1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu tác động của chi tiêu cá nhân cho y tế đến sự tham gia lao động của cá nhân ở việt nam

97 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên cứu tác động của chi tiêu cá nhân cho y tế đến sự tham gia lao động của cá nhân ở Việt Nam
Tác giả Vũ Thu Huệ
Người hướng dẫn PGS.TS. Lê Quang Cảnh
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Kế Hoạch Phát Triển
Thể loại Luận văn
Năm xuất bản 2013
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 97
Dung lượng 750,67 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI TIÊU CÁ NHÂN CHO Y TẾ VÀ SỰ THAM GIA LAO ĐỘNG CỦA CÁ NHÂN (23)
    • 1.1. Chi tiêu cá nhân cho y tế (23)
      • 1.1.1. Khái niệm (23)
      • 1.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh chi tiêu cá nhân cho y tế (24)
      • 1.1.3. Vai trò của chi tiêu cá nhân cho y tế (25)
    • 1.2 Sự tham gia lao động của cá nhân (27)
      • 1.2.1. Sự tham gia lực lượng lao động (27)
      • 1.2.2 Cung lao động (29)
      • 1.2.3. Các yếu tố tác động tới sự tham gia lao động của cá nhân (32)
    • 1.3. Tổng quan về chi cá nhân cho y tế và sự tham gia lao động (35)
      • 1.3.1. Tổng quan sự tham gia lao động của cá nhân (35)
      • 1.3.2. Chi cá nhân cho y tế và sự tham gia lao động (36)
      • 1.3.3. Khoảng trống và khung nghiên cứu (36)
  • CHƯƠNG 2: CHI TIÊU CÁ NHÂN CHO Y TẾ VÀ SỰ THAM GIA LAO ĐỘNG CỦA CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM (38)
    • 2.1. Tình trạng sức khỏe của nguồn nhân lực (38)
      • 2.1.1. Giới thiệu chung (38)
      • 2.1.2. Tỷ lệ người có khám chữa bệnh hàng năm (40)
      • 2.1.3. Lý do đến cơ sở y tế (47)
      • 2.2.1. Nguồn lao động (66)
      • 2.2.2. Lực lượng lao động (68)
    • 2.3. Chi cá nhân cho y tế và sự tham gia lao động ở Việt nam (69)
  • CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH, KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ (78)
    • 3.1. Số liệu và mô hình ước lượng (78)
      • 3.1.1. Số liệu sử dụng (78)
      • 3.1.2. Mô hình ước lượng (78)
    • 3.2. Kết quả phân tích thực nghiệm (82)
      • 3.2.1. Chi tiêu cá nhân cho y tế tác động tới quyết định tham gia lao động (82)
      • 3.2.2. Chi tiêu cá nhân cho y tế tác động tới cung lao động (86)
    • 3.3. Một số khuyến nghị (92)
      • 3.3.1. Các kết quả thực nghiệm chính (92)
      • 3.3.2 Một số khuyến nghị chính sách (93)

Nội dung

Theo lý thuyết kinh tế nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực phụthuộc vào nhiều yếu tố như giáo dục, đào tạo, sức khỏe, thái độ lao động, trong đótình trạng sức khỏe là một trong các

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI TIÊU CÁ NHÂN CHO Y TẾ VÀ SỰ THAM GIA LAO ĐỘNG CỦA CÁ NHÂN

Chi tiêu cá nhân cho y tế

Chi tiêu tư nhân và chi tiêu công cho y tế là hai thành phần chính cấu thành tổng chi tiêu quốc gia cho y tế Trong đó, chi tiêu công của Chính phủ cho y tế bao gồm các khoản chi trực tiếp và gián tiếp, được hình thành từ ngân sách nhà nước ở các cấp khác nhau, thực hiện bởi chính quyền, các tổ chức an sinh xã hội, cơ quan phi Chính phủ và các quỹ ngoài ngân sách khác.

Chi tiêu công cho y tế bao gồm ngân sách Nhà nước dành cho lĩnh vực này, không tính đến các khoản chi từ bảo hiểm y tế, quỹ bảo hiểm y tế xã hội và nguồn ODA Trong khi đó, chi tiêu tư nhân cho y tế bao gồm các khoản chi trực tiếp của hộ gia đình, đóng góp từ tổ chức từ thiện, doanh nghiệp (không tính đến việc đóng góp cho bảo hiểm y tế xã hội) và chi phí bảo hiểm y tế tư nhân.

Chi tư nhân cho y tế bao gồm các khoản chi mà cá nhân hoặc hộ gia đình trực tiếp thanh toán cho nhà cung cấp dịch vụ y tế khi ốm đau, mua thuốc và thiết bị y tế Ngoài ra, chi tư còn bao gồm các khoản chi cho bảo hiểm y tế tư nhân, tài trợ từ tổ chức xã hội và từ thiện, cùng với chi phí mà người sử dụng lao động thanh toán trực tiếp cho dịch vụ y tế, mặc dù quy mô thường nhỏ Các khoản chi từ bảo hiểm y tế tư nhân vì mục đích lợi nhuận cũng được xem là chi tư.

