QUAN VỀ NỢ QUÁ HẠN TRONG
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ QUÁ HẠN
1.1.1.1.Khái niệm chất lượng tín dụng:
Trong bất cứ nền kinh tế nào,doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc phải cải thiện chất lượng tín dụng là điều tất yếu.Trong ba yếu tố:chất lượng,giá cả và lượng hàng bán thì chất lượng yếu tố quan trọng nhất vì chất lượng được nâng lên,giá thành sẽ hạ,đảm bảo thỏa mãn cho khách hàng cả về chất lượng ,giá cả,tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.Các nhà kinh tế nói đến chất lượng bằng nhiều cách:Chất lượng là
“Sự phù hợp với mục đích hoặc sự sử dụng” là “Một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều và tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường” hoặc theo hội chuẩn hóa pháp (tiêu chuẩn NFX50-104) thì chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu của người sử dụng.Từ những quan niệm chất lượng có thể hiểu:
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng(người gửi tiền và người vay tiền ) phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Như vậy đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng phải được thực hiện ở ba góc độ.
*Đối với Ngân hàng thương mại:Phạm vi,mức độ,giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
*Đối với khách hàng:Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng,với lãi suất và kỳ hạn hợp lý,thủ tục đơn giản,thuận tiện,thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
*Đối với sự phát triển kinh tế-xã hội:Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa,góp phần giải quyết công việc làm,khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế,thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được kết quả kinh doanh,nợ quá han…)vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng,tác động đến nền kinh tế…).
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp,nó phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng Thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài,nó thể hiện sức mạnh của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng xác định qua nhiều yếu tố:Thu hút được khách hàng tốt,thủ tục đơn giản,thuận tiện đơn giản mức độ an toàn của vốn tín dụng,chi phí tổng thể về lãi suất,chi phí nghiệp vụ…
Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có,nó là kết quả của một qui trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức giữa các tổ chức với nhau vì mục đích ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt qui trình quản lý chất lượng. Vậy để có chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động.Hay nói cách khác chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và tin cậy trong hoạt động tín dụng.Hiểu đúng bản chất,chất lượng tín dụng phân tích và đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như chính xác các nguyên nhân của những hạn chế chất lượng,sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để có thể đững vững trong nền kinh tế thị trường hoạt động sôi nổi và có tính cạnh tranh gay gắt.
1.1.1.2.Các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng:Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng vừa có chỉ tiêu mang tính định tính vừa có chỉ tiêu mang tính định lượng.Cụ thể:
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ nợ phần trăm giữa NQH và tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại ở một thời điểm,nhất định,thường là cuối tháng của một quí,cuối năm.
Xét về mặt bản chất,tín dụng là sự hoàn trả,do đó tính an toàn(khả năng hoàn trả của người vay) là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín dụng.Khi khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết,mà không có lý do chính đáng thì nó vi phạm nguyên tắc tín dụng quan trọng nhất của Ngân hang và nó bị chuyển sang người quan hệ với mức lãi suất cao hơn lãi suất bình thường.Trên thực tế,phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề,có khả năng mất vốn có nghĩa là tính an toàn thấp.
Trong nền kinh tế thị trường,rủi ro trong hoạt động kinh doanh là do khách quan và chủ quan nên rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi,tỷ lệ nợ quá hạn thấp bảo đảm sự phát triển của Ngân hàng thương mai.Song nếu một Ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh vì vậy có nguy cơ mất vốn và đây là điều tệ hại dẫn đến mất khả năng thanh toán và giảm thu nhập.Ngân hàng Thương mại nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp,đây là chỉ tiêu hiện nay thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại. Trên thực tế các ngân hàng thương mại luôn cố gắng hạ đến mức thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ này mà dưới 3% là có thể coi là chấp nhận được.Tỷ lệ này được tính theo công thức sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn= (Nợ quá hạn/tổng dư nợ).100%
Chỉ tiêu này cao chứng tỏ tín dụng của Ngân hàng là thấp,khi nợ quá hạn mà tính đến trên 1 năm thì khoản nợ đó được coi là khoản nợ khó đòi.
Chỉ tiêu về nợ xấu trên tổng dư nợ=Nợ xấu/tổng dư nợ
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ NỢ QUÁ HẠN
Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại nhưng luôn tiềm ẩn những rủi ro.Rủi ro tín dụng trong đó có NQH luôn tồn tại song hành với quá trình hoạt động của các ngân hàng, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.Khi những rủi ro xảy ra sẽ gây nên tổn thất làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng.Vì thế nghiên cứu và tìm giải pháp để hạn chế phát sinh nợ quá hạn,giải quyết và bù đắp tổn thất đã xảy ra là một trong những nội dung chính của quản lý rủi ro trong ngân hàng thương mại.Xuất phát từ qui trình tín dụng và các nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ nợ quá hạn cao,để có thể ngăn ngừa và hạn chế NQH một cách tích cực,ngân hàng thương mại cần nhận biết các dấu hiệu của NQH,có biện pháp phòng ngừa,hạn chế và xử lý nợ quá hạn.
1.2.1.Nhận biết các khoản nợ có nguy cơ là nợ quá hạn
Nếu như ngay từ trong khâu thẩm định dự án,ngân hàng thương mại có thể nhận thấy những khoản vay tiềm ẩn rủi ro cao sẽ không dẫn đến tình trạng ngân hàng cho vay và gặp phải những khoản NQH sau cho vay.Một trong những biện pháp tích cực nhằm ngăn ngừa và hạn chế NQH đó là nhận biết các khoản nợ tiềm ẩn rủi ro cao một cách sớm nhất thông qua các dấu hiệu trong phần phụ lục.
1.2.2.Biện pháp ngăn ngừa và hạn chế nợ quá hạn
Cách tốt nhất để hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh đó là ngăn ngừa và có các biện pháp phòng tránh phù hợp.Khi rủi ro đã phát sinh,NHTM sẽ gặp khó khăn hơn trong việc xử lý các khoản NQH này.Ngân hàng phải căn cứ vào qui trình tín dụng và chính sách tín dụng để xây dựng các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế cụ thể,xuất phát từ đó các giải pháp mới có tính thực tiễn và hiệu quả cao.
1.2.2.1.Xây dựng chính sách tín dụng và qui trình phân tích tín dụng
Hoạt động tín dụng liên quan đến nhiều bộ phận trong ngân hàng,đòi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách,qui tắc và sự kiểm soát chung.Chính sách tín dụng với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng đồng thời hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng.Chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng.Chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro như:Chính sách bảo lãnh,chính sách đồng tài trợ…Vì thế hạn chế và có thể phòng ngừa NQH phát sinh,ngân hàng thương mại luôn phải xây dựng chính sách tín dụng rõ ràng,phù hợp với tình trạng nguồn vốn và mục tiêu hoạt động của bản thân ngân hàng.Cán bộ tín dụng sẽ căn cứ vào chính sách tài sản đảm bảo để hạn chế cho vay đối với những khoản nợ không có tài sản đảm bảo,tăng tỷ trọng của dư nợ có đảm bảo.Việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản cố định,quyền sử dụng đất,giấy tờ có giá…sẽ đảm bảo an toàn và tất nhiên hạn chế được NQH,do đó hiệu quả kinh doanh của ngân hàng sẽ cao hơn.Ngân hàng có thể phòng ngừa và hạn chế rủi ro thông qua đa dạng hóa sản phẩm cho vay và danh mục đầu tư tức là ngân hàng cần phân tán nguồn vốn của mình,không nên tập trung vào một khách hàng,một ngành nghề hay một lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó,để có điều kiện phân tán rủi ro cho mình.Điều đó có nghĩa là ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ,thường xuyên nghiên cứu,cải tiến sản phẩm của mình đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất.Ngân hàng luôn ý thức được rằng vốn tín dụng của ngân hàng chỉ là vốn bổ sung cho bên vay.Tức là ngân hàng chỉ nên đầu tư và các dự án,phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,cá nhân có tỷ trọng vốn tự có cao bởi những phương án,dự án có tỷ trọng vốn tự có cao sẽ giúp cho khách hàng tự chủ trong kinh doanh,nâng cao hiệu quả kinh doanh cho khách hàng và từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trả nợ vay của ngân hàng.Chính sách cho vay hợp lý sẽ tạo điều kiện hạn chế rủi ro đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng an toàn,có hiệu quả luôn đi kèm với quy trình tín dụng đầy đủ,chặt chẽ và đồng bộ.Xây dựng và hoàn thiện qui trình tín dụng chính là điều kiện cần để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trong các ngân hàng thương mại.Qui trình tín dụng thể hiện chính sách tín dụng của ngân hàng,là kim chỉ nam cho hoạt động của cán bộ tín dụng.Một qui trình tín dụng hoàn chỉnh sẽ không chỉ có tác dụng đẩy hoạt động tín dụng mà đó còn tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển một cách bền vững.Nguyên nhân xuất phát từ:Qui trình tín dụng đầy đủ và đồng bộ giúp cán bộ tín dụng hạn chế được những khoản vay không đạt yêu cầu,tránh được nguy cơ cán bộ tín dụng móc ngoặc với khách hàng để làm lơị riêng gây tổn thất tới ngân hàng,việc kiểm tra kiểm soát trong nội bộ ngân hàng cũng trở nên dễ dàng và vì thế tiêu cực phát sinh là thấp nhất.Tuân thủ chặt chẽ các bước của qui trình tín dụng làm tăng tính an toàn của các khoản cho vay.
