1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn " QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HÀN QUỐC TRONG XU THẾ HỘI NHẬP HIỆN NAY " potx

92 636 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 679,06 KB

Nội dung

Sự trao đổi không chỉ dừng lại giữa cá nhân này với cá nhân khác mà đã phát triển thành mối quan hệ tuỳ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia.. Riêng đ

Trang 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG -

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI :

“ QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HÀN QUỐC TRONG XU THẾ HỘI

NHẬP HIỆN NAY”

Giáo viên hướng dẫn : T.S Nguyễn Văn Hồng

Sinh viên thực hiện: Dương Minh Châu Lớp A10 - K38C – KTNT

Hà nội 2003

Trang 2

MỤC LỤC

Lời mở đầu

Chương I: Quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách quan hệ kinh tế quốc

tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

1

II Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế 3

IV Chính sách của Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế 11

1 Chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế quốc tế 11

1.3 Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại thời kì 2001 - 2010 13

2 Những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và

trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc nói riêng

15

Chương II: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn

Quốc giai đoạn 1992 – 2003

18

1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc 20

Trang 3

2 Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc 26 2.1 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc 26 2.1 Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc 29

V Đánh giá quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc 51

Chương III Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương

mại Việt Nam – Hàn Quốc

60

Trang 4

I Định hướng phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn

Quốc trong thời gian tới

60

II Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc 63

2.1 Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam 65

2.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại 68

3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm

dẻo

71

3.4 Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện

liên doanh, liên kết có hiệu quả

75

Kết luận

Tài liệu tham khảo

Trang 5

CHƯƠNG I:

QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

I Quan hệ kinh tế quốc tế

1 Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế

Ngay từ lúc mới xuất hiện, con người đã luôn có nhu cầu trao đổi với nhau để tồn tại Khi xã hội loài người phát triển lên những cấp độ cao hơn, cùng với sự ra đời của bộ tộc, làng xã, nhà nước, nhu cầu trao đổi đó càng được mở rộng Sự trao đổi không chỉ dừng lại giữa cá nhân này với cá nhân khác mà đã phát triển thành mối quan hệ tuỳ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia Trong nền kinh tế thế giới hiện

nay, mối quan hệ đó chính là quan hệ kinh tế quốc tế

Quan hệ kinh tế quốc tế được hiểu là tổng thể các mối quan hệ vật chất, tài chính có liên quan đến tất các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra giữa các quốc gia và giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế

Các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu bao gồm:

Quan hệ kinh tế quốc tế về trao đổi hàng hoá (hay còn gọi là mậu dịch quốc tế): là một hình thức quan hệ kinh tế quốc tế chủ yếu, trong đó diễn ra

việc di chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác Di chuyển hàng hoá quốc tế được thực hiện thông qua hình thức buôn bán quốc tế Trên thị trường thế giới, người ta thường chia hàng hoá trao đổi giữa các nước thành hai nhóm: hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình

Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển vốn đầu tư (hay còn gọi là đầu tư quốc tế): Đầu tư quốc tế là hiện tượng di chuyển các phương tiện đầu tư từ

Trang 6

nước này sang nước khác nhằm thu lợi nhuận Đầu tư quốc tế thực chất là di chuyển các yếu tố sản xuất trên qui mô toàn thế giới

Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển sức lao động: là quan hệ kinh tế

quốc tế trong đó diễn ra việc di chuyển sức lao động từ nước này sang nước khác trên phạm vi thế giới Di chuyển quốc tế sức lao động được coi như di chuyển hàng hoá quốc tế, nhưng đó là loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức lao động, trên thị trường đặc biệt - thị trường sức lao động Loại quan hệ kinh

tế quốc tế này dẫn đến việc di dân trên phạm vi thế giới

Quan hệ kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ: Trong điều

kiện hiện nay hình thức này được thể hiện phổ biến dưới dạng chuyển giao công nghệ: buôn bán Licence, Know - how, Engineering…

Quan hệ tiền tệ quốc tế: là một loại quan hệ kinh tế quốc tế trong đó

diễn ra sự di chuyển các phương tiện tiền tệ từ nước này sang nước khác trên qui mô quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển các quan hệ buôn bán, đầu tư Tiền tệ với chức năng tiền tệ thế giới làm trung gian cho các quan hệ hàng hoá,

di chuyển vốn cũng như các quan hệ khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan

hệ này

2 Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế

Trong hệ thống kinh tế thế giới, mỗi quốc gia không thể tồn tại và phát triển mà không có mối quan hệ trao đổi với quốc gia khác Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ

và trở thành xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia Do đó quan hệ kinh tế quốc tế luôn giữ một vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế của mỗi nước

Quan hệ kinh tế quốc tế được xem như một biện pháp nhằm bổ sung nguồn lực cho phát triển kinh tế của các nước Mở rộng quan hệ kinh tế đối

Trang 7

ngoại sẽ giúp các quốc gia tiếp thu vốn và công nghệ tiên tiến để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng năng động, tăng trưởng với tốc độ cao Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các quốc gia đang phát triển khi mà nền kinh tế còn nghèo, trình độ phát triển còn thấp Vốn và công nghệ hiện đại giúp các quốc gia này nâng cao trình

độ sản xuất trong nước, góp phần rút ngắn cách biệt về kinh tế với các nền kinh tế phát triển

Bên cạnh đó, thị trường nội địa của một nước thường chật hẹp, không đủ

để đảm bảo phát triển nền công nghệ với quy mô sản xuất hàng loạt Điều này cho thấy chỉ có mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại mới khắc phục được hạn chế trên Tăng cường quan hệ với các nước giúp mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần tăng thu ngoại tệ đồng thời thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển Hơn nữa, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại còn giúp khai thác triệt

để các thế mạnh của mỗi nước, nâng cao đời sống người dân, tạo điều kiện củng cố hoà bình, ổn định

Riêng đối với các nước công nghiệp phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo thuận lợi cho việc bành trướng nhanh chóng sức mạnh kinh tế của các nước như: tìm kiếm thị trường mới để giải quyết khủng hoảng thừa của hàng hoá; tìm kiếm nơi đầu tư thuận lợi hơn, đem lại lợi nhuận cao hơn; giảm được chi phí sản xuất do tận dụng được nguồn lao động và tài nguyên rẻ ở các nước đang và kém phát triển

II Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế

Quan hệ kinh tế quốc tế là bộ phận cốt lõi tạo nên tính hữu cơ của nền kinh tế thế giới, nhờ đó mà các nền kinh tế quốc gia có thể liên kết với nhau thành một thể thống nhất Do đó, quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc

tế chính là sự phản ánh quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới mà ở đó

Trang 8

nền kinh tế của các quốc gia phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau Chính vì vậy mà ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thế giới, các quan

hệ kinh tế quốc tế cũng có những điểm khác biệt nhất định

1 Trong giai đoạn đầu, nền kinh tế thế giới đang ở thời kì Chủ nghĩa tư bản

tự do cạnh tranh, phân công lao động quốc tế từ chỗ sử dụng những khác biệt

về điều kiện tự nhiên đã phát triển thành phân công lao động quốc tế tư bản chủ nghĩa được thực hiện thông qua buôn bán quốc tế Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất ở một số nước dẫn tới nhu cầu mở rộng thị trường và nơi tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận Đồng thời, phân công lao động quốc tế tư bản chủ nghĩa làm tăng nhanh sự phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản, làm sâu sắc thêm sự cách biệt trình độ phát triển kinh tế giữa một nhóm nhỏ các nước công nghiệp phát triển với phần còn lại của thế giới Do đó, quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này thường chỉ diễn ra giữa một số nước tư bản

