1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM RA đời – sự SÀNG lọc NGHIÊM KHẮC của LỊCH sử dân tộc VIỆT NAM TRONG THỜI đại mới

117 52 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đảng Cộng Sản Việt Nam Ra Đời – Sự Sàng Lọc Nghiêm Khắc Của Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam Trong Thời Đại Mới
Tác giả Lê Quốc An, Nguyễn Huỳnh Thái An, Hoàng Ngọc Vân Anh, Nguyễn Kỳ Anh, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Việt Anh
Người hướng dẫn GVHD: Đào Thị Bích Hồng
Trường học Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh Trường Đại Học Bách Khoa
Chuyên ngành Lịch Sử
Thể loại Bài Tập Lớn
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 117
Dung lượng 407,17 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX (6)
    • 1.1. Bối cảnh thế giới (0)
    • 1.2. Bối cảnh trong nước (8)
  • CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (14)
    • 2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến (14)
      • 2.1.1. Phòng trào yêu nước của giai cấp phong kiến (0)
      • 2.1.2. Phong trào yêu nước của giai cấp nông dân (14)
    • 2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản (15)
      • 2.2.1. Phong trào vào đầu thế kỷ XX (15)
      • 2.2.2. Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ Nhất (16)
    • 2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản (18)
      • 2.3.1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920). 14 2.3.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam (18)
      • 2.3.3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản (24)
  • CHƯƠNG 3. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (2)
    • 3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên (0)
      • 3.1.1. Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng (30)
      • 3.1.2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên (31)
    • 3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên (35)
      • 3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975) (35)
      • 3.2.2. Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay (37)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (42)

Nội dung

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX

Bối cảnh trong nước

Tình hình Việt Nam dưới ách thống trị thực dân Pháp

Việt Nam, một quốc gia Đông Nam Á có vị trí địa chính trị quan trọng, đã trở thành mục tiêu xâm lược của thực dân Pháp từ ngày 01/09/1858 khi họ tấn công Đà Nẵng, đánh dấu sự khởi đầu của cuộc xâm lược phương Tây Giai đoạn chinh phục Việt Nam của Pháp kéo dài từ 1858 đến 1884, trong đó triều đình nhà Nguyễn đã từng bước thỏa hiệp thông qua các hiệp ước vào các năm 1862, 1874 và 1883 Cuối cùng, vào ngày 06/06/1884, Hiệp ước Pa-tơ-nốt đã dẫn đến việc Việt Nam hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp, biến đất nước thành một thuộc địa và người dân trở thành vong quốc nô dưới sự áp bức của kẻ thù.

Giai đoạn bình định từ năm 1885 đến 1895 chứng kiến sự đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn trước thực dân Pháp, nhưng nhân dân Việt Nam không chịu khuất phục và liên tục đấu tranh khắp nơi Để đàn áp các cuộc nổi dậy, thực dân Pháp đã sử dụng vũ lực và xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, đồng thời duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai Chính sách “chia để trị” được thực hiện nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân tộc, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau, thuộc Liên bang Đông Dương được thành lập vào ngày 17/10/1887 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã để lại nhiều hệ lụy cho đất nước.

Hồ Chí Minh (2011) nhấn mạnh rằng nhân dân Việt Nam đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền độc lập và tự do dân chủ, trong khi các phong trào yêu nước bị đàn áp một cách tàn bạo Đồng thời, mọi ảnh hưởng từ các trào lưu tiến bộ bên ngoài cũng bị ngăn cấm.

Từ năm 1897, Pháp bắt đầu các cuộc khai thác thuộc địa quy mô lớn tại Việt Nam Cuộc khai thác thuộc địa đầu tiên diễn ra từ năm 1897 cho đến trước khi xảy ra Chiến tranh Thế giới thứ nhất vào năm 1914, tiếp theo là cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai.

Từ năm 1919 đến trước khi Đảng ra đời vào năm 1930, thực dân Pháp đã có những mưu đồ nhằm biến Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam, thành thị trường tiêu thụ hàng hóa cho "chính quốc" Họ đã tiến hành vơ vét tài nguyên và bóc lột sức lao động rẻ mạt của người dân bản xứ thông qua nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.