Chính sách tín dụng của ngân hàng cũng được hình thức hóa trong qui trình tín dụng mà áp dụng các bước cho vay phù hợp.Các loại khách hàng khác nhau ,các đối tượng cho vay khác nhau sẽ có rủi ro khác nhau.Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau từ đó áp dụng vào qui trình tín dụng bằng cách qui định các bước cho vay đối với từng đối tượng cụ thể không những giúp cho cán bộ tín dụng thực hiện dễ dàng mà còn có hiệu quả giảm thiểu rủi ro.Khi khách hàng của ngân hàng là cá nhân,người tiêu dùng,rủi ro sẽ liên quan tới thu nhập của người vay và khó thu hồi nợ,các bước thực hiện cho vay đối với khách hàng sẽ tỷ mỷ,và đòi hỏi nhiều chứng từ chứng minh thu nhập của cá nhân người đi vay.Khi khách hàng của ngân hàng là các doanh nghiệp,rủi ro liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng kinh doanh của doanh nghiệp.Doanh nghiệp cần có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả tốt mới đủ điều kiện để cấp tín dụng.Công tác thẩm định dự án của doanh nghiệp vay vốn được thực hiện rõ ràng,đầy đủ sẽ giúp cán bộ tín dụng dễ dàng hơn trong thực hiện nghiệp vụ,tránh được tình trạng nhầm lẫn,thiếu sót dẫn đến việc cho vay ồ ạt,không chất lượng làm phát sinh nợ quá hạn.Đó là lý do hoàn thiện qui trình tín dụng luôn là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng thương mại.
1.2.2.2.Nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau cho vay
Một trong những nguyên nhân dẫn tới phát sinh nợ quá hạn là ngân hàng không kiểm soát được khoản cho vay của mình.Vấn đề đặt ra là làm sao ngân hàng khắc phục được tình trạng này.Thông thường,NHTM thường giám sát vốn vay của khách hàng thông qua các báo cáo tài chính:
BCĐKT,BCKQKD.BCLCTT nhưng những con số mà ngân hàng nhận được không phản ánh đúng tình trạng hoạt động của doanh nghiệp.Khách hàng có thể làm giả các báo cáo này,biến chúng tốt đẹp hơn so với con số thực tế để che dấu tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của mình.Như vậy rủi ro ngân hàng gặp phải là rất lớn.
Tuy nhiên,ngân hàng có thể đi sâu,đi sát với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách cung cấp cho doanh nghiệp các dịch vụ hỗ trợ sau cho vay.Với lợi thế về trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng,kinh nghiệm trong giải quyết các vấn đề tài chính cùng các mối quan hệ cuả ngân hàng,những khó khăn của khách hàng gặp phải sẽ được giải quyết một cách có hiệu quả hơn.Khi khách hàng gặp gỡ doanh nghiệp với tư cách là chủ nợ,ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề thu thập thông tin,nhưng ngân hàng với doanh nghiệp là những đối tác,rõ ràng ngân hàng sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn.Việc thu thập thông tin để hiểu rõ tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng là việc làm hữu hiệu hạn chế tình trạng nợ quá hạn phát sinh.Nắm bắt được diễn biến của khoản cho vay,ngân hàng biết được khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không,có hiệu quả và an toàn không,từ đó có biện pháp xử lý kịp thời nếu rủi ro phát sinh.Nguy cơ về rủi ro mất vốn được giảm thiểu.
Tuy nhiên việc tạo được niềm tin với khách hàng,có thể để khách hàng tự nguyện hợp tác với ngân hàng trong việc chia sẻ thông tin cần sự nỗ lực của bản thân ngân hàng.Ngân hàng nên tạo chính sách tín dụng phù hợp,cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính,quản lý tài sản…có uy tín và hiệu quả để khách hàng có thể tin tưởng và sử dụng.Làm như thế,bản thân ngân hàng không những tăng doanh thu,hạn chế được NQH phát sinh mà còn giúp khách hàng họat động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn từ đó khẳng định và tăng thêm uy tín cho ngân hàng,làm lợi không những cho bản thân ngân hàng mà cho cả nền kinh tế.
1.2.2.3.Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên giỏi về chuyên môn,có kinh nghiệm tư cách đạo đức tốt
Con người luôn là chủ thể của mọi hoạt động,vì thế trình độ cán bộ tín dụng quyết định tới chất lượng tín dụng.Chính sách cho vay hợp lý,qui trình cho vay đồng bộ,khoa học nhưng không có đội ngũ cán bộ thực thi hiệu quả không tạo được kết quả kinh doanh mong muốn mà còn có thể gây ra tổn thất cho ngân hàng.Công tác đào tạo cán bộ tín dụng luôn được ngân hàng thương mại chú trọng.Không những chọn lọc trong quá trình thi tuyển đầu vào,ngân hàng phải thường xuyên đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng trong quá trình làm việc bằng cách tổ chức thi tuyển lại,tổ chức cho cán bộ tín dụng các lớp đào tạo ngắn hạn để trau dồi và cập nhật kiến thức.Ngoài ra,thông qua công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ,ngân hàng cũng có thể hạn chế được những khoản cho vay không hợp lệ và tình trạng cán bộ tín dụng móc ngoặc với khách hàng gây nên tổn thất cho ngân hàng.Kiểm tra việc chấp hành các kế hoạch dư nợ ngắn hạn,trung và dài hạn xem có phù hợp với cơ cấu nguồn vốn,có những biện pháp để khơi tăng nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế trên địa bàn,kiểm tra hồ sơ vay,đánh giá chính xác về tính hợp lý hợp lệ của hồ sơ đặc biệt là tính pháp lý và tính thực tiễn của những tài liệu trong hồ sơ vay,đơn xin vay,phương án sản xuất kinh doanh,giấy phép kinh doanh,giá trị của tài sản đảm bảo,hợp đồng mua bán vật tư…Kiểm tra về một số chỉ tiêu như:thời hạn cho vay,thời hạn gia hạn nợ,hạn mức tín dụng được cấp,kiểm tra thơì hạn cho vay phải xác định cơ sở của thời hạn cho vay có phù hợp với sự luân chuyển vốn của đôi tượng vay hay không,gia hạn nợ phải đảm bảo qui trình gia hạn nợ,đặc biệt là hướng giải quyết khoản nợ sau khi gia hạn cho khách hàng.Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng song các ngân hàng cần tập trung vào một số vấn đề có sai sót trong quá trình thực hiện.Bằng cách này,ngân hàng vừa hướng cán bộ tín dụng trung thực trong quá trình làm việc,vừa hạn chế được rủi ro phát sinh nợ quá hạn,chất lượng tín dụng cũng vì thế được tăng lên.
1.2.2.4.Thực hiện tốt việc đôn đốc thu hồi nợ và trả lãi phù hợp với từng khoản vay Đi cùng với hoạt động tín dụng là hoạt động quản lý và thu hồi nợ.Khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng,ngân hàng hy vọng vào lãi thu được sau cho vay đồng thời kỳ vọng rằng khách hàng sẽ trả đủ cả nợ gốc và lãi cho mình.Không một ngân hàng nào cho vay mà biết chắc khoản nợ đó có vấn đề,vì thế để hạn chế rủi ro nợ quá hạn các NHTM đều có phòng ban thực hiện nghiệp vụ quản lý và thu hồi nợ vay.Thực hiện tốt việc đôn đốc thu hồi nợ và lãi phù hợp với từng khoản vay là biện pháp hạn chế NQH phát sinh.Đối với những khoản vay có khả năng thu hồi ngân hàng chỉ cần đôn đốc việc trả nợ khi thời điểm đáo hạn sắp đến.Đối với những khoản vay có dấu hiệu xấu thì phải có các biện pháp kịp thời như:đưa ra những lời khuyên,cố vấn cho doanh nghiệp về sản phẩm,biện pháp thu hồi nợ,phương án sản xuất kinh doanh,quản lý tài chính…Tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hồi được vốn và trả nợ vay cho ngân hàng đúng hạn,hay có thể gia hạn nợ,rút bớt mức chi trả định kì trong một thời gian.Đối với doanh nghiệp có nguy cơ phá sản,hay vi phạm hợp đồng thì ngân hàng có thể chủ động đời nợ trước hạn tránh tình trạng NQH xảy ra.
Nói tóm lại mục tiêu trong kinh doanh tín dụng của các NHTM là hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng nói chung,rủi ro về NQH nói riêng.Chính vì thế mà việc đưa ra các biện pháp hạn chế,phòng ngừa NQH là không bao giờ thừa đối với các NHTM trong nền kinh tế phát triển mạnh như hiện nay.
1.2.3.Xử lý nợ quá hạn
Sau khi phát sinh các khoản nợ quá hạn,vấn đề đặt ra cho các ngân hàng thương mại là xử lý các khoản NQH này để tổn thất xẩy ra với ngân hàng là thấp nhất.Ngoài một số biện pháp quen thuộc,các ngân hàng thương mại có thể áp dụng một số giải pháp sau.
1.2.3.1.Qui trách nhiệm đối với cán bộ tín dụng
Một trong những nguyên nhân dẫn đến NQH xuất phát từ yếu tố cán bộ tín dụng.Trình độ yếu kém,hời hợt trong hoạt động thẩm định dự án hoặc cố ý móc ngoặc đối với khách hàng của cán bộ tín dụng nhằm cầu lợi riêng cho bản thân có thể dẫn đến tình trạng cho vay ồ ạt,người sử dụng vốn không đúng mục đích,không có hiệu quả và tất yếu dẫn tới NQH cho ngân hàng.Để hạn chế tình trạng này,NHTM có thể qui trách nhiệm cho cán bộ tín dụng nếu không thể đòi được nợ bằng các hình thức kỷ luật,bồi thường cho ngân hàng.Trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng,ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp cứng rắn như đuổi việc,truy tố trước pháp luật…Đây là biện pháp vừa có tính hiệu quả cao trong việc thu hồi nợ,vừa có tính chất giáo dục cán bộ tín dụng làm việc hiệu quả và an toàn hơn cho ngân hàng.Việc áp dụng biện pháp này không những làm trong sạch đội ngũ cán bộ tín dụng,mà nó còn có tác dụng nâng cao khả năng,trình độ của các bộ tín dụng.Đó là một giải pháp tốt để ngân hàng có thể hạn chế được tình trạng nợ quá hạn,phát triển an toàn bền vững hơn.