2 Giai đoạn phát triển thứ hai, bắt đầu từ cuối thế kỉ 19, nền kinh tế thế giới

chuyển sang thời kì Chủ nghĩa đế quốc Phân công lao động quốc tế thời kỳ này được biểu hiện trước hết bằng sự thống trị thị trường trong và ngoài nước của các liên minh độc quyền mạnh nhất trên thế giới Quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này do đó là sự liên minh giữa các nhà tư bản dựa trên sự phân chia thế giới về mặt kinh tế, là liên minh chính trị giữa các nhà nước với nhau dựa trên việc phân chia lãnh thổ thế giới Tuy nhiên bên cạnh đó cũng song song tồn tại mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa Các quan hệ thực dân này đã khiến cho các cường quốc công nghiệp phát triển liên hệ chặt chẽ với lãnh thổ hải ngoại rộng lớn mà ở đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Trang 9

còn rất thấp và quan hệ sản xuất này còn mang tính chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

Do đó, nét nổi bật của quan hệ kinh tế quốc tế trong thời kì này là xuất khẩu tư bản từ chính quốc vào thuộc địa Trong các nước tư bản công nghiệp phát triển, quá trình tập trung sản xuất vào tay các tổ chức độc quyền diễn ra mạnh mẽ, gắn liền với việc tăng nhanh tích luỹ tư bản và năng suất lao động Sản xuất công nghiệp tăng lên nhanh chóng Ngược lại, ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc lại diễn ra quá trình lạc hậu và ngừng trệ về trình độ phát triển kinh tế Đây chính là hình thức đặc trưng của mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trên phạm vi toàn thế giới Đồng thời, mâu thuẫn giữa các cường quốc trong việc chạy đua theo lợi nhuận tối đa và cạnh tranh giành sự thống trị thị trường thế giới ngày càng gay gắt

3 Giai đoạn thứ ba của nền kinh tế thế giới được đánh dấu bằng sự thắng lợi

của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười và sự xuất hiện một nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới Sự thắng lợi này và sự hình thành của nhà nước công nông tách khỏi hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa dẫn đến

sự phá vỡ nền kinh tế thế giới chủ nghĩa tư bản thống nhất Trên thế giới, bên cạnh hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã tồn tại loại hình kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó nền kinh tế - xã hội phát triển theo những quy luật hoàn toàn khác với quy luật của chủ nghĩa tư bản

Trong quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh quan hệ giữa các nước trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện quan hệ giữa một bên là Liên Xô với bên kia là thế giới tư bản với quy mô hạn chế Các quan hệ này chủ yếu là quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa các chủ thể bình đẳng của nền kinh

tế thế giới Giai đoạn phát triển này của nền kinh tế thế giới kéo dài đến sau đại chiến thế giới lần thứ II, khi mà trên thế giới ngoài Liên Xô còn xuất hiện

Trang 10

hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa khác ở châu Âu và châu Á hình thành nên

hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và nền kinh tế thế giới xã hội chủ nghĩa Trong phạm vi kinh tế thế giới tồn tại hai hệ thống đối lập: xã hội chủ nghĩa và

tư bản chủ nghĩa Mỗi hệ thống kinh tế đều phát triển theo những quy luật riêng của mình và cơ cấu kinh tế xã hội bên trong của nó hoàn toàn khác nhau Song, đồng thời giữa hai hệ thống còn tồn tại những quan hệ lẫn nhau và cả hai

hệ thống đều tham gia vào phân công lao động quốc tế quốc tế và buôn bán quốc tế như những bạn hàng bình đẳng

Các quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này phát triển hết sức phức tạp Mỗi hệ thống kinh tế đều có kiểu quan hệ riêng của mình, về bản chất nó được xác lập trên những nguyên tắc hoàn toàn đối lập nhau Trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc dần dần được xoá bỏ và đã hình thành các nước mới độc lập - các nước đang phát triển Mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước tư bản công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển Đồng thời những mâu thuẫn lẫn nhau giữa các nước đế quốc chủ nghĩa cũng ngày càng thêm gay gắt và triền miên Tất cả những điều đó đã đẩy chủ nghĩa tư bản vào cuộc tổng khủng hoảng ngày càng sâu sắc Bên cạnh đó địa vị kinh tế của các nước đang phát triển ngày càng được củng cố và sự phát triển của nó có ảnh hưởng không những đến sự tồn tại của hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa

mà còn ảnh hưởng đến các quan hệ kinh tế nói chung Trong quan hệ kinh tế quốc tế ở giai đoạn này, mâu thuẫn cơ bản cũng là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa

tư bản và chủ nghĩa xã hội được biểu hiện bằng cuộc đấu tranh kinh tế giữa hai

hệ thống

Trang 11

4 Giai đoạn hiện đại của nền kinh tế thế giới là giai đoạn mà ở đó các nhóm nước trong nền kinh tế thế giới được hình thành chủ yếu dựa vào trình độ phát triển kinh tế và khu vực địa lý Một thế giới đa cực đang hình thành

Sau khi Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa châu Âu tan rã, các cường quốc phương Tây trở thành những thế lực chủ yếu chi phối cục diện kinh tế - chính trị thế giới Tỷ trọng các nước đang phát triển trong sản xuất công nghiệp thế giới chỉ chiếm một phần nhỏ, 2/3 quan hệ buôn bán quốc tế của các nước đang phát triển gắn với các nước phát triển, chỉ 1/3 còn lại là các nước phát triển với nhau; 95% vốn đầu tư nước ngoài xuất phát từ các nước phát triển, trong số đó chỉ có 1/4 đi vào các nước đang phát triển phần còn lại tập trung chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển

Hoà nhập vào nền kinh tế thế giới trong thế so sánh lực lượng không có lợi, các nước đang phát triển luôn tìm cách vươn lên để hạn chế thiệt thòi của

kẻ yếu Nhiều nước Đông Á đã phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo trong quá trình hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, đã có những chính sách, những biện pháp thích hợp nhờ đó đã duy trì được nhịp tăng trưởng đáng kể

Do nhịp độ tăng trưởng của các nước đang phát triển nói chung nhích lên trong khi nhịp độ tăng trưởng ở các nước phát triển hầu như dậm chân tại chỗ, các nước phát triển có xu hướng bám chặt hơn, thậm chí tăng cường các biện pháp o ép đối với các nước đang phát triển để giữ vững lợi thế so sánh của mình trong quan hệ hợp tác Đồng thời cạnh tranh và mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển gay gắt lên thêm

Từ tình hình trên, xu hướng khu vực hoá trong các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển có thể nhằm tăng cường lợi thế của mỗi nhóm nước trong hợp tác với các nước ngoài khu vực và thực tế cho thấy quá trình này đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với một tốc độ ngày càng cao trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới như buôn bán, tổ chức

Trang 12

sản xuất, nghiên cứu khoa học công nghệ cũng như các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá, lối sống… Hiện nay trên thế giới đã hình thành nhiều liên kết khu vực như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Nhóm các nước phát triển (G7), Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)…Tuy nhiên do xu hướng, xu thế chung của khu vực hoá sẽ không thể sống nếu tách rời hoặc đi ngược lại với toàn cầu hoá trong hợp tác kinh tế Điều đó là do các vấn đề toàn cầu hoá ngày càng trở nên gay gắt như vấn chiến tranh và hoà bình, đề lương thực, vấn đề môi trường sinh thái, vấn đề dân số…trong đó nổi cộm nhất hiện nay là vấn đề chống khủng bố trên toàn thế giới Vụ khủng bố kinh hoàng diễn ra trên đất Mỹ ngày 11/9/2001 mới đây là một minh chứng điển hình cho tính tất yếu của hợp tác toàn cầu

Giữa các nước đang phát triển với nhau, một mặt có nhu cầu liên kết tự nhiên giữa những người đồng cảnh, mặt khác do nhu về vốn ngày càng tăng trong khi tỷ trọng FDI vào các nước này không tăng hoặc ngày càng giảm, sự cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư ngày càng gay gắt hơn Các nguồn viện trợ và cho vay dành cho các nước đang phát triển nói chung ngày càng giảm, trừ một

số ít nước có khả năng trả nợ tin cậy

Các dự báo trên thế giới gần như thống nhất rằng trong nửa đầu thế kỉ

21, châu Á - Thái Bình Dương với tiềm năng phong phú, tính năng độc lập, nhịp độ tăng trưởng thần kì và bước đi tương đối vững chắc sẽ trở thành trung tâm kinh tế thế giới, thậm chí có dự báo cho rằng trung tâm kinh tế thế giới chuyển từ châu Âu sang châu Á trong đó nổi lên là Đông Á - Tây Thái Bình Dương

