1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đảng cộng sản việt nam quá trình sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và dân tộc việt nam

53 262 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đảng Cộng Sản Việt Nam Quá Trình Sàng Lọc Nghiêm Khắc Của Lịch Sử Và Dân Tộc Việt Nam
Định dạng
Số trang 53
Dung lượng 0,92 MB

Cấu trúc

  • 1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (5)
    • 1.1. Bối cảnh thế giới (5)
      • 1.1.1. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó (5)
      • 1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin (6)
      • 1.1.3. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng Sản (7)
    • 1.2. Bối cảnh trong nước (9)
      • 1.2.1. Xã hội Việt nam dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp (0)
      • 1.2.2. Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp (11)
  • 2. Quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (13)
    • 2.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến (13)
      • 2.1.1. Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913) (13)
      • 2.1.2. Phong trào Cần Vương (1885-1896) (18)
      • 2.1.3 Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1992) (20)
      • 2.1.4 Nguyên nhân chung (22)
    • 2.2 Phong trào yêu nước Việt Nam theo hệ tư tưởng tư sản (23)
      • 2.2.1 Phan Bội Châu và phong trào Đông Du (1905 – 1908) (23)
      • 2.2.2 Phong trào Duy Tân (1906-1908) (26)
      • 2.2.4 Nguyên nhân thất bại chung (0)
      • 2.3.1. Phong trào vô sản trước 1925 (30)
        • 2.3.1.1 Xác định con đường cách mạng vô sản (32)
        • 2.3.1.2 Chuẩn bị lí luận, tư tưởng (32)
        • 2.3.1.3 Chuẩn bị lực lượng, tổ chức (35)
  • 3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (40)
    • 3.1 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh chính trị đầu tiên (40)
      • 3.1.1 Hội nghị thành lập Đảng (40)
      • 3.1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (41)
        • 3.1.2.1 Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (41)
        • 3.1.2.2 Đường lối chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam (42)
        • 3.1.2.3 Cương lĩnh xác định các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam (43)
        • 3.1.3.4 Lực lượng cách mạng (44)
        • 3.1.4.5 Lãnh đạo cách mạng (45)
        • 3.1.4.6 Đoàn kết quốc tế (45)
    • 3.2. Hạn chế trong các phong trào yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX được giải quyết trong nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên (46)
    • 3.3 Giá trị của việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (49)

Nội dung

Trong giai đoạn lúc cách mạng Việt Nam chìm khủng hoảng đường lối cứu nước, người quê hương Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc tìm đường cứu nước Người hiểu sâu sắc vấn đề đường lối giải phóng dân tộc, đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc nước với phong trào cách mạng vô sản giới Từ Người dứt khoát theo đường cách mạng Lênin Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tìm đường đắn giải phóng dân tộc Việt Nam Chỉ thời gian ngắn Việt Nam có ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành lập Điều phản ánh xu tất yếu cách mạng Việt Nam Nhưng phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam phát triển mạnh mẽ địi hỏi phải có lãnh đạo đảng cộng sản thống Sự tồn hoạt động riêng rẽ ba tổ chức cộng sản làm cho lực lượng sức mạnh phong trào cách mạng bị phân tán Điều khơng phù hợp với lợi ích cách mạng nguyên tắc tổ chức đảng cộng sản Yêu cầu đặt thống tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam Vậy nói đời Đảng Cộng sản Việt Nam sàng lọc nghiêm khắc lịch sử dân tộc đường đấu tranh suốt thập niên đầu kỷ XX? Vì chính tiếp nối phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc kinh qua đường từ phong kiến đến dân chủ tư sản nhằm thực mục tiêu số giải phóng dân tộc, kiện lịch sử trọng đại, bước ngoặt vô quan trọng lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu mốc son chói lọi đường phát triển dân tộc ta

Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

Bối cảnh thế giới

1.1.1 Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó

Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, dẫn đến sự gia tăng bóc lột nhân dân lao động và xâm lược các dân tộc thuộc địa Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc khiến đời sống của người lao động trở nên cực kỳ khó khăn Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ tại các nước thuộc địa.

