hoạt động dành riêng cho những người có trình độ chuyên môn cụ thể Có sáu lĩnh vực cụ thể: (i) quyền cử tọa, (ii) tiến hành tranh tụng, (iii) công cụ bảo lưu, (iv) chứng thực di chúc, (v) các hoạt động công chứng, và (vi) quản lý các lời tuyên thệ [89, tr.5] Đạo luật quy định rằng Chánh Văn phòng Thủ tướng có thể mở rộng danh sách các hoạt động được bảo lưu đơn giản bằng công cụ luật định nhưng chỉ theo khuyến nghị của LSB Tác giả bài viết, GS M
Zander cho rằng, việc thành lập Ban Dịch vụ Pháp lý (LSB) là một cuộc cách
Trang 23mạng [89, tr.7] Cho đến nay, mỗi bộ phận của nghề nghiệp đều có cơ quan
quản lý riêng bao gồm toàn bộ các thành viên của chính nó Bây giờ các luật sư có một ban điều hành tổng thể Ban điều hành bao gồm Chủ tịch, tám thành viên bình thường và Trưởng ban điều hành Đạo luật yêu cầu Chủ tịch và đa số thành viên của LSB phải là người không chuyên (lay) Kể cả Trưởng ban điều hành, thành phần hiện nay là bảy người không phải là Luật sư (lay) và ba luật sư Vì vậy, tại thời điểm hiện tại, luật sư chiếm thiểu số rõ rệt
Ngược lại, hệ thống khiếu nại mới là một sự tiến hóa hơn là một cuộc cách
mạng [89, tr.8] Giám sát bên ngoài đối với hệ thống khiếu nại do Luật sư
đoàn và chi nhánh luật sư tư vấn điều hành đã tồn tại trong nhiều thập kỷ Văn phòng Quan sát viên gồm các thành viên không phải là luật sư (lay) được thành lập cách đây khá lâu vào năm 1974 Năm 1990, Quan sát viên được chuyển đổi thành Thanh tra Dịch vụ Pháp lý Những người nhờ luật sư tư vấn trong nhiều năm đã quen với việc báo cáo hàng năm quan trọng của Thanh tra viên chỉ ra sự kém hiệu quả và bất cập của hệ thống xử lý khiếu nại của Hiệp hội Luật sư Cả hai nhánh của nghề luật sư đều giới thiệu những thành viên không chuyên của riêng họ: Văn phòng Giám sát Luật sư Tư vấn của Hiệp hội Luật sư, nơi giám sát việc giải quyết khiếu nại, bao gồm 50% thành viên là không chuyên (lay) Quy trình xử lý khiếu nại từ lâu đã hoàn toàn tách biệt với chi nhánh đại diện của Hiệp hội Luật sư Hệ thống xử lý khiếu nại của Luật sư tranh tụng chưa bao giờ là đối tượng bị chỉ trích trên quy mô của hệ thống hướng vào Hiệp hội Luật nhưng nó cũng đã được hiện đại hóa với việc bổ nhiệm một Ủy viên khiếu nại của các thành viên không chuyên để giám sát cuộc điều tra ban đầu về các khiếu nại và xác định xem liệu các khiếu nại có hợp lệ hay không Thực tế là các khiếu nại về bất kỳ hình thức dịch vụ pháp lý nào hiện nay được chuyển đến một cơ quan duy nhất hoàn toàn tách biệt với tất cả các ngành nghề cung cấp dịch vụ đó tất nhiên là hoàn toàn mới Nhưng
Trang 24có thể nói đó là một sự phát triển hợp lý và hữu cơ từ những cải cách đã được chính những người làm nghề đưa vào
Sau bài viết The Legal service Act 2007: An Act of revolution for the
Legal Profession (Đạo luật Dịch vụ Pháp lý năm 2007: một cuộc cách mạng
đối với Nghề Luật) của Michael Zander còn có nhiều bài viết khác, phát hành
gần đây, chủ yếu đánh giá hiệu quả, mặt được và mặt chưa được của Đạo luật Dịch vụ Pháp lý năm 2007 Đầu tiên là bài viết GS Stephen Mayson (Giáo sư Stephen Mayson, Giáo sư Chiến lược và Giám đốc Viện Chính sách Dịch vụ
Pháp lý): The Legal service Act 2007: Ten years on and mind the gaps (Đạo luật
Dịch vụ Pháp lý năm 2007: 10 năm tồn tại và „„Hãy để ý về các lỗ hổng” đăng trên https://stephenmayson.files.wordpress.com/2017/06/mayson-2017-legal-
services-act-10-years-on1.pdf và bài viết của Tờ Tin tức tháng 6 năm 2021 của
CLSB- Costs Lawyers Standards Board- Newsletter – June 2021: Nothing has
changed and everything has changed: A review of the legal market since the Legal Services Act 2007 (Không có gì thay đổi và mọi thứ đã thay đổi: Đánh giá
thị trường pháp lý kể từ Đạo luật dịch vụ pháp lý năm 2007) đăng tải trên https://clsb.info/regulatory-matters/news/newsletter-january-2021/spotlight-on-the-impact-of-the-legal-services-act-2007/của CLSB- Costs Lawyers Standards Board- Newsletter – June 2021 Các bài viết này chủ yếu đánh giá quá trình thực hiện đạo luật 2007, từ đó chỉ ra những khiếm khuyết mà đạo luật này
không và/hoặc chưa làm được Ví dụ, trong bài viết The Legal service Act
2007: Ten years on and mind the gap, Stephen Mayson cho rằng động cơ
chính trị để thực hiện các cải cách được khuyến nghị là “Đặt người tiêu dùng lên trên hết” Tuy nhiên, sau mười năm sau, mục đích này dường như chưa được đáp ứng, và CMA (Competition and Markets Authority) đánh giá cơ cấu quy định đã được cải cách không đủ phù hợp cho mục đích trong tương lai [89, tr.2] Tác giả bài viết cho rằng, Đạo luật thiếu một khuôn khổ hiện đại,