1.2.3.2.Đôn đôc thu hồi nợ
TRẠNG NỢ QUÁ HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG HẰNG HẢI ĐỐNG ĐA 2007-2009
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG HẰNG HẢI ĐỐNG ĐA 2007-2009
NHÁNH NGÂN HÀNG HẰNG HẢI ĐỐNG ĐA 2007-2009.
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng hằng hải Đống Đa
Là trung tâm kinh tế lớn của cả nước-Hà nội một thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng,đặc biệt về phát triển khách hàng,sản phẩm dịch vụ mới…NHTM cổ phần Hằng Hải được thành lập theo giấy phép số 0001/NH-GP ngày 08 tháng 06 năm 1991 theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,giấy phép số 45/GP-UB do Ủy ban Nhân dân thành phố Hải phòng cấp ngày 24/12/1991.
Ngày 12/7/1991,Ngân hàng chính thức khai trương và đi vào hoạt động.
Maritime bank có những cổ đông lớn là những tổ chức và tập đoàn kinh tế lớn,có uy tín trong lĩnh vực kinh doanh hàng đầu của Việt Nam:tập đoàn bưu chính viễn thông việt nam (VNPT),tổng công ty Hàng Hải
Việt Nam(VINALINES),tập đoàn bảo hiểm Việt Nam(bảo việt),cục hàng không việt nam,tập đoàn dệt may việt nam(VINATEX),công ty vận tải biển
Trải qua gần 20 năm xây dựng và phát triển,Maritime bank đã khẳng định được vị thế là một trong những ngân hàng hằng đầu trong lĩnh vực cấp tín dụng trên thị trường Việt Nam.Hiện nay mạng lưới hoạt động của Maritime bank trên khắp cả nước,tập trung tại các tỉnh và các thành phố lớn đó là trung tâm kinh tế trọng điểm trên cả ba miền Bắc,Trung,Nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần Hằng Hải-chi nhánh đống đa được thành lập vào năm 2004 và chính thức đi vào hoạt động tại địa điểm là số 47A,Huỳnh
Thúc Kháng,Quận Đống Đa,Hà Nội.Cùng với sự phát triển và lớn mạnh không ngừng của toàn hệ thống MSB Việt Nam,thì chi nhánh Đống Đa cũng đang dần khẳng định vị thế của mình trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam trên địa bàn.Từ khi thành lập cho tới nay MSB Đống Đa luôn luôn là một trong ba chi Các sản phẩm dịch vụ ban đầu mới chỉ huy động vốn,tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư,cho vay,chiết khấu,thì nay đã có thêm rất nhiều sản phẩm như tài trợ thương mại,hùn vốn đầu tư vào các dự án kinh tế,cho vay hợp vốn,các hình thức bảo lãnh,mở L/C… Cơ sở vật chất ngày càng được hoàn thiện với hệ thống trang thiết bị hiện đại,hệ thống máy tính nối mạng 24/24,trụ sở khang trang.
Về khách hàng,thì đối tượng khách hàng chủ yếu của chi nhánh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các ngành kinh tế trọng điểm của cả nước.Trong đó đặc biệt quan tâm tới khách hàng thuộc ngành hằng hải,bưu chính viễn thông,hàng không,bảo hiểm.Đồng thời đẩy mạnh việc phát triển khách hàng là cá nhân.
Về cơ cấu tổ chức:Tính đến ngày 31/12/2008 toàn bộ chi nhánh MSB Đống đa có 87 cán bộ nhân viên.Trong đó trên 90% có trình độ đại học và trên đaị học.Số cán bộ nhân viên nữ chiếm hơn 50%.
Trải qua những khó khăn,thử thách,đến nay chi nhánh ngân hàng HằngHải đang ngày càng phát triển,đội ngũ khách hang ngày càng đa dạng,nguồn vốn tăng trưởng nhanh,huy động vốn ổn định và có hiệu quả.Nguồn vốn lớn,tương đối ổn định đã tạo thế chủ động cho chi nhánh trong hoạt động kinh doanh góp phần ổn định lưu thông tiền tệ và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
2.1.2.Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Sơ đồ 2.1:Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành
Tổ kiểm tra nội bộ
Các phòng chuyên môn nghiệp vụ
Khối hỗ trợ Phòng giao dịch đồng xuân
Phòng/Tổ QL Rủi ro
P/Tổ QL nợ có vấn đề
Sơ đồ 2.2:Mô hình cơ cấu tổ chức của chi nhánh
Trong đó,NH Hàng hải có 2 phòng chịu trách nhiệm chính về hạn chế nợ quá hạn:
01/Phòng quản lý rủi ro
*Chức năng:Tham mưu cho giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh,quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay,đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng,dự án,phương án đề nghị cấp tín dụng,thực hiện chức năng đánh giá,quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của NH Hàng Hải Việt nam.
*Nhiệm vụ:Đề xuất mức tăng trưởng tín dụng theo nhóm khách hang,ngành nghề,khu vực kinh tế…phù hợp với năng lực quản trị rủi ro của chi nhánh và tình hình phát triển kinh tế địa phương.
Tái thẩm định,đánh giá rủi ro đối với các khoản bảo lãnh,khoản cấp tín dụng khác hoặc đề nghị cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo yêu cầu của giám đốc chi nhánh hoặc hội đồng tín dụng của chi nhánh.
Kiểm tra việc hoàn thiện hồ sơ tín dụng,giám sát thực hiện các khoản cấp tín dụng và việc nhập dữ liệu với khách hang có quan hệ tín dụng tại chi nhánh. Kiểm tra việc hoàn thiện hồ sơ của các nghiệp vụ về tài trợ thương mại,chuyển tiền ngoại tệ,mua bán nợ theo yêu cầu của giám đốc chi nhánh hoặc NHHH VN
Nghiên cứu các danh mục tài sản bảo đảm tiền vay,cảnh báo rủi ro trong việc nhận tài sản đảm bảo.
Triển khai thực hiện các chính sách,qui trình,qui định về quản lý rủi ro tín dụng,rủi ro tác nghiệp,rủi ro thị trường,rủi ro thanh toán…của NHHH VN nhằm giúp các hoạt động nghiệp vụ tại chi nhánh ngăn ngừa và hạn chế thấp nhất mức độ rủi ro.
02/Tổ quản lý nợ có vấn đề
*Chức năng:tổ quản lý nợ có vấn đề chịu trách nhiệm về quản lý,xử lý nợ xấu(nợ nhóm 3,nhóm 4,nhóm 5 theo quy định phân loại nợ) nợ đã xử lý rủi ro,nợ được chính phú xử lý,là đầu mối khai thác và xử lý tài sản đảm bảo tiền vay theo qui định của nhà nước nhằm thu hồi nợ xấu.
*Nhiệm vụ: Đề xuất và thực hiện các biện pháp xử lý,thu hồi nợ,xử lý tài sản đảm bảo tiền vay.
Tổng hợp báo cáo phân loại nợ trên cơ sở kết quả phân loại nợ từng khách hàng do phòng khách hàng cung cấp.Theo dõi tính toán trích lập dự phòng rủi ro của chi nhánh.phân tích thực trạng chất lượng tín dụng của các khoản nợ xấu theo yêu cầu của NHHH VN hoặc ban giám đốc,đề xuất các biện pháp xử lý nợ. Đầu mối phối hợp với các phòng khách hàng theo dõi,quản lý,thực hiện các biện pháp,chế tài tín dụng,tiến hành xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ,xử lý nợ xấu. Đầu mối kiểm tra,tổng hợp hồ sơ đề nghị xử lý rủi ro,miễn giảm lãi,bán nợ của chi nhánh theo qui định của NHHH VN,hoàn thiện hồ sơ trình cấp có thẩm quyền cho xử lý xóa nợ,khoanh nợ(nếu có) theo hướng dẫn của NHHH VN theo từng thời kỳ.
2.1.3.TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHI NHÁNH NGÂN HÀNG HẰNG HẢI ĐỐNG ĐA 2007-2009
THỰC TRẠNG VỀ NỢ QUÁ HẠN TẠI CN NHHH ĐỐNG ĐA 2007- 20009
2.2.1.Diễn biến chỉ tiêu nợ quá hạn tại chi nhánh ngân hàng Hàng Hải Đống Đa
Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Việt nam hiện nay là vấn đề thời sự,gây ra nhiều khó khăn cần giải quyết.Trước đây,do chất lượng đầu tư chưa cao,việc xử lý nợ quá hạn chậm dẫn đến tỷ lệ NQH rất cao,vượt qua giới hạn cho phép.Tuy nhiên,trong những năm gần đây,NHHH Đống Đa đã duy trì tỷ lệ nợ quá hạn ổn định và thấp so với mặt bằng chung của các ngân hang.Tỷ lệ NQH tại chi nhánh ngân hàng hàng hải việt nam trong 3 năm gần đây được thể hiện cụ thể qua bảng:
Bảng số 2.3:Tình hình nợ quá hạn tại CN NHHH ĐĐ
Số tiền Số tiền Biến động
Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm 2007 - 2009 của CN NHHH ĐĐ
Nhìn tổng quát,diễn biến tỷ lệ NQH trong 3 năm qua là một chuyển biến tích cực,theo chiều hướng tốt,thấp cả về số lượng lẫn tỷ trọng.Năm 2007,tỷ lệ NQH là 1.41 % tương đương với 15.087 triệu đồng thì năm 2008 tỷ trọng NQH giảm xuống 1,02% tương đương với mức giảm 3.867 triệu đồng.Qua bảng trên ta thấy,NQH của chi nhánh đang được kiểm soát tốt và có chiều hướng giảm dần.Đến năm 2009 tỷ trọng NQH trên tổng dư nợ còn 1.01% tương đương với 11.110 triệu đồng.Mặc dù năm 2009,thực trạng nền kinh tế rất khó khăn,Chính phủ thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát bằng cách tăng dự trữ bắt buộc,các ngân hàng thương mại chạy đua với lãi suất huy động vốn để tìm nguồn tăng dự trữ bắt buộc.Có thể nguyên nhân là do chi nhánh giảm dư nợ cho vay,tích cực thu hồi nợ làm cho chỉ tiêu NQH trên tổng dư nợ có biến chuyển theo chiều hướng giảm.Qua đây,cho thấy phần nào,chi nhánh đã có nỗ lực và đạt kết quả tốt trong việc kiểm soát NQH của mình.Dư nợ cho vay trong ba năm 2007,2008,2009 hầu như có sự thay đổi không đáng kể,tỷ trọng NQH giảm dần qua 3 năm,điều đó cũng phản ánh chất lượng tín dụng được cải thiện.Để tìm hiểu rõ hơn về sự thay đổi của chỉ tiêu NQH,chúng ta có thể đi sau phân tích những khía cạnh sau.