Ngày 1 tháng 8 năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho các quốc gia tham chiến, với khoảng 10 triệu người thiệt mạng.

Chiến tranh đã khiến 20 triệu người tàn phế, đồng thời làm suy yếu chủ nghĩa tư bản và gia tăng mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc Tình hình này đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở các dân tộc thuộc địa.

=> NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÌNH HÌNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH

THẾ GIỚI THỨ NHẤT ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM:

• Sự thành lập Quốc tế Cộng sản (3-1919) đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới

• Những sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc

Sự hình thành của nhiều Đảng Cộng Sản, như Đảng Cộng Sản Pháp vào năm 1920 và Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào năm 1921, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc lan tỏa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.

1.1.2 Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin

Giữa thế kỷ XIX, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi một hệ thống lý luận khoa học như vũ khí tư tưởng để chống lại chủ nghĩa tư bản Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời và sau này được Lênin phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lê nin.

Chủ nghĩa Mác - Lê nin nhấn mạnh rằng để đạt được thành công trong cuộc đấu tranh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần thành lập một đảng cộng sản.

→ Hệ thống lý luận khoa học cho giai cấp công nhân

Sự ra đời của Đảng Cộng sản là một yêu cầu khách quan nhằm đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại áp bức và bóc lột Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) khẳng định rằng những người cộng sản luôn đại diện cho lợi ích của toàn bộ phong trào, là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân tại các quốc gia Đảng có nhiệm vụ tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để giành quyền lực và xây dựng xã hội mới, luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và xuất phát từ lợi ích của họ Tuy nhiên, Đảng cũng phải đại diện cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động, vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng chính mình khi đồng thời giải phóng các tầng lớp nhân dân lao động khác Chủ nghĩa Mác - Lênin đã thu hút quần chúng và những phần tử ưu tú ở các nước thuộc địa tham gia vào phong trào cộng sản.

Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được giới thiệu tại Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân đã phát triển mạnh mẽ theo hướng cách mạng vô sản Sự phát triển này đã dẫn đến việc thành lập các tổ chức cộng sản tại Việt Nam Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo và áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng vào quá trình đấu tranh giành độc lập và tự do cho đất nước.

1 Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.614-615

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị những tiền đề lý luận và tư tưởng quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong cách mạng Việt Nam với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930 Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, bao gồm Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, đã định hình đường lối chiến lược đúng đắn, giúp Đảng xác định phương hướng và phương pháp cách mạng một cách khoa học qua từng giai đoạn lịch sử Nhờ vào sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã đạt được nhiều thắng lợi liên tiếp.

Những thắng lợi lịch sử quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc đã mở ra một kỷ nguyên mới, đánh dấu bước đi đầu tiên chưa từng có trong lịch sử Qua đó, đất nước đã vượt qua tình trạng lạc hậu, kém phát triển để tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, khẳng định quyết tâm và nỗ lực của toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới.

=> Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

1.1.3 Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng Sản

Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công, dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Xôviết dựa trên liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Thắng lợi này không chỉ biến lý thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin thành hiện thực mà còn khởi đầu một thời đại mới, “thời đại cách mạng chống đế quốc và giải phóng dân tộc.” Cuộc cách mạng đã khơi dậy mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân các nước, đồng thời thúc đẩy sự ra đời của nhiều đảng cộng sản, bao gồm Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (1918), Đảng Cộng sản Pháp (1919), Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Mông Cổ.

Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã trở thành nguồn cảm hứng cho các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập Đảng Cộng sản Nhật Bản được thành lập vào năm 1922, thể hiện sự lan tỏa của tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh rằng Cách mạng Tháng Mười như một tiếng sét đánh thức nhân dân châu Á sau nhiều thế kỷ bị áp bức, đồng thời khẳng định rằng cuộc cách mạng này đã mang lại bài học quý giá cho các phong trào giải phóng dân tộc.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.164

Để cách mạng thành công, cần phải có sự ủng hộ vững chắc từ nhân dân, một đảng lãnh đạo kiên định, lòng kiên trì, sự hy sinh và tinh thần thống nhất Tóm lại, mọi hoạt động cần phải tuân theo một chủ nghĩa rõ ràng.

Mã Khắc Tư và Lênin” 3

Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới, mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế” 4

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã kết nối phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông với phong trào công nhân ở phương Tây, cùng nhau đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc Sự kiện này không chỉ cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh của giai cấp công dân mà còn trở thành động lực thúc đẩy sự ra đời của Đảng Cộng sản.

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304

4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.312

Bối cảnh trong nước

1.2.1 Xã hội Việt nam dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp

Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam bằng vũ lực Sau khi nhanh chóng đàn áp các phong trào kháng chiến của người dân, họ dần dần thiết lập bộ máy cai trị tại đây.

Chính quyền thực dân Pháp tiếp tục thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp mạnh mẽ, tập trung quyền lực vào tay các quan cai trị người Pháp, biến vua quan Nam triều thành bù nhìn Họ bóp nghẹt tự do, dân chủ và đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân bằng bạo lực Chính sách chia để trị được áp dụng một cách thâm độc, chia Việt Nam thành ba miền Bắc, Trung, Nam và thiết lập chế độ cai trị riêng cho mỗi miền, đồng thời kết hợp với Lào và Campuchia để thành lập liên bang Đông Dương, xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới Thực dân Pháp gây chia rẽ giữa các miền, tôn giáo, dân tộc và ngay cả giữa các dòng họ, đồng thời câu kết với địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.

Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách bóc lột kinh tế tại Việt Nam thông qua việc cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đầu tư khai thác tài nguyên, xây dựng cơ sở công nghiệp và hệ thống giao thông, bến cảng phục vụ cho việc khai thác thuộc địa Mặc dù chính sách này đã tạo ra sự chuyển biến trong nền kinh tế Việt Nam, hình thành một số ngành kinh tế mới, nhưng đồng thời cũng khiến nền kinh tế Việt Nam trở nên lệ thuộc vào tư bản Pháp và bị kìm hãm trong tình trạng lạc hậu Pháp đã tận dụng tối đa nhân lực, vật lực và tài lực của Việt Nam để bù đắp cho những tổn thất trong chiến tranh.

9 tăng thuế, bắt nhân dân Việt Nam mua công trái, vơ vét lương thực, nông lâm sản, kim loại đem về Pháp

Sự cướp bóc của Pháp ảnh hưởng trầm trọng đến kinh tế – xã hội Việt Nam

Trong giai đoạn này, ngành công nghiệp khai thác mỏ được đầu tư mạnh mẽ, với sự xuất hiện của nhiều công ty than mới và việc khai thác các kim loại thiết yếu cho chiến tranh Pháp đã nới lỏng chính sách, cho phép các doanh nghiệp Việt Nam như công ty của Nguyễn Hữu Thụ và Bạch Thái Bưởi mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh, dẫn đến sự ra đời của nhiều xí nghiệp mới.

Sự phát triển của công thương nghiệp và giao thông vận tải tại Việt Nam chủ yếu nhờ vào chính sách nới lỏng độc quyền, cho phép tư bản người Việt kinh doanh tự do hơn Điều này đã dẫn đến sự mở rộng hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nhân nổi bật như Nguyễn Hữu Thu và Bạch Thái Bưởi, cùng với sự xuất hiện của nhiều xí nghiệp mới.