Trang 25phù hợp với mục đích để quy định các dịch vụ pháp lý và những thiếu sót này hỗ trợ cho kết luận của CMA nêu trên Tám mục tiêu quy định của Đạo luật không được thể hiện trong bất kỳ thứ bậc nào hoặc với bất kỳ mục tiêu quan trọng nào Do đó, một số trong số chúng có khả năng xung đột với nhau: (không phải lúc nào cũng vì lợi ích công cộng, hoặc phù hợp với quy định của pháp luật hoặc sự quản lý hiệu quả của công lý, mà lợi ích của khách hàng, hoặc lợi ích của người tiêu dùng nói chung, phải được ưu tiên) Một số mục tiêu được cho là nằm ngoài tầm kiểm soát, ảnh hưởng hoặc trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý và sau đó có lẽ không phải là các mục tiêu quy định Ngoài ra, sự tách biệt giữa quy định và đại diện là một phần và không đầy đủ: cả Hội đồng luật sư và Hiệp hội luật sư vẫn coi Đạo luật là 'cơ quan quản lý được phê duyệt', mặc dù chức năng quản lý của họ hiện do Ban tiêu chuẩn luật sư và Cơ quan quản lý luật sư phụ trách Sáu hoạt động pháp lý được bảo lưu (đã tồn tại trước 2007) không phải là kết quả của bất kỳ cách tiếp cận hiện đại, có mục tiêu, dựa trên rủi ro và tương xứng nào đối với quy định mà là những hoạt động trái ngược lịch sử thường xuất hiện từ sự đổi chác và tuân thủ chính trị trong nhiều thế kỷ qua Vì vậy, tác giả chỉ rõ, để giải quyết những thiếu sót này, CMA đưa ra khuyến nghị bổ sung cho chính phủ vì họ yêu cầu hành động ngoài cấu trúc và quyền hạn của Đạo luật Dịch vụ Pháp lý Đó là chính phủ nên “càng sớm càng tốt” thực hiện việc xem xét tính độc lập của các cơ quan quản lý đối với cả các ngành nghề và chính phủ [90, tr.4] Việc xem xét như vậy đã được lên kế hoạch vào năm 2016 nhưng đã bị hoãn lại trong khi chờ kết quả của báo cáo CMA Thứ hai là cần tiến hành đánh giá dài hạn hơn đối với khuôn khổ quy định để đảm bảo rằng khung quy định trở nên linh hoạt hơn, trong đó quy định được nhắm mục tiêu tốt hơn vào các hoạt động có rủi ro cao hơn, tương xứng hơn và hiệu quả về chi phí trong cách tiếp cận của nó, và với chuyển hướng khỏi quy định chỉ gắn với chức danh nghề
Trang 26nghiệp Bài viết Nothing has changed and everything has changed: A review of
the legal market since the Legal Services Act 2007 [88] cũng đánh giá là sau
khi có đạo luật thì khách hàng thuộc mọi loại có nhiều sự lựa chọn hơn, mặc dù họ còn lâu mới thực hiện điều đó một cách nhất quán Quan trọng hơn, luật sư cũng có nhiều lựa chọn hơn - ví dụ như nơi họ làm việc và cách họ hành nghề Người tiêu dùng rõ ràng cần được hỗ trợ để lựa chọn và sử dụng các dịch vụ pháp lý, nhưng cần sự tinh tế hơn trong cách áp dụng điều đó trong các lĩnh vực khác nhau Thách thức lớn nhất là đối với người dân bình thường và các doanh nghiệp nhỏ Do đó, cần minh bạch hơn nữa về các chỉ số giá cả, chất lượng và dịch vụ cũng như phản hồi của khách hàng Cuối cùng, bài viết cũng chỉ rõ là, cuộc cách mạng công nghiệp đã kéo dài hơn 60 năm nên cuộc cách mạng trên thị trường pháp lý không bao giờ chỉ diễn ra trong một sớm một chiều mà có ngay kết quả mong muốn Người hành nghề cần phải nắm lấy nó để có thể phát triển thoát khỏi đại dịch Điều đó áp dụng cho tất cả các Luật sư
- Bài viết Comparative perspectives on Lawyer regulation: An Agenda
for reform in United States and Canada (Quan điểm so sánh quy định đối với
luật sư: Chương trình cải cách ở Hoa Kỳ và Canada) [86] đăng tải trên Tạp chí Law Review, volume 80, Issue 6, năm 2012 của Deborah L Rhode và Alice Woolley đã phân tích lý do tại sao trong luật pháp Hoa Kỳ và Canada vẫn tồn tại nhiều vấn đề, và đưa ra chính sách cải cách pháp lý dựa trên những đổi mới từ nước ngoài Các tác giả chủ yếu phân tích (i) quy trình kỷ luật luật sư ở Hoa Kỳ, (ii) hệ thống kỷ luật luật sư ở Canada, từ đó kiến nghị (iii) các mô hình pháp lý thay thế và cuối cùng đưa ra (iv) chương trình cải cách (a) đề xuất cho hoa Kỳ và (b) cho Canada Đối với quy trình kỷ luật luật sư ở Hoa
Kỳ, các tác giả cho rằng tồn tại một cơ cấu kỷ luật nghề nghiệp (luật sư) chưa
hoàn chỉnh, do các Toà án Tối cao của các tiểu bang đã khẳng định quyền
quản lý nhưng lại không có đủ thời gian, không đủ tầm ảnh hưởng, hoặc
