1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay

106 2,6K 13

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 106
Dung lượng 1,15 MB

Nội dung

Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các CTCK mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao

Trang 1

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên sinh viên : Mai Thị Linh

Giáo viên hướng dẫn : Ths Phan Trần Trung Dũng

Hà Nội, tháng 10/ 2007

Trang 2

MỤC LỤC

Mở đầu 1

Ch-ơng Một: cơ sở lý luận 3

I Tổng quan thị về tr-ờng chứng khoán 3

1 Khái niệm về thị tr-ờng chứng khoán 3

2 Cấu trúc và phân loại cơ bản thị tr-ờng chứng khoán 3

3 Nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị tr-ờng chứng khoán 5

4 Chức năng của thị tr-ờng chứng khoán 6

5 Các chủ thể tham gia thị tr-ờng chứng khoán 8

II Công ty chứng khoán – Chủ thể quan trọng hàng đầu của thị tr-ờng chứng khoán 12

1 Khái niệm về công ty chứng khoán 12

2 Các loại hình công ty chứng khoán 12

3 Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán 19

4 Vai trò của công ty chứng khoán đối với thị tr-ờng chứng khoán 27

Ch-ơng hai : Thực trạng về mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam hiện nay 30

I Cơ sở pháp lý cho hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam hiện nay 31

1 Yêu cầu về loại hình kinh doanh và phạm vi hoạt động 31

2 Yêu cầu về vốn và quy mô vốn 34

3 Yêu cầu về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ nghề nghiệp của cán bộ và nhân viên các công ty chứng khoán 36

4 Yêu cầu về tổ chức công ty chứng khoán 37

Trang 3

II Thực trạng và đánh giá tình hình hoạt động của các cTCK từ lúc ra đời cho đến nay 39

1 Các công ty chứng khoán không ngừng tăng về số l-ợng và quy mô hoạt

động 40

2 Các công ty chứng khoán đã đạt đ-ợc những kết quả đáng khích lệ 43

3 Các hoạt động nghiệp vụ đ-ợc đẩy mạnh cả về số l-ợng lẫn chất l-ợng 48

III Một số tồn tại trong hoạt động của các công ty chứng khoán hiện nay 59

1 Số l-ợng các công ty chứng khoán tăng nhanh chóng trong một thời gian ngắn nh- một mối đe doạ đến quyền lợi nhà đầu t- 59

2 Nhiều công ty ch-a đáp ứng đủ mức vốn pháp định theo yêu cầu 63

3 Cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị kỹ thuật ch-a đáp ứng đ-ợc yêu cầu của thị tr-ờng 63

4 Thiếu nhân lực về cả số l-ợng và chất l-ợng 65

5 Hoạt động t- vấn cho khách hàng ch-a đ-ợc quan tâm thích đáng 65

6 Nhiều công ty chứng khoán liên tục vi phạm các quy định về giao dịch 66

IV Bài học kinh nghiệm từ việc tổ chức công ty chứng khoán của một số n-ớc trên thế giới 67

1 Kinh nghiệm tổ chức công ty chứng khoán của một số n-ớc 67

2 Bài học kinh nghiệm 73

Ch-ơng Ba : Giải pháp hoàn thiện mô hình và nâng cao

hiệu quả hoạt động các cTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay 77

I Kiến nghị đối với Uỷ Ban Chứng khoán Nhà n-ớc 78

1 Hoàn thiện khung chính sách pháp luật điều chỉnh hoạt động của TTCK nói chung và CTCK nói riêng theo h-ớng an toàn hiệu quả 78

2 Kiến nghị về các loại hình tham gia kinh doanh chứng khoán 80

3 Nâng cao điều kiện thành lập đối với các công ty chứng khoán 82

Trang 4

4 Hoàn thiện hệ thống đào tạo, sát hạch cấp giấy phép hành nghề 84

5 Tạo môi tr-ờng thuận lợi cho các CTCK hoạt động 84

6 Tăng c-ờng quản lý, giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị tr-ờng 85

II Kiến nghị đối với các công ty chứng khoán 86

1 Tăng vốn điều lệ hơn nữa nhằm nâng cao quy mô và chất l-ợng hoạt động 86

2 ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng c-ờng cơ sở vật chất kỹ thuật trong hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao về kinh tế cũng nh- kiểm soát và quản trị rủi ro tốt 87

3 Tuyển dụng và đào tạo đội ngũ nhân lực chất l-ợng cao 88

4 Mở rộng mạng l-ới chi nhánh, phòng giao dịch , đại lý nhận lệnh 89

5 Đẩy mạnh hơn nữa nghiệp vụ t- vấn 90

6 Chú trọng đến việc cung cấp dịch vụ chứng khoán cho nhà đầu t- n-ớc ngoài 91

7 Nâng cao vai trò hệ thống kiểm soát nội bộ trong các công ty chứng khoán 91

Kết luận 93

Danh mục Tài liệu tham khảo 94

Danh mục website 95

Danh mục các bảng trong khóa luận 96

Danh mục biểu đồ trong khóa luận 96

Danh mục các chữ viết tắt 97

Phụ lục 98

Trang 5

MỞ ĐẦU

Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, để tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng cũng như huy động được vốn đầu tư nước ngoài cần có TTCK Do vậy, việc thiết lập một TTCK hoạt động lành mạnh, hiệu quả và thực sự trở thành một kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay

Tuy nhiên, để một TTCK được thiết lập và hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải hội đủ các yếu tố nhất định như: phải có một khối lượng lớn các công

ty niêm yết, các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức cũng như các tổ chức trung gian kinh doanh trên TTCK Trong đó, CTCK là một tổ chức trung gian trên TTCK, có vai trò chủ yếu là làm môi giới giao dịch mua, bán chứng khoán, làm cầu nối giữa nhà phát hành và các nhà đầu tư Do đó, vai trò của các CTCK mang tính chất quyết định trong sự phát triển lớn mạnh của thị trường

TTCK Việt Nam mới trong giai đoạn phát triển, cùng với quá trình đó

là sự hình thành và từng bước trưởng thành của các CTCK Tuy nhiên trong quá trình hoạt động của các CTCK hiện nay còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế

Vì vậy, tôi xin chọn đề tài: “Mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay” cho khoá luận tốt

nghiệp này

Trong khoá luận, tôi xin trình bày những cơ sở lý luận chung nhất về CTCK, các loại mô hình CTCK, cũng như thực trạng hoạt động của các CTCK ở Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay Cùng với việc tìm hiểu mô hình, hoạt động của CTCK tại một số nước trên thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm cho thực tế xây dựng và phát triển các CTCK ở Việt Nam Từ đó, người viết xin đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thiết lập, hoàn thiện mô hình CTCK

Trang 6

cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty trong bối cảnh hiện

nay nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTCK cũng như nền kinh tế

nước ta nói chung

Khoá luận được trình bày dựa trên việc nghiên cứu những cơ sở pháp

lý cho việc hình thành và hoạt động của các CTCK ở Việt Nam hiện nay và

nghiên cứu thực trạng, tình hình hoạt động của các CTCK tại Việt Nam từ lúc

ra đời cho đến nay

Bố cục của khoá luận bao gồm ba chương:

- Chương I: Những cơ sở lý luận chung nhất về TTCK và CTCK

- Chương II: Thực trạng về mô hình và hoạt động của các CTCK trên

TTCK Việt Nam hiện nay

- Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình và

nâng cao hiệu quả hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay

Để hoàn thành khoá luận này, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn

tận tình của thầy giáo Phan Trần Trung Dũng, sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn

bè và sự cung cấp tài liệu vô cùng quý báu từ thư viện trường Đại học Ngoại

Thương, Thư viện quốc gia, Ban quản lý kinh doanh – Uỷ ban Chứng khoán

Nhà nước…

Tuy nhiên do kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn thiếu, khoá

luận chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được sự góp

ý, chỉ bảo từ thầy cô và các bạn quan tâm

Xin chân thành cảm ơn

Hà Nội, ngày 2/10/2007 Mai Thị Linh

Trang 7

CHƯƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1 Khái niệm về thị trường chứng khoán

Như ta đã biết, thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về vốn, diễn ra dưới hình thức vay mượn, mua bán về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá khác Nói cách khác, thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các tài sản tài chính Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ là nơi mua bán các công cụ nợ ngắn hạn và thị trường vốn là nơi mua bán các công cụ vốn, công cụ nợ trung và dài hạn Thị trường vốn được thực hiện thông qua ngân hàng và TTCK

Như vậy, TTCK là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra việc mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn Hàng hoá trên TTCK bao gồm các loại chứng khoán, nó được hiểu là các giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu Các quyền yêu cầu này có

sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng

2 Cấu trúc và phân loại cơ bản thị trường chứng khoán

- Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn: TTCK được chia thành

thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

 Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát

hành Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành

Trang 8

 Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát

hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán

đã phát hành

- Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường: TTCK được

chia thành thị trường tập trung (TTGDCK hoặc SGDCK) và phi tập trung (thị trường OTC)

 Tại thị trường giao dịch tập trung, các giao dịch được tập trung tại một

địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch

 Trên thị trường OTC, các giao dịch (cả sơ cấp lẫn thứ cấp) được tiến

hành qua mạng lưới các CTCK phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử Giá cả trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận

- Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường: TTCK được phân thành thị

trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường các công cụ phái sinh

 Thị trường cổ phiếu: Là thị trường phát hành và giao dịch mua bán các

loại cổ phiếu

 Thị trường trái phiếu: Là thị trường phát hành và giao dịch, mua bán

các trái phiếu đã được phát hành Các trái phiếu này bao gồm trái phiếu công

ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ

 Thị trường các công cụ phái sinh: Bên cạnh các giao dịch truyền thống

về cổ phiếu và trái phiếu, các giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn đã xuất hiện Các chứng từ tài chính này được ra đời từ các giao dịch chứng khoán (cổ

Trang 9

phiếu, trái phiếu) Do đó, người ta gọi chúng là các chứng từ có nguồn gốc chứng khoán, hay các công cụ phái sinh

Thị trường các công cụ phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các công cụ phái sinh đã được phát hành Đây là loại thị trường chuyên giao dịch những công cụ tài chính cao cấp, do đó thị trường này chỉ xuất hiện

ở những nước có TTCK phát triển mạnh

3 Nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán

- Nguyên tắc công khai

Chứng khoán là các hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan Vì vậy, TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới đợt phát hành Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên

và đột xuất, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, SGDCK, các CTCK và các tổ chức có liên quan khác

- Nguyên tắc trung gian

Theo nguyên tắc này, trên TTCK, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các CTCK Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các CTCK mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình

Trang 10

- Nguyên tắc đấu giá

Mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu giá Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định

4 Chức năng của thị trường chứng khoán

TTCK trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở thị trường thứ cấp khi

có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán TTCK có những chức năng cơ bản sau:

- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất – kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội

- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng

TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác

Trang 11

nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình

- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán

Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường

- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp

Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm

- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô

Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang

mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng, và ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế Vì thế, TTCK được coi là “phong

vũ biểu” của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua

và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách,

Trang 12

biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế

5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK được chia thành 3 nhóm sau: Nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến TTCK

- Nhà phát hành

Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK

và là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá cho TTCK

 Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu

Chính phủ và trái phiếu địa phương

 Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty

 Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các

trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ

- Nhà đầu tư

Nhà đầu tư là những người mua và bán chứng khoán trên TTCK Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức

 Các nhà đầu tư cá nhân

Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận Tuy nhiên, trong đầu

tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn

và ngược lại Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình

Trang 13

 Các nhà đầu tư có tổ chức

Nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư

và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm

Bên cạnh đó, các CTCK, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình

- Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán

 Công ty chứng khoán

CTCK là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, tư vấn tài chính doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán

Để có thể thực hiện được mỗi nghiệp vụ, các CTCK phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền

 Các ngân hàng thương mại

Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có

để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào chứng khoán Tuy nhiên, các ngân hàng chỉ được đầu tư và chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán

Trang 14

Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập

để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành

- Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán

 Cơ quan quản lý nhà nước

Ban đầu TTCK hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn định của TTCK, bản thân các nhà kinh doanh chứng khoán và các quốc gia có TTCK hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý và giám sát hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán Chính vì vậy, cơ quan quản lý, giám sát TTCK đã ra đời

Cơ quan quản lý giám sát TTCK được hình thành dưới nhiều mô hình hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại do sự kết hợp giữa tự quản

và nhà nước Nhưng nhìn chung cơ quan này do chính phủ của các nước thành lập nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho TTCK hoạt động lành mạnh suôn sẻ và phát triển vững chắc Cơ quan này có thể có những tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc từng nước và nó được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK

Ở Việt Nam, ngày 28/11/1996 UBCKNN được thành lập với vai trò là một cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước đối với TTCK

Từ tháng 9/2004, UBCKNN được chuyển vào Bộ tài chính, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK, trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và

Trang 15

TTCK, quản lý các hoạt động dịch vụ công cộng thuộc lĩnh vực chứng khoán

và TTCK theo quy định của pháp luật

 Sở giao dịch chứng khoán ( Trung tâm giao dịch chứng khoán)

SGDCK thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên Sở giao dịch Ngoài

ra, SGDCK cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán tại sở, phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán

 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán

Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các CTCK và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung

 Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán

Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán

 Công ty định mức tín nhiệm

Công ty định mức tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc, lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt phát hành chứ không phải cho công ty Do vậy một công ty phát hành có thể mang nhiều mức hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó

Trang 16

II CÔNG TY CHỨNG KHOÁN – CHỦ THỂ QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1 Khái niệm về công ty chứng khoán

Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên thế giới đã cho thấy, TTCK thời kỳ còn sơ khai, các nhà môi giới hoạt động độc lập với nhau Sau này, cùng với sự phát triển của TTCK chức năng và quy mô hoạt động giao dịch của các nhà môi giới tăng lên, đòi hỏi sự ra đời của các CTCK – là sự tập hợp có tổ chức của các nhà môi giới riêng rẽ Sự ra đời của CTCK là do nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, ở đó để bảo vệ của nhà đầu tư, yêu cầu phải có một TTCK cạnh tranh hoàn hảo, bảo vệ cho nhà đầu tư được mua bán chứng khoán với giá cả tốt nhất mà thị trường cho phép

Đối với Việt Nam, để TTCK hình thành và phát triển có hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên TTCK Bên cạnh đó mục tiêu của việc hình thành TTCK là thu hút vốn đầu tư trung

và dài hạn cho việc phát triển nền kinh tế Do đó để thúc đẩy TTCK hoạt động một cách có trật tự, công bằng, minh bạch và có hiệu quả thì cần phải có

sự ra đời và hoạt động của các CTCK

Như vậy, CTCK là một tổ chức tài chính hoạt động trên TTCK, đóng vai trò trung gian giữa người mua và người bán, giúp thị trường hoạt động an toàn, minh bạch và trật tự CTCK cũng đóng vai trò là những nhà tư vấn cho các công ty phát hành, tư vấn cho các nhà đầu tư Ngoài ra CTCK còn có thể

là nhà đầu tư trung hoặc dài hạn thông qua hoạt động bảo lãnh cho các công

ty phát hành và hoạt động tự doanh

2 Các loại hình công ty chứng khoán

Mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán

Trang 17

Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường Vì CTCK là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xây dựng mô hình tổ chức kinh doanh của nó tuỳ đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý mà ở mỗi nước có sự khác nhau Tuy nhiên, có thể khái quát thành 3 mô hình cơ bản hiện nay:

- Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh

Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công

ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách Các ngân hàng, tổ chức tài chính, công ty bảo hiểm không được tham gia kinh doanh chứng khoán

Mô hình này đã được áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật… và các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan…

Sở dĩ người ta không cho phép các tổ chức tài chính khác kinh doanh chứng khoán là vì người ta sợ rằng những hoạt động của CTCK khi được thực hiện đồng thời với các hoạt động tín dụng sẽ làm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán và hoạt động tín dụng gặp nhiều rủi ro hơn Ví dụ như CTCK là

tổ chức tín dụng sử dụng tiền gửi của khách hàng để kinh doanh chứng khoán với khối lượng lớn làm cho cầu chứng khoán tăng nhanh, dẫn đến giá chứng khoán không phản ánh trung thực giá trị của doanh nghiệp, và điều đó có thể dẫn đến sự sụp đổ của TTCK

Ưu điểm của mô hình này là:

+ Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính khác

+ Tạo điều kiện cho TTCK phát triển mang tính chuyên môn hoá cao

Trang 18

Tuy nhiên mô hình này có nhược điểm là: nó không thích hợp với thị

trường ở các nước đã phát triển Trong thời gian gần đây, cùng với xu hướng hình thành các tập đoàn tài chính khổng lồ, các nước này đã có xu hướng giảm dần các hạn chế về kinh doanh chứng khoán đối với các ngân hàng thương mại và từng bước mở rộng quyền của các ngân hàng thương mại, công

ty tài chính, bảo hiểm tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán trên TTCK Chẳng hạn như ở các thị trường mới nổi như Thái Lan, các quỹ đầu tư, các công ty tài chính đã được thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK như một CTCK

Ở Mỹ hiện nay, Quốc hội đã bỏ phiếu huỷ bỏ đạo luật “Glass Steagall” (đạo luật được ban hành năm 1933 sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929, nhằm phòng tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng cũng như chứng khoán tại

Mỹ Theo đó các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán) Có nghĩa là các tổ chức tài chính ngày nay hoạt động với hình thức các tổ chức tài chính đa năng

- Mô hình ngân hàng đa năng toàn phần

Theo đó các ngân hàng vừa được kinh doanh chứng khoán, vừa kinh doanh bảo hiểm, và kinh doanh tín dụng Mô hình này được áp dụng ở Đức,

Hà Lan, Thụy Sĩ, Áo…

Ưu điểm của mô hình này là:

+ Ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh về chuyên môn và vốn để kinh doanh chứng khoán

+ Việc kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh giúp giảm bớt chi phí quản lý cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến động của TTCK…

Trang 19

Ví dụ như khi thành lập một CTCK độc lập, người ta phải có hội đồng quản trị, ban điều hành riêng, có trụ sở, phương tiện hoạt động riêng Trong khi nếu hoạt động đa năng hơn thì hội đồng quản trị, ban điều hành không phải riêng biệt…nhờ đó chi phí quản trị sẽ giảm đi rất nhiều

+ Khi nguồn vốn của ngân hàng, tổ chức tài chính là công ty mẹ chưa sử dụng sẽ được đưa vào dự trữ chứng khoán, điều đó làm tăng khả năng sinh lợi cho tài sản kinh doanh Ví dụ như công ty bảo hiểm, khi thu được phí bảo hiểm và chưa sử dụng đến sẽ có thể dự trữ vào các chứng khoán ngay, do đó

có khả năng sinh lợi rất cao

Nhược điểm của mô hình này là :

+ Nếu hoạt động kinh doanh của CTCK bị rủi ro có thể dẫn đến rủi ro lớn cho công ty mẹ Điển hình như sự sụp đổ của chi nhành ngân hàng Barrings ở Singapore Đặc biệt là khi CTCK đi vào kinh doanh các chứng khoán phái sinh như: Options, futures… có thể sẽ mang lại lợi ích lớn nhưng nó cũng đem đến rủi ro rất cao

+ Khuynh hướng kinh doanh của hội đồng quản trị sẽ ảnh hưởng lớn đến chiến lược chung của cả tổ chức tài chính Do đó, nếu hội đồng quản trị có khuynh hướng xem cho vay là nghiệp vụ kinh doanh có tính chiến lược thì hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ yếu đi Ngược lại hội đồng quản trị có khuynh hướng xem nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán là chiến lược thì kinh doanh chứng khoán sẽ bành trướng mau lẹ và khả năng bị rủi ro sẽ rất cao

+ Sự không tách bạch giữa các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán với nghiệp vụ cho vay còn làm cho quá trình quản lý khá phức tạp, nhất là sự quản lý của bộ phận quản lý cao nhất như hội đồng quản trị và Ban điều hành Điều này dẫn đến có thể không kiểm soát hết mọi hoạt động của tổ chức tín

Trang 20

dụng và có thể bị các nhân viên dưới quyền lợi dụng kinh doanh sai lệch định hướng chung của tổ chức tín dụng hoặc kinh doanh thiếu hiệu quả mà không thể được chấn chỉnh kịp thời

- Mô hình ngân hàng đa năng một phần

Mô hình này là sự kết hợp của hai mô hình ở trên, theo đó các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty con độc lập, hoạt động tách rời Mô hình này được áp dụng ở một số nước như Anh, Canada và Úc…

Đặc điểm của mô hình này là kinh doanh chứng khoán và kinh doanh tín dụng được tách ra độc lập trong hạch toán kinh doanh Nghĩa là các CTCK

có tư cách pháp nhân riêng và chịu trách nhiệm bằng vốn riêng của mình

Mô hình này có ưu điểm là:

+ Hoạt động của CTCK không ảnh hưởng gì đến hoạt động của ngân hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ, do đó không gây rủi ro cho các ngân hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ

+ Nó thích hợp với các nền kinh tế đang phát triển: Do TTCK tại các nước này mới phát triển, tiềm lực về vốn, kiến thức cũng như kinh nghiệm của các tổ chức trung gian trên TTCK còn thấp, rất khó khăn cho một tổ chức mới ra đời hoạt động Cho phép các ngân hàng đứng ra thành lập công ty con tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng được thế mạnh về vốn, chuyên môn và kinh nghiệm tổ chức hoạt động của công ty mẹ, do đó tính khả thi sẽ cao hơn nhiều Ví dụ như ở Việt Nam, ban đầu các CTCK hầu hết là công ty con của các ngân hàng thương mại Những công ty này nhờ vào sự hoạt động lâu năm của công ty mẹ trên thị trường tài chính nên có thị trường, có sự am hiểu sâu sắc các công ty phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTCK Mặt

Trang 21

khác, do trình độ quản lý của các nền kinh tế đang phát triển còn thấp, nên sử dụng mô hình này an toàn hơn và có khả năng thực hiện hơn

Nhược điểm của mô hình này là:

+ Quy mô của CTCK thường nhỏ, bị lệ thuộc vào vốn của công ty mẹ cấp cho Hội đồng quản trị của CTCK thường là người của công ty mẹ, do đó nó cũng bị lệ thuộc vào chiến lược kinh doanh chung của công ty mẹ

Ví dụ: Khi công ty mẹ muốn mở rộng thị trường tín dụng thì nó sẽ làm cho thị trường phát hành chứng khoán bị thu hẹp lại, do các doanh nghiệp thay vì phát hành chứng khoán để huy động vốn trên TTCK thì họ lại đi vay ngân hàng để thoả mãn nhu cầu về vốn Khi ngân hàng ra sức thu hút tiền gửi tiết kiệm thì tiền được đầu tư vào TTCK sẽ giảm đi và ngược lại

+ Nó không có quyền tự huy động vốn để kinh doanh, không hoạt động tín dụng và bị lệ thuộc

Hình thức pháp lý của công ty chứng khoán

Trên thế giới có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản:

- Công ty hợp danh

Đây là loại hình công ty có từ 2 chủ sở hữu trở lên Thành viên tham gia vào quá trình đưa ra quyết định, quản lý được gọi là thành viên hợp danh Các thành viên hợp danh đều phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản nợ của công ty Ngược lại, thành viên không tham gia vào điều hành công ty được gọi thành viên góp vốn Họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình với những khoản nợ của công ty

Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào, việc thay đổi chủ sở hữu khó khăn, do vậy quy mô công ty thường

Trang 22

nhỏ Bên cạnh đó, trách nhiệm của các thành viên hợp danh - những người điều hành công ty- quá lớn nên ít tính mạo hiểm khi kinh doanh Do vậy, hình thức này hiện nay ít được áp dụng trên thế giới đặc biệt là với các CTCK