Sự chuyển biến trong kinh tế và xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thuộc địa của Pháp

Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa, Việt Nam có sự chuyển biến về kinh tế và xã hội

Thực dân Pháp đã khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, gây ra nỗi khổ cho nhân dân Việt Nam thông qua chính sách độc quyền và bóc lột tàn bạo Họ cướp đất của dân bằng cách áp đặt hàng trăm loại thuế vô lý, khiến người dân phải cầm cố đất đai cho địa chủ và thực dân Mặc dù phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dần du nhập vào Việt Nam, nhưng quan hệ kinh tế phong kiến lạc hậu vẫn được duy trì, khiến nền kinh tế Việt Nam chủ yếu vẫn lạc hậu và phụ thuộc Chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã kìm hãm nền kinh tế Việt Nam, làm cho sự phát triển trở nên chậm chạp và lệ thuộc vào kinh tế Pháp.

Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách “ngu dân” nhằm dễ dàng cai trị và áp đặt văn hóa nô dịch, tạo ra tâm lý tự ti trong nhân dân Việt Nam Họ lập nhiều nhà tù hơn trường học, du nhập các giá trị phản văn hóa và khuyến khích mê tín dị đoan, đồng thời duy trì và tạo ra nhiều tệ nạn xã hội mới Các hoạt động yêu nước bị cấm đoán, và thực dân tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ từ thế giới Họ tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”, dẫn đến chế độ áp bức chính trị, bóc lột kinh tế và nô dịch văn hóa, làm biến đổi tình hình chính trị, kinh tế xã hội Việt Nam, gây ra sự phân hóa giữa các giai cấp cũ và sự xuất hiện của các giai cấp mới với thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh dân tộc.

Các giai cấp của Việt Nam

Trước khi thực dân Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam chủ yếu là xã hội phong kiến với hai giai cấp chính: địa chủ và nông dân Tình hình kinh tế chung là nghèo nàn và chậm phát triển, với nông dân không có tài sản và địa chủ cũng chỉ sở hữu tài sản không lớn Mâu thuẫn giữa hai giai cấp này không gay gắt như ở phương Tây, và cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra quyết liệt Cả nông dân và địa chủ đều chấp nhận sự tồn tại của triều đình Khi có giặc ngoại xâm, vấn đề ruộng đất thường bị lãng quên, và họ sẵn sàng hợp tác với triều đình để giải quyết các vấn đề dân tộc, từ đó làm dịu đi mâu thuẫn xã hội.

Khi Pháp đến, họ xây dựng cảng, đường, đồn điền, khu công nghiệp và đô thị nhằm khai thác thuộc địa, không phải để phát triển văn minh mà để giải quyết vấn đề tiền tệ và hàng hóa cho chính quốc Các đại địa chủ liên kết với Pháp, phản bội dân tộc và đàn áp phong trào yêu nước, trong khi các địa chủ vừa và nhỏ thể hiện tinh thần dân tộc, lãnh đạo các phong trào chống Pháp, tiêu biểu là phong trào Cần Vương Một số địa chủ cũng chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản, cho thấy không phải tất cả đều theo Pháp.

Nông dân đang trải qua tình trạng ngày càng thê thảm và bần cùng hóa, với số lượng nông dân mất đất ngày càng gia tăng, dẫn đến việc mất tư liệu sản xuất Họ không chỉ phải đối mặt với mâu thuẫn giai cấp với địa chủ mà còn có những mâu thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược Tinh thần cách mạng của nông dân không chỉ liên quan đến ruộng đất và đời sống hàng ngày mà còn gắn bó sâu sắc với tình cảm quê hương và nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Đây là lực lượng mạnh mẽ, kiên cường trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và khát vọng lấy lại ruộng đất cho người nông dân.

Lê Duẩn (1976) nhấn mạnh vai trò quan trọng của giai cấp công nhân Việt Nam trong việc lãnh đạo và xây dựng liên minh với giai cấp nông dân Sự đoàn kết này đã tạo ra sức mạnh cần thiết để nông dân sẵn sàng đứng lên làm cách mạng, nhằm lật đổ ách thực dân và phong kiến.