Trang 27không đủ năng lực thực hiện thẩm quyền đó một cách hiệu quả Nguyên nhân chủ yếu là do hầu hết các tòa án này đều phải đối mặt với các vụ kiện tồi tệ và thẩm phán của họ không có nguồn lực cũng như chuyên môn để đảm bảo việc giám sát Các Thẩm phán đứng giữa hai dòng nước: một là bảo vệ quyền lợi của khách hàng – những người khiếu kiện; hai là không muốn làm mếch lòng giới luật sư, những người có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thống nhất, xếp hạng và vận động bầu cử Ngoài ra, giới luật sư cũng là lực lượng ủng hộ tiền và ngân sách, vận động hành lang cho bộ máy tư pháp Ngược lại, lợi ích của khách hàng ít khi có cơ hội được ủng hộ Một phần là do khách hàng thiếu thông tin và động cơ để tập trung vào vấn đề Khách hàng và bên thứ ba là những người dễ bị tổn thương bởi hành vi sai trái của luật sư, nhưng (khách hàng) lại thiếu đòn bẩy và động cơ chính trị cho nhu cầu cải cách tư pháp liên quan đến luật sư.Hầu hết khách hàng là người thuê luật sư "một lần duy nhất" nên “xong là thôi” [86, tr.2766], họ không còn quan tâm nữa Do đó, các tòa án đã ủy quyền giám sát và thi hành kỷ luật cho các tổ chức luật sư hoặc cho các hội đồng luật sư, mặc dù biết rằng các tổ chức này gắn kết với lợi ích của luật sư (chứ không phải khách hàng) Hơn nữa, tổ chức Luật sư có thể đưa các hình thức xử phạt kỷ luật lên tòa án tối cao của tiểu bang, nhưng khách hàng không có sự hỗ trợ pháp lý hữu hiệu nào cho các quyết định hoặc quy trình không mang lại lợi ích cho họ Việc xử lý kỷ luật luật sư đối với những hành vi vi phạm ngoài phạm vi nghề nghiệp ở Hoa Kỳ, theo các tác giả, cũng chưa thực sự hoàn chỉnh Phần lớn việc xử lý các vi phạm này là quá nặng và không phải vì bảo vệ công lý mà vì “danh tiếng nghề nghiệp của luật sư” [86, tr.2770]
Đối với hệ thống kỷ luật luật sư ở Canada, các tác giả nêu rõ là Hội luật
sư cấp tỉnh quản lý luật sư ở Canada Các hiệp hội này đưa ra tiêu chuẩn thừa nhận và kỷ luật, cũng như điều tra và xử phạt hành vi sai trái của luật sư Các Hội luật sư cấp tỉnh đã tăng cường nỗ lực hợp tác cùng nhau để thông qua các
Trang 28sách lược mang tính quốc gia về các vấn đề liên quan đến hành vi và đạo đức nghề nghiệp Liên đoàn hiệp hội luật sư (gọi tắt là Liên đoàn), một tổ chức có thế lực phi chính thức có đại diện từ các hội luật sư tỉnh, đã đưa ra các sáng kiến yêu cầu công nhận các trường luật phổ thông của Canada, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư di chuyển giữa các tỉnh và thiết lập một bộ quy tắc ứng xử quốc gia Các hội luật sư cũng như Liên đoàn đều không đảm bảo việc vận động hành lang hoặc có các hoạt động tương tự; đại diện và vận động cho nghề nghiệp là những vấn đề dành cho Hiệp hội Luật sư Canada Cơ chế này cho phép luật sư Canada có quyền tự trị; trong thực tế, Canada có thể là "thành trì cuối cùng tự do tự quản lý ngành luật trong các nước theo thông luật", trong lúc đó các nước như Úc, New Zealand, Anh và Xứ Wales, và các quốc gia khác theo hệ thống thông luật đề cao vai trò các nhà quản lý không phải giới luật điều hành công việc luật Ngay tại Hoa Kỳ thì các Toà án tiểu bang luôn luôn được tham gia vào quá trình xử lý kỷ luật các luật sư Ở Canada, Toà án có một số quyền tố tụng, nhưng Toà án không thể đình chỉ hay từ chối các luật sư, không thể áp đặt hậu quả đối với các kiểu hành vi và không thể xử phạt các hành vi xảy ra ngoài phạm vi kiện tụng Theo các tác giả bài viết, trong hệ thống Canada, Luật sư kiểm soát mọi khía cạnh của quy trình quản trị và có thẩm quyền theo luật định để điều chỉnh vì lợi ích của họ Không có lực lượng đối kháng nào có tiếng nói có ý nghĩa Không cần thuyết âm mưu phức tạp nào cho thấy rằng một cấu trúc quy định như vậy có khả năng đặc quyền chuyên môn hơn lợi ích công cộng và tập trung sự chú ý vào bối cảnh nơi những lợi ích đó phù hợp: hành vi sai trái đạo đức rõ ràng của những thành viên kém quyền lực nhất trong đoàn Cũng như ở Hoa Kỳ, khách hàng ở Canada không phản ứng quá trình giám sát hiệu quả Ngoài ra, mặc dù có nhiều hành vi nghề nghiệp của luật sư được bảo vệ trước pháp luật, nhưng hành vi cá nhân của họ lại là trọng tâm của việc xem xét kỷ luật trong giới
Trang 29Các hiệp hội luật pháp không ngần ngại xử phạt các luật sư bị kết tội không liên quan đến nghề, ngay cả khi không có lý do khẳng định luật sư vi phạm hành vi sai trái nghề nghiệp hoặc có nguy cơ vi phạm Những người ra quyết định cho rằng hành vi sai trái mang tính chất cá nhân luật sư có thể "làm mất hết tất cả mọi thứ của tập thể luật sư" niềm tin tưởng của công chúng sẽ không còn Trên thực tế, những khẳng định này chỉ đơn giản dựa trên danh dự nghề nghiệp theo những cách khác nhau
Trên cơ sở phân tích về chế độ quản lý luật sư ở Hoa Kỳ và Canada,
các tác giả bài viết đưa ra một mô hình thay thế mà các tác giả cho rằng hữu