- Công ty trách nhiệm hữu hạn

Các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ phải chịu trách nhiệm với các khoản nợ của công ty hữu hạn trong phần vốn góp của mình

Do vậy loại hình công ty này an toàn hơn với các chủ sở hữu, do đó có thể kinh doanh những lĩnh vực nhiều rủi ro hơn Mặt khác việc huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn, đội ngũ quản lý cũng không bị bó hẹp trong một số thành viên như công ty hợp danh

Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu, số vốn góp chỉ giới hạn trong khả năng của các thành viên và việc chuyển đổi quyền sở hữu vẫn phức tạp Do vậy, hình thức này hiện nay thường chỉ áp dụng cho CTCK có thành viên là tổ chức

- Công ty cổ phần

Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ đông Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị Hội đồng này sẽ quyết định các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản

lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra

Các ưu điểm của công ty cổ phần

+ Đây là loại hình công ty tồn tại liên tục, không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông

Trang 23

+ Giống như công ty trách nhiệm hữu hạn, rủi ro mà chủ sở hữu của công

ty phải chịu được hạn chế ở mức vốn góp Nếu công ty thua lỗ và phá sản, cổ đông chỉ bị thiệt hại ở mức vốn đã đầu tư vào công ty

+ Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng, thông qua việc mua bán cổ phiếu Công ty có thể phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn sở hữu hoặc phát hành trái phiếu để vay vốn trên thị trường

+ Ngoài ra đối với các CTCK, nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần

và được niêm yết tại sở giao dịch thì họ đã được quảng cáo với các nhà đầu tư chứng khoán miễn phí Bởi khi đó, các thông tin về hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và hoạt động của công ty bắt buộc phải công khai với các nhà đầu tư Do vậy các khách hàng tin tưởng và thường ưa chuộng CTCK là công

ty cổ phần hơn

Do những ưu điểm trên đây, ngày nay các CTCK chủ yếu đều được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần Thậm chí nhiều nước (như Hàn Quốc) còn quy định bắt buộc CTCK phải là công ty cổ phần

3 Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán

Nghiệp vụ môi giới chứng khoán

Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng Theo đó, CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán, giúp khách hàng có được

Trang 24

những quyết định đầu tư tỉnh táo, khắc phục tâm lý “sợ hãi và tham lam” khi đầu tư

Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất Nhà môi giới không được xúi giục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng

Nghiệp vụ tự doanh

Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch tại trung tâm giao dịch tập trung (SGDCK hoặc TTGDCK) hoặc thị trường OTC Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá (quote driven) hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường Lúc này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá

Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng, đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, CTCK phải ưu

Trang 25

tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định có 2 loại hình CTCK là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và CTCK có chức năng tự doanh

Khác với nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh của khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh, CTCK kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường

Yêu cầu đối với công ty chứng khoán :

• Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự

doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về yếu tố con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và công ty

• Ưu tiên khách hàng: CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách

hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán

Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên

• Góp phần bình ổn thị trường: Các CTCK hoạt động tự doanh nhằm góp

phần bình ổn giá cả thị trường Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định Luật các nước đều quy định các

Trang 26

CTCK phải dành một tỷ lệ % nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định

• Hoạt động tạo thị trường: khi được phát hành, các chứng khoán mới

chưa có thị trường giao dịch Để tạo thị trường cho các chứng khoán này, các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC

để tạo thị trường Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác Như vậy, họ sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh

Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh:

- Giao dịch gián tiếp: CTCK đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên

Sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không được xác định trước

- Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa 2 CTCK hay giữa CTCK

với một khách hàng thông qua thương lượng Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC

Trang 27

hàng đầu tư, nhưng thông thường việc CTCK nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác

Tổ chức bảo lãnh được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được

Việc bảo lãnh phát hành thường thực hiện theo một trong các phương thức sau:

- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh trong đó tổ

chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không

- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ

chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành Tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại mà không phải chịu bất cứ hình phạt nào

- Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không: Trong phương thức

này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành

Tổ chức phát hành phải trả lại tiền cho các nhà đầu tư đã mua chứng khoán

- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: là phương thức trung

gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy

Trang 28

định (mức trần) Nhưng nếu lượng chứng khoán bán được thấp hơn mức sàn thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ

- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: Đây là phương thức thường

được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường và chào bán cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài Tuy nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty Vì vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra công chúng

Nghiệp vụ tƣ vấn đầu tƣ chứng khoán

Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng

Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:

- Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ

khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng

- Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho

khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn uỷ quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ quyền thực hiện của khách hàng)

- Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn cho người phát

hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch… và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa

Trang 29

chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư trên TTCK về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán …)

Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn: Hoạt động tư vấn là việc

người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận hoặc hiệu quả cho khách hàng Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó thành công hay không)

Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tƣ

Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên

cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng

Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng, rủi ro có thể chấp nhận…) Trên cơ sở các yêu cầu đó, CTCK sẽ xây dựng một danh mục đầu tư chứng khoán với tỷ lệ phân bổ hợp lý (bao nhiêu % trái phiếu, bao nhiêu % kỳ phiếu, bao nhiêu % cổ phiếu…) Nếu hai bên đi đến thống nhất sẽ tiến tới ký kết hợp đồng quản lý danh mục đầu tư Nghiệp vụ này của CTCK

sẽ giúp khách hàng đạt được mức lợi nhuận theo yêu cầu với độ rủi ro tương ứng, đa dạng hoá các khoản mục đầu tư, phân tán rủi ro trong kinh doanh mà không cần thiết phải mất nhiều thời gian nghiên cứu và tìm hiểu thị trường

Trang 30

Khi thực hiện quản lý danh mục đầu tư, các CTCK phải đảm bảo tách biệt đối với hoạt động tự doanh nhằm tránh xung đột về lợi ích với khách hàng

Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, theo Luật chứng khoán 2006 mới ban hành, đây không phải là một nghiệp vụ kinh doanh của CTCK nữa mà là nghiệp vụ kinh doanh của công ty quản lý quỹ

