tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, huyện Lạc Sơn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết, đó là việc huy động các nguồn lực còn hạn chế như: việc huy động nguồn vốn tín dụ
Trang 1BÙI VĂN HUY
HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LẠC SƠN,
TỈNH HÒA BÌNH
CHUYÊN NGHÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 8310110
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS TRẦN THỊ THU HÀ
Hà Nội, 2021
Trang 2LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác
Nếu nội dung nghiên cứu của tôi trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã công bố, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và tuân thủ kết luận đánh giá luận văn của Hội đồng khoa học
Hòa Bình, ngày 10 tháng 11 năm 2021
Người cam đoan
Bùi Văn Huy
Trang 3LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập, nghiên cứu, để hoàn thành luận văn này tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới:
Cô giáo hướng dẫn: PGS,TS Trần Thị Thu Hà
Các thầy, cô giáo trong Trường Đại học Lâm nghiệp đã chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tận tình trong quá trình tôi thực hiện luận văn này
Tôi xin trân trọng cảm ơn Văn phòng điều phối NTM, UBND huyện Lạc Sơn và các ban ngành đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu, thông tin trong quá trình thực hiện luận văn trên địa bàn huyện
Sự giúp đỡ của Lãnh đạo, đồng nghiệp cơ quan và gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện
Do thời gian quá trình nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi không tránh khỏi thiếu sót và sơ xuất Tôi rất mong nhân được sự đóng góp của các quý thầy, cô giáo để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn
Xin chân thành cảm ơn!
Hòa Bình, ngày 10 tháng 11 năm 2021
Tác giả
Bùi Văn Huy
Trang 4MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG vi
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 5
1.1 Cơ sở lý luận về huy động các nguồn lực trong xây dựng NTM 5
1.1.1 Tổng quan về xây dựng nông thôn mới 5
1.1.2 Tổng quan về huy động các nguồn lực trong XDNTM 9
1.1.3 Nội dung nghiên cứu công tác huy động các nguồn lực trong XDNTM 14
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động các nguồn lực trong XDNTM 18
1.2 Cơ sở thực tiễn về huy động các nguồn lực trong xây dựng NTM 27
1.2.1 Kinh nghiệm của một số địa phương 27
1.2.2 Bài học kinh nghiệm cho huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình 31
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
2.1 Đặc điểm cơ bản của huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình 33
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên 33
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội 35
2.1.3 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Lạc Sơn 40
2.2 Phương pháp nghiên cứu 41
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu 41
2.2.2 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 43
2.2.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu sử dụng trong luận văn 43
Trang 5Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 45
3.1 Kết quả xây dựng NTM trên địa bàn huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình 45
3.1.1 Tổ chức bộ máy và nhân sự điều hành chương trình 45
3.1.2 Công tác tuyên truyền thực hiện XDNTM 45
3.1.3 Công tác lập quy hoạch và xây dựng đề án nông thôn mới 47
3.1.4 Kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới 47
3.2 Thực trạng huy động các nguồn lực trong XDNTM trên địa bàn huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình 50
3.2.1 Các chính sách huy động nguồn lực trong XDNTM 50
3.2.2 Công tác tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới 53
3.2.3 Kết quả huy động các nguồn lực trong XDNTM huyện Lạc Sơn 55
3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động các nguồn lực XDNTM trên địa bàn huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình 69
3.3.1 Các yếu tố khách quan 69
3.3.2 Các yếu tố chủ quan 71
3.4 Đánh giá chung về công tác huy động vốn xây dựng nông thôn mới tại huyện Lạc Sơn 76
3.4.1 Kết quả đạt được 76
3.4.2 Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân hạn chế, tồn tại 77
3.5 Giải pháp tăng cường huy động nguồn lực xây dựng NTM trên địa bàn huyện Lạc Sơn 80
3.5.1 Quan điểm và mục tiêu XDNTM của huyện Lạc Sơn 80
3.5.2 Giải pháp tăng cường huy động các nguồn lực cho XDNTM 82
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 PHỤ LỤC
Trang 6DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Trang 7DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Đặc điểm lao động huyện Lạc Sơn năm 2020 38 Bảng 3.1 Kết quả thực hiện XDNTM của huyện Lạc Sơn 48 Bảng 3.2 Kết quả huy động nguồn lực XDNTM giai đoạn 2018 - 2020 56
Bảng 3.3 Ý kiến đánh giá về huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước
trong XDNTM 58 Bảng 3.4 Đánh giá về việc huy động vốn tín dụng cho XDNTM 60
Bảng 3.5 Số lượng doanh nghiệp tham gia các lĩnh vực kinh tế trên địa bàn
huyện Lạc Sơn 61
Bảng 3.6 Đánh giá sự tham gia của doanh nghiệp trong XDNTM trên địa bàn
huyện Lạc Sơn 62 Bảng 3.7 Sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM 64
Bảng 3.8 Đánh giá về cách thức huy động nguồn lực từ cộng đồng dân cư
trên địa bàn huyện Lạc Sơn 67
Bảng 3.9 Đánh giá của cán bộ về các yếu tố ảnh hưởng đến huy động nguồn
lực XDNTM (N=20) 69
Bảng 3.10 Đánh giá về năng lực xây dựng, tổ chức và quản lý của cán bộ xây
dựng NTM của địa phương 71
Bảng 3.11 Đánh giá của người dân về các yếu tố ảnh hưởng đến huy động
nguồn lực XDNTM (N=90) 72
Bảng 3.12 Kênh thông tin người dân biết về xây dựng NTM (N=90) 73
Trang 8MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ hàng đầu nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết 26 - NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Thực hiện Nghị quyết 26, Nghị Quyết số 100/2015/QH13 ngày 12/11/2015 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ - TTg ngày 16/8/2016 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 (thay thế Quyết định 800/QĐ- TTg ngày 04/6/2010) Quyết định 1980/QĐ - TTg ngày 17/10/2016 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã Nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 Đây là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), chính trị và an ninh quốc phòng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội, được thực hiện trên phạm vi cả nước Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh
Do kết cấu hạ tầng nông thôn của nước ta còn nhiều yếu kém, vừa thiếu, vừa không đồng bộ; nhiều hạng mục công trình được đầu tư lâu đã xuống cấp,
tỷ lệ giao thông nông thôn được cứng hoá thấp; hệ thống thuỷ lợi cần được đầu tư nâng cấp; chất lượng lưới điện nông thôn chưa đảm bảo; cơ sở vật chất
về giáo dục, y tế, văn hoá,…còn hạn chế
Từ năm 2014 đến nay, Lạc Sơn đã triển khai và thực hiện xây dựng nông thôn mới ở tất cả các xã trên địa bàn huyện Lạc Sơn là huyện có nhiều
xã thuộc Chương trình 135 Do vậy để triển khai thực hiện chương trình mục
Trang 9tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, huyện Lạc Sơn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết, đó là việc huy động các nguồn lực còn hạn chế như: việc huy động nguồn vốn tín dụng còn hạn chế: Lượng vốn tín dụng vào khu vực nông nghiệp nông thôn vẫn còn thấp; nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa đúng đắn, cho rằng XDNTM là một dự án đầu tư của nhà nước, chủ yếu dựa vào NSNN từ trung ương, hàng năm ngân sách huyện,