hiệu hơn mô hình đang tồn tại Theo các tác giả bài viết, các quốc gia khác có hệ thống pháp luật giống Hoa Kỳ và Canada đáp ứng nhanh yêu cầu khách hàng và thực hiện mô hình cải cách phù hợp Các quốc gia này thiết lập cơ chế pháp lý trong đó tòa chia quyền lực cho các thực thể có trách nhiệm khác Các tác giả bài viết đã viện dẫn „„Đạo luật Dịch vụ Pháp lý năm 2007„ của Anh và nêu rõ là đạo luật này xác định "bảo vệ và quảng bá lợi ích khách hàng" như một trong những mục tiêu chính Đạo luật thành lập Hội đồng quản trị dịch vụ pháp lý độc lập có trách nhiệm giám sát dịch vụ pháp luật tại Anh và xứ Wales, với đa số các thành viên và chủ tọa không thuộc giới Hội đồng này phê duyệt điều hành trực tiếp nhà cung cấp pháp lý được cấp phép Cơ quan điều hành được phê duyệt chịu trách nhiệm kỷ luật đối với những khiếu nại về hành vi nghề nghiệp sai trái nghiêm trọng nhưng phải tạo ra một bộ phận độc lập để thực hiện việc giám sát Ngoài ra, bộ phận quản lý trực thuộc cơ quan điều hành lớn nhất, Cơ quan Điều hành Luật sư sẽ có đại đa số các thành viên không thuộc giới vào năm 2013 Nếu một cơ quan điều hành quản lý được phê duyệt quá chậm hoặc không có hiệu quả trong việc thực thi quyền hạn của mình, Hội đồng Quản trị có thể phạt, ra lệnh hoặc sửa lại các quyền hạn giám sát của mình Đối với việc xem xét kỷ luật đối với các hành vi ngoài
Trang 30phạm vi hành nghề luật sư, các tác giả cho rằng xu hướng phán quyết gần đây là tập trung vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và không trung thực của luật sư chứ không chỉ xử phạt nặng vì người đó là luật sư Khi xem xét kỷ luật một luật sư cần xem xét bản chất của hành vi đó trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật, các yếu tố như “duy trì danh tiếng nghề" và "duy trì lòng tin của công chúng" không phải là yếu tố chính để loại bỏ một luật sư khỏi nghề [86, tr 2781]
Để đề xuất một chương trình cải cách cho Hoa Kỳ, theo các tác giả bài viết, một quy trình kỷ luật có hiệu quả ở Hoa Kỳ cần thiết phải mở rộng hình thức giám sát và khắc phục hậu quả liên quan đến hoạt động chuyên môn và thu hẹp sự chú ý các vụ vi phạm không thuộc giới Ngoài ra, quá trình này
cũng cần minh bạch hơn Yêu cầu luật sư cung cấp thông tin cho khách hàng
với những dữ liệu về hồ sơ kỷ luật và hồ sơ lạm dụng chức quyền Cũng nên công khai khiếu nại kỷ luật nếu cơ quan giám sát tìm ra nguyên nhân để điều tra Mối quan tâm đến bảo vệ cộng đồng cũng cần được đề cập nhiều hơn trong việc xem xét hành vi thiếu đạo đức ngoài phạm vi hành nghề Đối với Canada, để đạt được một hệ thống quản lý thực sự hiệu quả đòi hỏi phải có những thay đổi về cơ cấu Cần thành lập một Toà án riêng để xét xử các vụ kỷ luật Toà án cũng có thể làm trung gian các vụ tranh chấp giữa các luật sư và khách hàng, giống như Cơ quan Thanh tra Pháp luật ở Anh và xứ Wales Việc giám sát cần được mở rộng để giải đáp các thắc mắc về hiệu quả hoạt động luật sư, có hay không hành vi thiếu đạo đức nghề nghiệp và việc áp dụng các chế tài cho khách hàng Ngoài thay đổi về cơ cấu, nội dung của luật pháp ở Canada cũng cần được sửa đổi và mở rộng Cụ thể, hội luật phải tập trung nhiều hơn vào các khiếu nại của khách thông thường và chế tài, đặc biệt là liên quan đến phí và khoảng cách trong phạm vi bảo hiểm rủi ro Các hiệp hội luật nên nhấn mạnh đến các hoạt động giám sát chuẩn mực và chủ động chứ
Trang 31không chỉ đơn thuần đáp ứng những trường hợp có hành vi thiếu đạo đức nghề nghiệp nghiêm trọng Đối với hành vi vi phạm ngoài phạm vi hành nghề, nên tập trung vào việc bảo vệ công chúng, chứ không phải chỉ hình ảnh công cộng Các hình phạt nên dành riêng cho hành vi làm suy giảm khả năng hành nghề của luật sư, chẳng hạn như lạm dụng chất gây nghiện, hoặc tội không trung thực hoặc cố ý vi phạm lệnh tòa Các quy trình kỷ luật của luật sư không nên sử dụng để sao lặp hệ thống công lý hình sự; vai trò của họ nên hướng đến việc bảo vệ khách hàng và hệ thống tư pháp
- Bài viết Chế độ Tư pháp Trung Quốc [68] của PGS Tào Nam Giang,
Học viện Kiểm sát Quốc gia Trung Quốc, bản dịch tiếng Việt đăng trên trang website của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội là một bài viết tương đối chi tiết, đầy đủ về hệ thống tư pháp Trung Quốc, trong đó có hệ thống luật sư Trong bài viết, tác giả chỉ ra những đặc điểm (hay đặc thù) của chế độ tư pháp Trung Quốc Một trong những đặc điểm đáng lưu ý, đó là: (i) Công tác tư pháp phải tuyệt đối kiên định theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc; (ii) Hệ thống các cơ quan Tư pháp được xây dựng căn cứ tình hình thực tế của đất nước Trung Quốc; (iii) Nội bộ các cơ quan Tư pháp thực hiện chế độ phụ trách tập thể; (iv) Chế độ Tư pháp Trung Quốc thực hiện theo mô hình “một nhà nước hai chế độ”; PGS Tào Nam Giang đã dành Chương VII của bài nghiên cứu để trình bày về Chế độ luật sư ở Trung Quốc Theo đó, tác giả nêu hàm nghĩa và tính chất của chế độ luật sư như là một khái niệm khái quát chỉ nguyên tắc hành nghề, điều kiện hành nghề, tổ chức hành nghề luật sư, quyền lợi và nghĩa vụ của luật sư, trách nhiệm trước pháp luật của luật sư, chế độ quản lý đối với luật sư, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của luật sư và phương thức thực hiện các dịch vụ pháp luật đối với đương sự Chế độ luật sư Trung Quốc là một bộ phận cấu thành quan trọng của chế độ tư