Các nghiệp vụ phụ trợ

- Lưu ký chứng khoán: Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của

khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các CTCK (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất) Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán

- Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): xuất phát từ việc

lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng

- Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ

môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua

ký quỹ Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng

Trang 31

của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ

do CTCK ứng trước tiền thanh toán Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho CTCK Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi

nợ

- Nghiệp vụ quản lý quỹ: ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho

phép CTCK thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư Theo đó, CTCK cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu

tư vào chứng khoán CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư

4 Vai trò của công ty chứng khoán đối với thị trường chứng khoán

Như trên đã nói, CTCK là một chủ thể quan trọng của TTCK Thông qua việc tiến hành các nghiệp vụ của mình, CTCK có các vai trò, chức năng chủ yếu sau:

Tạo cơ chế huy động vốn

CTCK là một trong những tổ chức tài chính trung gian đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, là chiếc cầu nối giữa những người có tiền nhàn rỗi và những chủ thể cần huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành Họ không thể làm tốt được điều đó bởi họ không có bộ máy chuyên môn Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ Đó là các CTCK, với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, tiến hành nghiệp vụ tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán cho tổ chức phát hành Mặt khác, thông qua nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu

Trang 32

tư… CTCK giúp các nhà đầu tư có thể thực hiện việc đầu tư một cách thuận tiện, dễ dàng hơn Và khi thực hiện công việc này, các CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK

Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch

Trên thị trường sơ cấp: Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành

chứng khoán, CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế giá thông qua việc xác định giá và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành Thông thường mức giá phát hành do các CTCK xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu, thoả thuận với các nhà đầu tư tiềm năng trong đợt phát hành đó và tư vấn cho nhà phát hành

Trên thị trường thứ cấp: CTCK có vai trò giúp nhà đầu tư đánh giá

đúng giá trị khoản đầu tư của mình Toàn bộ các lệnh mua, bán chứng khoán được tập trung tại các Sở giao dịch tập trung thông qua các CTCK và trên cơ

sở đó giá chứng khoán sẽ được xác định theo quy luật cung cầu Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tự doanh, các CTCK có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và bình ổn giá chứng khoán trên thị trường

Nâng cao tính thanh khoản của các loại chứng khoán

TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các loại chứng khoán nhưng các CTCK mới là người thực hiện vai trò đó vì CTCK tạo

ra cơ chế giao dịch trên thị trường Trên thị trường sơ cấp, thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các CTCK không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn tạo ra tính thanh khoản của các tài sản tài chính, vì các chứng khoán sau đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường thứ cấp Tại thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua và bán chứng khoán các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi

Trang 33

chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại Những hoạt động đó làm tăng tính thanh khoản của các loại chứng khoán

Giảm chi phí giao dịch

TTCK là thị trường của những sản phẩm tài chính bậc cao, để thẩm định chất lượng và xác định giá cả của chúng thường phải tốn chi phí rất lớn trong việc thu thập xử lý thông tin, đào tạo nhân lực có kỹ năng trình độ và thực hiện quy trình giao dịch Những chi phí đó chỉ có các CTCK, hoạt động một cách chuyên nghiệp mới có khả năng trang trải nhờ quy mô lớn Với lợi thế của tổ chức trung gian, chuyên môn hoá cao, các CTCK làm cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau, giúp cho nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí cũng như thời gian trong từng giao dịch cũng như trong tổng thể thị trường

Tƣ vấn cho các nhà đầu tƣ

Các CTCK với đầy đủ các dịch vụ không chỉ đóng vai trò là người thực hiện các lệnh mua, bán của khách hàng mà còn cung cấp cho khách hàng nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư

Tóm lại, CTCK là một tổ chức trung gian, chuyên nghiệp trên TTCK,

có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành và đối với các nhà quản lý thị trường Do đó, CTCK là một tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng

Trang 34

CHƯƠNG HAI : THỰC TRẠNG VỀ MÔ HÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY

Từ khi chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào tháng 7/2000, đến nay, sau hơn 7 năm hoạt động, TTCK Vịêt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và thực sự trở thành một kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế

Từ quy mô rất nhỏ bé ban đầu với 2 công ty niêm yết có tổng vốn điều

lệ ban đầu chỉ là 270 tỷ đồng đến nay toàn thị trường đã có 118 công ty niêm yết trên SGDCK TP.Hồ Chí Minh với tổng vốn điều lệ 29.373 tỷ đồng và 91 công ty niêm yết trên TTGDCK Hà Nội với tổng vốn điều lệ 152.552 tỷ đồng

Quy mô của thị trường tăng dẫn tới khối lượng và giá trị chứng khoán được giao dịch cũng ngày càng tăng Giao dịch cuối năm 2006 tăng đột biến, cũng như trong năm 2007, tổng giá trị giao dịch tại 2 TTGDCK đạt khoảng

1000 tỷ đồng/ngày Từ 3000 tài khoản giao dịch năm 2000 đến hết tháng 6/2007 đã có trên 255.000 tài khoản giao dịch của các nhà đầu tư được mở tại các CTCK Điều đó cho thấy TTCK đã thu hút được mạnh mẽ các nhà đầu tư

Cùng với việc không ngừng phát triển của thị trường, các chủ thể tham gia thị trường cũng ngày càng trưởng thành và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực, hiệu quả Trong các chủ thể đó không thể không kể đến

sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của các CTCK trong những năm qua Nguyên nhân của sự phát triển đó trước hết là nhờ những quy định pháp

lý về CTCK ngày càng được hoàn thiện và thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường

Trang 35

I CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

TTCK Việt Nam đã ra đời và đi vào hoạt động được hơn 7 năm, pháp luật điều chỉnh về chứng khoán và TTCK cũng được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường Có 3 văn bản được coi là nguồn luật chính thức điều chỉnh về chứng khoán và TTCK ở Việt Nam đã được ban hành:

1 Yêu cầu về loại hình kinh doanh và phạm vi hoạt động

Theo khoản 1 điều 59 Luật Chứng khoán 2006: “ Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp”