xã không bố trí đầu tư cho chương trình, hoặc có bố trí nhưng không đáng kể; một số xã chưa chủ động vận động, huy động vốn đóng góp của người dân, doanh nghiệp và cộng đồng, nên tỷ lệ vốn đóng góp của người dân ở nhiều nơi rất thấp hoặc không có; chưa làm tốt công tác tuyên truyền nên người dân chua nắm được các chính sách đầu tư của nhà nước vì vậy thiếu chủ động vươn lên để tiếp cận chính sách Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: nguồn thu trên địa bàn còn thấp, nguồn đầu tư phụ thuộc lớn vào nguồn cân đối từ Trung ương; Các doanh nghiệp khó khăn về vốn, trong khi thủ tục vay vốn rất ngặt nghèo Để vay được vốn thì người vay vốn phải có thế chấp, trong khi đó người vay vốn chủ yếu lại là người nông dân nên điều kiện đó họ không đáp ứng được; Thủ tục chuẩn bị đầu tư một số công trình vẫn còn chậm; Một số công trình đầu tư vốn lớn nhưng hiệu quả mang lại còn thấp và chưa phát huy tác dụng; Tốc độ đầu tư cho công trình sản xuất chưa cao, khả năng tiếp thu vốn đầu tư có xu hướng chững lại trong những năm gần đây do tình hình kinh tế còn gặp nhiều khó khăn; Việc thực hiện thủ tục trong xây dựng và lập dự án cũng như kế hoạch đầu tư còn chậm, ảnh hưởng đến quá trình lập kế hoạch và triển khai thực hiện; Các cơ quan chức năng chưa thật
sự quyết liệt trong chỉ đạo để đưa việc quản lý xây dựng vào nề nếp Việc dự kiến chi phí thường thấp hơn chi phí thực tế và dự kiến hoàn thành thường lạc quan quá mức cũng là một nguyên nhân dẫn đến làm chậm tiến độ dự án đầu tư
Vì vậy, huy động nguồn lực thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới đang trở thành vấn đề bức thiết trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện
Trang 10Xuất phát từ thực tiễn, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Huy động
các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của
Trường Đại học Lâm nghiệp
2 Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở đánh giá thực trạng huy động các nguồn lực trong chương trình xây dựng nông thôn mới (XDNTM) từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Công tác huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về không gian: nghiên cứu tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình
- Phạm vi về thời gian: Số liệu thứ cấp: Được thu thập và tổng hợp trong giai đoạn 2018 - 2020 Số liệu sơ cấp được thu thập trong năm 2021
Trang 114 Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn mới và huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới;
- Thực trạng huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình;
- Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình;
- Giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình
5 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 03 chương:
Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới
Chương 2 Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
Chương 3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Trang 12Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN
LỰC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1 Cơ sở lý luận về huy động các nguồn lực trong xây dựng NTM
1.1.1 Tổng quan về xây dựng nông thôn mới
1.1.1.1 Các khái niệm cơ bản
a Nông thôn
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn, một môi trường sống của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội mà ở
đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn
Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn giai đoạn 2011 – 2020 của Bộ Nông nghiệp và PTNT (2009): Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã
b Nông thôn mới
Trong Quyết định 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 –
2020 đưa ra mục tiêu: xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường
Như vậy, NTM trước tiên phải là nông thôn, không phải là thị trấn, thị
xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống trong lịch sử, được khái quát theo 5 nội dung, 3 chức năng sau:
Trang 13Nông thôn mới có 5 nội dung sau đây:
- Làng xã văn minh, hạ tầng hiện đại;
- Sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa;
- Đời sống về vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn ngày càng được nâng cao;
- Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển;
- Xã hội nông thôn phát triển, an ninh tốt, quản lý dân chủ
c Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng NTM là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng gia đình, bản, xã của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao
Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị NTM không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp Qua đó, giúp cho người nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh
Xây dựng NTM là một chính sách về một mô hình phát triển cả về nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sau giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể khắc phục tình trạng rời rạc hoặc duy ý chí (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2011)
Xây dựng NTM được quy định bởi các yếu tố: Đáp ứng yêu cầu phát triển (đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường), đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội), tiến bộ hơn so với mô hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước
Trang 14Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là chương trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện; bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng Mục tiêu chung của chương trình được Đảng ta xác định trong giai đoạn mới là: Xây dựng NTM để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lư, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng
và an ninh, trật tự được giữ vững (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2011)
1.1.1.2 Sự cần thiết xây dựng nông thôn mới
- Do kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy lợi, còn nhiều yếu kém, vừa thiếu, vừa không đồng bộ); nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp, tỷ lệ giao thông nông thôn được cứng hoá thấp; giao thông nội đồng ít được quan tâm đầu tư; hệ thống thuỷ lợi cần được đầu tư nâng cấp; chất lượng lưới điện nông thôn chưa thực sự an toàn; cơ sở vật chất
về giáo dục, y tế, văn hoá còn rất hạn chế, mạng lưới chợ nông thôn chưa được đầu tư đồng bộ, trụ sở xã nhiều nơi xuống cấp Mặt bằng để xây dựng cơ
sở hạ tầng nông thôn đạt chuẩn quốc gia rất khó khăn, dân cư phân bố rải rác, kinh tế hộ kém phát triển (Đỗ Mai Thành, 2015)
- Do sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, bảo quản chế biến còn hạn chế, chưa gắn chế biến với thị trường tiêu thụ sản phẩm; chất lượng nông sản chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp còn chậm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp còn thấp; cơ giới hoá chưa đồng bộ
- Do thu nhập của nông dân thấp; số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn ít; sự liên kết giữa người sản xuất và các thành phần kinh tế khác ở khu vực nông thôn chưa chặt chẽ Kinh tế hộ, kinh tế
Trang 15trang trại, hợp tác xã còn nhiều yếu kém Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao,
cơ hội có việc làm mới tại địa phương không nhiều, tỷ lệ lao động nông lâm nghiệp qua đào tạo thấp; tỷ lệ hộ nghèo còn cao (Đỗ Mai Thành, 2015)
- Do đời sống tinh thần của nhân dân còn hạn chế, nhiều nét văn hoá truyền thống đang có nguy cơ mai một (tiếng nói, phong tục, trang phục…); nhà ở dân cư nông thôn vẫn còn nhiều nhà tạm, dột nát Hiện nay, kinh tế – xã hội khu vực nông thôn chủ yếu phát triển tự phát, chưa theo quy hoạch
- Do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, cần 3 yếu tố chính: đất đai, vốn và lao động kỹ thuật Qua việc xây dựng nông thôn mới sẽ triển khai quy hoạch tổng thể, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa
- Mặt khác, mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại Vì vậy, một nước công nghiệp không thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân nghèo khó (Đỗ Mai Thành, 2015)
1.1.1.3 Các tiêu chí nông thôn mới
Theo quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ, một xã đạt được công nhận là xã Nông thôn mới nếu đạt được các tiêu chí theo quy định của Chính phủ Cụ thể bộ tiêu chí này gồm 5 nhóm với
19 tiêu chí cụ thể như sau:
- Nhóm I: Quy hoạch (có 01 tiêu chí): Quy hoạch
- Nhóm II: Hạ tầng kinh tế - xã hội (có 08 tiêu chí): Giao thông, Thủy lợi, Điện, Trường học, Cơ sở vật chất văn hóa, Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, Thông tin và Truyền thông, Nhà ở dân cư
- Nhóm III: Kinh tế và tổ chức sản xuất (có 04 tiêu chí): Thu nhập, Hộ nghèo, Lao động có việc làm, Tổ chức sản xuất
