Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Cơ cấu ngành kinh tế của các quốc gia phát triển đang chuyển dịch theo hướng gia tăng tỉ trọng ngành dịch vụ, chiếm từ 60 - 70% tổng sản phẩm quốc nội Trong đó, dịch vụ tư vấn marketing đóng góp đáng kể vào GDP và hỗ trợ sự phát triển của các ngành khác Hoạt động này rất cần thiết cho mọi lĩnh vực, từ doanh nghiệp đến tổ chức chính phủ và phi chính phủ, cũng như các hoạt động xã hội Đặc biệt, đối với doanh nghiệp, dịch vụ tư vấn marketing là yếu tố then chốt giúp hỗ trợ hoạt động kinh doanh, xây dựng và phát triển thương hiệu, cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh.
Trong những năm gần đây, Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, nhưng sự phát triển giữa tăng trưởng về lượng và chất chưa đồng đều Dịch vụ tư vấn marketing đã hình thành và phát triển từ những năm 2000, hiện đang trong giai đoạn bùng nổ với nhiều doanh nghiệp mới Tuy nhiên, so với các nước như Thái Lan, Singapore, và Trung Quốc, lĩnh vực này ở Việt Nam vẫn còn hạn chế về số lượng và chất lượng Là thành viên của WTO, Việt Nam có tiềm năng lớn trong nhu cầu marketing, nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp tư vấn marketing cần định vị lại và xây dựng chiến lược phát triển bền vững Các chuyên gia trong Hội marketing Việt Nam cho rằng, hiện nay cung và cầu trên thị trường chưa tương xứng, chưa khai thác hết tiềm năng và chưa tạo động lực phát triển do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan.
Hội marketing Việt Nam nhận thấy rằng, mặc dù doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của marketing, nhưng đầu tư vào lĩnh vực này vẫn chưa đạt yêu cầu, chỉ mang tính chất tạm thời và ngắn hạn Trong số hơn 3000 doanh nghiệp trong ngành, chỉ có 2% được coi là chuyên nghiệp, cho thấy sự cạnh tranh của các doanh nghiệp tư vấn trong nước với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài là rất hạn chế Mặc dù các tổ chức xúc tiến và hiệp hội đã hỗ trợ doanh nghiệp, cùng với nỗ lực của nhà nước trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhưng dịch vụ tư vấn marketing vẫn chưa phát triển tương xứng với các quốc gia trong khu vực Do đó, nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam, xác định các yếu tố chủ yếu và thứ yếu, cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của luận án tập trung vào việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam Mục tiêu chính của nghiên cứu là xác định và đánh giá các yếu tố tác động đến ngành dịch vụ này, nhằm đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh trong bối cảnh thị trường hiện nay.
Dựa trên cơ sở khoa học về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ tư vấn marketing, bài viết sẽ áp dụng lý thuyết cung cầu và các mô hình phân tích nhân tố để khảo sát xu hướng tiêu dùng và sự phát triển thị trường, từ đó xây dựng mô hình phân tích các yếu tố tác động đến dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam.
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển dịch vụ tư vấn marketing từ các quốc gia khác sẽ giúp doanh nghiệp cung ứng hiểu rõ vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy ngành dịch vụ này Qua đó, có thể rút ra những bài học thành công và hạn chế, từ đó góp phần phát triển bền vững cho ngành dịch vụ tư vấn marketing.
Nghiên cứu bối cảnh tác động đến dịch vụ tài chính vi mô (DVTVM) tại Việt Nam là cần thiết để hiểu quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ này Việc kết hợp nghiên cứu khả năng cung ứng và nhu cầu sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp sẽ giúp xác định các nhân tố ảnh hưởng và mối tương quan giữa chúng, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của DVTVM trong nước.
