LUẬNVĂN:
Vì saonói tiền lươngtrongchủ
nghĩa tưbản thường thấphơn
giá trịcủanó
Lời Nói đầu
Do nhu cầu bức thiết hiện nay,hoạt động sản xuất,kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải vận dụng linh hoạt các phương pháp quản
lý đặc biệt là biện pháp kinh tế . Một trong những biện pháp kinh tế là vấn đề tiền
lương,tiền thưởng.Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người đều vì lợi
ích kinh tế. Vìtiềnlương là một yếu tố vô cùng quan trọng. Do vậy việc gắn liền với
tiền lương với hiệu quả sản xuất kinh doanh đến việc nâng cao mức sống ổn định và
phát triển trên cơ sở kinh tế là những vấn đề không thể tách rời.
Trong mục đích phát triển kinh tế đất nước đặc biệt là trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần hiện nay,việc đảm bảo lợi ích cá nhân người lao động là một động
lực cơ bản khuyến khích sự phấn đấu lỗ lực phấn đấu sáng tạo trong sản xuất. Chính
vì thế công tác thanh toán tiềnlương các khoản trích theo lương là một phần quan
trọng không thể thiếu được trong công tác hoạch toán tốt công tác này, doanh nghiệp
không chỉ điều hòa giữa lợi ích của mình với lợi ích ngươì lao động mà còn là
nguyên tố góp phần cung cấp những thông tin đầy đủ, chính xác giúp doanh ngiệp
điều hành kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình đi vào guồng máy chung xã hội
trong cơ chế mới. Tuy nhiên tiềnlương chỉ thực sự phát huy tác dụng củanó khi cá
hình thức tiềnlương được áp dụng thích hợp nhất, sát thực với tình hình kinh tế của
đơn vị sản xuất kinh doanh,đúng nguyên tắc qui định của Nhà nước và khả năng cống
hiến của mỗi người. Đề tài: "Vì saonói tiền lươngtrongchủnghĩatưbản thường
thấp hơngiátrịcủa nó".
NộI DUNG
I.Bản chất và vai trò củatiềnlương
1.Bản chất củatiền lương.
Tiềnlương là một phạm trù kinh tế tổng hợp quan trọngtrong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần hiện nay bởi vì cái ngưòi ta mua như hàng hóa không phải là lao
động mà là sức lao động,là giá cả sức lao động. Khi sức lao động trở thành hàng hóa
thì giátrịcủanó dược do bằng lao động cụ thể hiện và nó như là một sản phẩm xã
hội cần thiết dể sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Chúng ta cần phải biết phân
biệt tiền công danh nghiã và tiền công đích thực.
Như ta đã biết trong các xã hội có giai cấp bóc lột, phần thời gian lao động thặng
dư là thuộc về giai cấp bóc lột . Nhưng nhìn bề ngoài ,thì ở mỗi xã hội lại một khác.
Dưới chế độ nô lệ,hình như tất cả lao động của người nô lệ,kể cả lao động cần thiết
và lao động thặng dư đều không được trả công. Dưới chế độ phong kiến,lao động cần
thiết mà người nông nô bỏ ra trên mảnh đất của mìnhvà lao động thặng dư mà ngưòi
ấy bỏ ra trên ruộng đất của địa chủ ,có danh giới rõ rệt về thời gian và không
gian.Còn dưới chế độ tưbảnchủ nghĩa,thì toàn bộ lao động của công nhân tựa hồ
như đuợc trả công tất cả.Quan hệ hàng hóa trong xã hội tưbản đã che đậy quan hệ
bóc lột tưbảnchủ nghĩa.
ở nước ta trong thời kỳ bao cấp,một phần thu nhập quốc dân được tách ra làm quỹ
lương và phân phối cho người lao động theo kế hoạch .Tiền lương chỉ chụi sự chi
phối trực tiếp của Nhà nước thông qua các chế độ,chính sách do hội đồng Bộ trưởng
ban hành tiềnlưongchủ yếu gồm 2 phần: phần trả bằng hệ thống thang lương,bảng
lương và phần trả bằng hiện vật thông qua tem , phiếu . Theo chế độ này tiềnlương
đã không gắn chặt với số lượng và chất lượng lao động, không phản ánh đúng giảtrị
lao động của người lao động,chính vì thế nó chưa tạo được động lực phát triển sản
xuất.