Và theo quy định tại khoản 1 điều 29 Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ban hành ngày 11/7/1998 về chứng khoán và TTCK: “Các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm hoặc các tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập”

Trang 36

UBCKNN là nơi cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho CTCK Giấy phép này đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

Một điểm đáng chú ý nữa trong việc thành lập các CTCK đó là bên nước ngoài được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam thông qua việc thành lập các CTCK liên doanh, góp vốn cổ phần hoặc công ty một trăm phần trăm vốn nước ngoài do UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động (Điều 76 Luật Chứng khoán 2006), CTCK nước ngoài cũng có thể mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở Việt Nam theo những quy định tại Luật Chứng khoán Tuy nhiên, theo lộ trình gia nhập WTO, trước mắt Việt Nam vẫn được giới hạn sự tham gia của bên nước ngoài vào CTCK liên doanh ở một mức nhất định Mức giới hạn này theo Thông tư số 90/2005/TT-BTC về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam

là 49% Tuy nhiên trong thời gian 5 năm sau khi gia nhập WTO Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn, cho phép thành lập CTCK 100% vốn nước ngoài Việc này đòi hỏi các CTCK trong nước cần nhanh chóng ổn định, xây dựng hình ảnh, nâng cao năng lực cạnh tranh tiến tới hội nhập

Như vậy, trong ba mô hình tổ chức CTCK trên thế giới đã được trình bày tại chương một, ở Việt Nam hiện nay cho phép các CTCK được phép thành lập theo mô hình CTCK chuyên doanh và mô hình ngân hàng đa năng một phần Quy định như vậy là phù hợp với bối cảnh của TTCK Việt Nam hiện nay, bởi trong điều kiện TTCK mới hình thành, rủi ro cho hoạt động của các CTCK là rất cao Nếu CTCK được tổ chức theo mô hình ngân hàng đa năng toàn phần sẽ có khả năng dẫn đến sự sụp đổ của cả tổ chức tín dụng, gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội của cả đất nước Hơn khi nữa khả năng quản lý vĩ mô của Chính phủ cũng như của UBCKNN còn chưa thể bao quát hết thì việc các tổ chức tín dụng kinh doanh chứng khoán lợi dụng, kinh

Trang 37

doanh không lành mạnh là rất dễ xảy ra, cũng như khi tổ chức theo mô hình ngân hàng đa năng toàn phần thì việc quản lý của bản thân các tổ chức tín dụng có kinh doanh chứng khoán cũng sẽ khó khăn, phức tạp hơn, khiến những nhân viên dưới quyền có thể lợi dụng để kinh doanh sai lệch

Do vậy, tổ chức CTCK theo mô hình ngân hàng đa năng một phần, với yêu cầu tách bạch về vốn và hoạt động với công ty mẹ vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống tổ chức tín dụng, vừa tận dụng được những lợi thế về vốn, kiến thức và kinh nghiệm trên thị trường tín dụng của công ty mẹ – một tổ chức đã hoạt động lâu đời trên thị trường tín dụng Trong điều kiện TTCK Việt Nam còn non trẻ, và đặc biệt các CTCK còn thiếu về kinh nghiệm quản lý cũng như nghiệp vụ thì điều đó là cần thiết

Về hình thức pháp lý, các CTCK chỉ được tổ chức dưới hình thức công

ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần mà không được tổ chức dưới hình thức công ty hợp danh Quy định như vậy là thích hợp với bối cảnh của nước

ta cũng như xu thế chung của thế giới, vì kinh doanh chứng khoán là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro, không thích hợp với loại hình công ty hợp danh Bên cạnh đó, một CTCK muốn tiến hành tất cả các nghiệp vụ và kinh doanh hiệu quả cần một số vốn lớn, cơ chế huy động và chuyển nhượng vốn cũng như cơ chế quản lý phải linh hoạt, hiệu quả Nó thích hợp với hình thức công

ty cổ phần (với những ưu điểm của hình thức công ty cổ phần đã phân tích ở chương một) Do đó, nên khuyến khích hơn nữa hình thức công ty cổ phần đối với các CTCK

Về nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, điều 60 Luật Chứng khoán 2006 quy định như sau:

Trang 38

“1 Công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp

vụ kinh doanh sau đây:

a) Môi giới chứng khoán

b) Tự doanh chứng khoán

c) Bảo lãnh phát hành chứng khoán

d) Tư vấn đầu tư chứng khoán

2 Công ty chứng khoán chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán

3 Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh quy định tại khoản 1 điều này, công ty chứng khoán được cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác”

So với những quy định pháp lý trước đây thì nghiệp vụ kinh doanh của CTCK đã có sự thay đổi Trong nghị định số 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003 về chứng khoán và TTCK có quy định ngoài bốn nghiệp vụ trên đây CTCK còn có thể thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư còn công

ty quản lý quỹ chỉ thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư, hiện nay nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư đã chuyển sang là nghiệp vụ của công ty quản lý quỹ Quy định như vậy sẽ giúp chuyên môn hoá hơn hoạt động của các CTCK và công ty quản lý quỹ

2 Yêu cầu về vốn và quy mô vốn

Người góp vốn trong CTCK có thể là cá nhân hoặc tổ chức Nếu là cá nhân, chỉ được phép sử dụng vốn của chính mình để góp vốn, không được sử dụng nguồn vốn uỷ thác đầu tư của pháp nhân và cá nhân khác Cá nhân góp

Trang 39

vốn từ 5% trở lên vốn điều lệ của CTCK phải chứng minh tài sản bằng tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác

Vốn điều lệ thực góp của CTCK tối thiểu phải bằng mức vốn pháp định quy định tại điều 18 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, ban hành ngày 19/1/2007 như sau:

“Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán, công

ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là:

 Môi giới chứng khoán : 25 tỷ đồng Việt Nam

 Tự doanh chứng khoán : 100 tỷ đồng Việt Nam

 Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam

 Tư vấn đầu tư chứng khoán : 10 tỷ đồng Việt Nam

Trường hợp tổ chức đề nghị cấp giấy phép cho nhiều nghiệp vụ kinh doanh, vốn pháp định là tổng số vốn pháp định tương ứng với từng nghiệp vụ xin cấp phép”