Chi tiêu cá nhân cho y tế bao gồm các khoản chi trực tiếp từ túi tiền của cá nhân, bảo hiểm cá nhân và bảo hiểm nghề nghiệp, trong đó chi tiêu trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn nhất Chi phí này bao gồm các khoản như phí khám chữa bệnh, tiền thuốc, vật tư y tế và chi phí dịch vụ bệnh viện Chi tiêu từ tiền túi không bao gồm các khoản đã được bảo hiểm y tế thanh toán và thường không tính đến chi phí đi lại, ăn uống Chi phí y tế của hộ gia đình thuộc nhóm chi tư, phụ thuộc vào khả năng tài chính của từng hộ và không có sự chia sẻ rủi ro như các nguồn chi công hay quỹ bảo hiểm y tế xã hội.

Chi tiêu công và chi tiêu tư cho y tế liên quan đến câu hỏi "Ai là người trả tiền cho dịch vụ y tế?" và không đề cập đến "Ai là người cung ứng dịch vụ y tế." Chi tiêu công thường được dùng để thanh toán cho các đơn vị cung ứng dịch vụ công, nhưng cũng có thể được sử dụng cho dịch vụ tư, như bảo hiểm y tế xã hội thanh toán cho bệnh viện tư Ngược lại, chi tiêu tư cũng có thể được chi trả tại các đơn vị cung ứng công Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có hệ thống cung ứng dịch vụ công tư hỗn hợp và một hệ thống tài chính dựa vào chi công và chi tư Để đạt được công bằng trong chăm sóc sức khỏe, nhiều quốc gia có xu hướng tăng tỷ trọng chi tiêu công, giảm tỷ lệ người dân phải tự chi trả bằng tiền túi Chi tiêu công thường công bằng hơn trong việc đóng góp và mang tính chia sẻ hơn trong hưởng thụ, trong khi chi tiêu tư, đặc biệt là chi từ tiền túi, có thể dẫn đến bất công và đẩy người dân vào hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhất là với các hộ gia đình có thu nhập thấp.

1.1.2 Các chỉ tiêu phản ánh chi tiêu cá nhân cho y tế

Có rất nhiều các chỉ tiêu phản ánh chi tiêu cá nhân cho y tế Sau đây là một số các chỉ tiêu quan trọng nhất:

Tổng chi phí y tế mà cá nhân phải chi trả cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong một khoảng thời gian cụ thể, chẳng hạn như một tháng, một quý hoặc một năm, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tài chính cá nhân và đánh giá chất lượng dịch vụ y tế.

Tỷ lệ chi tiêu cá nhân cho y tế so với tổng chi tiêu cho y tế phản ánh mức độ ưu tiên của cá nhân đối với sức khỏe Chỉ tiêu này cho thấy chi tiêu cho y tế có chiếm tỷ trọng lớn hay nhỏ trong tổng chi tiêu cá nhân, từ đó giúp đánh giá sự quan tâm của người dân đối với các dịch vụ y tế.

- Tỷ lệ chi tiền mặt cho y tế và chi tiêu cá nhân cho y tế.

Chi tiêu cá nhân bình quân đầu người cho y tế là chỉ tiêu quan trọng, phản ánh mức chi phí trung bình mà mỗi người dân đã chi cho việc tiêu dùng và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ y tế.

Chi phí thảm họa xảy ra khi chi phí y tế từ tiền túi của hộ gia đình đạt hoặc vượt quá 40% khả năng chi trả của họ, tức là phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi chi phí cho lương thực và thực phẩm.

1.1.3 Vai trò của chi tiêu cá nhân cho y tế

Có hai luồng tài chính cho y tế là luồng tài chính công và luồng tài chính tư.

Tại Việt Nam, hệ thống tài chính công cho y tế chủ yếu dựa vào hai nguồn chính: một là ngân sách Nhà nước trực tiếp cấp cho các đơn vị cung ứng dịch vụ y tế, và hai là các nguồn tài chính khác hỗ trợ hoạt động y tế.

Bộ Y tế và Sở Y tế/Sở Tài chính quản lý hai luồng tài chính công, bên cạnh đó, nguồn tài chính lớn từ cá nhân và hộ gia đình chi trả trực tiếp cho dịch vụ y tế và thuốc điều trị cũng đóng vai trò quan trọng Hiện nay, tài chính y tế ở Việt Nam phụ thuộc nhiều vào các khoản chi trả trực tiếp này.

Quy mô và vai trò của khu vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thay đổi giữa các quốc gia và vùng miền Sự tham gia của khu vực tư nhân không chỉ nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ mà còn đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của người dân Tại Việt Nam, chi tiêu của Chính phủ cho y tế còn hạn chế, do đó, chi tiêu cá nhân cho y tế trở nên ngày càng quan trọng trong bối cảnh hiện nay.

Y tế tư nhân là nguồn tài chính quan trọng, bổ sung cho chi tiêu y tế công Nó giúp huy động vốn nhàn rỗi vào lĩnh vực y tế, đồng thời chia sẻ gánh nặng tài chính với hệ thống y tế công.