Những người nông dân mất đất đã phải di cư lên đô thị, làm việc tại các đồn điền, xưởng và cảng, từ đó hình thành giai cấp công nhân và tiếp tục bị bóc lột Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong bối cảnh khai thác thuộc địa, với sự gia tăng số lượng do nông dân mất đất Họ không chỉ mang những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế mà còn có những nét riêng, xuất phát từ một quốc gia nửa thuộc địa nửa phong kiến Dù lực lượng còn nhỏ bé, giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng tiến bộ, phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, chứng tỏ khả năng lãnh đạo cách mạng của mình.

Giai cấp tư sản và tiểu tư sản xuất hiện sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất với số lượng ít, tiềm lực kinh tế và chính trị hạn chế, dẫn đến việc ông cha ta không chọn con đường tư bản chủ nghĩa Một bộ phận tư sản liên kết với thực dân Pháp, tham gia vào chính quyền thực dân và trở thành tư sản mại bản, đi ngược lại lợi ích dân tộc Ngược lại, tư sản dân tộc, mặc dù có tinh thần dân tộc, nhưng bị thực dân Pháp kìm hãm và yếu ớt về kinh tế, không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng.

Tầng lớp tiểu tư sản, bao gồm tiểu thương, tiểu chủ và sinh viên, thường bị đế quốc và tư bản chèn ép và khinh miệt, nhưng họ lại mang tinh thần dân tộc và yêu nước mạnh mẽ, rất nhạy cảm với chính trị và thời cuộc Tuy nhiên, do địa vị kinh tế không ổn định và thiếu kiên định, họ không thể đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng Trong khi đó, các sĩ phu phong kiến cũng có sự phân hóa, với một bộ phận theo đuổi tư tưởng dân chủ tư sản hoặc tư tưởng vô sản, và một số người đã khởi xướng các phong trào yêu nước có ảnh hưởng lớn.

Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam

Trong xã hội Việt Nam thời điểm này, mọi giai cấp và tầng lớp đều mang thân phận “người dân mất nước”, chịu sự áp bức và bóc lột từ thực dân Mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân và giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, là lực lượng hỗ trợ cho bộ máy thống trị của thực dân Pháp, đã dẫn đến sự hình thành mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể người dân.

QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến

2.1.1 Phong trào yêu nước của giai cấp phong kiến

Sau thất bại trong cuộc phản công tại kinh thành Huế, Tôn Thất Huyền đã đưa vua Hàm Nghi rời khỏi Hoàng thành và di chuyển đến sơn phòng Tân Sở, thuộc Quảng Trị.

Vào ngày 13 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Huyền đã lấy danh vua Hàm Nghi để phát động chiếu Cần Vương, khơi dậy phong trào yêu nước mạnh mẽ trong nhân dân và kéo dài hơn 10 năm Tuy nhiên, phong trào Cần Vương đã thất bại do tính chất kháng cự chỉ mang tính địa phương, với các lãnh đạo chỉ có uy tín ở nơi xuất thân của họ Khi những lãnh đạo này bị bắt hoặc giết, nghĩa quân thường đầu hàng hoặc tan rã Phong trào thiếu sự tập hợp thành khối thống nhất và không có chiến lược rõ ràng để chống Pháp Các cuộc khởi nghĩa không nhận được sự tin tưởng từ nhân dân, bởi vì chúng không xuất phát từ nông dân và có hiện tượng cướp bóc Mâu thuẫn với Công giáo dẫn đến việc nhiều giáo dân phải liên kết với thực dân Pháp để tự vệ Chính sách sa thải quan chức Việt và trao quyền tự trị cho dân tộc thiểu số cũng khiến các sắc dân này ủng hộ Pháp Cuối cùng, sự chênh lệch về sức mạnh quân sự và vũ khí thô sơ đã làm cho quân khởi nghĩa khó có thể đối đầu với quân đội Pháp trang bị hiện đại.