Nông nghiệp: chuyển từ chuyên canh cây lúa sang trồng cây công nghiệp phục vụ chiến tranh (thầu dầu, đậu, lạc ) Đời sống nông dân khó khăn

=> Nền kinh tế Việt Nam trở thành một nền kinh tế phát triển què quặt, lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu

Trong bối cảnh văn hóa, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách nô dịch, tạo ra tâm lý tự ti và khuyến khích mê tín dị đoan, đồng thời cấm đoán mọi hoạt động yêu nước của nhân dân Việt Nam Họ tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ từ thế giới, thi hành chính sách ngu dân để dễ dàng thống trị Chính sách văn hóa và giáo dục thực dân đã duy trì các hủ tục lạc hậu, khiến nhân dân phải sống trong cảnh ngu dốt và không có quyền tự do học tập Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ tội ác của chế độ thực dân ở Đông Dương, nhấn mạnh sự áp bức và bóc lột nhục nhã mà người dân phải chịu đựng.

1.2.2 Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp

Dưới sự tác động của chính sách cai trị và các chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã trải qua một quá trình phân hóa sâu sắc.

Giai cấp địa chủ ở Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp không chỉ câu kết để tăng cường bóc lột và áp bức nông dân, mà còn có sự phân hóa nội bộ Một số địa chủ yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống Pháp với nhiều hình thức và mức độ khác nhau.

Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, chịu sự áp bức và bóc lột nặng nề từ thực dân và phong kiến Tình cảnh khốn khổ của họ đã gia tăng lòng căm thù đối với đế quốc và phong kiến tay sai, đồng thời thúc đẩy ý chí cách mạng trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn và vùng mỏ như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, và Quảng Ninh Đa số công nhân xuất thân từ giai cấp nông dân, là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất của thực dân Pháp, do đó họ có mối liên hệ chặt chẽ với nông dân Giai cấp công nhân Việt Nam phải đối mặt với sự áp bức và bóc lột từ đế quốc và phong kiến Điểm nổi bật của giai cấp công nhân là sự ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và nhanh chóng tiếp thu tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành một lực lượng chính trị tự giác và thống nhất trên toàn quốc.

Giai cấp tư sản Việt Nam bao gồm các thành phần như tư sản công nghiệp và tư sản thương nghiệp, trong đó có một bộ phận kiêm địa chủ Ngay từ khi hình thành, giai cấp này đã phải đối mặt với sự cạnh tranh và áp lực từ tư sản Pháp và tư sản người Hoa, dẫn đến việc thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam trở nên nhỏ bé và yếu ớt.

5 Lê Duẩn: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.II, tr.551

Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công

Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề tự do, trong đó giới trí thức và học sinh đóng vai trò quan trọng Cuộc sống của họ thường bấp bênh, dễ dẫn đến tình trạng trở thành vô sản Tiểu tư sản Việt Nam mang trong mình lòng yêu nước và căm thù thực dân, đồng thời chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng tiến bộ bên ngoài Chính vì vậy, họ trở thành lực lượng cách mạng nhạy cảm và có tinh thần đấu tranh cao Dưới sự tác động của phong trào cách mạng công nông, tiểu tư sản ngày càng gia tăng số lượng trong hàng ngũ cách mạng và đóng góp quan trọng vào phong trào đấu tranh của nhân dân, đặc biệt là ở khu vực thành thị.

Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam, tạo ra hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Tất cả các tầng lớp trong xã hội đều chịu cảnh áp bức và bóc lột, mang thân phận người bị mất nước Mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân và giai cấp địa chủ phong kiến đã dẫn đến sự phát sinh mâu thuẫn gay gắt hơn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp Nhiệm vụ hàng đầu lúc bấy giờ là giành độc lập cho dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến và đảm bảo quyền dân chủ, đặc biệt là quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân.

Quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến

2.1.1 Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913) a Nguyên nhân bùng nổ

Nhu cầu tự vệ của nông dân lưu tán cư trú tại đây đã dẫn đến việc duy trì vùng đất này như một khu vực ngoài pháp luật, không chịu sự kiểm soát của bất kỳ chính quyền nào.