pháp XHCN Trung Quốc Tác giả cũng phân tích về Chế độ quản lý luật sư
Trang 32theo Luật Luật sư của Trung Quốc Tác giả chỉ rõ: chế độ quản lý luật sư ở Trung Quốc là chế độ quản lý kép Tầng quản lý chính là tầng quản lý hành chính của cơ quan hành chính tư pháp Nhà nước, tầng quản lý phụ là tầng quản lý chuyên môn của Hiệp hội luật sư toàn quốc Điều 4, Luật luật sư quy định, cơ quan hành chính tư pháp tiến hành giám sát, lãnh đạo hoạt động của luật sư, Văn phòng luật sư và Hiệp hội luật sư Cơ quan hành chính tư pháp Trung Quốc gồm 04 cấp: Cấp trung ương là Bộ Tư pháp, cấp tỉnh là Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, cấp khu vực là Cục (Phòng) Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân Khu vực, cấp huyện là Cục Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện Bộ Tư pháp là cơ quan hành chính tư pháp cấp trung ương, phụ trách quản lý vĩ mô đối với công tác hành chính tư pháp trong cả nước Thông qua việc xây dựng phương châm, chính sách và các quy định có liên quan, Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý hoạt động của đội ngũ luật sư Cơ quan hành chính tư pháp cấp tỉnh, khu vực và huyện phụ trách việc thực hiện và chấp hành các chính sách, quy định của Bộ Tư pháp và Cơ quan hành chính cấp trên ban hành, quản lý đội ngũ luật sư Cơ quan hành chính tư pháp các cấp đều thành lập bộ phận quản lý luật sư nhằm tiến hành giám sát và quản lý hoạt động của đội ngũ luật sư
Hiệp hội luật sư toàn quốc Trung Quốc và Chi hội ở các địa phương là tổ chức nghề nghiệp tự quản lý, tự giáo dục trong nội bộ, nhằm bổ sung những thiếu sót trong quá trình quản lý của Cơ quan hành chính tư pháp
- Bài viết An Overview of the Japanese Legal System (Khái quát về hệ
thống pháp luật Nhật Bản) [87, tr.517-539] của Elliott J Hahn, đăng trên Tạp chí Northwestern Journal of International and Business, Volume 5, Issue 3, 1983 đã cho độc giả một cái nhìn khái quát về hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống tư pháp nói riêng, trong đó có luật sư Theo tác giả, hệ thống pháp luật của Nhật Bản thực sự độc đáo: nó là sự pha trộn giữa hệ thống dân sự và
Trang 33thông luật được ghép vào một hệ thống dựa trên các phong tục và giá trị đã đóng vai trò quan trọng ở Nhật Bản trong nhiều thế kỷ và vẫn còn sôi động cho đến ngày nay Người Nhật đã thành công trong việc tiếp thu các đặc điểm của hệ thống pháp luật nước ngoài mà không phải hy sinh các giá trị bản địa của họ Hệ thống pháp luật của Nhật Bản có sự khác biệt đáng kể so với hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ và một số nước khác Từ việc đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, luân chuyển và hành nghề của các chức danh tư pháp trong đó có luật sư, thẩm phán, công tố (kiểm sát viên) được thực hiện chung một quy trình
- Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu đặt trọng tâm vào vấn đề quản lý hành nghề luật sư như: Eric G Luna, Avoiding a “Carnival Atmosphere”: Trial Court Discretion and the Advocate – Witness Rule, 18 Whittier Legal Review, 447, 452 (1997); Douglas R Richmond, Lawyer as Witness, 36 N.M.L Rev.47 (2006), Model Rules of Prof‟s Conduct; Judith A McMorrow & Daniel R Coquillette, Moore‟s Federal Practice, khảo sát các nguồn luật của các tòa án tại các tiểu bang đáp ứng quy định chung của Liên bang và đáp ứng mô hình quản lý luật sư của ABA; Fred C Zacharias & Bruce A Green, Federal Court Authority to Regulate Lawyers: A practice in search of a Theory, 56 Vand L.Rev.1303 (2003) phân tích các văn bản pháp luật và các nguồn luật khác của tòa liên bang về việc quản lý luật sư; Alternative Perspective on Lawyer and Legal Ethic, Reimagining Profession, Francesca Bartlett… nghiên cứu vấn đề quản lý luật sư trong kỷ nguyên mới và bổ sung các qui phạm đạo đức nghề luật sư
- Ngoài các bài viết chuyên khảo nêu ở trên, cần thiết phải nhắc đến nghiên cứu về các quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư, là một