2.1.2 Phong trào yêu nước của giai cấp nông dân

Cuộc khởi nghĩa Yên Thế, bắt đầu từ năm 1884 và kéo dài gần 30 năm đến năm 1913, là một phong trào yêu nước mạnh mẽ của nông dân Việt Nam nhằm bảo vệ đất nước trước sự xâm lược của thực dân Pháp Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là những người nông dân có phẩm chất đặc biệt như Hoàng Hoa Thám, thể hiện lòng căm thù đối với đế quốc và phong kiến, cùng với sự mưu trí, dũng cảm Mặc dù được sự ủng hộ rộng rãi từ nhân dân, cuộc khởi nghĩa gặp khó khăn do địa bàn hoạt động hạn chế và chênh lệch lực lượng với quân đội Pháp Mục tiêu chiến đấu không phải để khôi phục chế độ phong kiến, nhưng phong trào thiếu sự lãnh đạo đúng đắn từ giai cấp tiên tiến Dù thất bại, cuộc khởi nghĩa đã gây tổn thất lớn cho quân địch, làm chậm quá trình xâm lược của thực dân Pháp và thể hiện tinh thần quật khởi của nông dân, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho nhân dân.

Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến chỉ ra rằng tư tưởng này đã không còn phù hợp với xã hội hiện tại Việc khôi phục chế độ phong kiến sẽ không mang lại thắng lợi hay tự do cho dân tộc Đất nước cần một đường lối và tư tưởng mới, phù hợp với thực tiễn xã hội Đồng thời, việc tập trung và thống nhất lực lượng là rất cần thiết để rút ngắn khoảng cách về sức mạnh Chúng ta cần tận dụng mọi nguồn nhân lực, linh hoạt trong sử dụng vũ khí và tối ưu hóa lợi thế địa hình để gây sát thương cho kẻ thù cả về thể chất lẫn tinh thần.

Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản

2.2.1 Phong trào vào đầu thế kỷ XX Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908) Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911) Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công Phan Bội Châu Đi theo con đường bạo động cách mạng,khuấy động lòng yêu nước, cổ vũ tinh thần dân tộc, hướng về phương Đông, đưa học sinh sang du học tại Nhật Bản, đất nước có cuộc Duy tân Minh Trị, nhưng sai lầm của cụ là quá tin và bị động vào Nhật Bản mà không nhận rõ bản chất của các nước đế quốc Con đường cứu nước của cụ vì thế mà thất bại, không phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”

Phan Châu Trinh chủ trương cải cách văn hóa, nâng cao dân trí và dân khí, khuyến khích tinh thần học tập và tự cường, đồng thời chống lại các hủ tục phong kiến, với mục tiêu phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh và buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam Tại Bắc Kỳ, ông khởi xướng việc mở trường học và áp dụng phương pháp giảng dạy mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội Ở Trung Kỳ, ông tham gia vào phong trào Duy Tân, kêu gọi thay đổi phong tục và nếp sống, kết hợp với cuộc đấu tranh chống thuế vào năm 1908 Khác với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh theo con đường thương thuyết và hòa bình, mang tư duy mới mẻ từ phương Tây, với quan điểm rằng “bất bạo động bạo động tắc tử, bất bạo động bạo động đại ngu”, tuy nhiên, con đường này vẫn chưa phải là con đường đúng đắn nhất, giống như việc “xin giặc rủ lòng thương”.

2.2.2 Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ Nhất

Trong giai đoạn 1919-1923, phong trào quốc gia cải lương của tư sản và địa chủ lớp trên diễn ra mạnh mẽ với mục tiêu chấn hưng nội hoá và bài trừ ngoại hoá Phong trào này tập trung vào việc chống lại độc quyền thương cảng Sài Gòn và độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ, đồng thời yêu cầu thực dân Pháp mở rộng các viện dân biểu để tạo điều kiện cho tư sản Việt Nam tham gia.

Năm 1923, Đảng Lập hiến do Bùi Quang Chiêu thành lập tại Sài Gòn, quy tụ lực lượng tư sản và địa chủ Đảng này đã đưa ra nhiều khẩu hiệu kêu gọi tự do và dân chủ nhằm thu hút quần chúng Tuy nhiên, khi đối mặt với sự đàn áp của thực dân Pháp hoặc khi được nhượng bộ một số quyền lợi, họ lại chọn con đường thỏa hiệp.

Trong giai đoạn 1925-1926, Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới đã diễn ra sôi nổi, với việc thành lập nhiều tổ chức chính trị như Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam và Thanh niên cao vọng (1926) Họ cũng sáng lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn) và Quan hải tùng thư (Huế), đồng thời phát hành nhiều tờ báo tiến bộ như Chuông rạn, Người nhà quê và An Nam trẻ Nhiều phong trào đấu tranh chính trị, đặc biệt là cuộc vận động đòi thả Phan Bội Châu, đã gây tiếng vang lớn trong xã hội.