- Sự yêu nước và chống ngoại bang Pháp của nghĩa quân Yên Thế

Yên Thế, nằm ở phía Tây Bắc Giang, là vùng đất rộng lớn với cây cối rậm rạp, cho phép kết nối dễ dàng với Tam Đảo, Thái Nguyên, Phúc Yên và Vĩnh Yên Địa hình hiểm trở và công sự dã chiến tại đây rất thích hợp cho lối đánh du kích, giúp các chiến sĩ thực hiện các cuộc tấn công nhanh chóng và rút lui an toàn khi bị truy đuổi.

Giai đoạn thứ nhất (1884 - 1892) chứng kiến sự hình thành hàng chục toán nghĩa quân do các thủ lĩnh như Đề Nắm, Bá Phức, Thống Luận, Tổng Tài, Đề Thuật và Đề Chung chỉ huy Đến cuối năm 1889, lực lượng của Đề Thám đã có khoảng 500 quân được huấn luyện bài bản và liên kết với quân Cờ Đen của Lương Tam Kỳ cùng thủ lĩnh người Thái Đèo Văn Trị Ngoài căn cứ địa Yên Thế, Đề Thám còn thiết lập các đồn điền tại Phủ Lạng Thương, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc Yên và Bắc Giang.

Trong giai đoạn này, mặc dù phong trào chưa thống nhất, nhưng nghĩa quân Đề Thám vẫn hoạt động hiệu quả Vào tháng 11-1890, họ đã giành thắng lợi trong trận chống càn ở Cao Thượng Từ đầu đến cuối tháng 12-1890, quân Pháp ba lần tấn công Hố Chuối nhưng đều bị nghĩa quân đánh bại Đến cuối năm 1891, nghĩa quân đã kiểm soát hầu hết vùng Yên Thế và mở rộng hoạt động sang Phủ Lạng Thương.

Vào năm 1891, quân Pháp tiến công Hố Chuối buộc nghĩa quân Đề Thám phải rút lên Đồng Hom Lợi dụng thời cơ này, quân Pháp nhanh chóng tiến vào vùng Nhã Nam, tổ chức các cuộc càn quét và xây dựng các đồn bốt nhằm bao vây nghĩa quân.

Để ngăn chặn các cuộc hành quân của địch, nghĩa quân Yên Thế đã thiết lập một cụm cứ điểm gồm 7 hệ thống công sự ở phía bắc Yên Thế, do các thủ lĩnh Đề Nắm, Đề Thám, Bá Phức, Đề Tâm, Đề Tuất, Đề Chung và Tổng Tài chỉ huy Trong số đó, Đề Nắm nổi bật là một trong những thủ lĩnh có uy tín nhất của nghĩa quân.

Tháng 3 - 1892, Pháp huy động hơn 2.200 quân bao gồm nhiều binh chủng (công binh, pháo binh ) do tướng Voarông (Voiron) chỉ huy ào ạt tấn công vào căn cứ nghĩa quân Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch chiến đã phải rút khỏi căn cứ Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu rõ rệt Khó khăn ngày càng nhiều, một số thủ lĩnh ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có Đề Nắm bị giết vào tháng 4 - 1892 Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân Yên Thế Tuy gặp khó khăn, nhưng thế mạnh của quân Yên Thế là thông thuộc địa hình và cơ động, giúp họ thoát được vòng vây của quân Pháp

Giai đoạn 2 (1893-1897) chứng kiến hai lần đình chiến giữa nghĩa quân và Pháp, lần đầu vào tháng 10-1894 và lần hai vào tháng 12-1897 Sau sự hy sinh của Đề Nắm, Đề Thám đã trở thành lãnh đạo phong trào Yên Thế, khôi phục các toán quân còn lại và mở rộng hoạt động ra các vùng lân cận Mặc dù số lượng nghĩa quân giảm so với trước, nhưng phạm vi hoạt động đã được mở rộng hơn.