nội dung thể chế rất quan trọng quản lý LS & HNLS Các bài viết: Quy định
pháp luật về việc hành nghề luật sư tại Vương Quốc Anh, Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư - Tổng quan và kinh nghiệm của Vương Quốc Anh của
Trang 34Edward Nally, Nguyên Chủ tịch Hiệp Hội luật sư Anh và xứ Wales [18] Tác giả đã đề cập việc xây dựng và vận hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư ở Anh quốc, xứ Wales nói riêng và Liên Minh Châu Âu nói chung Luật về Luật sư tư vấn ban hành năm 1974 cho phép Hiệp hội luật sư Anh được ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp và có hiệu lực bắt buộc đối với các thành viên Hiệp hội luật sư bảo đảm việc tuân thủ các quy tắc thông qua hệ thống các Ủy ban và trực tiếp là Ủy ban kỷ luật Nội dung Quy tắc quy định các nghĩa vụ cơ bản của luật sư và các Quy tắc ứng xử cụ thể của luật sư với Tòa án, Khách hàng, Đồng nghiệp,… trong hoạt động hành nghề luật sư Trong đó quy định các nghĩa vụ cơ bản của luật sư, Luật sư phải bảo vệ nhà nước pháp quyền và hỗ trợ việc thực thi công lý, luật sư phải độc lập, hành động trung thực và minh bạch, bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng, duy trì lòng tin của công chúng vào luật sư và nghề luật sư; bảo mật thông tin; chống xung đột lợi ích, Bộ Quy tắc ứng xử nghề nghiệp cấu thành thể chế điều chỉnh LS&HNLS ở Anh quốc, xứ Wales nói riêng và Liên minh Châu Âu nói chung
1.2 Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuân trong các cuốn Luật sư và
hành nghề luật sư, (2002) [41]; Pháp luật về luật sư và Đạo đức nghề nghiệp luật sư, (2014) [42]; Thể chế về luật sư và hành nghề luật sư trong nhà nước pháp quyền (2021) [43] Nội dung 3 cuốn sách này, tác giả đã đưa ra một bức
tranh toàn cảnh về luật sư, hành nghề luật sư, nghề luật sư, pháp luật về luật sư ở Việt nam dưới góc độ lý luận, đồng thời tác giả đã trình bày, phân tích chuyên sâu rất nhiều vấn đề, khía cạnh liên quan đến luật sư, nghề luật sư, pháp luật về luật sư và các hình thức tổ chức hành nghề luật sư, thể chế luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam Ngoài ra, tác giả còn phân tích các vấn đề cơ bản như: đặc điểm, tính đặc thù của nghề luật sư; thực trạng các quy
Trang 35định pháp luật về TCHNLS, các điều kiện hành nghề luật sư ở Việt Nam cũng như các chế định về đào tạo, tập sự hành nghề luật sư, địa vị pháp lý của luật sư Việt Nam, v.v… Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nêu ra những vấn đề chung về đạo đức nghề nghiệp luật sư; các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam Các cuốn sách đã phân tích khá chi tiết và chỉ ra những quy tắc ứng xử cơ bản của luật sư khi hành nghề trên thực tế Có thể nói nội dung các cuốn sách được xem là các công trình nghiên cứu công phu, sâu sắc về lý luận, khá đầy đủ về nội dung liên quan đến luật sư và hành nghề luật sư Tác giả trình bày, phân tích, đánh giá có hệ thống được thực hiện trong phạm vi kiến thức sâu rộng Có thể nói, đây là tài liệu rất sát với nội dung của Luận án, giúp cho tác giả Luận án có thể định hướng được các vấn đề cần giải quyết, có thể kế thừa một phần trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài của luận án
- Cuốn sách Đạo đức và Kỹ năng của luật sư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa - PGS.TS Lê Hồng Hạnh (chủ biên)
NXB Đại học sư phạm năm 2002 [14] Đây là một trong những cuốn sách đầu tiên đề cập vấn đề nền tảng của nghề luật sư ở Việt Nam đó là đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng của luật sư trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế Cuốn sách đã cho tác giả luận án cái nhìn tổng thể về nghề luật sư và các tố chất cơ bản của luật sư, giúp cho việc nghiên cứu quản lý LS&HNLS trong cơ chế thị trường định hướng XHCN
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2005) do Nguyễn Văn Thảo làm
chủ nhiệm đề tài, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về
tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam [33] Đây được
xem là công trình nghiên cứu lớn có liên quan đến quản lý luật sư và hành nghề luật sư Đề tài nghiên cứu cấp Bộ này đã tiếp cận các hoạt động tư pháp
Trang 36của nghề luật sư (hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động…) Trong nội dung đề tài đã đưa ra quan điểm và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành nghề luật sư, hoạt động của luật sư tại Việt Nam, phạm vi nghiên cứu việc quản lý luật sư và hoạt động của luật sư được nghiên cứu chuyên sâu