Vào năm 1925, lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh diễn ra, đánh dấu sự đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh vào năm 1926 Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam đã tham gia tích cực vào các hoạt động yêu nước.

Nam đã khởi xướng một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, nhằm tuyên truyền những tư tưởng tự do và dân chủ Tuy nhiên, theo thời gian và sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào này đã bị phân hóa mạnh mẽ Một số tổ chức, như Nam Đồng thư xã, đã đi sâu vào khuynh hướng chính trị tư sản, trong khi những tổ chức khác, tiêu biểu là Phục Việt và Hưng Nam, đã chuyển dần sang con đường cách mạng vô sản.

Giữa năm 1927-1930, phong trào cách mạng quốc gia tư sản ở Việt Nam gắn liền với sự hình thành và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng, được thành lập vào ngày 25-12-1927 dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu cho khuynh hướng tư sản, quy tụ các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và hạ sĩ quan trong quân đội Pháp Vào ngày 9-2-1929, một số đảng viên đã ám sát trùm mộ phu Bazin tại Hà Nội, dẫn đến việc thực dân Pháp gia tăng khủng bố phong trào yêu nước, khiến Việt Nam Quốc dân Đảng chịu tổn thất nặng nề Trong bối cảnh khó khăn, các lãnh tụ quyết định dồn toàn lực cho một trận chiến cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân.” Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ tại thị xã Yên Bái, với cuộc tấn công vào trại lính Pháp và các hoạt động phối hợp diễn ra ở nhiều địa phương như Thái Bình, Hải Dương.

Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam diễn ra liên tục, thu hút đông đảo quần chúng tham gia và thể hiện tinh thần chống đế quốc Những phong trào này kế thừa kinh nghiệm từ các thế hệ trước, xác định rõ kẻ thù dân tộc và hoạt động trên nhiều mặt trận, đồng thời biết tận dụng ngoại lực quốc tế và tìm kiếm đồng minh Tuy nhiên, các phong trào cuối cùng đều thất bại do giai cấp tư sản Việt Nam còn yếu kém về kinh tế và chính trị, không đủ khả năng lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc.

Mặc dù gặp thất bại, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước trong nhân dân, góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa yêu nước Việt Nam Đặc biệt, những phong trào này đã thúc đẩy các nhà yêu nước, nhất là thanh niên trí thức, tìm kiếm con đường mới và giải pháp cứu nước phù hợp với xu thế thời đại và nhu cầu của dân tộc.

Các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến và tư sản thể hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ và lòng căm thù thực dân Pháp Chúng khẳng định kẻ thù chung là thực dân Pháp, và thực hiện đấu tranh trên các mặt trận văn hóa, chính trị, kinh tế và quân sự Những phong trào này nâng cao nhận thức của người dân về mối nguy hiểm từ thực dân, đồng thời chỉ ra sức mạnh tiềm tàng trong mỗi người và các tầng lớp xã hội Mặc dù gặp thất bại, các phong trào này để lại nhiều bài học quý giá, giúp định hình đường lối cách mạng và hoàn thiện chính sách chống thực dân Pháp.

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên

3.2.1 Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)

Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của quá trình lịch sử và lựa chọn của dân tộc Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam, đánh dấu cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội Cương lĩnh này xác định những nội dung cơ bản của con đường cách mạng Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cấp bách của đất nước.