Vào năm 1894, nghĩa quân đã trở lại Yên Thế để xây dựng lại căn cứ Hố Chuối và mở rộng hoạt động sang các vùng Bắc Ninh, Bắc Giang Thời điểm này, các phong trào Bãi Sậy, Ba Đình cùng với các đội quân kháng chiến của Đốc Ngữ và Đề Kiều đã suy yếu, tạo điều kiện cho thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế.

Ngày 17-9-1894, quân Yên Thế bắt cóc Chesnay , biên tập viên tờ Avenir du Tonkin Do phải chịu áp lực từ phía chính quyền thuộc địa và khó khăn trong việc dập tắt cuộc khởi nghĩa, quân đội Pháp phải tiến hành hòa hoãn để nghĩa quân Yên Thế thả Chesnay Về phía nghĩa quân, tuy có giành được một số thắng lợi, nhưng lực lượng cũng suy yếu rõ rệt Trong tình hình đó, Đề Thám thấy cần phải hòa hoãn với Pháp để tranh thủ thời cơ củng cố lực lượng Tháng 10-1894, cuộc thương lượng giữa nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp kết thúc.Theo đó, phía Pháp trả 15.000 francs tiền chuộc, họ phải rút khỏi Yên Thế và để Đề Thám kiểm soát 4 tổng Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng, với quyền thu thuế trong 3 năm Trong thời gian này, Đề Thám tới sống ở đồn Phồn Xương và cho cày cấy với quy mô lớn Ông cũng được Kỳ Đồng hỗ trợ, tuyển mộ người cho ông từ thành phần phu từ một đồn điền của Pháp do Kỳ Đồng quản lý

Vào năm 1895, Đề Thám tham gia tổ chức cuộc tấn công Bắc Ninh và từ chối trả lại vũ khí chiếm được cho Pháp Đến tháng 11 cùng năm, thiếu tá Gallieni đã sử dụng pháo thuyền để uy hiếp Đề Thám, buộc ông phải đầu hàng, nhưng nghĩa quân của Đề Thám đã kiên cường chống trả Để tránh những cuộc đụng độ lớn với quân Pháp, Đề Thám quyết định chia nghĩa quân thành các nhóm nhỏ, hoạt động phân tán trong rừng và các làng mạc, di chuyển qua bốn tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên và Phúc Yên.

Trước áp lực mạnh mẽ từ quân Pháp, lực lượng nghĩa quân của Đề Thám ngày càng suy yếu, buộc ông phải xin giảng hòa lần thứ hai Thực dân Pháp cũng muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác thuộc địa, dẫn đến việc ký kết hiệp ước hòa hoãn vào tháng 12-1897 với các điều kiện ràng buộc, yêu cầu nghĩa quân phải nộp vũ khí và bãi binh Mặc dù Đề Thám tỏ ra phục tùng, nhưng ông vẫn âm thầm củng cố lực lượng của mình.

Giai đoạn 3 (1898-1908): Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa quân Yên Thế vẫn giữ tinh thần chiến đấu Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa quân vừa sản xuất tự túc

Đề Thám đã tăng cường ngân sách cho việc mua sắm vũ khí và chú trọng đến luyện tập quân sự Đồng thời, ông cũng mở rộng mối quan hệ với các nhà yêu nước tại Bắc và Trung Kỳ.

Tại Yên Thế, nghĩa quân Hoàng Hoa Thám đã hai lần tiếp đón nhà yêu nước Phan Bội Châu, và vào giữa năm 1906, Phan Châu Trinh cũng đã đến Yên Thế để gặp Đề Thám Đề Thám đã có kế hoạch thành lập căn cứ Tú Nghệ nhằm huấn luyện quân sự cho các nghĩa sĩ miền Trung.

Trong quá trình thiết lập các đồn, bốt và mở rộng hệ thống giao thông, Pháp đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện một cuộc tấn công quyết định nhằm vào căn cứ của nghĩa quân Yên Thế.