- Đề tài khoa học cấp bộ của Bộ Tư pháp năm 2019 “Nghiên cứu đổi
mới hoàn thiện quản lý nhà nước đối với luật sư, công chứng, giám định đến năm 2030” [30] Bên cạnh chức danh Công chứng, Giám định tư pháp, Đề tài
là một công trình khoa học nghiên cứu khá toàn diện về quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư, từ các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước, mô hình quản lý luật sư, kinh nghiệm của một số nước về quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư, phân tích thực trạng quản lý nhà nước ở nước ta đến bối cảnh, phương hướng, giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư đến năm 2030 Đề tài đã cho tác giả cái nhìn tổng thể, một số kiến thức về lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động luật sư tác giả có thể kế thừa và phát triển trong việc nghiên cứu quản lý LS&HNLS
- Bài viết của PGS.TS.LS Chu Hồng Thanh, “Xây dựng và thực hiện quy chế đạo đức nghề nghiệp Luật sư, kinh nghiệm của Hội Luật gia Việt Nam
– (Tạp chí Nghề Luật, số 2/2008) [5] đã cung cấp ý tưởng về sự hình thành và phát triển của hệ thống các quy tắc đạo đức hành nghề Luật sư, ngay từ những ngày đầu thành lập LĐLSVN
- Hai bài viết đáng chú ý về quản lý LS & HNLS, đó là Bài viết “Tìm
một quy trình hợp lý cho việc công nhận luật sư, cấp phép hành nghề luật sư khi sửa đổi Luật Luật sư” của Luật sư Nguyễn Văn Thảo năm 2012 [82] và
Bài viết: “Bàn về khái niệm luật sư và thẩm quyền công nhận luật sư” của TS
Nguyễn Văn Tuân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật – Số năm 2016 [84] Các tác giả của hai bài viết đều phân tích quy trình công nhận luật sư và cấp phép hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay và đi đến kết luận: mô hình của Việt Nam hiện nay không có sự phân chia các bước công nhận luật sư và cấp phép
Trang 37hành nghề luật sư, việc công nhận là luật sư và đươc phép hành nghề luật sư chưa được xác định rõ ràng Quy trình hiện nay dẫn đến hệ quả là làm thu hẹp phạm vi hoạt động của luật sư đồng thời làm hạn chế số lượng luật sư, chưa huy động được đội ngũ các nhà khoa học có trình độ cao nghiên cứu, giảng dạy pháp luật tham gia đội ngũ luật sư Các tác giả cũng cho rằng “Chứng chỉ hành nghề luật sư” theo Luật Luật sư hiện hành không có ý nghĩa rõ ràng và có điểm chưa hợp lý, bởi lẽ tên gọi “Chứng chỉ hành nghề luật sư” nhưng người được cấp chứng chỉ này chưa được phép hành nghề luật sư mà họ còn phải gia nhập Đoàn luật sư và được LĐLSVN cấp Thẻ luật sư và phải đăng ký tại Cơ quan nhà nước - Sở Tư pháp thì mới được phép hành nghề luật sư Trên cơ sở đó các tác giả đề xuất một số mô hình công nhận luật sư và hành nghề luật sư: (i) Nhà nước công nhận luật sư – LĐLSVN cấp phép hành nghề luật sư; (ii) LĐLSVN công nhận luật sư – Nhà nước cấp phép hành nghề luật sư; (iii) Hội đồng Công nhận luật sư là Hội đồng cấp quốc gia, LĐLSVN cấp phép hành nghề Tác giả luận án đánh giá đây là các bài viết có nội dung rất sát với đề tài Luận án, giúp tác giả có cái nhìn tổng thể về việc công nhận luật sư và cấp phép hành nghề luật sư, có thể kế thừa một phần trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài của luận án
- Bài viết “Nghề luật sư - thực tiễn hành nghề tại Việt Nam‟‟ của tác giả
Trần Trung, Tạp chí Công Thương, Số 13, tháng 6 năm 2020 [11, tr.35] Tác giả bài viết phân tích thực trạng hành nghề của luật sư Việt Nam hiện nay dưới góc độ thực tiễn, bên cạnh các thuận lợi, tác giả đã nêu những khó khăn bất cập, trong đó có các quy định về quản lý luật sư chưa đầy đủ, chưa phát huy được hiệu quả trong thực tế Từ đó, tác giả kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư Trên thực tế, dù các pháp luật đã quy định quyền tham gia tố tụng của luật sư, nhưng trong quá trình hành nghề, tiếng nói, vai trò của luật sư chưa thực sự có
Trang 38giá trị Nhiều luật sư trong quá trình hành nghề đã đành phải chấp nhận những rủi ro ngoài mong muốn, họ thậm chí còn bị đe dọa về tính mạng, sức khỏe Vì vậy, để góp phần giúp cho hoạt động cải cách tư pháp của nước ta ngày càng được hoàn thiện và hoạt động hành nghề luật sư được thuận lợi, tác giả khuyến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, ban hành những quy định phù hợp với thực tiễn hành nghề luật sư Bài viết có giá trị tham khảo rất tốt về thực tiễn hành nghề luật sư, giúp tác giả luận án nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền hành nghề của luật sư
- Các bài viết của PGS.TS.LS Chu Hồng Thanh, “Luật sư tham gia giám
sát và phản biện xã hội” (Tạp chí Luật sư việt Nam số 8, tháng 10 năm 2014.)