- Thứ tư, sau khi đã xác định các nhân tố sẽ kiểm định nhân tố nào tác động chính
(những nhân tố từ phía cung và cầu của DVTVM) Từ đó rút ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa của dịch vụ này
Vào thứ năm, chúng tôi sẽ phân tích các yếu tố ảnh hưởng và đề xuất các giải pháp nhằm kích cầu, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng dịch vụ, đồng thời nâng cao cả số lượng lẫn chất lượng cung ứng Chúng tôi cũng sẽ đưa ra những kiến nghị đối với nhà nước và hiệp hội ngành nghề để phát triển dịch vụ tư vấn và vận chuyển tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn thông tin
Tư duy biện chứng và quan điểm lịch sử là hai phương pháp quan trọng trong việc phân tích toàn diện quá trình hình thành và phát triển dịch vụ tư vấn marketing Việc kết hợp hai phương pháp này giúp hiểu rõ hơn về các xu hướng hiện tại và tương lai trong lĩnh vực marketing, từ đó đưa ra những chiến lược hiệu quả cho doanh nghiệp Sự phát triển của dịch vụ tư vấn marketing không chỉ phản ánh nhu cầu thị trường mà còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố lịch sử và xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng quan trọng trong phát triển kinh tế hiện nay, với nhiều bài học kinh nghiệm từ các nước trong khu vực Nghiên cứu này kết hợp cơ sở lý thuyết về cung cầu dịch vụ của Paul A Samuelson và William D Nordhaus, nhằm phân tích tác động của hội nhập đến nền kinh tế Để tìm hiểu thêm, vui lòng tải xuống tài liệu tại địa chỉ luanvanchat@gmail.com.
Nordhaurs (1989) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa các nhân tố trong các mô hình tiêu dùng và sự phát triển cung cầu thị trường Nghiên cứu này cung cấp cơ sở để xây dựng định hướng và đề xuất giải pháp nhằm phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp được sử dụng để hệ thống hóa các vấn đề liên quan đến dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam Tác giả đã thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau và áp dụng phân tích thống kê kinh tế để so sánh và đối chiếu các thông tin Qua đó, những nhận xét và kết luận về tình hình phát triển dịch vụ này trong thời gian qua đã được rút ra.
Phương pháp chuyên gia là một kỹ thuật quan trọng trong nghiên cứu, nơi các vấn đề liên quan đến nội dung được thảo luận và ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn marketing được tham khảo Tác giả cũng đã có kinh nghiệm thực tiễn trong việc tư vấn marketing cho các doanh nghiệp, góp phần làm phong phú thêm cho quá trình nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được thực hiện bao gồm cả định tính và định lượng, bắt đầu bằng khảo sát doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn marketing (DVTVM) Nghiên cứu định tính được tiến hành thông qua việc trao đổi và thảo luận trực tiếp với các chuyên gia marketing và nhà quản lý doanh nghiệp, nhằm điều chỉnh và bổ sung các yếu tố trong bảng câu hỏi Kết quả từ bước này sẽ là nền tảng để thiết kế bảng câu hỏi cho nghiên cứu định lượng, nhằm thu thập ý kiến từ doanh nghiệp tư vấn marketing và doanh nghiệp sử dụng DVTVM Dữ liệu thu thập từ doanh nghiệp cung ứng sẽ được phân tích để đánh giá tình hình cung ứng, trong khi kết quả khảo sát doanh nghiệp sử dụng DVTVM sẽ hỗ trợ mô tả thị trường và thực hiện phân tích nhân tố theo mô hình hồi quy tuyến tính.
Khoảng 80% doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing (DVTVM) tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, cho thấy đây là hai địa phương chủ chốt để khảo sát khả năng cung ứng và nhu cầu sử dụng dịch vụ này tại Việt Nam Tỷ lệ doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing tại TPHCM và Hà Nội là 60:40, trong khi tổng số doanh nghiệp của hai thành phố này theo tỷ lệ 65:35 Điều này cung cấp cơ sở để phân bố tỷ lệ mẫu trong nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu bao gồm chủ doanh nghiệp, giám đốc và trưởng phòng kinh doanh, tiếp thị.
Mẫu nghiên cứu cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing được xác định theo phương pháp tỉ lệ, với kích thước mẫu là 150 doanh nghiệp, trong đó có 95 doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh và 55 doanh nghiệp tại Hà Nội Sau khi thu thập, 28 mẫu bị loại do có câu hỏi bỏ trống hoặc không có ý kiến, dẫn đến kích thước mẫu cuối cùng là 122, đạt tỉ lệ hồi đáp khoảng 83% Tỉ lệ mẫu phân bố theo địa phương là 69% tại thành phố Hồ Chí Minh và 31% tại Hà Nội Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn marketing rất nhỏ, do đó mẫu nghiên cứu chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp ngoài nhà nước (85%) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (15%).
Mẫu nghiên cứu này tập trung vào doanh nghiệp sử dụng dịch vụ vận tải và logistics, với phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong khuôn khổ các doanh nghiệp Các tổ chức chính phủ, tổ chức nước ngoài và cá nhân không được tham gia vào quá trình điều tra Mẫu được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể liên quan đến doanh nghiệp.