- Giúp thực hiện được chủ trương xã hội hóa trong cung cấp các dịch vụ công mà các quốc gia đang cố gắng đẩy mạnh

Sự nghiệp y tế ngày càng trở nên quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đòi hỏi sự tham gia tích cực từ Nhà nước và nhân dân Theo Nghị quyết ngày 21 tháng 8 năm 1997 về xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, việc này nhằm nâng cao mức hưởng thụ và phát triển thể chất, tinh thần của người dân Nếu chỉ dựa vào Nhà nước, sự nghiệp y tế sẽ không phát triển bền vững, vì vậy khuyến khích xã hội hóa là cần thiết để lồng ghép các yêu cầu bảo vệ sức khỏe vào các chính sách kinh tế, xã hội Xã hội hóa y tế còn giúp đa dạng hóa dịch vụ chăm sóc sức khỏe và thu hút nguồn đầu tư như bảo hiểm y tế tự nguyện và viện trợ nước ngoài Sự xuất hiện của các bệnh viện bán công và tư nhân đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, đồng thời giảm tải cho các bệnh viện công.

Chăm sóc sức khỏe là yếu tố quan trọng trong việc duy trì và phát triển nguồn nhân lực chất lượng, nâng cao thể lực và năng suất lao động, từ đó đáp ứng nhu cầu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.

Sự tham gia lao động của cá nhân

Sự tham gia lao động của cá nhân được thể hiện qua hai khía cạnh chính: việc có tham gia vào thị trường lao động hay không, và mức độ làm việc hàng ngày, hàng tuần Câu hỏi đầu tiên liên quan đến việc cá nhân có quyết định làm việc hay không, chỉ có hai lựa chọn là có hoặc không Trong khi đó, câu hỏi thứ hai về mức độ làm việc có nhiều khả năng hơn, với các lựa chọn từ 1 đến 8, 9 tiếng mỗi ngày hoặc từ 1 đến 7 ngày mỗi tuần.

Sự tham gia lao động được hiểu qua hai khía cạnh: một là cá nhân có tham gia lao động hay không, và hai là mức độ làm việc của họ khi tham gia Các nghiên cứu trước đây thường đề cập đến hai khái niệm là tham gia lực lượng lao động và cung lao động.

1.2.1 Sự tham gia lực lượng lao động

Lực lượng lao động, hay dân số hoạt động kinh tế, bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm và những người thất nghiệp trong khoảng thời gian 7 ngày trước thời điểm quan sát.

Có một số chỉ tiêu được dùng để đo lực lượng lao động (mức độ tham gia hoạt động kinh tế) như sau:

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô, hay còn gọi là tỷ lệ hoạt động thô, là chỉ tiêu tương đối thể hiện tỷ lệ phần trăm của những người tham gia hoạt động kinh tế trong tổng dân số Tỷ lệ này chịu ảnh hưởng lớn từ cấu trúc độ tuổi của dân số.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung là một chỉ số quan trọng, phản ánh tỷ lệ người trong độ tuổi lao động so với tổng dân số trong độ tuổi đó Đặc biệt, chỉ số này được tính dựa trên những người từ 15 tuổi trở lên, theo quy định của Luật Lao động về giới hạn tuổi tối thiểu Việc tính toán tỷ lệ này giúp đánh giá hiệu quả tham gia của lực lượng lao động trong nền kinh tế.

Do sự khác biệt về quy định tuổi tối thiểu giữa các quốc gia, người sử dụng số liệu cần lưu ý rằng một số lượng lớn trẻ em tham gia hoạt động kinh tế có thể không được ghi nhận do giới hạn tuổi quá cao.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là tỷ lệ phần trăm người trong độ tuổi lao động tham gia vào thị trường lao động so với tổng dân số trong độ tuổi này Theo Luật Lao động Việt Nam, "tuổi lao động" được xác định từ 15 đến 59 tuổi đối với nam và từ 15 đến 54 tuổi đối với nữ, trong khi những người ngoài độ tuổi này được xem là "ngoài tuổi lao động".

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo giới tính được đo bằng ba chỉ số chính: tỷ lệ hoạt động thô, tỷ lệ hoạt động chung và tỷ lệ hoạt động trong độ tuổi lao động Các chỉ số này thường được tính riêng cho nam và nữ, nhằm phản ánh sự khác biệt trong tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế giữa hai giới.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo tuổi là tỷ lệ thể hiện mức độ hoạt động kinh tế của một độ tuổi hoặc nhóm tuổi cụ thể.

Tỷ lệ này có thể tính cho chung cả hai giới và nam, nữ riêng.

Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế hiện tại bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm và những người thất nghiệp trong khoảng thời gian tham chiếu, cụ thể là 7 ngày trước thời điểm quan sát.

Những người có việc làm bao gồm những cá nhân đang làm việc trong khoảng thời gian cụ thể được ghi nhận trong cuộc điều tra, bao gồm cả những người làm việc cho gia đình có trả công Họ cũng được tính là đang làm việc nếu tạm thời nghỉ do bệnh tật, tai nạn, tranh chấp lao động, nghỉ lễ, hoặc bị ngừng việc tạm thời do thời tiết xấu hoặc sự cố trang thiết bị.