Do qui luật cạnh tranh và thời gian đã trở nên thúc bách các cường quốc kinh tế cả trong và ngoài khu vực đều phải tính đến việc cầm chân và phát triển ảnh hưởng ở khu vực này Gần đây đã xuất hiện nhiều động thái cho thấy

Trang 13

sự bắt đầu quan tâm (hoặc quan tâm nhiều hơn) của các nước lớn đối với khu vực này, không những từ Nhật, Trung Quốc mà còn cả từ một số nước Tây Âu

và Mỹ, cụ thể là việc thành lập khối liên kết ASEAN + 3 gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn quốc và khối liên kết ASEAN + 1 với riêng từng nước Mục tiêu của họ không chỉ đơn thuần là đi tìm lợi nhuận cao, hoặc vì yêu cầu nhân đạo giao lưu văn hoá, mà còn nhằm cân bằng và giành giật ảnh hưởng với nhau, tiến tới đưa khu vực này đi theo quỹ đạo của họ

Có thể nói quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, sâu sắc và rộng khắp Trong quan hệ đó, có sự tham gia của mọi quốc gia, mọi thành phần kinh tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh

tế - xã hội Khu vực hoá, toàn cầu hoá do đó là xu thế đặc trưng của quan hệ kinh tế quốc tế thời kì này Các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau và đang dần từng bước tạo nên một nền kinh tế thế giới thống nhất

III Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế

Tiền đề cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế là phân công lao động quốc

tế Trong giai đoạn đầu, những hình thức quan hệ kinh tế quốc tế đơn giản nhất

xuất phát từ sự khác nhau về điều kiện tự nhiên của từng nước Sự khác nhau

về tài nguyên thiên nhiên, về khoáng sản, khí hậu…đã trở thành tiền đề tự nhiên của phân công lao động quốc tế, là cơ sở đầu tiên cho việc trao đổi hàng hoá giữa các ngành và các quốc gia

Trong những thời kì sau, cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, phân công lao động quốc tế ngày càng được mở rộng Ý nghĩa của điều kiện tự nhiên như một yếu tố nguyên thuỷ của phân công lao động quốc tế đã bị giảm một cách tương đối và ý nghĩa của phân công lao động trong nội bộ ngành được nâng cao Chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế do đó ngày càng trở nên

Trang 14

sâu sắc, mậu dịch quốc tế càng phát triển nhanh chóng Giữa các quốc gia trong nền kinh tế thế giới ngày càng tăng cường mối quan hệ trao đổi và phụ thuộc lẫn nhau Nền sản xuất vật chất đã vượt qua khuôn khổ của các nước riêng lẻ và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng tỉ mỉ, sâu sắc và chặt chẽ hơn Phân công lao động quốc tế giờ đây không chỉ dừng lại ở việc trao đổi hàng hoá mà được mở rộng trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật; trở thành một nhu cầu không thể thiếu của đời sống kinh tế và là một tất yếu khách quan của thời đại Việc áp dụng những thành tựu khoa học

kỹ thuật vào quá trình sản xuất đã tạo ra cơ sở vật chất để mở rộng thị trường thế giới và tăng nhanh các quan hệ kinh tế quốc tế Có thể nói phân công lao động quốc tế luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của các mối quan hệ kinh

Trong những giai đoạn sau, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ dần trở thành một yếu tố đầu vào mang tính chất quyết định đối với

sự phát triển sản xuất của mỗi quốc gia Lợi thế so sánh do đó cũng được mở

Trang 15

rộng, bao gồm cả công nghệ, dây chuyền sản xuất Những quốc gia có trình độ khoa học công nghệ hiện đại sẽ giảm được chi phí sản xuất, tăng chất lượng và sản lượng sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong quan hệ buôn bán, trao đổi với các quốc gia khác Lợi thế so sánh thật sự đã trở thành

cơ sở để các nước tham gia vào các mối quan hệ kinh tế quốc tế khi đem lại lợi ích thương mại cho các quốc gia đó

Bên cạnh đó, sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế cũng gắn liền với

sự phát triển kinh tế của các quốc gia Khi các nền kinh tế còn ở trình độ phát

triển thấp, quan hệ giữa các nước mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi hiện vật, đổi hàng lấy hàng Chính sự phát triển về khoa học công nghệ, sự phát triển và hoàn thiện các phương tiện giao thông vận tải, liên lạc đã làm cho các bộ phận của nền kinh tế thế giới ngày càng xích lại gần nhau và mở rộng không ngừng các quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực trên thế giới Các quan hệ kinh

tế quốc tế bây giờ không chỉ đơn thuần bao gồm việc trao đổi hàng hoá mà còn được mở rộng sang nhiều hoạt động khác Sự xuất hiện và phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ đã dẫn đến nhu cầu chuyển giao những công nghệ cũ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển vốn rất thiếu dây chuyền công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất trong nước Cũng nhờ sự phát triển kinh tế, dẫn đến dư thừa vốn ở một số nước phát triển, hoạt động di chuyển vốn đầu tư sang các quốc gia khác đã được thực hiện Có thể nói kinh

tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa các nền kinh tế càng trở nên bền chặt và sâu sắc, sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia do đó cũng ngày càng tăng Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ là một minh chứng cho điều đó

Trang 16

IV Chính sách của Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế

1 Chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế quốc tế

1.1 Mục tiêu của quan hệ kinh tế quốc tế

Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố

và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế” Đến Đại hội Đảng lần thứ

IX lại khẳng định chủ trương “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để tăng trưởng nhanh, có hiệu quả và bền vững” với mục tiêu:

Mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội 2001 - 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 - 2005

1.2 Những quan điểm chỉ đạo

Thứ nhất, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng

mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế - Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu

vì hoà bình, độc lập và phát triển

Thứ hai, mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương với

nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình, làm thất bại mọi âm mưu và hành

Trang 17

động gây sức ép, áp đặt, cường quyền Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước XHCN và các nước láng giềng Nâng cao hiệu quả

và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bè bạn truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển

ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ la-tinh, các nước trong Phong trào không liên kết Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế

Thứ ba, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần

phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường Chính phủ các bộ ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lí và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế

1.3 Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại thời kì 2001 - 2010

Căn cứ vào đường lối kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm

2001 - 2010, xu hướng phát triển nền kinh tế và thị trường thế giới thập niên đầu thế kỷ XXI cũng như từ thực tiễn của các nước và của bản thân, Đại hội Đảng IX đã đề ra định hướng lớn cho hoạt động kinh tế đối ngoại thời kì 2001 – 2010:

Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá,

đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song

Trang 18

phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO…

Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và

sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản Khuyến khích

sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất - nhập Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn,

có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước

Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính tiền tệ, dịch vụ kỹ thuật, tư vấn, thu hút kiều hối

Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở rộng thị trường mới

Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế

Từ những quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế đối ngoại nói trên ta có thể thấy một số lưu ý quan trọng sau:

Xuất nhập khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác không chỉ được xem là nhân tố hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế quốc dân mà còn là động lực phát triển kinh tế của đất nước Phát triển kinh tế đối ngoại là để tăng cường

Trang 19

khả năng tự phát triển không ngừng của nền kinh tế quốc dân, chứ không chỉ tăng thu nhập thuần tuý, mặc dù không coi nhẹ việc tăng thu nhập

Đối với nước ta, một nước trình độ phát triển còn thấp, thiếu vốn và kỹ thuật nhưng lại có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động, việc thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời coi trọng bảo hộ có chọn lọc,

có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước

Coi trọng việc xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng chế biến, sản phẩm có hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao, chú trọng xuất khẩu dịch vụ Chủ trương này tạo đà cho xuất khẩu tăng tốc và đạt hiệu quả