- Nhóm IV: Văn hóa - xã hội - môi trường (có 04 tiêu chí): Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Văn hóa, Môi trường và an toàn thực phẩm
- Nhóm V: Hệ thống chính trị (có 02 tiêu chí): Hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật, Quốc phòng và An ninh
Trang 161.1.2 Tổng quan về huy động các nguồn lực trong XDNTM
1.1.2.1 Nguồn lực trong XDNTM
a Khái niệm về nguồn lực
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường ở cả trong nước và ngoài nước có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhất định (Lê Thông, 2014)
Những thứ được coi là nguồn lực phải là những thứ được sử dụng hoặc
có khả năng sử dụng trong thời kỳ dự kiến phát triển Tiềm năng chưa đưa được vào sử dụng hoặc chưa có khả năng đưa vào sử dụng thì chưa được xem xét là nguồn lực
Nguồn lực được hiểu gồm tất cả những lợi thế, tiềm năng vật chất và phi vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định nào đó
Nguồn lực bao gồm:
Con người: Lao động, tri thức
Cơ sở vật chất: Cơ sở hạ tầng và các vật chất khác
Tài chính: Tiền, của cải có thể hoán đổi
Tài nguyên thiên nhiên: Đất đai, tài nguyên, khoáng sản
Nguồn lực xã hội: Giá trị gắn kết con người lại với nhau quan hệ gia đình, văn hóa, tập quán
b Khái niệm về huy động nguồn lực
Thuật ngữ “huy động nguồn lực“ được sử dụng để mô tả tiến trình thu hút và tập hợp tiền hoặc các nguồn lực khác từ các cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, các quỹ nhân đạo, hoặc nguồn ngân sách nhà nước
Huy động nguồn lực là việc đổi một nguồn lực đang có để lấy tiền hoặc một nguồn lực cần thiết khác
Để xây dựng nông thôn mới trước hết phụ thuộc vào nguồn lực huy động được Các nguồn lực được xem xét theo số lượng và chất lượng theo
Trang 17chiều hướng khác nhau Tuy nhiên khi sử dụng các nguồn lực này cần phải có
sự kết hợp một cách hài hòa, hợp lý Tỷ lệ tham gia của mỗi yếu tố nguồn lực
để xây dựng nông thôn mới tùy thuộc vào đặc điểm của từng địa phương Điều đó có nghĩa tùy thuộc vào tỉnh, huyện, địa phương để có quyết định về
số lượng và chất lượng của mỗi yếu tố nguồn lực được huy động Nguồn vốn
sử dụng để xây dựng nông thôn mới đóng vai trò quan trọng Do đó, vấn đề huy động nguồn vốn phải đặt lên hàng đầu, cần có kế hoạch huy động từ nhà nước, doanh nghiệp và địa phương một cách hợp lý Vốn là nguồn lực có hạn
do đó mỗi địa phương cần có những phưong án để sử dụng một cách hiệu quả
Để có được điều này phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cũng như trình độ quản
lý ở các địa phưong trong quá trình xây dựng nông thôn mới Bên cạnh đó yếu tố tuyên truyền để người dân hiểu rõ xây dựng nông thôn mới chính là phục vụ lợi ích cho chính bản thân họ sẽ giúp người dân quan tâm đến chương trình lấy được sự đồng thuận, tín nhiệm của dân Đồng thời phải củng
cố, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn, nhằm nhanh chóng phát huy có hiệu quả trong quá trình sử dụng các yếu tố nguồn lực (Chu Tiến Quang, 2015),
1.1.2.2 Sự cần thiết của việc huy động nguồn lực để xây dựng nông thôn mới
Hiện nay, đòi hỏi cần phải có sự huy động và gắn kết mạnh mẽ hơn nữa các nguồn lực để đảm bảo Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt hiệu quả cao và thành công theo kế hoạch đề ra
Cơ chế huy động khá linh hoạt đã tạo ra sự chủ động cho các địa phương trong việc huy động nguồn lực Nhiều địa phương đã xây dựng các cơ chế huy động cụ thể như cơ chế vốn mồi nhằm lôi cuốn, kích thích nguồn vốn huy động đóng góp từ các cá nhân, tổ chức kinh tế trên địa bàn Bên cạnh đó, hình thức huy động được thực hiện theo hướng đa dạng các nguồn vốn thông qua lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu trên địa bàn đã tạo sự chủ động cho các địa phương trong huy động nguồn lực
Trang 18Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới là chủ trương quan trọng, hết sức đúng đắn, hợp lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ Trong những năm qua, cả nước đã đồng tình, tích cực triển khai thực hiện Chương trình huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tích cực Nổi bật là nhận thức về Chương trình ngày càng được nâng lên trong các cấp ủy đảng, chính quyền, trong nhân dân; các cơ chế chính sách được ban hành nhìn chung là kịp thời; bộ máy thực hiện Chương trình từ Trung ương đến cơ sở được tổ chức đồng bộ, thống nhất; công tác quy hoạch và lập đề án xây dựng nông thôn mới, phát triển cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội, phát triển sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở địa bàn nông thôn có nhiều tiến bộ; nguồn lực đầu tư cho Chương trình ngày càng tăng lên; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; quyền làm chủ, vai trò làm chủ của nhân dân được nâng lên; hệ thống chính trị cơ sở được vững mạnh lên; an ninh trật tự ở nông thôn được đảm bảo; đặc biệt, trong 3 năm qua, thu nhập của người nông dân đã tăng gấp gần 2 lần
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn tồn tại, hạn chế trong xây dựng nông thôn mới, trong đó nổi lên là để đạt được mục tiêu phấn đấu số xã đạt chuẩn nông thôn mới đến năm 2015 là 20% và đến năm 2020 là 50% đòi hỏi
sự nỗ lực phải lớn hơn rất nhiều; nhận thức về ý nghĩa quan trọng của Chương trình ở nhiều cơ quan, đơn vị, trong nhân dân còn chưa sâu; việc tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện còn chưa quyết liệt, nhiều nơi làm chưa tốt; nguồn lực đầu tư còn hạn chế Do đó các Bộ, ngành chức năng, các địa phương tiếp tục bám sát, thực hiện, đồng bộ các nội dung, giải pháp của Chương trình, trước hết là tập trung đưa khoa học công nghệ vào phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam; từ đó tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người dân
Trang 19Việc đưa khoa học, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp phải làm nhanh, khẩn trương, đặc biệt là trong lai tạo giống cây, con cho năng suất, chất lượng cao; đưa máy móc, công nghệ cơ giới hiện đại vào thâm canh, tưới tiêu Bên cạnh đó, các địa phương cần có các cách làm năng động, sáng tạo, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn như đầu tư làm công nghiệp, làm dịch vụ trên địa bàn nông thôn, qua đó góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, chuyển dịch lao động trực tiếp làm nông nghiệp sang làm dịch vụ, làm công nghiệp, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn Tạo sự liên kết chặt chẽ, hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm
Bên cạnh nguồn lực đầu tư, nhà nước cần đặc biệt quan tâm xã hội hóa, huy động các nguồn lực đầu tư khác vào nông thôn, đặc biệt là đầu tư cho cơ
sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, y tế, giáo dục, viễn thông Lồng ghép,
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho các chương trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương Quan tâm đến công tác đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn Đào tạo nghề theo hướng, thứ nhất là trang bị kiến thức khoa học, công nghệ, cách làm để làm tốt hơn công việc đang làm, cụ thể là làm nông nghiệp; thứ hai là đào tạo để chuyển sang làm ngành nghề khác cho thu nhập cao hơn như làm công nghiệp, làm dịch vụ trên địa bàn
Giải pháp quan trọng để thực hiện Chương trình huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới, cần hết sức quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức, phát huy sự tham gia tích cực, chủ động của nhân dân và sự quan tâm của toàn xã hội; tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách, có cơ chế đặc thù hỗ trợ xây dựng nông thôn mới ở các vùng khó khăn, có điểm xuất phát thấp; đẩy mạnh thực hiện các nội dung xây dựng nông thôn mới; đặc biệt quan tâm đến công tác lãnh đạo, điều hành, có kế hoạch hoạt động, phân công cụ thể, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực
Trang 20hiện Chương trình; kịp thời động viên, khen thưởng các cá nhân, tổ chức có nhiều thành tích trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới
1.1.2.3 Các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới
Nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới bao gồm tất cả những yếu tố đóng góp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình xây dựng nông thôn mới Đó có thể là bằng tiền (nguồn vốn), hiện vật, sức lao động, trí tuệ, nhân dân tự nguyện hiến đất…
Nguồn lực xây dựng nông thôn mới được chia thành 05 nguồn chính: + Đóng góp của cộng đồng (bao gồm cả công sức, tiền của đóng góp và tài trợ của các tổ chức, cá nhân);
+ Vốn đầu tư của các doanh nghiệp;
+ Vốn tín dụng (bao gồm cả đầu tư phát triển và thương mại);
+ Hỗ trợ từ ngân sách nhà nước;
+ Vốn tài trợ khác
Thực hiện xây dựng nông thôn mới cần có sự kế thừa, lồng ghép các chương trình, dự án đang và sẽ triển khai trên địa bàn Các công trình xây dựng phải trên cơ sở chỉnh trang, nâng cấp là chính để giảm thiểu nguồn lực trong điều kiện kinh tế còn khó khăn
Nội lực của cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới
Nội lực của cộng đồng bao gồm: công sức, tiền của do người dân và cộng đồng đầu tư bỏ ra để chỉnh trang nơi ở của gia đình mình như: xây dựng, nâng cấp nhà ở, nhà bếp; xây dựng đủ 3 công trình vệ sinh; cải tạo, bố trí lại các công trình phục vụ khu chăn nuôi hợp vệ sinh theo chuẩn nông thôn mới; cải tạo lại vườn ao để có thu nhập và cảnh quan đẹp; sửa sang cổng ngõ, tường rào đẹp đẽ, khang trang…
Đầu tư cho sản xuất ngoài đồng ruộng, soi bãi, trên đất rừng hoặc cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để có thu nhập cao
Đóng góp, xây dựng các công trình công cộng của làng xã như giao thông, kiên cố hóa kênh mương, vệ sinh công cộng…
Trang 21Tự nguyện hiến đất để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế-xã hội theo quy hoạch của xã
1.1.3 Nội dung nghiên cứu công tác huy động các nguồn lực trong XDNTM
1.1.3.1 Hệ thống chính sách huy nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách về kinh tế và xã hội cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, nhiều chủ trương, chính sách phù hợp đã phát huy hiệu quả thiết thực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn
- Chính sách về đất đai: Trong các chính sách đối với vùng nông thôn thì chính sách về đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng, Luật Đất đai năm 2013
đã khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý, Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, người
sử dụng đất có quyền được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất bị thu hồi, chính sách ruộng đất đã quy định trách nhiệm và quyền sử dụng đất, việc giao quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân đã khơi dậy tính năng động và giải phóng sức sản xuất, tạo cho người nông dân yên tâm, chủ động sản xuất, tạo ra năng xuất cao hơn, tuy nhiên từ việc thực hiện chủ trương giao đất đến hộ sản xuất cũng gây khó khăn cho việc tích tụ đất để có thể sản xuất lớn trong thời gian tới đây
- Chính sách tín dụng: Chính phủ quan tâm có nhiều chính sách về tín dụng cho vùng nông thôn, đặc biệt quan tâm đến hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu
số đặc biệt khó khăn, Nhân dân được tiếp cận các nguồn vốn vay phát triển sản xuất thông qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện, vốn vay cho học sinh, sinh viên Các chính sách tín dụng của Nhà nước góp phần quan trọng giải quyết khó khăn về vốn phát triển sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, tuy nhiên
do hạn mức vốn vay trên 01 hộ còn thấp, nên hộ nông dân khó có điều kiện về vốn sản xuất lớn
Trang 22- Chính sách về đầu tư, hỗ trợ: Chính sách Nhà nước về đầu tư, hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã và đang phát huy những tác dụng tích cực, Nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn như đường giao thông, cấp điện, nước sạch nông thôn, thủy lợi, trường lớp học, trạm y tế…
Thời gian qua đầu tư hạ tầng vùng nông thôn chủ yếu bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước Tuy nhiên do nhu cầu đầu tư quá lớn, nhất là địa bàn miền núi, đường đi lại khó khăn, dân cư sống thưa thớt; nói chung cơ sở hạ tầng nông thôn còn nhiều bất cập Nhà nước cũng có nhiều chính sách hỗ trợ cho sản xuất đối với đông bào ở khu vực nông thôn nhất là hộ nghèo, hộ cận nghèo; Tuy nhiên qua thực tế một số chính sách còn nảy sinh nhiều vấn đề bất cập như đầu tư cho hạ tầng nông thôn do nhu cầu đầu tư lớn nhất là đối với địa bàn miền núi nếu theo cách làm vừa qua “Nhà nước và Nhân dân cùng làm” chỉ huy động được một phần rất nhỏ nội lực trong dân, Nhân dân chưa chủ động làm thì không thể thành công, một số chính sách hỗ trợ trực tiếp đến
hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn tuy đã có tác động giúp đỡ bộ phận dân nghèo bớt khó khăn, có nhiều hộ gia đình đã thoát được nghèo, bên cạnh đó còn có một bộ phận nhân dân sống hưởng thụ chính sách vẫn còn tư tưởng ỷ lại chông chờ Nhà nước, có tư tưởng không muốn thoát nghèo để tiếp tục được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hiệu quả thực hiện chính sách này chưa cao
Đối với việc doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn, chính sách của Nhà nước chưa thực sự khuyến khích như về tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế giá trị gia tăng; trong huy động sức dân tham gia xây dựng nông thôn mới với các chủ trương, chính sách trước đây đều thực hiện theo chủ trương “Nhà nước và Nhân dân cùng làm” và khi thực hiện chủ yếu thực hiện bằng vốn Nhà nước, người dân có tư tưởng ỷ lại Nhà nước, thường là huy động đóng góp của Nhân dân rất khó khăn hoặc đạt mức thấp so với tiêu chí đặt ra, vì vậy về cơ chế huy động sức đóng góp của Nhân dân trong thời gian
Trang 23tới phải xoay theo hai hướng “Nhân dân làm còn Nhà nước hỗ trợ” mới có thể thành công trong xây dựng nông thôn mới
Tóm lại cơ chế, chính sách của Nhà nước có vai trò rất quan trọng , nếu không phù hợp thì có thể kìm hãm, làm chậm sự phát triển, còn nếu phù hợp với yêu cầu thực tiễn thì nó góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khai thông các nguồn lực cho sự phát triển, đòi hỏi trong thời gian tới Nhà nước phải bãi bỏ một số chính sách không phù hợp, tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số chính sách đã có nhưng có nội dung không còn phù hợp hoặc ban hành các cơ chế, chính sách mới cần thiết cho yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn
1.1.3.2 Công tác tuyên truyền để xây dựng nông thôn mới
Tổ chức phát động, tuyên truyền, phổ biến, vận động từ trung ương đến
cơ sở, để mọi tầng lớp nhân dân hiểu và cả hệ thống chính trị tham gia Thường xuyên cập nhật, đưa tin về các mô hình, các điển hình tiên tiến, sáng kiến và kinh nghiệm hay về xây dựng nông thôn mới, huy động nguồn lực để xây dựng nông thôn mới trên các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến
và nhân rộng các mô hình này
Phát động phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới trong toàn quốc Nội dung xây dựng nông thôn mới phải trở thành một nhiệm vụ chính trị của địa phương và các cơ quan có liên quan
1.1.3.3 Kết quả huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới
Để huy động được các nguồn lực, cần thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn huy động để triển khai thực hiện chương trình này
Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia; các chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu trên địa bàn, bao gồm:
- Vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án
hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai trên địa bàn nông thôn và tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo gồm: chương trình giảm nghèo; chương trình quốc gia về việc làm; chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn;
Trang 24chương trình phòng, chống tội phạm; chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình; chương trình về văn hóa; chương trình giáo dục đào tạo; hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo, cho trẻ em dưới 6 tuổi…; đầu tư kiên cố hóa trường, lớp học; kiên cố hóa kênh mương; phát triển đường giao thông nông thôn; phát triển cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, làng nghề…;