Trong cơ chế mới,tiền lương cũng phải tuân thủ qui luật của thị trường sức lao
động và chụi sự điều tiết của Nhà nước,đồng thời nó phải được hình thành trên cơ sở
sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động.Dựa trên số lượng và
chất lượng lao động,tiền lương là phần giátrị mới sáng tạo ra doanh nghiệp để trả
cho người lao động. Bởi vậy,trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp ,tiền lương đã trở thành một phương tiện quan trọng,đòn bẩy kinh
tế để khuyến kích,thúc đẩy người lao động hăng say sản xuất,tìm tòi sáng tạo và có
trách nhiệm với công việc.
2.Các hình thức trả lương.
a)Tiền lương theo thời gian:
Cần phân biệt tổng số tiềnlươngcủa một ngày,một tuần, một tháng với tiền trả
công cho một giờ lao động. Chẳng hạn một công nhân một ngày làm việc 8 giờ, lĩnh
40 xu như vậy mỗi giờ được trả 5 xu. Nhưng nếu nhà tưbản bắt làm 10 giờ và trả
45 xu, thì như vậy là giá cả một ngày lao động đã giảm tư 5 xu xuống 4 xu rưỡi.
Như vậy với hình thức tiềnlương theo thời gian này, nhà tưbản có
thể kéo dài ngày lao động để hạ thấptiềnlươngcủa công nhân.Nâng cao cường độ
lao động cũng có ý nghĩa như thế.Cũng ngày lao động 8 giờ, nhưng nếu nhà tưbản
cho tăng tốc độ hoạt động của máy móc lên gấp rưỡi,thì 8 giơ lao độngcủa công nhân
thực tế bằng 12 giờ,nhưng tiềnlương thì vẫn là lương ngày như cũ hoặc có tăng,
nhưng tăng chậm hơn mức tăng của cường độ lao động.Nhà tưbản có sẵn cả một hệ
thống đốc công, cai ,ký, để bắt công nhân phải tuân theo kỷ luật lao động và tăng
cường độ lao động.
Hình thức trả lương theo thời gian có lợi cho nhà tưbản ở chỗ: khi hàng hóa tiêu
thụ dễ dàng,thì nhà tưbản kéo dài thêm ngày lao động, dù cho lương ngày của công
nhân có được tăng lên,nhưng hàng hóa sản xuất cũng được nhiều hơn do đó giátrị
thặng dư cũng sẽ nhiều hơn. Ngược lại,nếu tình hình thị trường không tốt,thì nhà tư
bản rút ngắn ngày lao động, trả công theo giờ.Thế là công nhân không đủ việc làm
rơi vào thất nghiệp bộ phận.Như vậy trong các trường hợp này,tiền lương tụt hẳn
xuống.Như vây, công nhân không những bị thiệt thòi khi ngày lao động bị kéo dài
quá độ, mà còn bị thiệt thòi cả những khi phải làm việc ít giờ hơn.
ở Mỹ trong những năm gần đây,5-6% tổng số công nhân làm việc mỗi tuần từ 1 đến
14 giờ,3-4% từ22-29 giờ,3-4%từ 30-34 giờ ,1/5 làm việc không đủ ngày.
b)Tiền lương theo sản phẩm:
Tiềnlương theo thời gian là cơ sơ để định tiềnlương theo sản phẩm,Khi qui định
đơn giácủa sản phẩm nhà tưbản đã tính đến tiềnlương theo thời gian của công nhân
trong một số ngày và số lương sản phẩm mà công nhân làm ra trong một
ngày(thường thấy mức sản xuất làm tiêu chuẩn).Ví dụ: công nhân ở xưởng A lĩnh
lương ngày trung bình là 2 đồng và làm được 10 sản phẩm một ngày; nếu áp dụng
chế độ tiềnlương theo sản phẩm ,thì nhà tưbản sẽ qui định đơn giá một sản phẩm là
2 hào. cho nên ,tiền lương theo sản phẩm thực ra chỉ là hình thức biến tướng củatiền
lương theo thời gian.Có điều là tiềnlương theo sản phẩm làm cho quan hệ bóc lột tư
bản chủnghiã càng bị che dấu.Công nhân làm được nhiều sản phẩm thì càng lĩnh
được nhiều tiềnlương ,tình hình đó khiến người ta lầm tưởng là lao động đã được trả
công đầy đủ.