Thất nghiệp là một khái niệm được định nghĩa khác nhau trên thế giới, nhưng nhìn chung, nó đều chỉ tình trạng những người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc nhưng không có việc làm và đang tìm kiếm cơ hội việc làm Tại Pháp, thất nghiệp được hiểu là không có việc làm và đang tìm kiếm việc làm, trong khi Trung Quốc định nghĩa nó là những người lao động trong độ tuổi có khả năng, chưa có việc làm và đã đăng ký tìm việc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng nhấn mạnh rằng thất nghiệp là tình trạng những người muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức lương phổ biến Ở Việt Nam, thất nghiệp là một vấn đề mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi kinh tế, được định nghĩa là những người trong độ tuổi lao động có nhu cầu việc làm nhưng không có việc làm.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động phản ánh mối quan hệ giữa lực lượng lao động và tổng số người trong độ tuổi lao động của một quốc gia Đây là chỉ số quan trọng giúp đánh giá mức độ tham gia của dân số vào thị trường lao động.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế, tương đương với năng suất và hiệu quả sản xuất Việc nâng cao tỷ lệ này không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.

Cung lao động là tổng hợp nguồn sức lao động mà người lao động tự nguyện tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội Nó bao gồm tất cả nhân khẩu trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, cũng như những người không thuộc độ tuổi lao động nhưng vẫn tham gia vào quá trình này.

Thông thường, khi nói đến cung trên thị trường lao động, người ta thường phân biệt rõ thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng.

- Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp;

Tổng quan về chi cá nhân cho y tế và sự tham gia lao động

1.3.1 Tổng quan sự tham gia lao động của cá nhân

Sự tham gia lao động của cá nhân bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là ở nữ giới tại Uganda, như được phân tích trong nghiên cứu của Edward Bbaale (2007) Nghiên cứu này đo lường sự tham gia lao động thông qua hai tiêu chí: có làm việc hay không và thời gian lao động cá nhân Trình độ giáo dục, thu nhập, nơi sinh sống, tôn giáo và trình độ giáo dục của chồng đều tác động đến quyết định tham gia lực lượng lao động của phụ nữ Cụ thể, trình độ giáo dục cao hơn dự kiến sẽ khuyến khích phụ nữ tham gia lao động, vì chi phí cơ hội của việc không làm việc (như chăm sóc con cái) sẽ tăng lên Ngược lại, phụ nữ trong gia đình giàu có có thể ít có khả năng tham gia lực lượng lao động hơn so với những người sống trong gia đình nghèo Tác động này được Bbaale đo lường thông qua mô hình ước lượng Probit.

LM = f (EM, B, W, L, Rn, Rl, Ef).

Còn cung lao động và số giờ lao động chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như trình độ học vấn, mức thu nhập và nơi sinh sống Để đo lường tác động của những yếu tố này, Bbaale (2007) đã áp dụng mô hình hồi quy đa nhân tố với phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS).

Trong nghiên cứu năm 2000 mang tên “Các nhân tố ảnh hưởng đến việc cung ứng lao động ở Anh”, hai tác giả Rene Boheim và Mark P Taylor đã áp dụng mô hình hồi quy đa nhân tố để ước lượng mức cung lao động cá nhân Đồng thời, họ cũng sử dụng mô hình Probit để xác định xác suất tham gia lực lượng lao động của từng cá nhân.

1.3.2 Chi cá nhân cho y tế và sự tham gia lao động

Chi y tế bao gồm nhiều nguồn tài chính như ngân sách nhà nước, bảo hiểm, chi phí từ người sử dụng lao động và chi cá nhân, và có tác động lớn đến sự tham gia lao động của cá nhân Nghiên cứu của Cem Mete vào năm 2002 tại Đài Loan đã áp dụng mô hình hồi quy đa nhân tố để phân tích mối quan hệ giữa tình trạng sức khỏe và sự tham gia lao động Theo đó, cung lao động chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như tiền lương thực tế, trình độ giáo dục, tuổi tác, giới tính, tình trạng sức khỏe và chi tiêu cá nhân cho y tế.

1.3.3 Khoảng trống và khung nghiên cứu

Nghiên cứu cho thấy rằng chi phí y tế có ảnh hưởng đáng kể đến sự tham gia lao động của cá nhân, với chi tiêu cá nhân cho y tế là yếu tố quan trọng quyết định sự tham gia này.

Sự tham gia lao động được đo bằng hai tiêu chí: sự tham gia lực lượng lao động và số giờ làm việc.

Mô hình Probit được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của chi tiêu cá nhân cho y tế đối với sự tham gia của lực lượng lao động, trong khi mô hình hồi quy đa nhân tố được áp dụng để đánh giá tác động của chi tiêu y tế đến cung lao động.

Luận văn này nghiên cứu tác động của chi y tế đến sự tham gia lao động tại Việt Nam Dựa trên kết quả tổng quan, nghiên cứu áp dụng mô hình ước lượng từ các tác giả Bbaale (2007), Mete (2002), và Boheim & Taylor (2000), với biến chính là chi cá nhân cho y tế cùng các biến kiểm soát khác Khung nghiên cứu được trình bày trong hình vẽ dưới đây.