- Vốn ngân sách hỗ trợ trực tiếp của chương trình này, bao gồm cả trái phiếu Chính phủ (nếu có);
Huy động tối đa nguồn lực của địa phương (tỉnh, huyện, xã) để tổ chức triển khai Chương trình Hội đồng nhân dân tỉnh quy định tăng tỷ lệ vốn thu được từ đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn xã (sau khi đã trừ đi chi phí) để lại cho ngân sách xã,
ít nhất 70% thực hiện các nội dung xây dựng nông thôn mới;
Huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp đối với các công trình có khả năng thu hồi vốn trực tiếp; doanh nghiệp được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được ngân sách nhà nước hỗ trợ sau đầu tưvà được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật;
Các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện của nhân dân trong xã cho từng dự án cụ thể, do Hội đồng nhân dân xã thông qua;
Các khoản viện trợ không hoàn lại của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho các dự án đầu tư; Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng:
- Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước được trung ương phân bổ cho các tỉnh, thành phố theo chương trình kiên cố hóa kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn và theo danh mục quy định tại Nghị định số: 106/2008/NĐ-
CP, ngày 19 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ;
Trang 25- Vốn tín dụng thương mại theo quy định tại Nghị định số: 41/2010/NĐ- CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động các nguồn lực trong XDNTM
1.1.4.1 Các yếu tố khách quan
a Cơ chế chính sách huy động nguồn lực
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp lâu dài gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, do đó cần phải kiên trì để thực hiện mục tiêu đề ra trong cả hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện, tránh chủ quan nóng vội, bệnh thành tích; phải khơi dậy ý chí tự lực vươn lên của chính bản thân người dân
Đặc biệt, các chính sách xây dựng nông thôn mới phải thường xuyên được tổ chức rà soát, đánh giá, mang tính hệ thống để người dân tiếp cận thuận tiện, hiệu quả hơn; những chính sách qua thực hiện thấy bất hợp lý phải khẩn trương được sửa đổi, thay thế Chính sách xây dựng nông thôn mới cần phù hợp với từng địa phương; đầu tư trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải,
có các chính sách xây dựng nông thôn mới chung, có chính sách đặc thù cho từng vùng khó khăn
Một số chính sách có ý nghĩa tích cực từ phía Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huy động nguồn lực như: Chính sách quy hoạch; quản
lý và sử dụng đất đai; chính sách hỗ trợ vốn của Nhà nước; chính sách tín dụng, tạo vốn, huy động vốn, khuyến khích ưu đãi đầu tư; chính sách về quản
lý đầu tư xây dựng và quản lý ngân sách Trong đó, chính sách hỗ trợ về vốn của nhà nước đối với các vùng nông thôn, đặc biệt là những vùng còn có nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội là vô cùng cần thiết và thường được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu như: Các chương trình kiên cố hoá kênh mương; kiên cố hoá đường GTNT; kiên cố hoá trường, lớp học; cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Chính sách phân cấp cho
Trang 26các cấp chính quyền địa phương trong phê duyệt và thực hiện các dự án sẽ góp phần phát huy tính chủ động, năng động và sáng tạo của các địa phương trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đồng thời cũng góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước
b Sự tham gia của các tổ chức tín dụng và các thành phần kinh tế
Với sự chỉ đạo quyết liệt, sự vào cuộc mạnh mẽ, đồng bộ của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư, Chương trình
đã trở thành một phong trào sôi nổi, rộng khắp trên cả nước Sau 10 năm triển khai, Chương trình đã đạt được những kết quả quan trọng, theo như đánh giá của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước là “to lớn, toàn diện và mang tính lịch sử” Đến hết năm 2020, Chương trình đã hoàn thành vượt 12,4% số xã đạt chuẩn NTM so với mục tiêu; đến tháng 7/2021, cả nước đã có 64,6% số xã đạt chuẩn NTM; có 194 đơn vị cấp huyện (chiếm 29%) thuộc 51 tỉnh, thành phố đạt chuẩn NTM; có 12 tỉnh, thành phố đã có 100% số xã đạt chuẩn NTM, trong đó có 04 tỉnh đã được công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2020 đạt 41,7 triệu đồng/người/năm, gấp 1,7 lần so với năm 2015 và gấp 3,25 lần so với năm 2010; tỉ lệ hộ nghèo đa chiều khu vực nông thôn năm 2020 còn khoảng
7,1%, giảm 4,7% so với năm 2016 (Báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện Chương trình xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020 và một số điểm mới cho việc thực hiện Chương trình giai đoạn 2021-2025)
c Thu nhập của người dân
Chương trình XDNTM nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, thúc đẩy bình đẳng giới; xây dựng hạ tầng kinh tế-
xã hội nông thôn đồng bộ và từng bước hiện đại, bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hóa truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững
Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn tiệm cận với khu vực đô thị là một trong số các mục tiêu xuyên suốt trong quá trình
Trang 27triển khai, thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới (XDNTM)
Mục tiêu chủ yếu trong XDNTM là để đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn tiệm cận với khu vực đô thị, kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn đồng bộ, hiện đại và kết nối với quá trình đô thị hóa
1.1.4.2 Các yếu tố chủ quan
a Công tác chỉ đạo, điều hành của cấp uỷ và chính quyền
Công tác lãnh chỉ đạo điều hành được thể hiện ở ý trí, quyết tâm vào cuộc với những hướng đi, việc làm cụ thể Bắt đầu từ khâu lập quy hoạch, đề
án xây dựng nông thôn mới Làm tốt công tác quy hoạch nông thôn mới, giúp địa phương có cách nhìn đúng đắn, một hướng đi bền vững trong tương lai
Nó giúp cho địa phương cân đối nguồn lực một cách hợp lý, không để nhân dân đóng góp quá sức, giảm thiểu nợ đọng, nợ công trong xây dựng nông thôn mới
Để thực hiện được chương trình nông thôn mới cơ quan quản lý nhà nước đóng vai trò rất quan trọng Chính cơ quan nhà nước xây dựng đưa ra nghị quyết và những văn bản hướng dẫn để thực hiện chương trình nông thôn mới Sau đó đóng vai trò trong vấn đề định hướng, quy hoạch, kiểm tra giám sát đối với vấn đề thực hiện Đội ngũ cán bộ là khâu có tính quyết định trong việc tiếp nhận, triển khai xây dựng NTM Đội ngũ cán bộ tốt, tâm huyết, đoàn kết, có tầm, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ và có uy tín đối với nhân dân và trong điều hành có được tính chủ động, sáng tạo, biết lập và điều hành kế hoạch theo một trình tự khoa học, biết cách tổ chức phát huy dân chủ, tổ chức thi đua, thu hút công đồng tham gia; chủ động kiểm tra, tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, cách làm mới có hiệu quả để nhân lên Đồng thời, biết tôn trọng nguyên tắc, tôn trọng các quy định của pháp luật đảm bảo phong trào phát triển đến đâu, bền vững đến đó Vấn đề triển khai lựa chọn xây dựng các công trình sát thực với yêu cầu sản xuất và phục vụ cho người dân cần
Trang 28được Đảng bộ và nhân dân bàn bạc kỹ lưỡng trước xây dựng sẽ được người dân đồng tình cao và tích cực đóng góp nguồn lực Quy trình huy động nguồn lực trong dân luôn được bàn kỹ với phương châm dân đứng ra tổ chức triển khai là chính Như vậy mới nhận được sự đồng thuận của nhân
b Năng lực của cán bộ chương trình XDNTM
Đội ngũ cán bộ là khâu có tính quyết định trong việc tiếp nhận, triển khai xây dựng NTM Đội ngũ cán bộ tốt, tâm huyết, đoàn kết, có tầm, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ và có uy tín đối với nhân dân và trong điều hành có được tính chủ động, sáng tạo, biết lập và điều hành kế hoạch theo một trình tự khoa học, biết cách tổ chức phát huy dân chủ, tổ chức thi đua, thu hút công đồng tham gia; chủ động kiểm tra, tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, cách làm mới có hiệu quả để nhân lên
Trong công tác chỉ đạo, điều hành luôn phát huy trí tuệ tập thể, đặc biệt