Trong đó cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ thực góp ban đầu của công ty và không được chuyển nhượng trong vòng 03 năm kể từ ngày thành lập công ty, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác

Quy định này áp dụng cho tất cả các CTCK đăng ký thành lập sau thời điểm nghị định ban hành Đối với các CTCK thành lập trước thời điểm trên, cần đệ trình kế hoạch tăng vốn điều lệ lên mức yêu cầu trong vòng 2 năm kế tiếp

So với quy định trước đây số vốn pháp định yêu cầu cho từng nghiệp vụ trên lần lượt chỉ là: 3 tỷ đồng, 12 tỷ đồng, 22 tỷ đồng và 3 tỷ đồng Như vậy số

Trang 40

vốn pháp định yêu cầu đã tăng rất nhiều Điều này giúp hạn chế số lượng các CTCK đang đăng ký kinh doanh quá nhiều như hiện nay và chú trọng vào việc nâng cao quy mô, chất lượng hoạt động của các CTCK, tiến tới phù hợp

và hội nhập với xu thế chung của thế giới Tuy nhiên, về lâu dài, khi TTCK phát triển cao hơn thì quy mô về vốn của các CTCK vẫn cần phải nâng cao hơn nữa

3 Yêu cầu về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ nghề nghiệp của cán bộ và nhân viên các công ty chứng khoán

Điều 62 Luật chứng khoán 2006 có quy định: “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán (bao gồm tất cả các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK đã đề cập ở mục trước) phải

có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán” Phải có tối thiểu 03 người hành nghề

chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh (Điều 3, Quy chế Tổ chức và hoạt động của CTCK ban hành kèm theo Quyết định số 27/2007/ QĐ-BTC)

Điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán cũng được quy định trong điều 79 của Luật chứng khoán 2006, đó là:

 Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị toà án cấm hành nghề kinh doanh

 Có trình độ đại học, có trình độ chuyên môn về chứng khoán và TTCK

 Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch do UBCKNN tổ chức, đối với người nước ngoài có chứng chỉ chuyên môn về TTCK hoặc những người đã hành nghề chứng khoán hợp pháp ở nước ngoài thì chỉ cần sát hạch pháp luật về chứng khoán của Việt Nam

Ngày đăng: 24/05/2014, 09:12

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đinh Xuân Trình (1998), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: áo trình thị trường chứng khoán
Tác giả: Đinh Xuân Trình
Nhà XB: Nhà xuất bản giáo dục
Năm: 1998
2. Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo chứng khoán (2007), Thị trường chứng khoán và quản trị công ty, Nhà xuất bản thống kê, trang 7-26, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thị trường chứng khoán và quản trị công ty
Tác giả: Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo chứng khoán
Nhà XB: Nhà xuất bản thống kê
Năm: 2007
3. Ban phát triển thị trường – UBCKNN (2006), Thị trường chứng khoán Việt Nam nhìn lại 2006, hướng tới 2007 với mục tiêu phát triển thị trường bền vững, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2 năm 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thị trường chứng khoán Việt Nam nhìn lại 2006, hướng tới 2007 với mục tiêu phát triển thị trường bền vững
Tác giả: Ban phát triển thị trường – UBCKNN
Năm: 2006
4. Nguyễn Thu Hằng (2007), Thực trạng công ty chứng khoán tại Việt Nam thực tế hoạt động và những thách thức tiềm ẩn, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 10 năm 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng công ty chứng khoán tại Việt Nam thực tế hoạt động và những thách thức tiềm ẩn
Tác giả: Nguyễn Thu Hằng
Năm: 2007
5. Thành Nam (2006), Hoạt động của các công ty chứng khoán những bước trưởng thành cùng thị trường, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 7 năm 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động của các công ty chứng khoán những bước trưởng thành cùng thị trường
Tác giả: Thành Nam
Năm: 2006
6. Nguyễn Văn Nam (2002), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình thị trường chứng khoán
Tác giả: Nguyễn Văn Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản tài chính
Năm: 2002
7. Lê Văn Tề (2007), Thị trường chứng khoán tại Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thị trường chứng khoán tại Việt Nam
Tác giả: Lê Văn Tề
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê
Năm: 2007
8. Đặng Quốc Tuyến (1991), Chứng khoán và thị trường chứng khoán: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Viện Khoa học Tài chính-Bộ Tài chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chứng khoán và thị trường chứng khoán: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Tác giả: Đặng Quốc Tuyến
Năm: 1991
9. Trần Quốc Tuấn (2004), Xây dựng mô hình công ty chứng khoán trong hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, học viện tài chính, TP.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng mô hình công ty chứng khoán trong hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam
Tác giả: Trần Quốc Tuấn
Năm: 2004

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: Kết quả hoạt động của các công ty chứng khoántừ khi thành - mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay
Bảng 1 Kết quả hoạt động của các công ty chứng khoántừ khi thành (Trang 47)
Bảng 3: Tỷ trọng doanh thu từ các nghiệp vụ  trên tổng doanh thu - mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay
Bảng 3 Tỷ trọng doanh thu từ các nghiệp vụ trên tổng doanh thu (Trang 52)
Bảng 5: Tình hình giao dịch chứng khoán qua các công ty chứng - mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay
Bảng 5 Tình hình giao dịch chứng khoán qua các công ty chứng (Trang 55)
Bảng 4: Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán qua các năm - mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay
Bảng 4 Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán qua các năm (Trang 55)
Bảng 6: Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tại các công ty chứng - mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay
Bảng 6 Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tại các công ty chứng (Trang 57)
Bảng 7: Kết quả hoạt động kinh doanh của SSI - mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay
Bảng 7 Kết quả hoạt động kinh doanh của SSI (Trang 58)
Bảng 8: Hoạt động bảo lãnh phát hành tại các công ty chứng khoán - mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay
Bảng 8 Hoạt động bảo lãnh phát hành tại các công ty chứng khoán (Trang 60)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w