Với tiềnlương theo sản phẩm, nhà tưbản không cần có bộ máy đốc công hàng
ngày kiểm tra và đôn đốc làm việc, mà công nhân vẫn phải lo làm việc nhiều và tốt
cho nhà tư bản.Công nhân phải đem hết sức mình , đua nhau làm ngày, làm đêm,tăng
cường độ lao động, mong được nhiều lươnghơn chút ít. Nhưng khi số công nhân đã
đạt đến mức cường độ lao động mới cao hơn, thì nhà tưbản lại hạ thấp đơn giá
xuống.Kết quả là công nhân làm việc càng nhiều ,thì tiềnlương càng giảm
xuống.Mác viết:
“Để giữ vững khối lượngtiền công của mình, người công nhân tìm cách làm việc
nhiều hơn,hoặc làm thêm giờ, hoặc sản xuất nhiều hơntrong cùng một giờ…Kết quả
là anh ta càng làm việc nhiều thì càng lĩnh được ít tiền công.”
Hiện nay cùng với sự phát triển của cơ khí hoá và tự động hoá,tiền lương theo thời
gian lại thành phổ biến.ở Mỹ,tỷ trọng công nhân được trả lương theo sản phẩm giảm
xuống: trong nghành chế tạo máy móc từ 32% năm1926 xuống25% năm1952, trong
nghành hoá chất và dược phẩm từ35% năm 1926 xuống 3-16% năm1957, tronh
nghành nướng bánh mỳ từ 37%năm 1926 xuống 0,5% năm 1958.Trong những
nghành còn nhiều lao động thủ công , thì tỉ trọng công nhân được trả lương theo sản
phẩm cao hơn nhiều: trong nghành làm đường và may mặc có tới gần 2/3 công nhân
được trả lương theo sản phẩm
3)Tiền lương danh nghĩa và tiềnlương thực tế:
Tiềnlương danh nghiã là số tiền mà công nhân lĩnh được do bán sức lao động cho
nhà tư bản.Tiền lương thưc tế là tiềnlương bằng số lượng và chất lượngtư liệu sinh
hoạt mà công nhân mua được bằng tiềnlươngcủa mình. Tiềnlương danh nghĩa là giá
cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ thuộc vào quan hệ cung –
cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường.Lượng giátrị sức lao động chụi ảnh
hưởng của các nhân tố tác động ngược chiều nhau.Tiền lương danh nghĩa không vạch
rõ được đầy đủ mức sống của công nhân.Ví dụ:tiền lương danh nghĩa vẫn như cũ,
nhưng nếu giá vật phẩm tiêu dùng và thuế má tăng thêm, thì mức sống sẽ hạ
xuống.Tiền lương danh nghĩa có thể tăng thêm, nhưng nếu trong thời gian đó giá sinh
hoạt lại tăng nhanh hơn thì mức sống cũng vẫn bị hạ xuống.
Muốn xác định tiềnlương thực tế của công nhân, một mặt phải tính đến mức tiền
lương danh nghĩa, mặt khác phải tính đến mức giá cả vật phẩm tiêu dùng, tiền trả các
khoản phục vụ và thuế.
Thống kê tưbảnchủnghĩathường xuyên tạc sự thật về tiềnlương bằng cách: xếp
cả thu nhập của những tầng lớp lãnh đạo về công việc, tài chính
(như nhân viên quản lý xí nghiệp, giám đốc xí nghiệp…)vào tổng số tiềnlươngcủa
công nhân, cùng với mức lươngthấp nhất của đông đảo công nhân không lành nghề,
công nhân nông nghiệp, không tính đến tình trạngđắt đỏ của vật phẩm tiêu dùng và
thuế má nặng nề mà công nhân phải đóng góp. Trong các nước tưbảnchủ nghĩa,
nhất là trong các nước thuộc địa và phụ thuộc,tiền lương không đủ đảm bảo mức
sống tối thiểu cho phần lớn công nhân, vìgiá sinh hoạt đắt đỏ và nạn thất nghiệp
nặng nề.ở Mỹ, tiềnlương tháng trung bình của một công nhân công nghiệp chế biến
từ 3.280 đô-la tăng lên 4.842 đô-la, nhưng cũng trong thời gian đó, nhu cầu tối thiểu
của gia đình họ từ 3.750 đô-la, tăng lên 5.832 đô-la.Do đó đời sống của họ ngày một
thiếu thốn thêm. Đó là chưa kể tinh trạng vật giá tăng cao, thất nghiệp thường xuyên
đã ảnh hưởng đến đời sống của họ.
4) Lương trước CNTB thườngthấphơngiá cả sức lao động:
Giá cả sức lao động không phải là số lượng nhất định, mà nó luôn luôn thay đổi.