Thực hiện chiến lược này là giải pháp mở cửa nền kinh tế để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài vào khai thác tiềm năng lao động và tài nguyên đất nước

2 Những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế quốc tế

Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại:

Chúng ta đã đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng mạnh

mẽ quan hệ kinh tế quốc tế song phương và đa phương Cho đến nay Việt Nam

đã ký Hiệp định thương mại với với 85 nước, ký Hiệp định về hợp tác kinh tế – khoa học – kỹ thuật với 32 nước và phát triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ Nước ta đã trở thành thành viên có quan hệ với các tổ chức tài chính lớn của quốc tế và khu vực như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), đã nhận được từ các tổ chức tài chính này những khoản vay ưu đãi hàng tỷ USD để thực hiện nhiều dự

án lớn, nhận được viện trợ hàng trăm triệu USD hỗ trợ kỹ thuật cho nhiều lĩnh

Trang 20

vực cải cách hệ thống thuế, ngân hàng, thống kê…Bên cạnh đó chúng ta cũng

đã gia nhập ASEAN và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), tham gia sáng lập diễn đàn Á - Âu (ASEM), gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), trở thành quan sát viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đang tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức này Nước ta cũng đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu (EU)

và Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kì theo chuẩn mực của WTO

Để tăng cường việc chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế quốc tế, chính phủ

đã thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và Uỷ ban đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế

Thực hiện đường lối đổi mới chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng

mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nước ta đã

mở rộng được quan hệ đối ngoại, vượt qua được những khó khăn nay về thị trường do biến động ở Liên Xô cũ và Đông Âu gây ra, phá được thế bị bao vây, cấm vận và các thế lực thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường và thương trường thế giới, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực vào cuối những năm 90 của thế kỉ

XX

Thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tháng 12/1987 đến nay chúng ta đã thu hút được trên 42 tỷ USD vốn đầu tư với trên 3000 dự án, đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD trong số đó Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh

tế nước ta: gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, giải

Trang 21

quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp

Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới Nhiều công nghệ và dây chuyền sản xuất hiện đại được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất Đồng thời thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan

hệ kinh tế đối ngoại nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất lao động và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển Đã có hàng trăm doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ISO 9000 Một tư duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo, có kiến thức quản lý đang hình thành

Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong quan hệ kinh tế đối ngoại thời gian qua chính là kết quả nỗ lực trong từng mối quan hệ đối ngoại với các nước, trong đó phải đặc biệt kể đến quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc Tuy mới

thiết lập quan hệ ngoại giao được hơn 10 năm nhưng nhưng kết quả đạt được trong mối quan hệ giữa hai nước thật đáng khích lệ Về kinh tế, quan hệ hai nước phát triển nhanh chóng và rất có hiệu quả Cho đến nay chính phủ Hàn Quốc đã dành cho Việt Nam 148 triệu USD các khoản tín dụng ưu đãi từ Quỹ viện trợ phát triển (EDCF) và 36,5 triệu USD viện trợ không hoàn lại trong các lĩnh vực y tế, giáo dục…Về hợp tác đầu tư, Hàn Quốc đã đầu tư vào Việt Nam

Trang 22

khoảng 4.03 tỷ USD với 588 dự án, đứng vị trí thứ 5 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam sau Singapore, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản Tính riêng 9 tháng năm 2003, Hàn Quốc đã có 121 dự án đầu tư được cấp phép với tổng vốn đăng kí lên đến 191.211,1 nghìn USD, đứng thứ hai chỉ sau Đài Loan Các dự án đầu tư của Hàn Quốc đã tạo ra gần 100.000 việc làm cho người lao động Việt Nam

ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

Từ 1/1 – 20/9/2003

Đơn vị: 1000 USD

Số vốn đăng kí Các nước và vùng

lãnh thổ đầu tư vào

Việt Nam

Số dự án được cấp giấy phép

Trang 23

Nhật Bản 35 71.073,3 33.495,8 Trung Quốc 41 63.511,5 26.406,5

Singapore 18 40.138,8 21.033,8

Hà Lan 7 38.910,0 12.570,0 Malaysia 9 29.095,0 20.234,0 Thái Lan 7 21.806,0 9.050,0 Liên Bang Nga 3 18.600,0 16.900,0 Bahamas 2 12.000,0 3.750,0

CÁC THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LỚN CỦA VIỆT NAM 9 THÁNG 2003

Trang 24

Như vậy, thực hiện đường lối phát triển kinh tế mở, đa dạng hoá, đa phương hoá Việt Nam đã có những bước đi đầu tiên để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới Những kết quả đạt được về mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng quan hệ tín dụng, thu hút FDI, tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong các mối quan hệ đối ngoại nói chung và trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc nói riêng đã góp phần tích cực vào những thành tựu về kinh tế của đất nước trong những năm đổi mới vừa qua Với những thành tựu đó, Hàn Quốc

đã thực sự trở thành một đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực,

Trang 25

nhất là kinh tế và đầu tư Và những nghiên cứu về thực trạng quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc ở chương II dưới đây sẽ giúp chúng ta có những đánh giá chính xác và cụ thể hơn về mối quan hệ này

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -

HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 - 2003

I Khái quát chung

Lịch sử giao lưu giữa Việt Nam - Hàn Quốc bắt đầu từ thế kỉ XIII nhưng sau chiến tranh thế giới lần thứ II, trong vòng xoáy của cuộc chiến tranh lạnh giữa các nước Đông Tây, quan hệ giữa hai nước đã bị gián đoạn trong một thời gian dài Thời kỳ trước 1975, Hàn Quốc có quan hệ ngoại giao, kinh tế quân sự với chính quyền Sài Gòn, đưa quân sang Việt Nam tham gia chiến tranh xâm lược của Mỹ, gây nhiều tội ác với nhân dân Việt Nam Từ 1975 - 1982 Việt

Trang 26

Nam và Hàn Quốc bắt đầu có quan hệ buôn bán tư nhân qua trung gian và từ năm 1983 mới bắt đầu có quan hệ buôn bán trực tiếp và một số quan hệ phi chính phủ Mãi cho đến những năm 80 của thế kỷ này, hai nước mới thực sự bắt đầu mở rộng các quan hệ kinh tế dù cũng chỉ dừng lại ở các hoạt động thương mại và đầu tư

Trong giai đoạn 1982-1991 các hoạt động thương mại và đầu tư giữa hai nước là không đáng kể Kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc sang Việt Nam chỉ đạt 45 triệu USD trong khi kim ngạch nhập khẩu là 24,53 triệu USD Hàn Quốc đã xuất sang Việt Nam một số mặt hàng như phân bón, tivi, ximăng, hàng dệt may trong khi đó lại nhập của Việt Nam than, gỗ và sắt phế liệu Hoạt động đầu tư của các công ty Hàn Quốc tại Việt Nam trong giai đoạn này mới chỉ dừng lại ở khâu nghiên cứu thị trường Các tập đoàn lớn của Hàn Quốc như Samsung, Deawoo, Hyundai chỉ mở văn phòng đại diện Nhiều công ty của Hàn Quốc có quan hệ thương mại với Việt Nam nhưng có rất ít công ty đầu tư vào Việt Nam

Ngày 22/12/1992 Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm

đã cùng Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Lee Sang Ok kí tuyên bố chung thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, mở đầu một chương mới cho quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc Từ đây hai nước thực hiện tiến trình bình thường hoá quan

hệ, quyết định phát triển hợp tác hữu nghị hướng tới tương lai Hai nước đã thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao và các cấp các ngành, qua đó giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau và tạo ra những mốc phát triển mới cho quan hệ hợp tác song phương và tăng cường sự phối hợp, ủng hộ lẫn nhau trên trường quốc tế Các đoàn Việt Nam sang Hàn Quốc: Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (tháng 2/1993), Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tháng 5/1993), Tổng Bí thư Đỗ Mười (tháng 4/1995), Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (tháng 3/1998), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (tháng 8/2000), Chủ tịch nước Trần Đức Lương cùng Tổng thống Hàn Quốc Kim Te Chung ra tuyên bố