đề cao vai trò của người đứng đầu, tăng cường tuyên truyền động viên khích
lệ cả hệ thống chính trị đồng bộ vào cuộc, nói đến NTM, mỗi cán bộ từ huyện đến các cụm dân cư, ai cũng là những tuyên truyền viên cho phong trào xây dựng NTM
Để huy động được nguồn lực cho quá trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi cán bộ cán bộ xã, thôn phải có năng lực và trình độ nhất định Hiện nay ở nhiều địa phương khó khăn trình độ cán bộ quản lý ở các địa phương còn thấp, hạn chế về khả năng lãnh đạo, quản lý, điều hành trong xây dựng NTM Bên cạnh đó, các cán bộ triển khai chương trình chủ yếu là kiêm nhiệm (cấp huyện, cấp xã, cấp thôn) do đó công tác triển khai thực hiện, giám sát, chưa kịp thời, nhiều vướng mắc phát sinh chưa được tháo gỡ Một bộ phận cán bộ ở cơ quan chuyên môn của huyện chưa nắm chắc đầu việc, vấn đề để tham mưu đúng, trúng cho chính quyền trong việc tổ chức thực hiện Nhiều cán bộ tham mưu không nắm rõ tình hình của địa phương do đó có thể đưa ra những phương án không hợp lý với địa phương đó
Trang 29Năng lực tổ chức, quản lý của đội ngũ cán bộ cơ sở để huy động nguồn lực từ người dân mới có hiệu quả, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực, nhiệt tình, uy tín và trách nhiệm với công việc Năng lực tổ chức, quản lý và điều hành, vận động và thuyết phục người dân của đội ngũ cán bộ
cơ sở có tính chất quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng nông thôn mới
Đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực, trình độ, uy tín và trách nhiệm thì làm việc sẽ khoa học và hiệu quả, chủ động và sáng tạo trong tổ chức thực hiện các kế hoạch, đề án… phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, lôi cuốn vận động người dân cùng tham gia thực hiện, đóng góp trí tuệ, tài chính, sức lao động… xây dựng các công trình trên địa bàn, người dân yên tâm, tin tưởng vào chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước
Do vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức, quản lý cho đội ngũ cán bộ cơ sở là rất cần thiết và quan trọng, về lâu dài phải đào tạo đội ngũ cán bộ tại địa phương có trình độ, năng lực tổ chức, quản lý để lãnh đạo,
tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới
c Khả năng tổ chức và quản lý nguồn lực
Huy động nhân dân đóng góp xây dựng nông thôn mới, điều quan trọng nhất đó là phải minh bạch, đồng thời tăng cường công tác quản lý giám sát nguồn lực, không để lãng phí, thất thoát trong quá trình thực hiện Việc tổ chức, quản lý nguồn lực tốt giúp người dân yên tâm hơn đối với những nguồn lực do mình đóng góp (tiền, hiện vật), tạo động lực tích cực cho công tác huy động nguồn lực
Xây dựng NTM là một quá trình chứ không đơn thuần là một chương trình, dự án đầu tư, một công trình đồ sộ và để thành công cần rất nhiều kinh phí.Vì vậy, cần phải huy động, tổng hợp được nhiều nguồn lực xây dựng NTM Khả năng huy động vốn ở mỗi địa phương là khác nhau, tuy nhiên
Trang 30ngoài tranh thủ nguồn vốn ngân sách cần phải tận dụng tối đa nguồn vốn của doanh nghiệp, tín dụng và đặc biệt là sự đóng góp công sức, tiền của của người dân và cộng đồng Nơi nào huy động được nhiều nguồn lực thì triển khai thuận lợi và ngược lại Bên cạnh việc huy động được các nguồn lực thì việc quản lý nguồn lực xây dựng NTM cũng rất quan trọng để bảo toàn, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xây dựng NTM
Theo kế hoạch, số vốn và nguồn vốn thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới bao gồm: Vốn ngân sách trung ương (vốn
từ các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai và sẽ tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo trên địa bàn là khoảng 23% Vốn trực tiếp cho chương trình để thực hiện các nội dung theo quy định là khoảng 17%) Vốn tín dụng khoảng 30%; vốn từ các
DN, các loại hình kinh tế khác khoảng 20% và huy động đóng góp của cộng đồng dân cư khoảng 10%
Để thực hiện thành công chương trình trong thời gian tới cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc huy động các nguồn lực để tập chung xây dựng nông thôn mới trong đó có nguồn lưc tài chính Chính phủ đã xác định thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn huy động để triển khai thực hiện Trong đó cùng với thực hiện lồng ghép các nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình dự án hỗ trợ trên địa bàn và nguồn vốn ngân sách hỗ trợ trực tiếp của Chương trình này bao gồm cả trái phiếu Chính phủ thì cần huy động tối đa nguồn lực của địa phương
Vấn đề huy động nguồn lực rất quan trọng đối với chương trình xây dựng nông thôn mới tuy nhiên ngân sách cho công tác huy động nguồn lực này đang rất hạn chế Kinh phí cấp cho hoạt động này còn thấp so với yêu cầu thực tiễn nên nhiều địa phương triển khai các hoạt động còn hình thức, chất lượng chưa cao; hay thể chế về chế độ đãi ngộ, thu hút cán bộ, viên chức công tác trong vấn đề huy động nguồn lực còn nhiều bất cập và thấp, từ đó ảnh
Trang 31hưởng đến quá trình xây dựng nông thôn mới Việc tăng cường huy động các nguồn lực tài chính và hỗ trợ xã hội, cho công tác này là hết sức cần thiết, qua
đó các tổ chức xã hội, nghề nghiệp sẽ đóng góp “sức người, sức của” để cùng với nhà nước làm tốt công tác này
Ngoài ra, cần huy động vốn đầu tư của DN đối với các công trình có khả năng thu hồi vốn trực tiếp; các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân
và các nguồn vốn tín dụng, các khoản viện trợ không hoàn lại của các DN, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho các dự án đầu tư
Để thực hiện nhiệm vụ huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ nhiều Bộ, ngành Về phía Bộ Tài chính, sẽ tiếp tục tập trung thực hiện các chính sách ưu đãi về thu tiền sử dụng đất, về thuế giá trị gia tăng, thuế TNDN nhằm khuyến khích đầu tư, nhất là các dự án đầu tư
áp dụng công nghệ cao, công nghệ chế biến nông sản thực phẩm sau thu hoạch, dự án đầu tư vào các vùng đặc biệt khó khăn phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu; Thực hiện rà soát các khoản phí, lệ phí thuộc lĩnh vực nông nghiệp và các loại phí, lệ phí người nông dân phải đóng khi được cung cấp các dịch vụ công để đề xuất miễn, giảm cho nông dân; Tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thông qua chương trình kiên cố hóa kênh mương, đường giao thông nông thôn, cơ
sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản
d Hiệu quả của công tác tuyên truyền về XDNTM
Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta Những năm qua công tác tuyên truyền được xem là nhiệm vụ quan trọng, hàng đầu trong việc tổ chức, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới từ Trung ương đến địa phương Thông qua công tác tuyên truyền giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của chương trình xây dựng nông thôn mới, tạo
sự thống nhất từ nhận thức đến hành động về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Trang 32- xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất hợp
lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao
Tuyên truyền sâu rộng, thay đổi nhận thức của cán bộ và nhân dân đối với chương trình xây dựng NTM Một bộ phận cán bộ và nhân dân vẫn còn tư duy chương trình xây dựng nông thôn mới là sự đầu tư vốn của nhà nước để xây dựng các công trình, hạ tầng trong nông thôn thì tư duy đó phải được xóa
bỏ, thay vào đó là ý thức, tinh thần toàn dân chung tay xây dựng nông thôn mới với phương châm lấy sức dân để lo cho dân Xây dựng nông thôn mới từ trong nhà ra ngõ, từ gia đình đến thôn, xóm, đến đồng ruộng, đồng thời phát huy nội lực là chính, tạo không khí thi đua tích cực trong toàn dân
e Sự phối hợp giữa các ban, ngành
Công tác phối hợp giữa các ban ngành trong đó Ủy ban Mặt trận TQVN phối hợp với chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện thực hiện các chương trình phối hợp có vai trò quan trọng Với nhiều nội dung phong phú, đa dạng, gắn với thực tiển đời sống Nhân dân sẽ đem lại nhiều hiệu quả thiết thực Công tác phối hợp đã phát huy được hiệu quả; trách nhiệm phối hợp giữa các bên được nâng cao, mối quan hệ công tác ngày càng chặt chẽ, huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội vào các phong trào, các cuộc vận động, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, nhân đạo từ thiện ở địa phương Rõ nét nhất là phối hợp với chính quyền trong thực hiện giảm nghèo bền vững xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh
Việc triển khai lồng ghép chương trình phối hợp giảm nghèo bền vững vào các nội dung Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới,
đô thị văn minh” ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tăng cường xây dựng tinh thần đoàn kết, làm chủ, tự quản tại cộng đồng Thông qua các chương
Trang 33trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, vận động Nhân dân đoàn kết tham gia phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chú trọng xây dựng các mô hình điểm về phát triển kinh tế, từng bước tăng thu nhập cho người dân
Thông qua việc phối hợp, nhân dân giúp nhau vốn, giống, kinh nghiệm sản xuất, các tổ chức thành viên hình thành nhiều nhóm hùn vốn, liên kết, tiết kiệm, tổ tự quản vay vốn, các tổ khuyến nông, khuyến ngư để chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật…Từ các nguồn kết nối được, Mặt trận các cấp
hỗ trợ các hộ nghèo phương kế sản xuất từ đó đã giúp nhiều hộ thoát nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng
g Khả năng lồng ghép với các chương trình
Các Chương trình mục tiêu quốc gia thời gian qua thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực, trong đó chương trình xây dựng nông thôn mới đã trở thành cuộc vận động lớn, thay đổi bộ mặt nông thôn, hoàn thành mục tiêu trước kế hoạch gần 2 năm Tuy nhiên, việc lồng ghéc các chương trình đang còn hạn chế Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo các cấp ở địa phương chung cho các Chương trình mục tiêu quốc gia để nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ đạo, điều hành, đồng thời bảo đảm phân công hợp lý, không chồng chéo, nhất là việc lồng ghép thực hiện các chương trình trên cùng địa bàn Các đại biểu cũng đề nghị trong xây dựng nông thôn mới Chính phủ xây dựng tiêu chí khung và giao cho địa phương cụ thể hóa các tiêu chí để phù hợp với thực tiễn
và rà soát một số tiêu chí để bảo đảm tính khả thi
Nếu không có Chương trình mục tiêu quốc gia, không có chủ trương chính sách đủ mạnh thì khó có thể đạt được mục tiêu giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền; nhấn mạnh để thực hiện được các mục tiêu dù giảm nghèo bền vững hay nông thôn mới thì việc lồng ghép các chương trình, mục tiêu, nguồn vốn thực hiện là hết sức quan trọng Bên cạnh việc ban hành, điều chỉnh các tiêu chí để các địa phương chưa đạt
Trang 34chuẩn phấn đấu thực hiện đạt thì cũng cần có cơ chế để các nơi đã đạt tiêu chí
ở giai đoạn trước tiếp tục củng cố, nâng cao, duy trì và phát triển thành quả xây dựng nông thôn mới
Ngoài việc xây dựng khung tiêu chí chung áp dụng trên cả nước thì cũng cần các quy định để khuyến khích các địa phương xây dựng tiêu chí nâng cao phù hợp với tình hình địa phương và khuyến khích xây dựng các tiêu chí riêng để địa phương được chủ động, sáng tạo thực hiện thúc đẩy phát triển
1.2 Cơ sở thực tiễn về huy động các nguồn lực trong xây dựng NTM
1.2.1 Kinh nghiệm của một số địa phương
1.2.1.2 Kinh nghiệm của huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội
Sau gần 5 năm thực hiện chương trình XDNTM, Đan Phượng đã trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của thành phố Hà Nội Đạt được thành công này là do huyện đã huy động được đa dạng các nguồn lực đầu tư
Cũng như những địa phương khác ở Hà Nội, khi bắt tay vào thực hiện chương trình XDNTM, nhìn chung sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng còn manh mún, lạc hậu, hạ tầng nông thôn xuống cấp, thiếu đồng bộ Người dân không mặn mà với sản xuất nông nghiệp, không mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất để giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập Ô nhiễm môi trường, nhất là tại các làng nghề gây bức xúc trong người dân Vì thế, khi thực hiện xây dựng nông thôn mới, Đan Phượng xác định công tác tư tưởng, tuyên truyền để tạo sự đồng thuận trong nhân dân phải đi trước một bước Huyện đã tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền, như các buổi nói chuyện chuyên đề, lồng ghép với các hoạt động văn hóa, văn nghệ; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu xây dựng nông thôn mới Cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc Từ bí thư chi bộ đến cán bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cụm dân cư đều trở thành tuyên truyền viên tích cực, giúp người dân hiểu rõ vai trò của mình trong xây dựng nông thôn mới Người dân được trực tiếp tham gia góp ý vào quá trình xây dựng nông thôn mới, từ xây dựng đồ án quy
Trang 35hoạch, lập phương án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế đến việc lựa chọn các tiêu chí, dự án cần làm trước, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, khả năng huy động vốn của địa phương để thực hiện, tạo động lực thực hiện các tiêu chí tiếp theo
Đan Phượng xác định xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là tiền đề phát triển kinh tế - xã hội Huyện đã phát huy dân chủ cơ sở, vận dụng sáng tạo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, người dân hưởng lợi, trong đó mạnh dạn đặt mục tiêu huy động nguồn lực từ cộng đồng là nhân tố quyết định để đầu tư xây dựng nông thôn mới Ngay từ trước khi thành phố có chính sách hỗ trợ các địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng, Đan Phượng đã hỗ trợ gần một phần ba giá trị nguyên vật liệu xây dựng, còn người dân tự đứng ra đóng góp và làm đường làng, ngõ xóm Cách làm này đã mang lại hiệu quả rõ nét tại những xã có đời sống kinh tế khá, đông dân cư, hình thành nên nhiều tuyến đường khang trang, sạch đẹp Nhưng đối với những xã vùng bãi xa trung tâm, đời sống người dân còn khó khăn thì chưa thực hiện được
Đến khi thành phố có chủ trương hỗ trợ các địa phương nguyên vật liệu
để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, huyện đã nhanh chóng “chớp” thời cơ này Tuy nhiên, thay vì hỗ trợ sau đầu tư, khi công trình hoàn thành, Đan Phượng đã mạnh dạn đứng ra “mua chịu” nguyên vật liệu để cung cấp sớm cho người dân Lãnh đạo huyện đã vận động các doanh nghiệp cung ứng nguyên vật liệu xây dựng cung cấp hàng theo hình thức trả chậm để ứng trước cho các xã làm đường giao thông Khi đã có nguyên vật liệu, Ban chỉ đạo huyện kiểm tra thực tế và duyệt thiết kế từng tuyến đường để bảo đảm các công trình bảo đảm chất lượng Các doanh nghiệp tư vấn miễn phí, còn các đơn vị thi công ủng hộ một phần giá trị nhân công và máy móc Đáng chú ý, người dân đã tự nguyện đóng góp ngày công, nhiều hộ dân hiến đất mở rộng đường tại các khúc cua Cả huyện như một công trường xây dựng lớn Nhờ vậy, chỉ sau hai tháng thực hiện theo hình thức này đã có hàng chục ki-lô-mét
Trang 36đường trục, đường xóm ngõ hoàn thành Cách làm này không chỉ tiết kiệm ngân sách nhà nước, huy động nguồn lực của người dân mà còn tạo ra không khí đoàn kết, phấn khởi trong nhân dân Trong tổng số hơn 450 tỷ đồng đầu tư giao thông nông thôn, người dân đã tự nguyện đóng góp gần 130 tỷ đồng
Thành công trong huy động nguồn lực xây dựng đường giao thông đã góp phần quan trọng giúp Đan Phượng thực hiện các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp được thuận lợi Huyện đã chuyển đổi hơn 950 ha đất canh tác sang trồng cây có giá trị kinh tế cao, trong đó có gần 400 ha trồng cây ăn quả lâu năm như bưởi, cam, hơn 310 ha trồng hoa, hơn 110 ha trồng rau Giá trị sản xuất từ 160 đến 250 triệu đồng/ha/năm Chuyển dịch chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa Quy hoạch và xây dựng sáu cụm công nghiệp làng nghề và phát triển gần 550 doanh nghiệp, thu hút hơn 6.200 lao động… Nhờ
đó, đời sống người dân ngày càng được nâng cao Thu nhập bình quân đầu người cuối năm 2014 đạt gần 29 triệu đồng/năm, dự kiến hết năm 2015 đạt hơn 33 triệu đồng