Dưới chủnghĩatư bản, năng xuất lao động nâng cao là nguyên nhân chủ yếu làm cho
giá trịcủa sức lao động hạ xuống. Mối liên hệ giữa giátrị sức lao động và tiềnlương
rất phức tạp. Dưới chủnghĩatưbản , giá cả sức của hàng hoá- sức lao động khác với
giá cả của những hàng hoá thông thường ở chỗ nó không lên xuống xoay quanh giá
trị, mà có xu hướng ngày càng hạ thấphơngiá trị. Sở dĩ như vậy vìchủnghĩatưbản
càng phát triển thì tệ nạn thất ngiệp ngày càng thêm trầm trọng , nghĩa là mức cung
về sức lao động vượt quá mức cầu về sức lao động. Lợi dụng tình trạng đó, giai cấp
tư sản hạ thấptiềnlươngcủa giai cấp công nhân xuống thấphơngiátrịcủa sức lao
động. Sự phát triển của kỹ thuật một mặt làm tăng thêm nhu cầu về công nhân lành
nghề, nhưng mặt khác làm cho nhiều động tác trở lên giản đơn, công nhân lành nghề
trở lên thừa, buộc phải làm những công việc không đòi hỏi nhiều khả năng chuyên
môn với tiềnlương rất thấp. Việc áp dụng kỹ thuật cơ khí tạo khả năng thay thế lao
động của đàn ông bằng lao động của đàn bà, trẻ em, mà tiềnlươngcủa đàn bà và trẻ
em thì thườngthấphơntiềnlươngcủa đàn ông rất nhiều, ngay cả trong trường hợp
họ hoàn thành một công việc như nhau.
Tiềnlương ngày càng thấphơngiátrị sức lao động là một trong những nguyên
nhân làm cho tiềnlương thực tế giảm xuống. Ngoài ra tiềnlương thực tế giảm xuống
còn do những nguyên nhân sau đây :
Thứ nhất, dưới chủnghĩatưbảngiá cả sinh hoạt tư liệu cần thiết cho công nhân
ngày càng đắt đỏ.
Thứ hai dưới chủnghĩatưbản , thuế má và lạm phát ngày trở thành gánh nặng đè
lên đầu quần chúng lao động. Trong thời kỳ đế quốc chủnghĩa , do ảnh hưởng của
chính sách quân sự hoá nền kinh tế và xâm lược của bọn đế quốc ,thuế má ngày càng
nặng, lạm phát ngày thêm trầm trọng. Đó cũng là nguyên nhân làm cho tiềnlương
giảm xuống.
Căn cứ vào sự phân tích trên, chúng ta thấy dưới chủ nghĩatưbảntiền lương có xu
hướng hạ thấp. Bên cạnh những nhân tố hạ thấptiềnlương lại có những nhân tố hoạt
động chống lại xu hướng hạ thấp tiềh lương, trong đó cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân cho quyền lợi sinh sống và làm việc là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng .
Tuy nhiên,C.Mác đã vạch ra rằng xu hướng chung của sản xuất tưbảnchủnghĩa
không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà hạ thấp mức tiền công ấy. Bởi
lẽ trong quá trình phát triển củachủnghĩatư bản, tiềnlương danh nghĩa có xu hướng
tăng lên, nhưng mức tăng củanó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu
tiêu dùng và dịch vụ; đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên , khiến cho
cung về lao động làm thuê vượt quá mức cầu về lao động , điều đó cho phép nhà tư
bản mua sức lao động dưới giátrịcủa nó, vì vậy tiền công thực tế của giai cấp công
nhân có xu hướng hạ thấp. Nhưng sự hạ thấpcủatiền công thực tế chỉ diễn ra như
một xu hướng, vì có những nhân tố chống lại sự hạ thấptiền công . Một mặt, đó là
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công. Mặt khác, trong điều kiện
của chủnghĩatưbản ngày nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công
nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng đã buộc giai cấp
tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao động bằng lợi ích
vật chất. .Chỉ có cuộc đấu tranh chính trị , đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân mới có thể hoàn toàn giải phóng giai cấp công nhân khỏi sự bóc lột tưbảnchủ
nghĩa, mới xoá bỏ được nguyên nhân căn bản gây ra tình trạng bị áp bức và nghèo
khổ của giai cấp công nhân . Đó cũng là một nhân tố cản trở xu hướng hạ thấptiền
lương.