Trang 27

chung thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác mới là “Quan hệ đối tác toàn diện trong thế kỷ 21” (22 - 25/8/2001), Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng (29/8 - 02/9/2002), Thủ tướng Phan Văn Khải (15 - 20/9/2003) Các đoàn Hàn Quốc thăm Việt Nam: Bộ trưởng Ngoại giao Lee Sang Ok (22/12/1992), Bộ trưởng Ngoại giao Han Sung Joo (tháng 5/1994), Thủ tướng Lee Young Dug (tháng 8/1994), Bộ trưởng Ngoại giao Gong Ro Myong (tháng 8/1996), Chủ tịch Quốc hội Kim Soo Han (tháng 8/1996), Tổng thống Kim Young Sam (tháng 11/1996), Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại Park Chung Soo (tháng 7/1998), Tổng thống Kim Te Chung thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị Cấp cao ASEAN-6 (tháng 12/1998), Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại Hong Soon Young (tháng 7/1999), Thủ tướng Ly Han Dong (08-11/4/2002), Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc (tháng 10/2003)

Kể từ khi thiết lập quan hệ chính thức đến nay chính phủ hai nước đã kí nhiều Hiệp định quan trọng như Hiệp định hợp tác kinh tế - khoa học kỹ thuật (2/1993), Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và bản sửa đổi bổ sung (9/2003), Hiệp định hàng không, Hiệp định thương mại (5/1993), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (5/1994), Hiệp định vận tải biển (12/4/1995), Hiệp định hải quan…Bên cạnh đó để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hợp tác chính phủ hai nước còn thành lập các cơ quan như Uỷ ban hợp tác liên chính phủ, Uỷ ban hợp tác khoa học - kỹ thuật…và đặc biệt là cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư với nhiệm vụ nghiên cứu, thu thập, phổ biến thông tin thương mại; trợ giúp các đoàn doanh nghiệp sang thăm, tìm hiểu thị trường, tổ chức hội chợ triển lãm…

Có thể nói trong 11 năm qua quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc đã phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu Điều này được cụ thể hoá qua từng lĩnh vực mà hai nước đã hợp tác đặc biệt là các lĩnh vực thương mại, đầu tư và xuất khẩu lao động Những phân tích dưới đây về hợp tác hai nước trong các

Trang 28

lĩnh vực đó giai đoạn 1992-2003 sẽ giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc

II Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc

1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Hàn quốc

Sau hơn 10 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn quốc ngày càng phát triển Kim ngạch buôn bán hai chiều luôn đạt mức tăng trưởng ổn định, từ 10 - 15%/ năm

Kim ngạch hai chiều Việt Nam - Hàn Quốc liên tục tăng, đặc biệt là trong những năm đầu thiết lập quan hệ 1992, 1993, tổng kim ngạch có tốc độ tăng trưởng lớn nhất trung bình khoảng 80% Các năm tiếp sau từ 1993 đến

1995 kim ngạch buôn bán đều tăng với tốc độ tăng khoảng 30% do sự tăng trưởng kinh tế và nhu cầu nhập khẩu lớn của Việt Nam Một nhân tố khác cũng góp phần làm tăng tổng kim ngạch hai chiều là sự chuyển đổi bạn hàng của Việt Nam từ các nước XHCN sang các nước trong khu vực trong đó có Hàn Quốc Có thể nói những thành tựu bước đầu đó trong quan hệ thương mại giữa hai nước là rất đáng khích lệ

THỐNG KÊ KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM - HÀN QUỐC

Đơn vị: triệu USD

Năm Xuất

khẩu

Nhập khẩu

Tổng Kim ngạch

Tăng/giảm (%)

Việt Nam Nhập siêu

1992 57 436 532 102,2 379

Trang 29

Nguồn: Vụ Châu á Thái Bình Dương - Bộ Thương mại 2003

Tuy nhiên hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997

đã làm cho kim ngạch thương mại hai chiều bị chững lại, năm 1997 tăng trưởng chỉ đạt 10,38%, thậm chí năm 1998 tốc độ này còn giảm mạnh tới mức -13,38% Đây là thời kì khó khăn không chỉ đối với riêng Việt Nam và Hàn Quốc mà còn đối với cả khu vực Châu Á

Nhưng những nỗ lực khắc phục của các quốc gia chịu ảnh hưởng của khủng hoảng trong đó có Việt Nam và Hàn Quốc đã góp phần cải thiện tình hình Chỉ 2 năm sau khủng hoảng, 1999 kim ngạch thương mại giữa hai nước

đã bắt đầu nhích dần lên và tăng liên tục cho đến nay Năm 2000 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 1,798 tỉ USD, năm 2001 đạt 2,092 tỉ USD và năm

2002 đạt 2,751 tỉ USD đã đưa Hàn Quốc trở thành bạn hàng lớn thứ 5 của Việt Nam sau Nhật Bản, Singapore, Trung quốc và Đài Loan Riêng 7 tháng đầu

Trang 30

năm 2003 kim ngạch buôn bán hai chiều đã đạt 1,782 tỉ USD, tăng 30% so với cùng kì năm 2002 Nếu so sánh tốc độ tăng trưởng thương mại của hai nước hiện nay với giai đoạn đầu thiết lập quan hệ ta có thể thấy những bước tiến rõ rệt Năm 2002 tốc độ tăng trưởng thương mại giữa hai nước đã tăng gấp 5 lần

so với năm 1992 và ước năm 2003 con số này sẽ còn cao hơn nữa Triển vọng năm 2005 kim ngạch thương mại hai chiều có thể đạt 3,5 tỷ USD và đến 2010

có thể đạt 5 tỷ USD

Những phân tích cụ thể về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam và Hàn Quốc sẽ cho thấy những đánh giá chính xác hơn về quan hệ thương mại giữa hai nước Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc liên tục tăng trong giai đoạn 1992 - 2003, ngoại trừ năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Năm 2002 so với năm 1992 xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã tăng gấp 17,2 lần, cao hơn nhiều

so với chỉ số tương ứng 6,9 lần của tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Với con số này Hàn Quốc đứng thứ 9 trong số các nước và vũng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, sau Nhật Bản 2.438,1 triệu USD, Mỹ 2.421,1 triệu, CHND Trung Hoa 1.495,5 triệu, Australia 1.329 triệu, Singapore 960,7 triệu, Đài Loan 812,1 triệu, Đức 720,7 triệu, Anh 570,8 triệu Trong tương lai,

dự kiến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc vẫn tiếp tục tăng ở mức 12 - 15%/ năm Như vậy, đối với Việt Nam, Hàn Quốc là một thị trường quan trọng và càng trở nên quan trọng hơn trong khối liên kết ASEAN + 1 (ASEAN + Hàn Quốc) Tuy nhiên xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Hàn quốc, trung bình khoảng 0,15%, xếp hàng thứ 38 trong số các nước xuất khẩu của Hàn Quốc Từ năm 1993 - 1997 tương quan xuất khẩu của Việt Nam so với Hàn Quốc luôn là 1/7, từ năm 1997 - 2003 là 1/5

Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị truờng Hàn Quốc cũng liên tục tăng do nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn này Nhập

Trang 31

khẩu từ Hàn Quốc năm 2002 đã gấp 43 lần năm 1992, cao hơn nhiều so với chỉ

số 7,2 lần của tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước trong thời gian tương ứng Con số này cao hơn rất nhiều so với mức tăng của kim ngạch xuất khẩu cho thấy Việt Nam luôn trong tình trạng nhập siêu, trung bình khoảng 1,4 tỉ USD Đáng lưu ý hơn là mức nhập siêu của Việt Nam với Hàn Quốc tăng khá nhanh

và luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số nhập siêu của Việt Nam, cao nhất là năm 1999 với tỷ lệ là 580,9% Hàn Quốc hiện đang đứng thứ 4 trong số các nước và vũng lãnh thổ xuất khẩu vào Việt Nam sau Đài Loan 2536,9 triệu USD, Singapore 2.534,3 triệu, Nhật Bản 2509,6 triệu Mặc dù vậy đối với Hàn Quốc, thị trường Việt Nam còn chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn, nhập khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 1,06% tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc so với mức 14% tổng nhập khẩu của Việt Nam