Nguồn: Tác giả tự vẽ Hình 1.4: Khung nghiên cứu tác động của chi tiêu cá nhân cho y tế tới sự tham gia lao động của cá nhân

Sự tham gia lao động Đặc điểm cá nhân Đặc điểm hộ gia đình

Chi cá nhân cho y tế

Biến kiểm soát khác Đặc điểm thị trường lao động

CHI TIÊU CÁ NHÂN CHO Y TẾ VÀ SỰ THAM GIA LAO ĐỘNG CỦA CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM

Tình trạng sức khỏe của nguồn nhân lực

Trong những năm qua, ngành Y tế đã triển khai nhiều chương trình và dự án với nguồn vốn trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ y tế Các đề án như sử dụng trái phiếu Chính phủ để nâng cấp bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện đa khoa liên huyện, cùng với việc đầu tư nâng cấp bệnh viện ở khu vực khó khăn và các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, sản nhi đã được thực hiện Ngoài ra, các dự án từ nguồn vốn ODA của WB, ADB, UNICEF cũng đã hỗ trợ y tế cơ sở và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em Nhờ đó, cơ sở y tế được cải thiện, chất lượng khám chữa bệnh ở tất cả các tuyến, đặc biệt là tuyến trung ương và y tế xã, phường đã có những bước tiến mới.

Tình hình các cơ sở y tế

Đến năm 2010, cả nước có 13.467 cơ sở y tế, tăng 295 so với năm 2001, trong đó có 1.030 bệnh viện và 11.028 trạm y tế xã, phường, thị trấn Tất cả các xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế, với 80% đạt chuẩn quốc gia Ngành Y tế đã đầu tư mở rộng quy mô và nâng cấp các bệnh viện hiện có, trang bị thêm thiết bị hiện đại, nâng cao năng lực khám chữa bệnh Tổng số giường bệnh đạt 246.300, tăng 27,9% so với năm 2001, trong đó 176.600 giường thuộc các bệnh viện, chiếm 71,7% tổng số giường bệnh.

Số lượng cán bộ y tế

Đến năm 2010, ngành Y tế ghi nhận có 61.400 bác sỹ, tăng 49,8% so với năm 2001; 52.200 y sỹ, tăng 2,6%; 82.300 y tá, tăng 79,3%; và 26.800 nữ hộ sinh, tăng 84,8% Số lượng cán bộ y tế trên 10.000 dân đã tăng từ 29,7 vào năm 2000 lên 40,5.

2010 Số bác sỹ bình quân 1 vạn dân tăng từ 5,1 người năm 2000 lên 7,1 người năm

Năm 2010, 75% số xã đã có bác sĩ, 90% số xã có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi, và 85% thôn, ấp, bản có nhân viên y tế Tỷ lệ dược sĩ trên 10.000 dân đạt 1,74.

Tình trạng sức khỏe chung

Trong những năm gần đây, sức khỏe của người Việt Nam đã có những cải thiện rõ rệt, với tuổi thọ trung bình đạt 72,8 tuổi vào năm 2010, vượt mục tiêu 72 tuổi theo Chiến lược bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân Tuổi thọ này cao hơn so với nhiều quốc gia có GDP bình quân đầu người tương đương, như Thái Lan và Philippines Sự gia tăng tuổi thọ được ghi nhận là kết quả của các chương trình y tế quốc gia, mở rộng mạng lưới y tế cơ sở và áp dụng các phương pháp điều trị hiện đại Đồng thời, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tử vong đã giảm từ 30% năm 2001 xuống còn 17,8% vào năm 2006.

2009 giảm xuống còn 16% Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58% năm 2001 xuống 27,5% năm 2005 và 25% năm

Từ năm 2001 đến 2009, tỷ số tử vong mẹ tại Việt Nam đã giảm mạnh, từ 165/100.000 trẻ đẻ sống xuống còn 69/100.000 trẻ đẻ sống, đạt mục tiêu của Chiến lược bảo vệ sức khỏe nhân dân Mặc dù đã có những tiến bộ, Việt Nam vẫn cần nỗ lực lớn để đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về giảm 3/4 tỷ lệ tử vong mẹ từ năm 1990 đến 2015, với mục tiêu cuối cùng là 58,3/100.000 trẻ đẻ sống Đồng thời, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cũng đã giảm bền vững, từ 25,2% năm 2005 xuống 18,9% năm 2009, phản ánh sự cải thiện trong tình trạng sức khỏe trẻ em.

Tình trạng sức khỏe giữa các vùng miền vẫn còn chênh lệch lớn, đặc biệt là ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa và nơi có dân tộc thiểu số Tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 1 tuổi, suy dinh dưỡng và tỷ lệ chết mẹ vẫn cao, đặc biệt tại Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc, nơi tỷ lệ trẻ em tử vong còn gấp 1,4-1,5 lần mức trung bình cả nước Mặc dù chênh lệch giữa Tây Bắc và Đông Nam Bộ đã giảm từ 3 lần năm 2005 xuống còn khoảng 2,5 lần năm 2008, nhưng vẫn còn rất lớn Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cũng cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng miền, mặc dù đã có những cải thiện trong giai đoạn 2001.