2.2.1.1.Phân tích nợ quá hạn theo thời hạn vay vốn
Chi nhánh ngân hàng Hàng hải Đống Đa có cơ cấu dư nợ theo thời hạn vay vốn qua các năm ổn định ở mức dư nợ ngắn hạn 30%,dư nợ trung và dài hạn là 70%.Tuy nhiên,tỷ trọng của NQH theo thời gian ngắn hạn qua 3 năm luôn cao hơn so với tỷ trọng của NQH theo thời gian trung và dài hạn.Chính sách của ngân hàng là tập trung cho vay vốn trung và dài hạn.Chính sách của ngân hàng là tập trung cho vay vốn trung và dài hạn,đó cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng NQH trong ngắn hạn.Đây không phải là một mức tỷ trọng hợp lý.Trong những năm tới đây,khách hàng mà chi nhánh hướng tới là cá nhân và DNVVN.Chi nhánh cần có những điều chỉnh hợp lý để công tác thu hồi nợ có thời hạn ngắn hiệu quả hơn.
Bảng 2.4:Cơ cấu nợ quá hạn theo thời hạn vay vốn
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
Nguồn: Bảng cân đối kế toán CN NHHH ĐĐ cuối năm 2007 - 2009
NQH của nợ ngắn hạn có giảm qua 3 năm nhưng tỷ trọng trong tổng dư nợ thì vẫn ở mức cao lần lượt là 67,2%;84,76%;71,65%.Nguyên nhân có thể do khách hàng gặp khó khăn trong kinh doanh như:hàng tồn kho lớn,khoản phải thu nhiều,quản lý kém.Một nguyên nhân nữa là do cán bộ tín dụng,một là đánh giá sai về khách hàng,hai là xác định chưa chính xác thời hạn cho vay,thời hạn cho vay không khớp với vong luân chuyển vốn của khách hàng hay chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp dẫn đến khách hàng không trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn.Bởi vậy,đối với khách hàng là cá nhân nguồn trả nợ của họ chính là những khoản thu nhập trong tương lai như lương hay thu từ các phương án sản xuất kinh doanh,còn khách hàng là doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn chủ yếu để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của họ,nguồn trả nợ chủ yếu của họ là từ doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm hoặc giá trị hợp đồng khi nghiệm thu…do đó việc xác định đúng kỳ hạn cho vay phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh là rất cần thiết góp phần giảm một cách
2.2.1.2.Phân tích nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Qua nguồn số liệu ta thấy rõ NQH thuộc khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong tổng NQH.Năm 2007 là 10.127 triệu chiếm
67,12%.Năm 2008 là 7.510 chiếm tỷ trọng là 67%.Trong hai năm 2007,2008 nợ vay của các doanh nghiệp quốc doanh cũng không có sự thay đổi đáng kể vì thế có thể dẫn đến chỉ tiêu NQH trong khu vực này cũng giữ ở mức ổn định.Đến năm 2009,tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước trên tổng dư nợ tăng từ mức 71% năm 2008 lên mức 85% đồng thời tỷ trọng của NQH ở khu vực này cũng tăng lên đạt mức 73% tương đương với mức tăng 600 triệu đồng.Đây không hẳn là một con số lớn nhưng cho thấy trong ba năm qua dư nợ cho vay của khu vực này chiếm tỷ trọng lớn,NQH của các doanh nghiệp quốc doanh cũng đạt ở mức cao.Nguyên nhân chủ yếu là do khu vực kinh tế này kém phát triển,các doanh nghiệp Nha nước được sự hậu thuẫn của nhà nước về vốn do đó tuy được coi là làm ăn kém hiệu quả nhưng nguy cơ phá sản ở khu vực này lại thấp
Bảng số 2.5:Cơ cấu NQH theo thành phần kinh tế
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
Nguồn: Bảng cân đối kế toán 2007 - 2009
Bên cạnh đó là sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh,với sự hoạt động mạnh và ngày càng có hiệu quả,chi nhánh ngân hàngHàng Hải Đống Đa ngày càng có xu hướng mở rộng thị phần tín dụng tới khu vực này,nó được thể hiện qua số liệu của các năm gần đây.Dư nợ của khu vực này liên tục tăng qua các năm nhưng NQH thấp hơn rất nhiều so với khu vực quốc doanh.Năm 2007 dư nợ cho vay NQD là 292.000 triệu đồng,năm 2008 là 300.000 triệu đồng,đến năm 2009 là 165.000 triệu đồng.Tỷ lệ NQH lần lượt là 32,88;33 và 27 % có thể do tỷ trọng cho vay đối với khu vực này chỉ đạt 15 % tương đương 165.000 triệu đồng.Đó không phải là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của khu vực này được cải thiện.Để phục vụ mục tiêu mở rộng thị trường cho vay của chi nhánh đối với các DN NQD,CN ngân hàng Hàng hải Đống Đa cần có cơ chế chính sách thích hợp để kiểm soát tỷ lệ NQH của các
DN NQD trong những năm tới cho phù hợp.
Nói chung,tỷ trọng NQH của các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang còn chiếm tỷ trọng khá cao.Nguyên nhân chủ yếu do sự hoạt động yếu kém của khu vực này,ngân hàng nên có chính sách điều chỉnh hợp lý.
Bảng số 2.6:NQH theo khả năng đảm bảo tiền vay
Nguồn: Bảng cân đối kế toán 2007- 2009
Qua bảng trên ta thấy,NQH của khoản cho vay có bảo đảm năm 2007 là14.061 triệu đồng chiếm 93,2%,năm 2008 là 10.659 chiếm 95% giảm so với năm 2007 là 3.402 triệu đồng.Dư nợ cho vay có đảm bảo năm 2007 giảm so với năm 2008 nhưng tỷ trọng cho vay có bảo đảm lại tăng từ 93,2% lên 95% là do dư nợ quá hạn của năm 2008 giảm so với năm 2007.Đến năm 2008,dư NQH có tài sản đảm bảo là 10.699 triệu đồng tăng 40 triệu đồng so với năm 2007 tương đương với mức tăng 0,37%.Tỷ trọng NQH có tài sản đảm bảo năm 2009 là 96,3%.Đây có thể coi là dấu hiệu tốt,tuy giá trị của các khoản NQH có tài sản đảm bảo tăng không đáng kể nhưng tỷ trọng của nó liên tục tăng trong ba năm qua. Bên cạnh đó,NQH của khoản vay không có bảo đảm năm 2007 là 1.026 triêu đồng chiếm 6,8%,năm 2008 là 516 triệu đồng chiếm 5% giảm về giá trị lẫn tỷ trọng so với năm 2007.Nguyên nhân do dư nợ quá hạn của năm 2008 thấp hơn so với năm 2007 và tỷ trọng NQH có tài sản đảm bảo lớn hơn.Đến năm 2009,NQH không có tài sản đảm bảo là 411 triệu đồng chiếm 3.7% giảm so với năm 2007 105 triệu đồng.Các dấu hiệu này cho thấy,ngân hàng đang có biện pháp hạn chế các khoản NQH bằng cách tăng dư nợ cho vay có đảm bảo bằng tài sản,các khoản cho vay không có đảm bảo có thể là cho vay tín chấp chủ yếu là khách hàng truyền thống,có uy tín,thường xuyên dao dịch với ngân hàng nên dù không có tài sản đảm bảo nhưng mức độ an toàn của nó không phải là thấp,rủi ro xẩy ra là rất ít.
2.2.1.4.Phân tích nợ quá hạn theo thời gian quá hạn
Từ nguồn số liệu cho thấy NQH nhỏ hơn 180 ngày luôn tăng và chiếm tỷ trọng cao nhất,tiếp đó là NQH chỉ phát sinh khi món vay đến hạn trả gốc hoặc lãi hoặc cả gốc và lãi mà khách hàng không trả cho ngân hàng hay có nghĩa là nó được phát sinh từ những khoản cho vay từ trước đó có thể là ở cùng năm đó hoặc năm trước hay vài năm trước đó.Khi áp dụng qui chế(127/2005/QĐ- NHNN sửa đổi bổ sung qui chế 1627/2001/QĐ-NHNN) đối với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ,thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là NQH và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ.Có thể việc áp dụng qui chế này đã làm tăng các khoản
NQH có thời hạn nhỏ hơn 180 ngày,một nguyên nhân nữa là do công tác thẩm định khách hàng trước khi cho vay còn nhiều thiếu sót,đánh giá khách hàng quá cao về năng lực tài chính,khă năng kinh doanh…Mặt khác do sự biến động mạnh mẽ cuả thị trường cũng làm cho các doanh nghiệp phải điêu đứng,hiệu quả kinh doanh giảm thấp.Những nhân tố này dẫn đến khi đến hạn khách hàng chậm trả nợ vay ngân hàng và như thế NQH phát sinh là tất yếu.