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam Điều này trước hết là do chính đặc điểm hàng xuất khẩu xuất khẩu của ta Hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu là hàng sơ chế nên giá trị không cao, lại vấp phải hàng rào phi thuế ngặt nghèo Ngoài ra, hàng xuất khẩu của ta còn phải chịu sức ép cạnh tranh từ các sản phẩm cùng loại của nhiều nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan… trên thị trường Hàn Quốc Trong khi đó,

ta lại có nhu cầu lớn về nhiều loại hàng hoá mà Hàn Quốc có khả năng như máy móc, thiết bị (trong đó có một phần không nhỏ là những thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các dự án đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam) có giá trị lớn,

vì thế kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc lại càng cao Do đó có thể thấy, trong khi hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc còn chưa mạnh và tương đối dè dặt thì hàng hoá xuất khẩu của Hàn Quốc đã từng bước tạo được vị thế vững chắc trên thị trường Việt Nam Hiện nay, mặc dù có rất nhiều loại hàng chất lượng cao của Mỹ, Nhật, Châu Âu… nhưng các mặt hàng điện tử máy móc cao cấp mang nhãn hiệu Hàn Quốc như Samsung, Goldstar, Hyundai…vẫn được người tiêu dùng Việt Nam tin dùng và hàng năm tiêu thụ

Trang 32

một lượng tương đối lớn Chính sự phù hợp về giá cả cũng như chất lượng sản phẩm xuất khẩu đối với người dân Việt Nam đã giúp Hàn Quốc ngày càng mở rộng thị trường của mình tại Việt Nam Cho đến nay, đã có khoảng 450 công

ty Hàn Quốc chính thức hoạt động tại Việt Nam và nhiều công ty khác đang triển khai quan hệ thương mại với Việt Nam

Để góp phần tình trạng mất cân đối này giải quyết, thông qua các quỹ hỗ trợ thương mại, Hàn Quốc sẽ cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi dài hạn nhằm nâng cao hiệu quả thương mại giữa hai nước Hiện nay các ngân hàng Hàn Quốc đã vào Việt Nam hoạt động Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc ( KOREA EXIMBANK) đã thực hiện các khoản tín dụng ưu đãi thông qua chương trình bảo hiểm và bảo trợ thương mại cho Việt Nam Ngân hàng tín dụng dài hạn Hàn Quốc (KLB) hỗ trợ cho các nhu cầu về tài chính cho các công ty Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam, trong đó có cả các công ty liên doanh Việt Nam - Hàn Quốc Bên cạnh đó chính phủ Việt Nam cũng đã có nhiều biện pháp, chính sách khuyến khích hàng xuất khẩu như thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp chế biến, hỗ trợ hàng hoá xuất khẩu…

Về lâu dài, sự chênh lệch cán cân thương mại này cần được khắc phục theo hướng phía Việt Nam cần kiên trì đấu tranh để phía Hàn Quốc mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của ta; khuyến khích những dự án đầu tư sản xuất của Hàn Quốc để xuất khẩu lại thị trường này, vì những hàng hoá đó khi xuất khẩu sẽ được ưu đãi hơn Hiện nay, Bộ Thương mại đang tăng cường hợp tác với một số tổ chức xúc tiến thương mại khác của Hàn Quốc để đề nghị phía Hàn Quốc ủng hộ và giúp đỡ các hoạt động xuất khẩu của ta Phía Hàn Quốc cho biết, trong thời gian tới sẽ tăng cường nhập khẩu dầu thô và nông sản của Việt Nam để góp phần cân bằng cán cân thương mại

Trong tương lai với vị thế là một trong những nền kinh tế phát triển mạnh và có vị trí địa lí gần Việt Nam, Hàn Quốc tiếp tục là một trong những

Trang 33

đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam Với hàng hoá chất lương tốt, rẻ Hàn

Quốc là nguồn cung cấp máy móc thiết bị, vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến cho

nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam Ngược lại, Hàn Quốc đã,

đang và vẫn sẽ là thị trường có dung lương lớn, có sức hấp dẫn đối với hàng

hoá Việt Nam Do đó vấn đề đặt ra trong quan hệ buôn bán của Việt Nam với

Hàn Quốc là cần khai thác hiệu quả hơn nữa tiềm năng thị trường này và giảm

thiểu nhập siêu, góp phần cải thiện cán cân buôn bán của Việt Nam đối với

quốc gia này

2 Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc

2.1 Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc

Những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt nam sang Hàn quốc

vẫn là hải sản, hàng dệt may, dầu thô, giầy dép, cao su, hàng thủ công mỹ

nghệ, cà phê trong đó chiếm tỷ lệ lớn nhất vẫn là hải sản khoảng 27%, tiếp đến

là hàng dệt may 20%, dầu thô và hàng thủ công mỹ nghệ cùng ở mức 3%

Trong quan hệ buôn bán giữa hai nước hầu hết các mặt hàng này đều đạt mức

tăng trưởng khá Tính đến tháng 7 năm 2003 so với cùng kì năm 2002, hải sản

tăng ở mức 11,28%, giầy dép tăng 49,45%, cao su tăng 41,26% và cao nhất là

cà phê với mức tăng kỉ lục là 126,65% Đặc biệt, các mặt hàng mới xuất hiện

cũng đạt được mức tăng trưởng cao cho thấy những chuyển biến tích cực trong

cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này như gỗ tăng 37,94%,

sản phẩm nhựa tăng 164,76%, cao hơn so với mức tăng cao nhất của mặt hàng

cà phê truyền thống Tuy vậy vẫn có những mặt hàng đạt mức tăng trưởng âm

như dầu thô, hàng rau quả (năm 2002 giảm mạnh so với năm 2001 ở mức

58,22%) và hàng thủ công mỹ nghệ

Trang 34

Đơn vị: nghìn USD

2002 1-7/2003 Mặt hàng 2001

Giá trị Tăng

giảm (%)

Giá trị Tăng

giảm (%)

Hải sản 110.045 116.597 5,95 69.758 11,28 Hàng dệt may 104.053 92.592 -11,02 37.000 -28,60 Sản phẩm gỗ 17.986 24.810 37,94 13.542 1,53 Dầu thô 12.498 11.635 -7,91 - - Giầy dép các loại 9.001 13.247 47,18 12.409 49,55 Cao su 9.982 14.120 41,45 8.868 41,26 Hàng thủ công mỹ nghệ 12.034 11.637 -3,29 6.720 -25,21

Cà phê 6.567 11.703 78,79 14.346 126,65 Hàng rau quả 20.194 8.436 -58,22 4.966 -7,92 Dây điện-dây cáp điện 4.030 2.367 -41,27 1.560 27,29 Sản phẩm nhựa 2.787 4.392 57,62 4.585 164,76 Than đá 857 10.739 1.251,8 7.117 34,27 Tổng kim ngạch XK 406.081 466.009 14.76 265.514 14,42

Nguồn: Vụ Châu Á Thái Bình Dương - Bộ Thương mại 2003

Biến động thất thường của những con số qua các năm đã cho thấy tính chất không ổn định của hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam Điều này là do phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều là các loại nguyên liệu thô nên hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng và sản lượng khai thác trong năm Sự tăng giảm của sản lượng khai thác sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu

Trang 35

năm đó Ngoài ra do chủ yếu xuất khẩu sản phẩm thô nên giá trị không lớn khiến cho sản lượng xuất khẩu tuy nhiều nhưng kim ngạch vẫn còn khá khiêm tốn