Năm 2010, Tây Bắc và Tây Nguyên vẫn là những vùng có tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao nhất tại Việt Nam Mặc dù tỷ lệ tử vong ở trẻ em đã giảm, nhưng với cơ cấu dân số có nhiều trẻ em (trẻ dưới 5 tuổi chiếm 6,7% dân số, tương đương khoảng 6 triệu trẻ em), số trẻ tử vong vẫn còn cao, với ước tính hàng năm có tới 31.000 trẻ dưới 5 tuổi tử vong, trong đó khoảng 16.000 là trẻ sơ sinh Mặc dù tình trạng suy dinh dưỡng thể nhẹ cân đã cải thiện, nhưng vẫn cao so với nhiều quốc gia trong khu vực Đặc biệt, suy dinh dưỡng thể thấp còi vẫn nghiêm trọng với 31,9% trẻ em bị ảnh hưởng, để lại hậu quả lâu dài về thể chất và tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như thừa cân, đái tháo đường Suy dinh dưỡng thấp còi cũng có mối liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ tử vong ở trẻ em.

2.1.2 Tỷ lệ người có khám chữa bệnh hàng năm

Tỷ lệ người tham gia khám chữa bệnh hàng năm đã tăng đáng kể từ 18.9% vào năm 2002 lên 40.9% vào năm 2010, trong đó tỷ lệ tăng của nữ giới cao hơn nam giới.

(24.6% so với 19.4%) và tỷ lệ tăng ở thành thị và nông thôn gần bằng nhau Cụ thể được trình bày trong bảng sau:

Bảng 2.1 Tỷ lệ người có khám chữa bệnh chia theo giới tính và khu vực,

Tỷ lệ người có khám chữa bệnh

Giới tính Khu vực Nhóm thu nhập

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Người dân ở khu vực thành thị có tỷ lệ khám chữa bệnh hàng năm cao hơn khoảng 2% so với nông thôn, và tỷ lệ này ở nhóm hộ giàu nhất cũng cao hơn nhóm hộ nghèo nhất Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ khám chữa bệnh thấp ở nhóm nghèo là do nhận thức và thái độ đối với chăm sóc sức khỏe còn hạn chế Thêm vào đó, khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ gặp nhiều rào cản, bao gồm khoảng cách địa lý, khả năng chi trả, cũng như các vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa.

Giữa giai đoạn 2001-2010, Việt Nam đã tăng cường đầu tư vào mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở, đồng thời triển khai nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận dịch vụ y tế Các chính sách này bao gồm khám chữa bệnh cho người nghèo và đồng bào dân tộc ít người theo Quyết định 139/QĐ-TTg, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, và bảo hiểm y tế cho các hộ gia đình thuộc diện chính sách và hoàn cảnh khó khăn Nhờ vậy, số lượt khám bệnh bình quân của mỗi người dân đã tăng từ 1,87 lượt năm 2001 lên 2,40 lượt.

Nguồn: Tổng cục Thống kê Hình 2.1: Tỷ lệ người có khám chữa bệnh chia theo nhóm tuổi (%)

Theo biểu đồ 2.1, tỷ lệ người trên 60 tuổi và trẻ em từ 5 đến 14 tuổi đi khám chữa bệnh cao nhất do đây là những nhóm có nguy cơ sức khỏe cao Đối với độ tuổi lao động, tỷ lệ khám chữa bệnh tăng dần theo độ tuổi, trong đó nhóm 40-59 tuổi có tỷ lệ khám chữa bệnh cao nhất, trong khi nhóm 15-24 tuổi có tỷ lệ thấp nhất Đặc biệt, tỷ lệ khám chữa bệnh cũng có xu hướng gia tăng theo từng năm, với năm sau cao hơn năm trước.

Bảng 2.2: Tỷ lệ người có khám chữa bệnh chia theo khu vực (%) ĐVT:%

Tỷ lệ người có khám chữa bệnh Đồng bằng sông Hồng Đông Bắc

Duyên hải Nam Trung Bộ

Tây Nguyê n Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: Báo cáo điều tra mức sống hộ gia đình năm 2011

Theo số liệu, đồng bằng sông Cửu Long và khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ người khám chữa bệnh cao nhất, nhưng điều kiện sống của các hộ gia đình, đặc biệt là hộ nghèo dân tộc thiểu số, còn nhiều bất cập Tình trạng thiếu nước sạch và hố xí hợp vệ sinh ở các khu vực này ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe Cụ thể, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch ở Tây Nguyên là 78,5% và đồng bằng sông Cửu Long là 77,9%, thấp hơn mức trung bình cả nước là 86,7% Tương tự, tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh chỉ đạt 46,5% ở Tây Nguyên và 42,4% ở đồng bằng sông Cửu Long, so với mức trung bình 54% của cả nước Những điều kiện này tạo môi trường thuận lợi cho các bệnh truyền nhiễm phát triển, giải thích lý do Tây Nguyên có khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế dài nhất nhưng vẫn có tỷ lệ người khám chữa bệnh cao.