Bảng số 2.7:Cơ cấu nợ qúa hạn theo thời gian quá hạn
Nguồn: Bảng cân đối kế toán 2007 - 2009
Những khoản nợ vay từ 180 ngày đến 360 ngày là hậu quả để lại từ những khoản NQH dưới 180 ngày chưa được giải quyết dứt điểm triệt để.Năm 2007 là
4.903 triệu đồng đến năm 2008 là 2.524 triệu đồng.NQH trong thời hạn này liên tục giảm cả giá trị lẫn tỷ trọng qua ba năm.Ngân hàng đã có những nỗ lực hạn chế các khoản nợ này.Điều này cũng cho thấy,việc xử lý các khoản NQH có thời hạn bé hơn 180 ngày của ngân hàng có hiệu quả tốt.Đối với những khoản NQH này nếu không có biện pháp xử lý kịp thời để thu hồi,xử lý ngay thì rất dễ chuyển sang NQH trên 360 ngày và như vậy khả năng thu hồi được cũng ngày một khó khăn hơn.Điều này càng gây bất lợi cho ngân hàng.
Bên cạnh đó,những khoản NQH có thời hạn quá hạn trên 360 ngày có xu hướng giảm xuống năm 2007 là 2.596 triệu đồng chiếm 17,2% thì đến năm
2009 chỉ còn 634 triệu đồng chiếm 5,7%.Để có được kết quả này một phần là do chi nhánh đã nỗ lực đôn đốc thu hồi nợ,đã có biện pháp khuyến khích khách hàng bằng các chính sách giảm bớt lãi suất quá hạn hay thu gốc trước thu lãi sau… Nói tóm lại,qua bảng số liệu trên NQH có thời hạn quá hạn từ dưới 180 ngày đang chiếm tỷ trọng cao nhất,các khoản nợ xấu có thời hạn trên 360 ngày được chi nhánh kiểm soát và hạn chế.
2.2.1.5.Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân phát sinh
Theo bảng số 2.12 ta thấy NQH phát sinh chủ yếu do nguyên nhân từ phía khách hàng.Theo số liệu bảng phân tích trên thì nguyên nhân do khách hàng chiếm tới 96% năm 2007,95% năm 2008 và năm 2009 là 96%.
Như vậy,ta đã biết phần lớn NQH của ngân hàng là do nguyên nhân từ phía khách hàng gây nên.Nguyên nhân dẫn đến có thể do:khách hàng làm ăn,kinh doanh thua lỗ do khả năng yếu kém hay do biến động của môi trường kinh doanh:đối thủ cạnh tranh,giá cả…,khách hàng cố ý chiếm đoạt tài sản của ngân hàng từ khi lập hồ sơ xin vay vốn hay phát sinh khi đã vay…,trong những năm gần đây đặc biệt năm 2008,2009 sự biến động mạnh mẽ của thị trường làm cho giá vàng,giá đô la mỹ,giá bất động sản không ổn định,có thể điều này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc khách hàng vay vốn dùng vốn sai mục đích.
Bảng 2.8:Cơ cấu nợ quá hạn theo nguyên nhân phát sinh
Nguồn: Bảng cân đối kế toán 2007 - 2009
Vì vậy mà yếu tố quan trọng,đặt lên hàng đầu đó là ngân hàng phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định trước khi cho vay và công tác kiểm tra giám sát trong khi và sau khi cho vay.Công việc này đã được chi nhánh triển khai và thu được nhiều thành công.Chi nhánh đã thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tín dụng nhưng còn một số vấn đề bất cập tại chi nhánh cũng như tình hình chung của các NHTM trong cả nưóc đó là những thông tin thu thập về khách hàng còn ít và chủ yếu do khách hàng tự cung cấp nên tính trung thực không được đảm bảo.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KIỂM SOÁT NỢ QUÁ HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG HẰNG HẢI ĐỐNG ĐA
Đối với các ngân hàng thương mại,hoạt động tín dụng mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.Ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục tiêu thu lời,như vậy,mục tiêu an toàn và sinh lời vẫn là mục tiêu chính trong quản lý tín dụng.Khi ngân hàng tăng doanh số cho vay với các khách hàng có thể làm tăng lợi nhuận của ngân hàng nhưng đồng thời luôn đi kèm là tiềm ẩn rủi ro rất cao.Nguồn chủ yếu để ngân hàng đem cho vay là nguồn tiền gửi huy động từ dân cư,vì thế khi tổn thất xẩy ra sẽ không những làm giảm thu nhập dự tính của ngân hàng mà còn có thể gây cho ngân hàng nguy cơ thua lỗ phá sản do mất khả năng thanh toán.Do vậy,an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi ngân hàng thương mại.Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và sinh lời trong hoạt động tín dụng.Trước khi tài trợ,mối quan hệ có thể là:rủi ro càng cao,sinh lợi kỳ vọng càng lớn,cho vay trung và dài hạn,cho vay tiêu dùng…Tuy nhiên,sau khi tài trợ,quan hệ đó lại là tổn thất càng cao thì sinh lời càng thấp.Do vậy,để hạn chế rủi ro,đặc biệt là hạn chế rủi ro tín dụng mà cụ thể ở đây là vấn đề kiểm soát NQH luôn được các NHTM đặt lên hàng đầu.Ngân hàng hàng hải chi nhánh đống đa là một NHTM cổ phần hoạt động trên địa bàn đường huỳnh thúc kháng,hà nội có thế mạnh về cho vay trung và dài hạn để phát triển kinh tế xã hội,xây dựng các công trình trọng điểm đã không ngừng lớn mạnh và đạt được những kết quả đáng kể.
Những con số về tỷ lệ NQH của chi nhánh trong ba năm vừa qua luôn đạt mức thấp.Khi tổng dư nợ qua ba năm cũng được duy trì rất ổn định chứng tỏ những nỗ lực và kết quả tốt của ngân hàng trong việc hạn chế NQH tại chi nhánh.
Toàn chi nhánh đã tập trung triển khai thực hiện việc hạn chế NQH.Các cơ sơ pháp lý liên quan đến như:quyết định,thông tư,văn bản,chỉ thị hướng dẫn của Chính phủ,NHNN,NHHH và của các cơ quan có thẩm quyền đã được phổ biến,hướng dẫn cho từng chi nhánh.Điều này giúp cho cán bộ,công nhân viên trong chi nhánh nắm được chủ trương chung và có phương án,biện pháp kiểm soát hợp lý hữu hiệu.
Ngày càng hoàn thiện chính sách,qui trình cho vay,thực hiện tốt việc đảm bảo tiền vay.
Bước đầu làm trong sạch bảng cân đối tài sản,tách bạch được một phần nợ xấu ra khỏi bảng cân đối để theo dõi riêng trên ngọai bảng và tiếp tục tận thu. Toàn chi nhánh đã lập được phương án xử lý cụ thể đối với từng trường hợp làm tăng hiệu quả thu nợ.
Chi nhánh đã thường xuyên tiến hành tập huấn,đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tín dụng và có một số thay đổi nhân sự khá hợp lý để nâng cao hiệu quả công việc,sắp xếp công việc phù hợp với trình độ năng lực của từng cán bộ công nhân viên.Công tác kiểm soát NQH được tiến hành thường xuyên,áp dụng nhiều biện pháp tích cực,linh hoạt và việc thành lập ban xử lý nợ khó đòi đã đạt kết quả tốt.Công tác tái thẩm định khách hàng và phân loại khách hàng có độ chính xác tương đối cao nên việc xử lý bằng các biện pháp khác tỏ ra khá thích hợp. Đã thực hiện tốt việc đa dạng hóa khách hàng và hoạt động cho vay đã góp phần phân tán rủi ro đồng thời việc liên kết với các ngân hàng khác cũng tỏ ra khá hiệu quả.
2.3.2.Tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được,chi nhánh NHHH Đống Đa cũng còn những tồn tại nhất định cần khắc phục để đảm bảo cho khoản vay được an toàn hơn.
Hệ thống thông tin khách hàng chưa hoàn thiện,các thông tin chưa được cập nhật thường xuyên,vừa chậm vừa thiếu không đáp ứng kịp nhu cầu ngày càng phát triển của hoạt động tín dụng.Thông tin chủ yếu được cung cấp từ phía khách hàng nên thiếu chính xác.Ngoài ra,quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng khác chưa rộng.Nguyên nhân chủ yếu do mạng lưới thông tin còn lạc hậu,thông tin thu thập chưa đồng bộ,mặc dù chi nhánh đã thường xuyên đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên nhưng vẫn còn yếu kém chưa khai thác tốt được những công nghệ hiện đại.
Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam còn có công ty con hạch toán độc lập là công ty quản lý nợ và khai thác tài sản,đây phải được coi là lợi thế của chi nhánh ngân hàng hàng hải việt nam trong việc xử lý nợ quá hạn.Tuy nhiên quá trình xử lý nợ của chi nhánh cũng cho thấy cơ chế điều hành và sự phối hợp giữa các phòng ban của chi nhánh,giữa chi nhánh với hội sở,giữa chi nhánh với công ty quản lý nợ còn chưa có hiệu quả và đồng bộ.Chính điều này dẫn đến khó khăn cho công ty quản lý nợ là thiếu thông tin dẫn đến hiệu quả hoạt động của công tác thu nợ còn thấp.
Việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ tại chi nhánh ngân hàng hàng hải Việt Nam chưa thật sự đa dạng.Các biện pháp xử lý NQH chủ yếu tại chi nhánh là:xử lý tài sản đảm bảo,dũng quĩ dự phòng…Các biện pháp như bán nợ xấu hầu như chưa được áp dụng.