Phong trào yêu nước Việt Nam theo hệ tư tưởng tư sản

Đầu thế kỷ XIX, châu Á chứng kiến sự thức tỉnh với phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa như Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, và Ấn Độ Phong trào này mang nội dung mới, kết hợp đấu tranh yêu nước và giành quyền dân chủ Vào những năm đầu thế kỷ XX, trước những yêu cầu mới của lịch sử, các trí thức phong kiến tại Việt Nam nhận ra rằng "quan niệm trung quân ái quốc" không còn đủ sức thu hút nhân dân Đồng thời, các tân thư và tân báo từ Trung Quốc, đặc biệt là các tác phẩm của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, đã giới thiệu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, cổ vũ cho lý tưởng của cuộc cách mạng Pháp.

Cuộc vận động Duy Tân năm 1898 và cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Quốc đã giúp chuyển hướng tư tưởng từ quân chủ lập hiến sang cộng hòa Đồng thời, sự thành công trong xây dựng đất nước của Nhật Bản đã củng cố niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản Các phong trào này thể hiện rõ ràng khuynh hướng tiến bộ trong xã hội.

2.2.1 Phan Bội Châu và phong trào Đông Du (1905 – 1908) a Nguyên nhân bùng nổ

Nhật Bản là quốc gia duy nhất ở châu Á thoát khỏi sự thống trị của tư bản Âu - Mỹ nhờ áp dụng con đường tư bản chủ nghĩa, đồng thời chia sẻ màu da và nền văn hóa Hán học tương đồng với Việt Nam.

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, tâm lý nương nhờ Nhật Bản trở thành phổ biến trong nhân dân các nước châu Á, bao gồm cả Việt Nam Vào đầu năm 1905, Phan Bội Châu đã vượt biển sang Nhật Bản để “cầu viện”, nhưng không thành công Ông ngay lập tức chuyển hướng sang “cầu học” và phát động phong trào tuyển chọn thanh niên yêu nước sang Nhật Bản học tập, nhằm đào tạo nhân tài cho cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng một “Việt Nam mới”.

Phan Bội Châu đã khởi xướng việc đưa thanh niên đi du học nhằm nâng cao văn minh và tiến bộ, ban đầu với ba người: Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Điển và Lê Khiết Sau đó, ông tiếp tục tổ chức một đoàn năm người, trong đó có hai anh em Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh, con của cụ Lương Văn Can.

Năm 1906, Cường Để, một thành viên của Duy Tân Hội, đã bí mật sang Nhật Bản để học tại trường Trấn Võ, trong khuôn khổ phong trào Đông Du Phong trào này được hình thành bởi Duy Tân Hội, do Phan Bội Châu cùng hơn 20 đồng chí khác sáng lập vào năm 1904, với mục tiêu đánh đuổi thực dân Pháp và khôi phục độc lập cho Việt Nam.

Phong trào Đông Du, diễn ra từ năm 1905 đến 1908, là một hoạt động yêu nước sôi nổi, nhằm kêu gọi thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập Mục tiêu của phong trào là chuẩn bị lực lượng cho việc giành lại độc lập cho đất nước khi có thời cơ.

Trong quá trình hoạt động Đông Du, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam thương đoàn Công hội tại Hương Cảng, đóng vai trò là điểm liên lạc giữa Việt Nam và Nhật Bản Đến năm 1908, số học sinh Việt Nam tại Nhật đạt 200 người, với chương trình học đa dạng bao gồm tiếng Nhật, tri thức phổ thông và quân sự, nhằm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến giành độc lập Tháng 10 năm 1907, ông và các đồng chí thành lập Hội Việt Nam Công Hiến, với Phan Bội Châu giữ chức Tổng lý kiêm Giám đốc Hội được tổ chức thành 4 Bộ, mỗi Bộ phụ trách một lĩnh vực hoạt động của lưu học sinh, trong đó Bộ kinh tế đảm nhận việc thu chi và vận động hỗ trợ Việt Nam cống hiến chú trọng tổ chức các buổi sinh hoạt chính trị, giúp học sinh rèn luyện tư tưởng và đạo đức cách mạng, với sự tham gia đông đủ của học viên để thảo luận các vấn đề liên quan đến sinh hoạt và học tập.