Bảng 2.3: Khoảng cách (km) từ nhà đến cơ sở y tế theo vùng địa lý ĐVT: Km

Vùng Phòng khám đa khoa khu vực

Bệnh viện huyện Bệnh viện tỉnh Đồng bằng sông Hồng 6,68 8,21 22,92 Đông Bắc 10,86 10,41 30,17

Tây Nguyên 14,85 12,94 64,36 Đông Nam Bộ 12,36 12,55 45,00 Đồng bằng sông Cửu Long 8,82 11,56 35,73

Nguồn: Điều tra y tế quốc gia 2010

Sự chuyển đổi của hệ thống bệnh viện đã nâng cao niềm tin của người bệnh về chất lượng điều trị, thể hiện qua các quy trình khám chữa bệnh Cụ thể, trong năm 2010, tổng số lần khám bệnh đạt 202.230.506 lượt, với khoảng 60% bệnh nhân điều trị ngoại trú, tăng từ 45% vào năm 2005, cho thấy xu hướng tăng trưởng trong việc sử dụng dịch vụ điều trị ngoại trú Về điều trị nội trú, công suất sử dụng giường bệnh đạt 116,60% toàn quốc, với các bệnh viện Trung ương đạt 124,03%, và ngày điều trị bình quân là 7,35 ngày Các chỉ số đánh giá hiệu suất hoạt động của bệnh viện vẫn cao so với khu vực, trong khi nhu cầu điều trị nội trú tiếp tục gia tăng, trung bình tăng từ 4,3 đến 9,8% mỗi năm từ 2008 đến 2011.

Nguồn: Tổng cục Thống kê Hình 2.2: Điều trị nội trú và ngoại trú giai đoạn 2002-2010

Trong giai đoạn 2002-2010, tỷ lệ điều trị nội trú tại Việt Nam đã tăng đáng kể, với trung bình 12 lượt điều trị nội trú trên 100 người trong giai đoạn 2006-2010, cao hơn so với nhiều nước phát triển như Hoa Kỳ (11.7) và Canada (7.8) Số lượt điều trị nội trú ổn định ở mức 9 lượt/100 người từ 2002-2006 và bắt đầu tăng mạnh sau năm 2006 Trong khi đó, tỷ lệ điều trị ngoại trú giữ ổn định với trung bình 2 lần điều trị mỗi người mỗi năm Đặc biệt, tỷ lệ người nghèo tiếp cận dịch vụ y tế, cả ngoại trú và nội trú, đã tăng lên đáng kể nhờ vào các chính sách cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, với tỷ lệ người nghèo điều trị nội trú bằng hoặc cao hơn các nhóm thu nhập khác.

Bảng 2.4: Lượt khám ngoại trú và điều trị nội trú phân theo loại bệnh viện năm

Lượt khám ngoại trú Lượt điều trị nội trú

Số lượt (nghìn) % Số lượt

BV trực thuộc Bộ Y tế 9.382,3 7,2 945 8,5

Nguồn: Cục Quản lý khám, chữa bệnh

Chi cá nhân cho y tế và sự tham gia lao động ở Việt nam

Dựa trên kết quả từ Điều tra mức sống hộ gia đình, mối quan hệ giữa chi tiêu cho y tế và sự tham gia lao động tại Việt Nam được phân tích qua mẫu quan sát gồm nam từ 16-60 tuổi và nữ từ 16-55 tuổi Trong bài viết, khái niệm “có làm việc” được hiểu là những cá nhân đã tham gia lao động và nhận tiền công trong vòng 12 tháng trước thời điểm khảo sát.

Bảng 2.12: Chi cá nhân cho y tế và tỷ lệ (%) sự tham gia lao động ở Việt Nam, 2010 ĐVT: %

Nguồn: Tính toán từ VLHSS 2010

Bảng 2.12 chỉ ra mối liên hệ giữa chi tiêu cá nhân cho y tế và tình trạng tham gia lao động Trong số những người không làm việc, nhóm có chi tiêu dưới 500 nghìn chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là nhóm chi trên 1 triệu Đối với những người có việc làm, tỷ lệ tương tự cũng được ghi nhận, với 57,03% thuộc nhóm chi dưới 500 nghìn và 19,27% thuộc nhóm chi trên 1 triệu Ngoài ra, tỷ lệ người không chi cho y tế là 13,98%, trong khi nhóm chi từ 500 nghìn đến 1 triệu chỉ chiếm 9,71% Điều này có thể được giải thích bởi những người khỏe mạnh thường chỉ cần khám định kỳ, dẫn đến chi phí y tế thấp.

Bảng 2.13: Chi y tế và sự tham gia lao động theo địa điểm, giới tính và nghèo, 2010 Đơn vị: 1.000 đồng

Nguồn: Tính toán từ VLHSS 2010

Bảng số liệu cho thấy mức chi tiêu cá nhân cho y tế ở thành thị cao hơn nông thôn, với người lao động có xu hướng chi tiêu nhiều hơn người không lao động Người dân thành phố thường ý thức hơn về sức khỏe, thường xuyên khám sức khỏe định kỳ và tìm đến cơ sở y tế khi có triệu chứng bệnh Ngược lại, người nông thôn thường chữa trị theo phương pháp truyền thống và ít chú trọng đến sức khỏe Tuy nhiên, chi phí y tế ở nông thôn vẫn cao do lao động nông nghiệp có nguy cơ tai nạn cao Theo nghiên cứu của thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, tỷ lệ tai nạn lao động không tử vong trong nông nghiệp rất đáng lo ngại, với nguyên nhân chủ yếu là vật sắc nhọn, ngộ độc, và tai nạn giao thông Khoảng 75% nạn nhân là trụ cột gia đình, do đó họ cần chi nhiều tiền cho sức khỏe để phục hồi nhanh chóng Ngoài ra, thực hành an toàn lao động còn hạn chế, với nhiều hộ gia đình không lắp đặt che chắn cho máy móc và thiếu trang bị bảo hộ lao động.