Một là,công tác kiểm toán nội bộ giữ một vai trò quan trọng trong quản lý,kinh doanh ngân hàng nhưng được coi trọng.Nguyên nhân do lơ là trong công việc,thiếu tinh thần trách nhiệm.Công tác quản lý,kiểm tra giám sát công việc của cán bộ phụ trách công việc này còn lỏng lẻo.
Hai là,việc tư vấn cho khách hàng chưa được tốt,còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình kiểm tra trước và sau khi cho vay do hiểu biết của cán bộ tín dụng còn hạn chế,yếu kém.
Ba là,các biện pháp áp dụng trong kiểm soát chưa phong phú và đa dạng,cần có thêm các biện pháp để hạn chế NQH được tốt hơn
Bốn là,đối với việc trích lập quĩ dự phòng rủi ro cũng còn nhiều bất cập do việc xác định,phân loại khoản vay chưa chính xác,do vậy nhiều khi trích lập dự phòng không đủ.
Tóm lại,qua chương này chúng ta có thể nắm bắt được cụ thể,chi tiết từ sự hình thành và phát triển của chi nhánh NHHH DĐ cũng như thực trạng hoạt động tín dụng,tình hình NQH và biện pháp hạn chế chúng.Đồng thời,qua đây cho chúng ta cái nhìn khái quát về kết quả đạt được và những tồn tại,hạn chế còn vướng mắc trong hoạt động kiểm soát NQH tại chi nhánh.
PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ NỢ QUÁ HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG HẰNG HẢI ĐỐNG ĐA
ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG HẰNG HẢI CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
3.1.1.Bối cảnh chung và quan điểm của Đảng và Nhà nước
Mặc dù nền kinh tế tăng trưởng cao trong thời gia gian qua nhưng lạm phát hiện đang ở mức rất cao(chỉ số gia tiêu dùng 9 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008 trên 27%-theo Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2009 của Chính phủ) đã làm giảm theo đáng kể niềm tin của các nhà đầu tư và người tiêu dùng.Cùng với việc giá nhiên liệu liên tục tăng cao đã làm tăng thêm áp lực lạm phát lên nền kinh tế.Kết quả là sản xuất và chi tiêu trong nước có nguy cơ giảm và tín dụng cũng giảm theo.
Thêm vào đó,lãi suất huy động liên tục tăng từ năm 2005 đến nay đã đẩy mặt bằng lãi suất chung lên cao.Đặc biệt do dư nợ tín dụng tăng trưởng quá cao vào các tháng cuối năm 2007 dẫn đến áp lực nhu cầu vốn rất lớn.Trong khi đó,lạm phát đang là mối quan tâm lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam lúc này.Số liệu lạm phát được công bố chính thức là tăng 21,87% cho chín tháng đầu năm 2009,dự báo chỉ số giá tiêu dùng cả năm tăng khoảng 24%(nguồn:tổng cục thống kê).Chính vì vậy,để kiềm chế lạm phát từ đầu tháng 2 năm 2009,NHNN đã áp dụng đồng thời nhiều biện pháp nhằm thắt chặt tiền tệ như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% và mới được điều chỉnh xuống còn 10%,phát hành 20,3 tỷ nghìn đồng tín phiếu NHNN bắt buộc và không được sử dụng tín phiếu này để tái cấp vốn,lãi suất cơ bản tăng từ 8,25% lên 8,75%,14% và 12% lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5% lên 7,5% và hiện nay là 13%,lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5% lên 6%,12%,11%.Việc bắt buộc áp dụng đồng thời một loạt các biện pháp trên đã khiến nhiều ngân hàng đững trước khả năng thiếu hụt tiền mặt nghiêm trọng.Điều này đã đẩy các ngân hàng vào cuộc đua lãi suất huy động vốn.Đầu năm 2005,lãi suất huy động kỳ hạn 1 năm của các ngân hàng dao động trong khoảng 7,5% đến 8% đến năm 2006 đã tăng lên 8,4%- 9%.Lãi suất huy động các ngân hàng đã có thời điểm đạt mức kỷ lục là trên19%/năm(Ngân hàng thương mại cổ phần Đông nam á).Thời gian gần đây tuy các ngân hàng đã lần lượt hạ lãi suất huy động nhưng vẫn còn ở mức rất cao so với thời điểm năm 2007.Việc duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cao của toàn hệ thống ngân hàng cho thấy áp lực cạnh tranh trong khu vực ngân hàng nội địa.Áp lực từ biến động nền kinh tế,cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng và các định chế tài chính đã làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn theo hướng kỳ hạn ngắn dần,nguồn vốn lỏng dễ bị tác động bởi các yếu tố như tỷ giá,lạm phát,tâm lý khách hàng…đã tạo nhiều sức ép và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam nói chung và của NHHH nói riêng trong thời gian vừa qua.Nguồn vốn huy động thiếu sự ổn định và cơ cấu kỳ hạn ngày càng ngắn khi các Ngân hàng chỉ dùng công cụ cạnh tranh bằng lãi suất là chủ yếu,việc tuân thủ các cam kết kỳ hạn từ phía khách hàng ngày càng giảm dần,tiền gửi của doanh nghiệp ngày càng hạn chế.Bên cạnh đó,sức ép tăng trưởng tín dụng rất lớn từ nhu cầu vốn của nền kinh tế,cơ hội cho vay khách hàng mới trở nên dễ dàng là áp lực không nhỏ đối với nhiều chi nhánh của NHHH.Kết quả là dư nợ tăng rất mạnh,liên tục trong 4 tháng đầu năm 2008 trong khi nguồn vốn sụt giảm gây nhiều khó khăn về cân đối kinh doanh.Sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới nói chung và trực tiếp là những khó khăn mà kinh tế Việt Nam đang gặp phải đang tác động mạnh mẽ đến hệ thống ngân hàng trong nước.Ngân hàng hàng hải chi nhánh Đống Đa cũng đang thực hiện theo đúng đường lối và chủ trương mà NHHH Việt Nam đã đề ra trong những năm tới.
3.1.2.Định hướng về kiểm soát nợ quá hạn của chi nhánh ngân hàng Hằng Hải Đống Đa
3.1.2.1.Định hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng Hằng Hải Đống Đa
NHHH đã xây dựng chiến lược cho vay từ năm 2005,trong đó nêu rõ đối tượng khách hàng mục tiêu,vị trí và lĩnh vực cần hướng tới.Khách hàng mục tiêu là các công ty lớn có tình hình tài chính lành mạnh và năng lực cao,còn khách hàng tiềm năng là các DNVVN(SMEs) và cá nhân.Thị trường mục tiêu là các thành phố lớn,các khu vực kinh tế có tiềm năng,các khu vực đô thị và khu công nghiệp đang phát triển.Các lĩnh vực,ngành nghề mục tiêu NHHH hướng tới bao gồm lĩnh vực công nghiệp,thương mại,dịch vụ.NHHH Việt Nam đã tiến hành cổ phần hóa và mục tiêu xây dựng hệ thống ngân hàng Hằng Hải Việt Nam trở thành tập đoàn tài chính hoạt động theo hai mô hình ngân hàng bán lẻ và ngân hàng đầu tư.Là một chi chánh trong hệ thống,NHHH ĐĐ tuân thủ theo các định hướng mà NHHH VN đề ra.Trong năm 2008- 2010,NHHH ĐĐ tập trung phát triển các hoạt động NHTM cho người tiêu dùng cũng như khối các DNVVN.Thúc đẩy phát triển các sản phẩm có thu nhập từ phí và hoa hồng của ngân hàng hiện đại hơn là các sản phẩm có thu nhập từ lãi của ngân hàng truyền thống với các hoạt động liên quan đến tiền gửi-cho vay thuần túy.Giảm tỷ trọng dư nợ đối với khu vực DNNN và đẩy mạnh hoạt động đối với khu vực DNVVN bằng việc phát huy tối đa hiệu quả của mạng lưới phân phối và các sản phẩm hấp dẫn.Triển khai áp dụng chiến lược dịch vụ hậu mãi,chú trọng vào các phương thức quản lý tài khoản linh hoạt và phát triển quan hệ khách hàng.
3.1.2.2.Định hướng về kiểm soát nợ quá hạn của chi nhánh ngân hàng hằng hải Đống Đa
-Tách bạch cho vay thương mại và cho vay theo KHNN
-Ngăn ngừa và hạn chế NQH phát sinh,đưa tỷ lệ NQH xuống mức thấp nhất dưới mức cho phép của NHNN.
-Chủ động tạo nguồn xử lý các khoản nợ quá hạn bằng việc trích lập dự phòng rủi ro
-Tăng cường công tác kiểm soát nợ quá hạn,đưa tỷ lệ NQH xuống mức thấp nhất.
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HẠN CHẾ NỢ QUÁ HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG HẰNG HẢI ĐỐNG ĐA
Các biện pháp mà chi nhánh ngân hàng Hằng Hải Đống Đa đang thực hiện đã đem lại những kết quả nhất định nhưng việc không ngừng nâng cao hiệu quả kiểm soát NQH sẽ tạo điều kiện cho chi nhánh phát triển ổn định và bền vững.Ngoài một số biện pháp mang tính truyền thống,ngân hàng Hằng Hải Đống Đa nên áp dụng các giải pháp sau để có thể duy trì và hạn chế nợ quá hạn một cách có hiệu quả hơn.
3.2.1.Hoàn thiện và thực hiện nghiêm ngặt qui trình tín dụng
Chính sách tín dụng luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tín dụng của ngân hàng.Chính sách tín dụng của hệ thống ngân hàng Hằng Hải Việt Nam thực hiện theo cơ chế thị trường,tín dụng trên cơ sở an toàn,hiệu quả,xếp hạng khách hàng không phân biệt thành phần kinh tế.NHHH đã hoàn thiện,ban hành lại và ban hành mới đầy đủ hệ thống các văn bản,cơ chế nghiệp vụ tín dụng,qui định cụ thể hóa các điều kiện lựa chọn khách hàng,cấp tín dụng,qui trình cho vay bảo lãnh,qui trình nhận và xử lý tài sản đảm bảo,triển khai thực hiện theo tiêu chuẩn ISO 9001.Hiện nay hệ thống NHHH VN đã có bộ phận chuyên trách soạn thảo và ban hành các cơ chế qui định,qui định tín dụng(sổ tay tín dụng) và thường xuyên bổ sung chỉnh sửa để đảm bảo ngày càng phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường.