Theo Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện Đan Phượng, bằng việc huy động đa dạng các nguồn lực xây dựng nông thôn mới, cho nên trong gần năm năm qua huyện đã huy động được gần 2.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách thành phố cấp hơn 540 tỷ đồng, ngân sách huyện hơn 880 tỷ đồng, ngân sách xã hơn 122 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp, hợp tác xã gần 100 tỷ đồng và người dân đóng góp hơn 200 tỷ đồng góp phần xây dựng thành công huyện
nông thôn mới (Nguồn: so/825498/dan-phuong-no-luc-tro-thanh-huyen-nong-thon-moi-nang-cao) 1.2.1.3 Kinh nghiệm huy động nguồn lực tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình
//nhipsonghanoi.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/co-Nét nổi bật trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về XDNTM của huyện Yên Mô, Ninh Bình là huy động nguồn lực - một trong những yếu tố quan trọng của XDNTM Trong 5 năm qua, toàn huyện đã huy động tổng số kinh phí trên 1 310 tỷ đồng
Trang 37Sau 5 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM, một trong những bài học được Yên Mô rút ra đó là huy động sức dân, tạo nguồn lực lớn cho xây dựng NTM ở hầu hết các địa phương, nhất là những xã đã hoàn thành 19 tiêu chí và được công nhận là xã NTM như Yên Thắng, Yên Hòa, Yên Từ, Yên Thái thì các tiêu chí đường giao thông nông thôn, nhà ở, cơ
sở vật chất văn hóa xã hội,…đều do người dân tự nguyện đóng góp tiền của, công sức cùng sự hỗ trợ của Nhà nước để hoàn thành
Từ việc phát động phong trào chung sức XDNTM, đã có nhiều tấm gương điển hình, gương mẫu trong hiến đất, góp công, góp của để XDNTM Được xã vận động, tuyên truyền, người dân đã hiểu tầm quan trọng, ý nghĩa của đường giao thông nông thôn và các công trình hạ tầng khác trong việc phát triển kinh tế-xã hội nên đông đảo nhân dân trên địa bàn xã đã đồng tình hưởng ứng, tham gia Nhiều hộ đã hiến đất, phá dỡ công trình phụ đang sinh hoạt để mở rộng, nâng cấp đường giao thông nông thôn
Theo đại diện lãnh đạo UBND huyện Yên Mô, để có nguồn vốn XDNTM, các địa phương đã huy động cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc Việc huy động các nguồn lực XDNTM phải cân đối để vừa đảm bảo thực hiện được mục tiêu, vừa huy động được sức dân và nguồn lực khác của địa phương Đồng thời đề cao trách nhiệm của người dân đối với cộng đồng, chủ động lồng ghép các chương trình, lựa chọn những dự án cần ưu tiên, phù hợp với điều kiện thực tế Các địa phương xây dựng lại (hoặc bổ sung) các quy chế, hương ước phù hợp với tập quán từng vùng, làm căn cứ để nhân dân góp công, góp sức cùng XDNTM Từ đó nguồn kinh phí để thực hiện chương trình có tính thực tiễn và hiệu quả hơn, người dân thể hiện được vai trò làm chủ của mình trong XDNTM Cách làm này đã tạo được sự đồng thuận cao giữa chính quyền và người dân trong việc triển khai thực hiện các tiêu chí XDNTM Kết quả, 5 năm qua, toàn huyện đã huy động cho XDNTM tổng số kinh phí trên 1.207,7 tỷ đồng, trong đó vốn huy động của nhân dân trên 565 tỷ đồng Nhiều
Trang 38công trình như đường giao thông nông thôn, nhà văn hóa có sự đóng góp của nhân dân đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, đáp ứng được nhu cầu dân sinh và phát triển kinh tế-xã hội của địa phương
Sau 5 năm triển khai, Yên Mô có 4 xã đạt chuẩn NTM, số tiêu chí bình quân đạt 12 tiêu chí/xã (tăng 7 tiêu chí so với năm 2011) Tuy đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các xã của huyện Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là
hệ thống giao thông, thủy lợi và cơ sở vật chất văn hóa chưa đồng bộ Nông nghiệp, nông thôn có mặt còn thiếu quy hoạch; thực hiện mối liên kết “4 nhà” chưa được phát huy, các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh sản phẩm thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá
thanh-cac-tieu-chi-huyen/d20201213122852388.htm)
(Nguồn://baoninhbinh.org.vn/yen-mo-huy-dong-cac-nguon-luc-hoan-1.2.2 Bài học kinh nghiệm cho huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình
Từ thực tiễn huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới các một số địa phương trong nước, luận văn rút ra một số kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới tại huyện Lạc Sơn như sau:
Đối với công tác lãnh chỉ đạo: Ban chỉ đạo XDNTM từ huyện đến thôn phải xây dựng được chương trình và quy chế làm việc, xây dựng kế hoạch thực hiện trong từng năm theo đề án NTM của huyện và của các xã Phân công cụ thể mỗi thành viên BCĐ phụ trách một đơn vị Mỗi phòng ban chức năng có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các tiêu chí liên quan đến ngành phụ trách Hàng tháng, tại các hội nghị giao ban của huyện, các thành viên BCĐ, các ban ngành, Đoàn thể báo cáo kết quả triển khai của đơn vị và tiến độ thực hiện các tiêu chí NTM Có sự kiểm tra, sơ kết, tổng kết, thúc đẩy thực hiện chương trình
Trang 39Tuyên truyền sâu rộng, thay đổi nhận thức của cán bộ và nhân dân đối với chương trình XDNTM XDNTM từ trong nhà ra ngõ, từ gia đình đến thôn, xóm, đến đồng ruộng, đồng thời phát huy nội lực là chính, tạo không khí thi đua tích cực trong toàn dân
XDNTM phải có cách làm chủ động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện
và đặc điểm của từng xã, không thụ động chờ đầu tư cơ sở hạ tầng; lựa chọn các tiêu chí có khả năng đi trước như: nhà ở dân cư, khuôn viên, tường rào, nước sạch, nhà vệ sinh, làng xanh, văn minh sạch đẹp, không có
tệ nạn xã hội, v.v…, theo phương châm “dễ làm trước, khó làm sau”; phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị, của cộng đồng dân cư, con em địa phương làm ăn xa và các doanh nhân thành đạt tham gia xây dựng quê hương
Phải đa dạng hoá việc huy động nguồn lực để XDNTM Theo phương châm “Huy động nguồn lực từ cộng đồng là quyết định, sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là cần thiết” Việc sử dụng nguồn lực vào các công trình công cộng phải được người dân bàn bạc dân chủ và thống nhất, có giám sát cộng đồng, đảm bảo công khai, minh bạch Việc huy động nguồn lực trong dân theo nhiều hình thức: Đóng góp trực tiếp bằng công sức, tiền của vào các công trình cộng đồng, cải tạo nâng cấp nơi ở, công trình vệ sinh, cải tạo vườn, ao, sửa sang cổng ngõ
Xác định NTM không phải là một danh hiệu, đó là một chương trình mục tiêu lâu dài, bền vững với mục tiêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân Vì vậy, để xây dựng NTM thành công phải bắt đầu từ tổ chức sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, nâng cao giá trị/ha canh tác cũng như thu nhập cho người dân
Phải có các chính sách hỗ trợ xây dựng NTM Các chính sách với mức
hỗ trợ không nhiều nhưng hiệu quả tích cực mang lại rất rõ nét, tạo động lực thi đua giữa các xã, các thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Trang 40Chương 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đặc điểm cơ bản của huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình
Tổng diện tích tự nhiên 58.746,19 ha, được phân bổ như sau:
- Đất sản xuất nông nghiệp: 13.022,41 ha chiếm 22,16% tổng diện tích
tự nhiên; Đất lâm nghiệp: 36.856,58 ha, chiếm 62,7% tổng diện tự đất tự nhiên; Đất chuyên dùng: 2.389,44 ha chiếm 4,06% tổng diện tích đất tự nhiên; Đất ở: 2.619,97 ha, chiếm 4,56% tổng diện tích đất tự nhiên; Đất chưa sử dụng: 1.651,49 ha (bao gồm cả đất sông suối và mặt nước), chiếm 2,81% tổng diện tích đất tự nhiên
Số liệu trên cho thấy đất lâm - nông nghiệp ở Lạc Sơn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 80% tổng diện tích đất tự nhiên), có thế mạnh về phát triển lâm nghiệp và nông nghiệp ở huyện Đất nông nghiệp tập trung ở vùng thấp, còn đất lâm nghiệp ở hai vùng còn lại là điều kiện tốt để hình thành đặc trung nông nghiệp của mỗi vùng Tuy nhiên diện tích đất chưa sử dụng vẫn còn khá nhiều, trong đó chủ yếu là đất bằng và đất đồi núi
Xét về địa hình, huyện Lạc Sơn có địa hình bị chia cắt và là một huyện miền núi của tỉnh Hoà Bình được chia thành 3 vùng như sau:
- Vùng thấp: Bao gồm thị trấn Vụ Bản và các xã dọc theo sông, suối lớn như: sông Bưởi, suối Cái, suối Bìn, suối Yên Điềm Đây là vùng thấp,