Người lao động, dù ở nông thôn hay thành phố, đều có mức chi tiêu cho y tế cao hơn những người không tham gia lao động do phải đối mặt với nhiều rủi ro nghề nghiệp như tai nạn giao thông và bệnh truyền nhiễm Họ thường xuyên tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp, dẫn đến khả năng mắc bệnh nghề nghiệp cao Việc tổ chức lao động không hợp lý có thể gây ra rối loạn sinh lý và bệnh lý, trong khi nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng đến lợi nhuận, tăng ca và thời gian lao động mà không quan tâm đến sức khỏe người lao động Thời gian làm việc kéo dài có thể gây căng thẳng thần kinh và thể chất, dẫn đến mệt mỏi và đau đớn Ngoài ra, các yếu tố tác hại nghề nghiệp như vi khí hậu, bức xạ và áp lực không khí bất thường có thể làm mất cân bằng các phản ứng sinh lý, trong khi bụi và khí độc gây ra nhiều rối loạn bệnh lý, đặc biệt là bệnh phổi do bụi vô cơ.

Các chất độc trong môi trường lao động như bụi và khí có thể gây ra nhiều bệnh nhiễm độc nguy hại, bao gồm nhiễm độc chì, asen, và thủy ngân Môi trường làm việc cũng chứa nhiều yếu tố sinh học nguy hiểm, như vi trùng và ký sinh trùng, có thể gây viêm nhiễm và phản ứng dị ứng Điều kiện vệ sinh kém và thiết bị an toàn không đảm bảo làm giảm khả năng hoạt động của các giác quan, dẫn đến mệt mỏi và giảm năng suất lao động Nam giới có xu hướng chi tiêu cho y tế cao hơn nữ giới do tính chất công việc nguy hiểm hơn Nông nghiệp, mặc dù có nhiều yếu tố nguy cơ, lại có tỷ lệ tai nạn lao động cao, đặc biệt ở nam giới Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tai nạn lao động trong nông nghiệp không tử vong là 2.447/100.000 người, với nam giới gặp tai nạn nhiều hơn nữ giới Tình trạng sức khỏe của nam giới cũng bị ảnh hưởng bởi thói quen uống rượu và hút thuốc, dẫn đến nguy cơ mắc nhiều bệnh hơn Nam giới thường làm các công việc có nguy cơ cao như xây dựng và khai thác khoáng sản, với tỷ lệ tai nạn lao động cao Nhóm không nghèo có mức chi tiêu y tế cao hơn nhóm nghèo do ý thức về sức khỏe và khả năng chi trả tốt hơn, trong khi nhóm nghèo thường không chăm sóc sức khỏe định kỳ vì áp lực tài chính.

Nguồn: Tính toán từ VLHSS 2010

Đồ thị thể hiện mối quan hệ giữa chi phí y tế trung bình và số giờ làm việc hàng ngày của cá nhân Những người chi khoảng 500 nghìn đồng cho y tế thường làm việc 16 tiếng mỗi ngày, cho thấy họ có sức khỏe tốt và thường chi cho việc khám sức khỏe định kỳ Ngược lại, những cá nhân chi gần 3 triệu đồng cho y tế thường không làm việc, vì họ thường mắc bệnh nặng và có rất ít khả năng tham gia lao động.

Bảng 2.14: Chi cá nhân cho y tế và số giờ làm việc trong ngày theo địa điểm, giới tính và nghèo, 2010 ĐVT:Tiếng/ngày

Nguồn: Tính toán từ VLHSS 2010

Bảng dữ liệu cho thấy mối quan hệ giữa chi tiêu cá nhân cho y tế và số giờ làm việc theo địa điểm, giới tính và mức độ nghèo Người lao động ở thành phố làm việc nhiều hơn ở nông thôn, và người không nghèo có xu hướng làm việc nhiều hơn người nghèo Phụ nữ làm việc nhiều hơn nam giới ở tất cả các mức chi tiêu cho y tế, nhưng sự chênh lệch không lớn Sự khác biệt lớn nhất là giữa thành phố và nông thôn, với người lao động nông thôn làm việc trung bình 8,8 giờ mỗi ngày, trong khi người lao động thành phố làm việc 10,3 giờ Điều này có thể do tính chất công việc ở mỗi khu vực, nơi nông thôn thường có công việc nhàn rỗi hơn Những người chi tiêu trên 1 triệu đồng cho y tế phải làm việc nhiều nhất Người không nghèo thường làm việc nhiều hơn vì họ tập trung ở đô thị với nhiều cơ hội nghề nghiệp, trong khi người nghèo chủ yếu ở nông thôn với công việc đơn giản Mối quan hệ giữa chi tiêu cá nhân cho y tế và thời gian làm việc cho thấy rằng chi tiêu càng cao thì thời gian làm việc càng nhiều.

MÔ HÌNH, KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 11/01/2024, 14:34

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w