Công ty Elmacco là một doanh nghiệp do nhà nước quả lý cho nên việc tính toán
quỹ lươngcủa công ty phải căn cứ vào doanh thu theo tỷ lệ thực tế. Với cách tính
lương theo doanh thu sẽ khắc phục được những tồn tại của cách tính lương trước đó
.Đây là động lực mạnh mẽ để kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và cũng là
một hình thức tính toán quỹ lương thích hợp trong điều kiện hiện nay. Đây là bộ
phận không trực tiếp tạo ra nguồn lương cũng như quĩ lương nên:
Thứ nhất , biện pháp đầu tiên là công ty nên diều chỉnh lại bộ máy quản lý và đặc
biệt là nên sát nhập lại một số phòng ban mà hiệu quả cao.
Thứ hai, ban lãnh đạo công ty cần chú ý bố trí đúng người, đúng việc, sắp xếp hợp
lý để phát huy tài năng của từng người.
Thứ ba,để tạo nguồn, tăng thu nhập cho cán bộ CNV trong toàn công ty thì trước
tiên công ty phải mở rộng qui mô sản xuất, tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ ( cả về
chủng loại hành hoá cũng như chất lượng hàng hoá). Bên cạnh đó công ty phải luôn
đẩy mạnh sản xuất kinh doanh mặt hàng tiêu thụ trên thị trường trong và nước ngoài
với mụch đích là tăng doanh thu cho lợi nhuận cao.
Thứ tư, tận dụng triệt để chính sách thuế có lợi nhuận thiếu xuất khẩu= 0 vì hiện
nay Nhà nước đang khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu để tăng doanh thu
một cách đáng kể , góp phần dẩy mức lương cho người lao động để dần dần từng
bước cải thiện đời sống cán bộ CNV.
Thứ năm, công ty phải cố gắng sử dụng có hiệu quả phương thức kinh tế về tiền
lương và phân phối hợp lý quĩ lươngtrongnội bộ nhân viên vừa đảm bảo, vừa kích
thích sản xuất phát triển bằng cách:
+Lợi nhuận kinh tế về doanh nghiệp được xác định là hiệu quả doanh thu trừ chi
phí và coi đó là giải pháp hữu hiệu nhất mang tính chất chiến lược trong mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty.
+Hoàn thiện thêm công tác định mức lao động từ đó để có căn cứ xác định số
lượng lao động tiêu thụ hợp lý có một sản phẩm trong sản xuất kinh doanh để trên cơ
sở xây dựng định mức tiềnlương hợp lý.
+Tổ chức tốt việc đào tạo, nâng cao tay nghề cho cán bộ CNV.
+Hàng tháng xét lươngthưởng một cách chính đáng vìtiềnlương , tiềnthưởng là
một đòn bẩy kinh tế, là phần giátrị mới sáng tạo ra , là nguồn thu nhập chủ yếu của
người lao động .
Kết luậnTiềnlương là các khoản tính trích theo lương có một vai trò đặc biệt quan trọng
và là trọng tâm công tác kế toán ở tất cả các doanh nghiệp.
Do nhu cầu bức thiết hiện nay, hoạt động sản xuất , kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải vận dụng linh hoạt các phương pháp quản lý
đặc biệt là các biện pháp kinh tế. Một trong những biện pháp kinh tế và vấn đề tiền
lương , tiền thưởng.
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người đều vì lợi ích kinh tế. Vì thế,
tiền lương là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với hiệu quả sản xuất. Do vậy, việc
gắn liền với tiềnlương , với hiệu quả sản xuất, kinh doanh đến việc nâng cao mức
sống ổn định và phát triển trên cơ sở kinh tế là những vấn đề không thể tách rời.
Tài Liệu Tham Khảo
- Sách giáo trình kinh tế chính trị Mác- LêNin
- Sách hoạch toán kinh tế vừa và nhỏ
- Tập bài giảng kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Và các tài liệu khác.
. LUẬN VĂN: Vì sao nói tiền lương trong chủ nghĩa tư bản thường thấp hơn giá trị của nó Lời Nói đầu Do nhu cầu bức thiết hiện nay,hoạt động sản xuất,kinh doanh trong nền. của Nhà nước và khả năng cống hiến của mỗi người. Đề tài: " ;Vì sao nói tiền lương trong chủ nghĩa tư bản thường thấp hơn giá trị của nó& quot;. NộI DUNG I .Bản chất và vai trò của. chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà hạ thấp mức tiền công ấy. Bởi lẽ trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền lương danh nghĩa