Hơn nữa, một số mặt hàng của Việt Nam tuy đã thâm nhập được vào thị trường Hàn Quốc nhưng lại chưa giành được thị phần tương xứng Chẳng hạn, vốn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới nhưng trong những năm gần đây xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang quốc gia này là không đáng kể mặc dù năm 1997 gần 94000 tấn gạo được xuất sang Hàn Quốc trị giá khoảng

22 triệu USD Hiện nay Hàn Quốc chỉ đứng thứ 19 trong số các nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu gạo của Việt Nam Dầu thô cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam cũng chỉ đáp ứng được 13,62 triệu USD

so với nhu cầu 2,6 tỷ USD dầu thô của Hàn Quốc, tương đương với tỷ lệ 0,52% Điều này một phần là do sản lượng dầu thô chưa cao, phần nữa là vì chất lượng dầu của ta kém hơn so với dầu của vùng Trung Đông - kho dầu lửa của toàn thế giới Đối với nhóm hàng dệt may, tuy kim ngạch xuất khẩu khá lớn đạt 92.592.661 USD năm 2002 và riêng 7 tháng đầu năm 2003 đạt 37.000.805 USD song những mặt hàng xuất sang Hàn Quốc chỉ chủ yếu để tái xuất sang nước thứ 3 Hàng may sẵn của Việt Nam khó vào thị trường này vì hiện tại Hàn Quốc vẫn là một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu hàng may sẵn, mỗi năm đạt tới 3,5 tỷ USD Bên cạnh đó một số mặt hàng như

ớt, tỏi, thịt lợn, thịt gà, vịt, rau, quả… rất có tiềm năng nhưng xuất khẩu của ta còn ít, một phần do thị trường đòi hỏi cao, ví dụ ớt quả phải to, ít cay; vừng có

vỏ phải trắng, nhiều tinh dầu

Mặc dù vậy vẫn có những dấu hiệu đáng mừng cho xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này Hiện nay nhiều mặt hàng của ta đã tạo được vị thế khá vững chắc và ổn định trên thị trường Hàn Quốc Với kim ngạch 14.346.762 USD tính đến tháng 7/2003 Việt Nam đang là nước xuất khẩu cà

Trang 36

Thủ công mỹ nghệ là mặt hàng xuất khẩu khá đặc trưng của Việt Nam cũng luôn đạt kim ngạch xuất khẩu cao, năm 2001 đạt 12.034.589 USS, năm 2002 đạt 11.637.745 USD Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản khác của Việt Nam cũng đang dần chiếm lĩnh thị trường Hàn Quốc như sắn lát (chiếm 58,41% thị phần), trái dừa khô chưa có số liệu chính xác nhưng theo thương vụ Việt Nam tại Hàn Quốc cho biết thì duy nhất chỉ có dừa Việt Nam bán chạy khắp nơi từ Seoul đến các địa phương Đứng đầu trong số những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc là hải sản, chỉ tính riêng 7 tháng đầu năm 2003 đã đạt được 69.758.814 USD, tăng 11,28% so với cùng kì năm ngoái Hiện đang có rất nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đến thương vụ Việt Nam tìm thông tin và nhờ giới thiệu đối tác để mua hải sản của Việt Nam Họ đặc biệt quan tâm đến mặt hàng cua, ghẹ, bạch tuộc, tôm, mực… là những mặt hàng mà Việt Nam hoàn toàn có thể cung cấp được Thậm chí một vài doanh nghiệp còn có ý định hợp tác nuôi cá biển, tôm tại Việt Nam Tuy nhiên do khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế nên hiện nay kim ngạch xuất khẩu vẫn chưa đạt như mong muốn

2.2 Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc

Việt Nam chủ yếu nhập của Hàn Quốc các trang thiết bị và vật tư như máy móc, sắt thép, chất dẻo, xăng dầu, phân bón, các nguyên phụ liệu cho ngành giầy dép, dệt may… Đây đều là những hàng hoá phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và có giá trị cao Dẫn đầu trong số các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là nguyên phụ liệu dệt may da với giá trị nhập khẩu tính đến tháng 7/2003 là 302.210.589 USD, tăng 24,62% so với cùng kì năm ngoái Các năm trước đó giá trị nhập khẩu mặt hàng này cũng tương đối cao, năm 2001 là 421.134.514 USD và 418.320.057 USD năm 2002 Điều này là vì ngành dệt may Việt Nam trong mấy năm gần đây đang phát

Trang 37

triển rất nhanh chóng do được cấp hạn ngạch từ các thị trường khó tính như

Mỹ, EU Bên cạnh đó Việt Nam còn nhập khẩu một lượng lớn các máy móc thiết bị phụ tùng và có kim ngạch nhập khẩu tăng đều qua các năm, năm 2002

so với năm 2001 tăng 54,47%, 7 tháng đầu năm 2003 tăng 0,42% so với cùng

kì năm 2002 Các vật liệu khác như sắt thép, xăng dầu, chất dẻo… cũng được Việt Nam nhập khẩu thường xuyên để phục vụ sản xuất trong nước Ngoài ra, Hàn Quốc còn xuất sang Việt Nam các hàng cao cấp như ôtô nguyên chiếc các loại, ôtô CKD, SKD; linh kiện điện tử và vi tính; xe máy CKD, IKD, SKD Đáng lưu ý là trong mấy năm gần đây, giá trị nhập khẩu ôtô nguyên chiếc của Việt Nam khá cao, năm 2001 là 121.948.496 USD, năm 2002 là 118.688.243 USD và 7 tháng đầu năm 2003 là 77.122.273 USD, đứng thứ 4 trong số các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hàn Quốc Đây cũng là một tín hiệu đáng mừng bởi lẽ những con số đó đã cho thấy mức sống của người dân Việt Nam đang từng bước được cải thiện và nâng cao

Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc cho thấy Hàn Quốc có rất nhiều mặt hàng có tiềm lực lớn Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển hướng về xuất khẩu nên phần lớn các sản phẩm xuất khẩu của Hàn Quốc đều chiếm lĩnh thị trường Việt Nam khá dễ dàng Với giá cả và trình độ công nghệ khá phù hợp với nền kinh tế đang chuyển đổi của Việt Nam, các trang thiết bị và hàng hoá của Hàn Quốc luôn là sự chọn lựa cho các doanh nghiệp Việt Nam Có thể nói hàng hoá của Hàn Quốc đang tràn ngập thị trường Việt Nam

CÁC MẶT HÀNG NHẬP KHẨU CHÍNH CỦA VIỆT NAM TỪ HÀN QUỐC

Đơn vị: nghìn USD

Trang 38

Giá trị Tăng

giảm (%)

Giá trị Tăng

giảm (%)

NPL dệt may da 421.134 418.320 -0,67 302.210 24,62 Máy móc thiết bị phụ

ting

240.912 372.133 54,47 213.643 0,42

Sắt thép 116.430 121.864 4,76 80.015 32,76 Ôtô nguyên chiếc các

loại

121.948 118.688 -2,67 77.122 28,96

Chất dẻo 89.283 94.811 6,27 62.725 18,86 Xăng dầu 99.526 116.248 16,80 67.035 25,18 Ôtô CKD,SKD 61.176 90.049 47,20 70.450 49,74 Linh kiện điện tử và vi

tính

53.624 63.370 18,17 39.208 21,65

Dược phẩm 34.050 41.389 21,56 23.290 18,03 Phân bón các loại 33.474 15.375 -54,1 7.133 -7,43

Nguồn: Vụ Châu á Thái Bình Dương - Bộ Thương mại 2003

Trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam máy móc thiết bị, hoá chất và các loại vật liệu luôn chiếm đến 70% Tỉ trọng lớn và giá trị nhập khẩu cao của những mặt hàng này là nguyên nhân khiến cho cán cân thương mại của Việt Nam luôn trong tình trạng nhập siêu Dệt may là một ví dụ điển hình