Việc thực hiện đúng qui trình này sẽ giúp loại bỏ những rủi ro,giúp quá trình cho vay được an toàn.Để thực hiện qui trình này một cách nghiêm túc hơn chi nhánh cần ban hành đầy đủ các qui trình nghiệp vụ và có hướng dẫn thực hiện đầy đủ,cụ thể đồng thời quán triệt đến từng cá nhân,cán bộ.
3.2.2.Nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định tín dụng
Chất lượng thẩm định quyết định chất lượng của ngân hàng nhất là chất lượng thẩm định dự án đầu tư.Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định như các chính sách,qui hoạch ngành vùng…Chi nhánh ngân hàng Hằng Hải Đống Đa đã và đang là ngân hàng hàng đầu về cho vay vốn trung và dài hạn trong địa bàn Hà Nội.Thẩm định dự án và cho vay theo dự án là hoạt động có tầm quan trọng bậc nhất của ngân hàng.Chi nhánh đã tiếp thu nhiều qui trình,qui định hướng dẫn…về thẩm định dự án,kiểm soát…nhằm không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định.Nội dung thẩm định ngày càng được hoàn thiện,các phương pháp thẩm định tiên tiến đang dần được áp dụng trong toàn chi nhánh.Trình độ cán bộ phân tích tín dụng và thẩm định dự án không ngừng được nâng cao.Tuy nhiên,bên cạnh những bước phát triển trên còn có một số hạn chế trong qúa trình thẩm định.Để khắc phục chi nhánh cần xem xét: Một là trước khi cho vay,ngân hàng cần dự đoán các vấn đề trong khoảng thời gian mười năm như lãi suất,tỷ giá,thị trường,công nghệ…Các hoạt động nghiên cứu này rất quan trọng và đòi hỏi thời gian cũng như chi phí lớn.Nếu hoạt động này chỉ thực hiện trong khi thẩm định sẽ nảy sinh nhiều vấn đề sẽ làm giảm hiệu quả của công tác này.Để qúa trình thẩm định có hiệu quả hơn phải giải quyết vấn đề nghiên cứu cơ bản trước khi thẩm định.
Hai là đối với cho vay ngắn hạn,nếu thấy người vay không có khả năng hoàn trả ngân hàng có thể ngừng cho vay và phát mại tài sản thế chấp,cho vay trung và dài hạn khó khăn hơn,khi phát sinh rủi ro ngân hàng khó phát mại tài sản đảm bảo.Ngân hàng cần tham gia trực tiếp vào quá trình định hướng của ngành,tham gia quá trình phân tích của chủ đầu tư.Ngân hàng có thể thẩm định một số chỉ tiêu mà ngân hàng cho là cần thiết.
3.2.3.Đẩy mạnh dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau cho vay
Một trong những nguyên nhân dẫn tới khoản nợ vay ban đầu được xác định là đủ tiêu chuẩn nhưng sau đó trở thành những khoản NQH là do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích,bế tắc trong hoạt động kinh doanh của khách hàng…Vậy vấn đề đặt ra đối với ngân hàng mà cụ thể là cán bộ tín dụng là phải làm sao theo dõi được qúa trình cũng như cách thức,hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng.Ngân hàng không thể chỉ kiểm tra qua những báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh,bảng cân đối kế toán hay các loại báo cáo tài chính mà định kỳ khách hàng cung cấp cho ngân hàng,bởi những số liệu đó có thể chưa phản ánh thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.Ngân hàng có thể kiểm tra,nắm bắt được thực trạng hoạt động của doanh nghiệp vay vốn bằng cách thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp sau cho vay.Hình thức cụ thể có thể là ngân hàng cùng tham gia tham mưu,cố vấn cho doanh nghiệp các phương án giải quyết khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải như các loại rủi ro:thanh khoản,tỷ giá,thị trường…Với trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng ngân hàng sẽ giúp khách hàng có được những phương án giải quyết phù hợp,kịp thời tránh tình trạng khi khách hàng thua lỗ không có khả năng trả nợ,ngân hàng mới biết về tình trạng này. Đối với những khoản nợ vay đã phát sinh thành NQH ngân hàng nên hỗ trợ nhằm tăng cường khả năng trả nợ của khách hàng.Tận dụng lợi thế về nguồn nhân lực am hiểu về thị trường tài chính,tiền tệ,ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về tài chính để họ có khả năng khôi phục được hoạt động,kinh doanh,tư vấn về các đối tác có quan hệ kinh tế của khách hàng để tránh xẩy ra những vụ lừa đảo,hoặc các hợp đồng vô hiệu dẫn đến rủi ro cho khách hàng.Với những doanh nghiệp có triển vọng phục hồi cao,ngân hàng nên đẩy mạnh việc chuyển nợ vay thành vốn góp.Với hình thức này,ngân hàng chuyển số tiền từ hình thức cho vay sang hình thức góp vốn và tham gia điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
Tóm lại,nếu ngân hàng đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ sau cho vay với các doanh nghiệp,ngân hàng sẽ phòng ngừa và hạn chế có hiệu quả NQH tại chi nhánh.Bằng biện pháp trên,ngân hàng không những kiểm soát được khoản vốn của mình từ đó giảm thiểu được rủi ro phát sinh NQH mà còn nâng cao được uy tín của ngân hàng.Ngân hàng thực sự trở thành kênh huy động vốn hiệu quả và an toàn cho doanh nghiệp.
3.2.4.Áp dụng hiệu quả biện pháp bán nợ xấu
Bằng việc tham gia vào thị trường mua bán nợ,ngân hàng có thể xem xét bán các khoản NQH khó đòi cho các công ty mua bán nợ,các ngân hàng hoặc các chủ thể kinh tế khác…Việc bán nợ sẽ giúp cho ngân hàng không bị ứ đọng vốn,mất cơ hội đầu tư vào các dự án có hiệu quả hơn,thực hiện các biện pháp phòng ngừa NQH hiệu quả mà không chịu ảnh hưởng từ việc giải quyết nợ tồn đọng với khách hàng.Hơn nữa các chủ thể tiến hành mua bán nợ trên thị trường hoạt động chuyên nghiệp và tận dụng được lợi thế về thông tin,qui mô,quyền hạn…và đặc biệt không chịu áp lực từ mối quan hệ với khách hàng như ngân hàng nên công việc xử lý nợ sẽ hiệu quả hơn. Để thực hiện tốt biện pháp này ngoài điều kiện khách quan là thị trường mua bán nợ phải phát triển thì bản thân ngân hàng cũng phải hoàn thiện hồ sơ giấy tờ của các khoản nợ đặc biệt là các giấy tờ của tài sản đảm bảo nợ vay,thực hiện các bước chuyển giao tài sản cần thiết…để biến khoản nợ thực sự thành hàng hóa thị trường.
3.2.5.Tăng cường kỹ năng công tác quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Phân tích đánh giá cơ cấu TSN:tiến hành nghiên cứu,phân tích toàn diện môi trường kinh doanh để dự báo về xu hướng vận động của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô,của lãi suất và tỷ giá hối đoái từ đó có kế hoạch phát triển nguồn vốn,mối quan hệ giữa vốn và sử dụng vốn trên cơ sở đó xây dựng cơ chế chính sách huy động và điều hành vốn có hiệu quả nhất.Xây dựng các chỉ tiêu an toàn về huy động vốn phù hợp với cơ cấu nguồn vốn tối ưu và tốc độ tăng trường hiệu quả TSC.
Phân tích đánh giá cơ cấu TSC:Chủ yếu đánh giá tình hình thu nhập,chi phí,kết quả kinh doanh.Đánh giá các khoản thu nhập,chi phí so với mức độ sử dụng vốn hoặc so với khối lượng vốn huy động,việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi,tỷ lệ nộp thuế ảnh hưởng tới thu nhập.Cần thận trọng,nghiên cứu sàng lọc,lựa chọn các dự án đầu tư có triển vọng tốt,hiệu quả cao để cho vay trên cơ sở thực hiện việc chuyên môn hóa theo nhóm khách hàng,loại dịch vụ và từng ngành nghề.Phân loại TSC theo qui định các hạn mức đầu tư phù hợp với mức độ rủi ro nhằm hạn chế NQH.Sử dụng có hiệu quả hệ thống các chỉ tiêu phòng ngừa rủi ro và điều chỉnh linh hoạt phù hợp với nhu cầu,khả năng tài chính của khách hàng cũng như môi trường sinh lời của ngân hàng.
Phân tích đánh giá thực hiện qui định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng:vốn tự có,TSC rủi ro được tính theo qui định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng,tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu,việc chuyển nhượng cổ phần,góp vốn mua cổ phần doanh nghiệp,vốn pháp định,vốn điều lệ.
Phân tích đánh giá về khả năng chi trả:TSC có thể thanh toán ngay so với TSN phải thanh toán ngay,tỷ lệ DTBB,đánh giá khả năng rủi ro thanh khoản cân đối vốn và sử dụng vốn,tăng trưởng TSC,TSN và các khoản vốn lớn.