Bài giảng nội dung một cuốn sách nhấn mạnh nhiệm vụ của các thành viên đối với Tổ quốc, khuyến khích sự trao đổi tự do và hỗ trợ lẫn nhau để cùng tiến bộ Hệ thống tổ chức và quản lý nhân sự tại đây được ví như một “Chính phủ lâm thời” theo lời Phan Bội Châu.

Vào thời điểm này, đế quốc Pháp đã phát hiện nhiều dấu hiệu của phong trào Đông Du, khiến họ và phong kiến tay sai lo ngại trước sự phát triển của phong trào Để ngăn chặn phong trào ngay từ đầu, Pháp đã nhanh chóng liên kết với chính quyền Nhật Bản Hai bên đã ký kết hiệp ước, trong đó Pháp cho phép Nhật Bản buôn bán tại Việt Nam, đổi lại Nhật Bản cam kết không cho các nhà yêu nước Việt Nam trú ngụ và hoạt động trên đất Nhật.

Tháng 9 năm 1908, khi các học sinh trường Trấn Võ đang làm lễ tốt nghiệp thì

Vào tháng 2 năm 1909, Bộ Nội vụ Nhật Bản đã ra lệnh giải tán tổ chức học sinh Việt Nam, tịch thu các văn kiện và đuổi học sinh ra khỏi nước Nhật Trong bối cảnh này, Phan Bội Châu và Cường Để cũng bị trục xuất, buộc họ phải trốn về Trung Quốc và sau đó qua Xiêm để hoạt động trong một thời gian, chờ đợi những cơ hội mới Nguyên nhân thất bại của phong trào này chủ yếu xuất phát từ sự đàn áp mạnh mẽ của chính quyền Nhật.

Chủ trương bạo động và tập hợp nhân dân đấu tranh giành tự do, độc lập là đúng đắn, nhưng việc cầu viện Nhật Bản là một sai lầm lớn Nhật Bản thời điểm đó mang bản chất tư bản hiếu chiến và tham lam, luôn có ý định xâm lược các quốc gia khác Phong trào này mang ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức rõ ràng về các mối đe dọa từ bên ngoài và cần thiết phải tự lực cánh sinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Phong trào Đông du, dù chỉ kéo dài trong thời gian ngắn, được xem là một trong những phong trào yêu nước mạnh mẽ nhất của nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ 20 Nhiều thanh niên du học từ phong trào này đã trở thành những hạt nhân quan trọng trong các phong trào cách mạng tiếp theo, góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc.

2.2.2 Phong trào Duy Tân (1906-1908) a Nguyên nhân bùng nổ

Trong thời kỳ đầu của sự đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam, nhiều phong trào yêu nước do các sĩ phu tổ chức đã diễn ra, tiêu biểu là phong trào Cần Vương nhằm phò tá vua và phong trào Văn thân Tuy nhiên, cả hai phong trào này đều thất bại do quan điểm lạc hậu và thiếu đường lối rõ ràng Sau đó, phong trào Đông nổi bật lên như một bước chuyển mới trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh

Phong trào Duy Tân, hay còn gọi là cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ, là một cuộc cải cách diễn ra tại miền Trung Việt Nam từ năm 1906 đến 1908 Cuộc vận động này được khởi xướng bởi Phan Châu Trinh, nhưng nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp và kết thúc trong thời gian ngắn.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày đăng: 31/12/2021, 03:18

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đảng toàn tập, t.1
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đảng toàn tập
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia
7. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 Khác
5. Lê Duẩn: Tuyển tập, t.II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 Khác
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w