Trang 39

Vốn được xem là một ngành quan trọng tạo ra kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam nhưng trong quan hệ buôn bán với Hàn Quốc tỷ lệ xuất khẩu của ngành lại thấp hơn so với mức nhập khẩu, năm 2001: 104.045.639 USD/ 421.134.514 USD, năm 2002: 92.592.661 USD/ 372.133.840 USD, 7 tháng đầu năm 2003: 37.000.805 USD/ 302.210.589 USD Điều này cho thấy nhu cầu nhập khẩu của chúng ta là rất lớn trong khi xuất khẩu còn quá nhỏ bé, chưa thật sự phát huy được hiệu quả

Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, những mặt hàng tiêu dùng Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, chủ yếu là các sản phẩm ôtô, linh kiện điện tử, dược phẩm và gần đây là mặt hàng mỹ phẩm Đây là một cơ cấu khá phù hợp trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo, đang dốc sức cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước Cùng với chính sách thúc đẩy sản xuất thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu, một số mặt hàng đã có xu hướng giảm rõ rệt Điển hình là mặt hàng phân bón, năm 2002 giảm 54,07% so với năm 2001 từ 33.474.976 USD xuống còn 15.375.739 USD, 7 tháng đầu năm 2003 giảm 7,43% so với cùng kì năm 2002 và hiện đang có giá trị nhập khẩu là 7.133.456 USD Kết quả này đạt được là nhờ những nỗ lực từng bước đáp ứng đủ nhu cầu của sản xuất trong nước

III Quan hệ đầu tư Việt Nam – Hàn Quốc

Tuy hiện nay Việt Nam đã có các dự án đầu tư ra nước ngoài nhưng chưa có một dự án đầu tư nào tại Hàn Quốc Do đó, phần viết này chỉ xin đề cập đến tình hình đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc tại Việt Nam Đây cũng có thể coi là đặc điểm chủ yếu trong quan hệ đầu tư giữa hai nước trong giai đoạn hiện nay Hi vọng trong một tương lai gần Việt Nam sẽ có những dự án đầu tư sang Hàn Quốc, góp phần củng cố quan hệ đầu tư giữa hai nước

Trang 40

1 Khái quát chung

Các nhà đầu tư Hàn Quốc bắt đầu mang vốn và công nghệ đến Việt Nam từ năm 1991, tuy có chậm hơn so với một số nước Tây Âu nhưng nhìn chung, các dự án của Hàn Quốc triển khai ban đầu tương đối nhanh và có hiệu quả Cho đến nay, chỉ sau 11 năm thiết lập quan hệ chính thức với Việt Nam, Hàn Quốc đã vượt lên về cả tốc độ và khối lượng đầu tư vào Việt Nam so với các nước và lãnh thổ khác trong khu vực

Cũng như quan hệ thương mại, hoạt động đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam tăng mạnh trong các năm 1992, 1993 về cả số dự án và số vốn,

số dự án tăng trung bình 270%/năm và số vốn tăng 525,1%/năm Đặc biệt đây cũng là các năm có tỷ lệ số vốn thực hiện/ tổng vốn đạt mức cao nhất, khoảng 90% Riêng năm 1992 số vốn thực hiện còn vượt mức tổng vốn 10.45 triệu USD, tương đương với mức tăng 110,27% Các năm liền sau đó tuy tốc độ tăng không bằng nhưng cũng luôn giữ được ở mức tương đối cao và ổn định, khoảng 10,4%/năm về số dự án và 24,2% về số vốn Sang đến năm 1997, 1998

do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, hàng loạt các công

ty và tập đoàn Hàn Quốc đã rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản Điều này đã buộc các doanh nghiệp Hàn Quốc phải hạn chế đầu tư và thu hồi vốn để vực dậy hoạt động kinh doanh của mình Số dự án và số vốn đầu tư do

đó đã giảm đi nhanh chóng Với tỷ lệ vốn thực hiện/tổng vốn chỉ đạt 4,5%, năm 1998 có lẽ là năm mà các hoạt động đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam kém hiệu quả nhất Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó khi nền kinh tế Hàn Quốc từng bước vượt qua khủng hoảng, chính phủ Hàn Quốc tiến hành cơ cấu lại các Chaebol, hoạt động đầu tư của quốc gia này ở Đông Nam Á, đặc biệt là

ở Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi và dần tăng lên Từ năm 2000 cho đến nay, số dự án và tổng vốn đầu tư luôn tăng đều qua các năm Tính đến tháng 9/2003, Hàn Quốc đứng thứ 5 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, sau Singapore, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản với 588 dự án và

Ngày đăng: 22/03/2014, 16:21

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Giáo trình “Quan hệ kinh tế quốc tế - Lí thuyết và thực tiễn”; GS - PTS Tô Xuân Dân, PTS Vũ Chí Lộc; Nhà xuất bản Hà nội 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ kinh tế quốc tế - Lí thuyết và thực tiễn
Nhà XB: Nhà xuất bản Hà nội 1997
2. Giáo trình “Kinh tế Ngoại thương” -Vũ Hữu Tửu – Nhà xuất bản giáo dục và đào tạo 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế Ngoại thương
Nhà XB: Nhà xuất bản giáo dục và đào tạo 2002
3. Sách tham khảo “Hàn Quốc – câu chuyện kinh tế về một con rồng” – Hoa Hữu Lân – Nhà xuất bản Hà nội 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hàn Quốc – câu chuyện kinh tế về một con rồng
Nhà XB: Nhà xuất bản Hà nội 2002
5. Bài “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, một thập niên phát triển đầy ý nghĩa” – Hà Hồng Hải - Tạp chí nghiên cứu quốc tế – Số 50 – 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, một thập niên phát triển đầy ý nghĩa
6. Bài “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc” – Phạm Minh Sơn, Chung Yoon Jae – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á tháng 3/ 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
7. Bài “Nhìn lại quan hệ 10 năm Việt Nam – Hàn Quốc” – Nguyễn Cảnh Huệ, Nguyễn Trinh Nghiệu – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á tháng 2/ 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhìn lại quan hệ 10 năm Việt Nam – Hàn Quốc
8. Bài “Việt Nam – Hàn Quốc thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế” – Hải Dương – Thông tin kinh tế châu á - Thái Bình Dương 5/10/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam – Hàn Quốc thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế
9. Bài “ Chủ tịch quốc hội Hàn Quốc sang thăm Việt Nam” – Thời báo kinh tế Việt Nam – Số 158 – 3/10/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chủ tịch quốc hội Hàn Quốc sang thăm Việt Nam
10. Bài “Nhà đầu tư Hàn Quốc quan tâm tới Việt Nam” – Thời báo kinh tế Việt Nam – Số 160 – 6/10/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà đầu tư Hàn Quốc quan tâm tới Việt Nam
11. Bài “Ký 4 văn kiện hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc” – Kinh tế Việt Nam – Số 38 – 23/9/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ký 4 văn kiện hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc
12. Bài “Việt Nam đã tạo lòng tin cho chúng tôi” – Kinh Tế Việt Nam – Số 40 – 7/10/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam đã tạo lòng tin cho chúng tôi
13. Bài “Một số điều cần biết khi thâm nhập thị trường Hàn Quốc” – Tạp chí Ngoại Thương – Số 1-10/5/2002, Số 11-20/5/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số điều cần biết khi thâm nhập thị trường Hàn Quốc
14. Bài “Kim ngạch mậu dịch Việt Nam – Hàn Quốc tiếp tục tăng mạnh” – Tạp chí Ngoại Thương – Số 1-10/8/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kim ngạch mậu dịch Việt Nam – Hàn Quốc tiếp tục tăng mạnh
4. Thông tin công tác tư tưởng – Ban tư tưởng văn hoá trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam – Số 5/2001 Khác
15. Các trang web www.dei.gov.vn www.mpi.gov.vn www.mot.gov.vn www.mofa.gov.vnwww.vneconomy.com.vn www.vnepress.net Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

4. Hình thức đầu tư    40 - Luận văn " QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HÀN QUỐC TRONG XU THẾ HỘI NHẬP HIỆN NAY " potx
4. Hình thức đầu tư 40 (Trang 3)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w