3.2.6.Ngân hàng nên nghiên cứu những sản phẩm mới vừa hỗ trợ cho tín dụng vừa đem lại tiện ích cho khách hàng và ngân hàng
Việc nghiên cứu các sản phẩm như vậy là vô cùng cần thiết bởi ngân hàng nào đi đầu trong việc cung ứng một sản phẩm mới sẽ có nhiều thuận lợi về giá,thị phần…Trong xu thế nền kinh tế KH-KT đang ngày càng phát triển thì việc tiếp cận với thương mại đầu tư để phục vụ cho các KH đang và sẽ tham gia vào lĩnh vực này là công việc cần phải làm ngay.Khi tiến hành sản phẩm mới này,ngân hàng có thể làm dịch vụ thanh toán cho khách hàng và khi khách hàng thiếu tiền thì ngân hàng có thể cho vay.Ngân hàng có thể hoàn toàn yên tâm về khoản vay này bởi khách hàng đã được ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán do vậy ngân hàng có thể nắm được số dư tài khoản cũng như các luồng tiền ra vào của khách hàng để có phương án thu nợ do đó ngân hàng cần đẩy mạnh hoạt động này trong thời gian tới.
3.2.7.Tổ chức phân tích,phân loại NQH theo định kỳ
Cán bộ tín dụng coi việc phân tích,phân loại NQH là một công việc trọng yếu.Đối với từng khoản nợ có vấn đề phải phân tích chi tiết thực trạng tình hình tài chính của khách hàng,tìm ra nguyên nhân dẫn đến NQH,khả năng tài chính của khách hàng có thể thu nợ đến đâu,tìm hiểu rõ đạo đức và gia cảnh của con nợ,từ đó giúp cán bộ tín dụng nắm được nguyên nhân phát sinh để có cách giải quyết cho từng đối tượng cụ thể.
Việc phân tích,phân loại NQH phải tiến hành thường xuyên liên tục,định kỳ,khi phát hiện ra một sự thay đổi nào phải báo cáo lên trên và phải báo cáo về tình hình xử lý nợ,những khó khăn trong quá trình thực hiện về ban lãnh đạo và về NHNN để lấy ý kiến kịp thời.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ,NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC,NGÂN HÀNG HẰNG HẢI VIỆT NAM VÀ CÁC CƠ QUAN LIÊN QUAN
3.3.1.Kiến nghị với chính phủ và các bô,ngành
Một là,chính phủ cần hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng.Cụ thể là:cần hoàn thiện hơn nữa luật các tổ chức tín dụng cho phù hợp với sự phát triển của hoạt động ngân hàng trong điều kiện mới.Đồng thời cần tiếp tục bổ sung sửa đổi các luật có liên quan như luật doanh nghiệp,luật đất đai,luật dân sự,luật phá sản…Tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động của ngân hàng được an toàn,thông thoáng,phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngoài ra,Chính phủ cũng cần tạo ra các điều kiện cần thiết để xây dựng và duy trì hoạt động thị trường mua bán bất động sản chính thức tránh tình trạng các giao dịch tự phát làm cho nhiều tài sản giá trị thực thấp xa so với sổ sách.Khi thị trường này phát triển không những giúp ngân hàng tiết kiệm được thời gian và chi phí trong việc bán các tài sản đảm bảo để giải quyết nhanh chóng khoản NQH,thu hồi vốn lưu động mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khác trong nền kinh tế thực hiện các giao dịch công khai,hiệu quả.Thực hiện tốt điều này sẽ giúp chính phủ quản lý thị trường bất động sản đang thả nổi hiện nay.
Hai là,Chính phủ cần có qui định cụ thể cho phép NHTM,chủ nợ được quyền tham gia vào quá trình cơ cấu lại DNNN nhằm mục tiêu xử lý và ngăn ngừa tái diễn NQH của khu vực này.Điều này có nghĩa là chính phủ nên cho phép ngân hàng được tham gia số vốn vào doanh nghiệp >11% vốn tự có của doanh nghiệp hiện nay.Có như thế ngân hàng mới đủ cơ sở để tiến hành cải tổ lại hoạt động của doanh nghiệp.
Trường hợp nếu xét thấy doanh nghiệp Nhà nước không thể tồn tại được thì Chính phủ cũng cần ban hành nghị định cho phép ngân hàng chủ động đề nghị cho phá sản doanh nghiệp,giải thể khi cần thiết…
Ba là,hậu quả của NQH không phải do ngân hàng gây ra mà đây vốn là hậu quả của cơ cấu kinh tế không hợp lý,sự điều hành yếu kém của đại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước.Vì vậy,Chính phủ cần tiến hành đẩy mạnh công tác đổi mới sắp xếp lại cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước để ngân hàng có điều kiện tiến hành thu nợ cũng như tạo nên khu vực kinh tế mới năng động,hiệu quả hơn.Điều này,tạo cơ hội mới để ngân hàng có thể tăng cường đầu tư cho nền kinh tế và góp phần hạn chế NQH.
Bốn là,chính phủ cần có những hướng dẫn cụ thể,rõ ràng đối với các NHTM trong việc hoàn thiện thủ tục hồ sơ các khoản NQH để trình ban chỉ đạo tái cơ cấu tài chính NHTM xem xét xóa nợ và hỗ trợ chính từ ngân sach Nhà nước.
Năm là,Chính phủ cần chỉ đạo thường xuyên và giao trach nhiệm cụ thể đối với cán bộ,ngành địa phương phối hợp với ngân hàng trong việc kiểm soát NQH.Điều này sẽ giúp cho ngân hàng có thể tiến hành nhanh quá trình xử lý nợ và hạn chế những chi phí phát sinh trong quá trình thu nợ.
Sáu là,chính phủ nên chỉ đạo kiên quyết có hiệu quả công nợ dây dưa của nền kinh tế quốc dân.Cần qui định rõ trách nhiệm của Giám đốc DNNN phải thanh toán dứt điểm các khoản nợ đối với NSNN,nợ các TCTD,nợ các doanh nghiệp khác,nợ cán bộ công nhân viên…Nếu trong một thời gian mà không trả nợ được những khoản vay này thì giám đốc phải bị cách chức.
*Đối với các Bộ,Ngành Đối với bộ tài chính:trên thực tế,trong vấn đề thuế sử dụng đất,cơ quan thuế vẫn yêu cầu ngân hàng phải nộp thuế sử dụng đất trong thời gian đất được chuyển giao cho ngân hàng,thậm chí cả tiền thuế sử dụng đất mà chủ sử dụng chưa nộp.Đây là điều bất hợp lý,vì tính đến thời điểm giao đến khi ngân hàng xử lý thu hồi nợ thì ngân hàng không sử dụng đất.Do vậy,Bộ tài chính cũng cần có hướng dẫn miễn giảm vì chủ sử dụng đất cũ không còn tư cách pháp nhân,giải thể,miễn giảm Việc làm này sẽ giúp cho ngân hàng không phải chịu những chi phí không đáng có,tạo thêm năng lực tài chính cho việc xử lý nợ. Xem xét khả năng giảm thuế thu nhập cho ngân hàng trong một khoảng thời gian(trước đây thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro không hợp lý nên lợi nhuận đội lên trên mức hợp lý so với thực tế rủi ro-hiện tượng lãi giá,lỗ thật).việc giảm thuế thu nhập sẽ làm khách hàng tăng được quĩ dự phòng rủi ro và có thêm nguồn để xử lý các khoản nợ không có khả năng thu hồi. Đối với các cơ quan thực thi pháp luật:tòa án,viện kiểm sát,công an,chính quyền địa phương các cấp…cần phối hợp với ngân hàng trong việc xử lý,giải quyết các khoản nợ để kiểm soát nó.Trong nhiều trường hợp cần thiết cần sử dụng những biện pháp cứng rắn như buộc con nợ phải giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng,kiên quyết khởi kiện và tiến hành xử lý nhanh chóng kịp thời các vụ án,hoàn thiện thủ tục hồ sơ pháp lý cho những tài sản không đủ hồ sơ pháp lý cần thiết để giao cho ngân hàng xử lý theo phương án thích hợp.Đối với những con nợ không còn khả năng hoạt động cần kiên quyết thủ tục tuyên bố phá sản để giải phóng tài sản cho ngân hàng.
Chính quyền các cấp cùng cơ quan chủ quản của các doanh nghiệp có NQH,cần nâng cao trách nhiệm của mình trong việc đôn đốc con nợ thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với ngân hàng.
3.3.2.Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
NHNN đã rất quan tâm đến việc kiểm soát NQH của các NHTM bằng việc ra các văn bản hướng dẫn thực hiện kiểm soát NQH.Để tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt hơn các công tác kiểm soát NQH của mình NHNN cần: Thứ nhất,NHNN cần rà soát lại các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến việc nợ tồn đọng và tham khảo ý kiến của các ngân hàng như điều chỉnh lại quyết định 488/2000/QĐ-NHNN về việc trích lập và sử dụng quĩ dự phòng rủi ro,trong đó cần nới lỏng điều kiện của khoản vay được trích lập và sử dụng quĩ dự phòng rủi ro để xử lý sao cho phù hợp,mang tính khả thi và đạt hiệu quả cao.
Thứ hai,NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động mua bán nợ,khai thác tài sản với các tổ chức và các cá nhân khác và ngược lại.
Thứ ba,tăng cường công tác thanh tra hoạt động tín dụng của các NHTM,từ đó phát hiện các sai sót,các xu hướng lệch lạc…để chỉ đạo,phòng ngừa và chỉnh sửa,khắc phục một cách triệt để.Quá trình thanh tra cần phòng ngừa xu hướng cạnh tranh không lành mạnh,buông lỏng các điều kiện tín dụng dẫn đến nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ của một ngân hàng mà cả hệ thống.
Thứ tư,NHNN cần ban hanh qui chế chuyển nợ thành vốn góp giúp ngân hàng có cơ sở để tiến hành xúc tiến cải tổ lại hoạt động của doanh nghiệp để có thể thu hồi nợ.
Thứ năm,NHTM cũng cần ban hành thông tư về việc xử lý những tổn thất khi NHTM mua bán nợ tạo điều kiện cho các ngân hàng yên tâm xử lý NQH của mình.
3.3.3.Kiến nghị với Ngân hàng Hằng Hải Việt Nam