[31] và bài “Liêm chính của nghề Luật sư”, (Tạp chí Luật sư Việt Nam số 9,
tháng 10 năm 2015) [32] đã tiếp cận vấn đề dưới giác độ Luật sư góp phần tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội với vai trò giám sát, phản biện xã hội và những yêu cầu đạo đức, liêm chính trong hoạt động hành nghề Luật sư
- Luận án tiến sĩ (2003), Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về
luật sư ở Việt Nam hiện nay của tác giả Phan Trung Hoài [15] Nội dung của
luận án đề cập đến các vấn đề cơ bản về lý luận, cơ sở lý luận của việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động luật sư Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về luật sư ở Việt Nam, phương hướng hoàn thiện pháp luật về luật sư Ngoài ra, nội dung luận án được tác giả đưa ra các khái niệm về luật sư, nghề luật sư, pháp luật về luật sư, vai trò của pháp luật về luật sư; quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư Với mục tiêu nghiên cứu của đề tài tác giả phân tích, đánh giá khá rõ thực trạng pháp luật về luật sư, thực trạng về hoạt động của luật sư Vì vậy, đề tài đã nghiên cứu và đưa ra đề xuất các giải pháp cơ bản, cụ thể hoàn thiện các quy định pháp luật và thực thi pháp luật về luật sư Có thể nói, nội dung luận án là một nguồn tài liệu có giá trị không chỉ về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tế, hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu của
Trang 39NCS Tuy nhiên, việc phân tích pháp luật về luật sư của luận án dừng lại ở những vấn đề có liên quan đến văn bản pháp luật luật sư trước khi Luật Luật sư năm 2006 được ban hành
- Luận án Tiến sỹ Luật học của Nguyễn Văn Bốn "Quản trị công ty luật
theo pháp luật Việt Nam" (2019) Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam –
Học viện Khoa học Xã hội [7] Đề tài của Luận án này đã tiếp cận về quản trị công ty và quản trị công ty luật dưới góc độ chủ thể của luật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam Đề tài nghiên cứu “Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam”, Luận án nghiên cứu trên phương diện lý luận và thực tiễn các quy định pháp luật về quản trị công ty luật Nội dung chủ yếu của luận án này, tác giả đã đề cập đến các vấn đề như: phân tích những nguyên tắc trong quản trị công ty như: (i) chuyên môn hóa/phân công hóa lao động; (ii) quản trị doanh nghiệp khó có thể thực hiện được nếu không tạo được uy tín lãnh đạo và trách nhiệm giải trình; (iii) quản trị doanh nghiệp gắn liền với nguyên tắc kỷ luật; (iv) Thống nhất về mệnh lệnh; (v) thống nhất về đường lối;(vi) lợi ích chung cần đặt lên trên hết; (vii) thù lao; (viii) tập trung hóa; (ix) xích lãnh đạo (Scalar Chain - chuỗi vô hướng); (x) trật tự; (xi) sự công bằng và công lý nên thấm nhuần vào tư tưởng của tổ chức, cả trong nguyên tắc lẫn hành động; (xii) ổn định về thâm niên nhiệm vụ; (xiii) sáng kiến và (xiv) tinh thần đoàn kết [7, tr.37-39] Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích và đưa ra các đặc trưng của hoạt động hành nghề luật sư bao gồm: dịch vụ của luật sư hướng tới việc bảo vệ công lý trong từng vụ việc cụ thể; nghề luật sư không phụ thuộc nhiều vào vốn mà phụ thuộc chủ yếu vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề của luật sư; luật sư hoạt động độc lập hoặc liên kết với nhau theo những hình thức tổ chức luật định; luật sư hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân ngay cả khi tham gia dưới những tổ chức hành nghề Mặt khác, nội dung của luận án này còn chứa đựng nhiều nội dung phân tích thực trạng pháp luật về
Trang 40quản trị công ty luật và thực tiễn quản trị công ty luật ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; công trình còn nghiên cứu phân tích kỹ lưỡng các vấn đề các điều kiện, tiêu chuẩn trở thành luật sư ở Việt Nam cũng như các chế định về điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động công ty luật; cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty luật; địa vị pháp lý của công ty luật theo pháp luật về luật sư Việt Nam, v.v… Luận án đã giúp cho tác giả góc nhìn cụ thể về quản lý nội bộ của tổ chức hành nghề luật sư – Công ty luật từ đó gợi mở những vấn đề hoàn thiện thể chế về tự quản luật sư trong giai đoạn hiện nay
- Luận án Tiến sỹ Luật học của Trần Văn Công “Tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” (2019), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội – Học viện Khoa học Xã hội [9] Luận án đi sâu nghiên tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam, giúp cho tác giả luận án cái nhìn rất sinh động dưới góc độ lý luận và thực tiễn hoạt động hành nghề luật sư tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi có số lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư đông đảo nhất và phát triển nhất ở nước ta Tác giả luận án đã đưa ra các khái niệm liên quan đến quản lý luật sư, pháp luật luật sư và hành nghề luật sư, Tổ chức hành nghề luật sư… Một số khái niệm về luật sư, hành nghề luật sư của tác giả Luận án đưa ra có giá trị tham khảo tốt, tác giả luận án có thể kế thừa và tiếp tục hoàn thiện trong luận án này
- Giáo trình Kỹ năng hành nghề luật sư Tập I – TS Phan Hữu Thư (Chủ biên) - NXB Công an nhân dân năm 2001 [36]; Là một trong ba cuốn giáo trình đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ luật sư trong giai đoạn đổi mới ở nước ta Giáo trình đã đưa ra những khái niệm ban đầu có tính chất nền móng về nghề luật sư, quản lý nhà nước về nghề luật sư ở Việt Nam, vị trí, vai trò của hoạt động luật sư trong xã hội; đạo đức nghề nghiệp, thù lao, trách nhiệm nghề nghiệp; Tổ chức hành nghề luật sư; Các môn học, kiến thức bổ trợ cho hành nghề luật sư Cuốn giáo