8 Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 9

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, do Vũ Quang Vinh và Phạm Văn Giềng (2016) nghiên cứu, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho cách mạng Việt Nam Nó không chỉ là ngọn cờ dẫn lối mà còn là biểu tượng tập hợp, đoàn kết các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc và chấm dứt khủng hoảng về đường lối cũng như tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX Đây là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trên toàn quốc, cùng với sự chuẩn bị công phu của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Quốc và sự đoàn kết của các chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của việc kết hợp chủ nghĩa Mác với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Lênin đã có ảnh hưởng lớn đến phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chứng minh rằng giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ trương cách mạng Việt Nam là một phần của phong trào cách mạng thế giới đã thu hút sự ủng hộ mạnh mẽ từ quốc tế Sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã tạo nên những thắng lợi vĩ đại, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ nhân loại trên toàn cầu.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã phản ánh súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập và sáng tạo trong việc đánh giá xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX Nó chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản của dân tộc Việt Nam và đánh giá đúng đắn thái độ của các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc Từ đó, cương lĩnh xác định đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng, nhiệm vụ và lực lượng cần thiết để thực hiện các mục tiêu cách mạng đã đề ra.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến Nội dung cốt lõi bao gồm việc giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, kết hợp truyền thống yêu nước với tinh thần cách mạng và kinh nghiệm quốc tế Đặc biệt, sự kết hợp giữa thực tiễn cách mạng Việt Nam và tư tưởng tiến bộ của thời đại là rất quan trọng Việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn và sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới là điều cần thiết cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam đã xây dựng một bản cương lĩnh chính trị phản ánh quy luật khách quan của xã hội, đáp ứng nhu cầu cấp bách và cơ bản của đất nước, đồng thời phù hợp với xu thế thời đại, định hướng chiến lược cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

3.2.2 Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đã lãnh đạo nhân dân trong hơn 80 năm qua, vượt qua nhiều khó khăn để đạt được những thắng lợi vĩ đại Những thành tựu nổi bật bao gồm thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chấm dứt ách thực dân và phong kiến, thiết lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; các cuộc kháng chiến chống xâm lược với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và đại thắng mùa Xuân năm 1975, dẫn đến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước Đảng còn dẫn dắt công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, hướng tới việc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với tư duy phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn qua thực tiễn cách mạng trong suốt 85 năm qua Nhờ đi theo Cương lĩnh này, dân tộc Việt Nam đã thay đổi vận mệnh, cải thiện thân phận của người dân và từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.

Việt Nam, từ một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến, đã trở thành một đất nước độc lập và tự do nhờ thực hiện đường lối chiến lược trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Nhân dân Việt Nam đã chuyển từ thân phận nô lệ thành những người làm chủ đất nước và xã hội Hiện nay, đất nước đang nỗ lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, kém phát triển và thiết lập quan hệ quốc tế rộng rãi, nâng cao vị thế quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

Trong bối cảnh cách mạng Việt Nam đang đối mặt với khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã rời quê hương để tìm kiếm con đường cứu nước Một bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi ông tiếp cận toàn văn "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin Từ đó, ông nhận thức sâu sắc về con đường giải phóng dân tộc, nhấn mạnh sự kết nối giữa cách mạng vô sản trong nước và phong trào cách mạng vô sản toàn cầu.

Nguyễn Ái Quốc, với vai trò là chiến sĩ cộng sản, đã tích cực tham gia vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng thời vận động cho phong trào cách mạng thuộc địa và nghiên cứu, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tại Việt Nam Vào tháng 12 năm 1924, ông đã trở về Quảng Châu, Trung Quốc để trực tiếp chỉ đạo công tác chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc đã được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam nhiệt tình đón nhận Những tư tưởng này đã lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam tham gia vào con đường cách mạng vô sản, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh giành độc lập.

Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập: + Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929) tại Bắc Kỳ

+ An Nam Cộng sản Đảng (7-1929) tại Nam Kỳ

Vào tháng 9 năm 1929, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập tại Trung Kỳ, phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ trong một quốc gia có thể dẫn đến chia rẽ lớn Nguyễn Ái Quốc, một chiến sĩ cách mạng lỗi lạc, đã đứng ra giải quyết nhu cầu bức thiết về việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Ngày đăng: 05/12/2022, 06:25

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2011). Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc đại học chuyên lý luận chính trị).Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật Khác
3. Hải Phòng, (2022). Lịch sử và ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930). [Online] Khác
10. Sở Khoa học và Công nghệ Cao Bằng, (2018). Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch sử. [Online] Khác
11. Trần Thị Quý, (2004). Vai trò của sách, báo cách mạng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (1911-1930). VNU Journal of Science: Social Sciences and Humanities, pp. 36-43 Khác
12.. Võ Văn Sen, (2011). BẢN LĨNH SUY NGHĨ ĐỘC LẬP SÁNG TẠO TRONG QUÁ TRÌNH ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC.Science & Technology Development, pp. 68-75 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w