Bài viết trình bày phương pháp xác định qui mô mẫu và phân bố tỉ lệ mẫu trong nghiên cứu với tổng số 300 doanh nghiệp sử dụng dịch vụ TVM, bao gồm 200 doanh nghiệp tại TPHCM và 100 doanh nghiệp tại Hà Nội Mẫu nghiên cứu được lựa chọn dựa trên tiêu chí loại hình doanh nghiệp, gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Sau khi thu thập, 41 mẫu bị loại do thiếu thông tin, dẫn đến kích thước mẫu cuối cùng là n = 259, với tỉ lệ hồi đáp khoảng 85% Tỉ lệ mẫu phân bố theo địa phương là 63% tại TPHCM và 37% tại Hà Nội; phân theo loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp ngoài nhà nước (42%), doanh nghiệp nhà nước (26%) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (32%) Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS để phân tích các yếu tố thống kê cơ bản.
Nguồn thông tin nghiên cứu:
Thông tin thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm Tổng Cục Thống kê, báo chí, tạp chí chuyên ngành, internet, cũng như dữ liệu từ Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam (VAA) và Hội Marketing Việt Nam, cùng với các nghiên cứu liên quan.
Bài viết này tập trung vào việc thu thập thông tin sơ cấp từ các chuyên gia và doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội về dịch vụ tư vấn marketing Nghiên cứu bao gồm các vấn đề như quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ, các hình thức tư vấn và loại hình dịch vụ marketing, mức độ đầu tư vào hoạt động marketing và nguồn nhân lực, cũng như cách tiếp cận khách hàng và thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt Đồng thời, thông tin từ doanh nghiệp sử dụng dịch vụ sẽ tập trung vào nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ, khả năng chi trả, mức độ sử dụng, đánh giá chất lượng dịch vụ, lý do sử dụng hoặc không sử dụng dịch vụ, và nguồn thông tin quyết định chọn nhà tư vấn marketing.
Tính mới của đề tài
5.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy thiếu một nghiên cứu toàn diện và hệ thống về lĩnh vực này Các nghiên cứu trước đây chủ yếu chỉ tập trung vào việc đánh giá tổng quát thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh, dịch vụ tư vấn chung và dịch vụ quảng cáo Luận án này sẽ tập trung vào các nghiên cứu có nội dung liên quan đến vấn đề này.
Nghiên cứu “Dịch vụ phát triển kinh doanh ở Việt Nam” của Alexandra (2002) được thực hiện bởi ba tổ chức: Phòng Thương Mại Công Nghiệp Việt Nam (VCCI), Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức (GTZ) và Swisscontact, tập trung vào 14 dịch vụ kinh doanh chính như kế toán, đào tạo quản lý, tư vấn pháp lý, quảng cáo, nghiên cứu thị trường và tư vấn công nghệ Nghiên cứu được thực hiện tại 6 tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương, nhằm phân tích nhu cầu thị trường dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp Kết quả cho thấy thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh đang tăng trưởng mạnh mẽ, với nhiều tiềm năng trong tương lai, đặc biệt là trong lĩnh vực tư vấn marketing.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Từ năm 2000 đến 2002, ngành dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng khoảng 10% mỗi năm và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới Điều này tạo nền tảng cho luận án nghiên cứu sâu về dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam.
Nghiên cứu "Tư vấn sản xuất, kinh doanh dịch vụ-mô hình và giải pháp" của GS.TS Tô Xuân Dân, TS Hàn Mạnh Tiến, TS Nguyễn Thành Công (2002) phân tích cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển tư vấn sản xuất, kinh doanh dịch vụ tại Hà Nội Tài liệu chỉ ra những khó khăn và thách thức trong hoạt động dịch vụ này, đồng thời phản ánh những điểm tương đồng với tình hình tại Việt Nam Dựa trên thực trạng, nghiên cứu đề xuất mô hình quản lý nhà nước và các giải pháp thiết yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển các loại hình tư vấn sản xuất, kinh doanh dịch vụ ở Hà Nội, mặc dù chưa đi sâu vào lĩnh vực tư vấn cụ thể nào.
Dựa trên nghiên cứu này, luận án rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam
- “ Môi trường pháp lý cho dịch vụ phát triển kinh doanh tại Việt Nam” -(The
Legal Environment for Business Development Services in Vietnam) (2003) [85] cuûa
Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương-CIEM và Công ty Vision &
Nghiên cứu này phân tích môi trường pháp luật ảnh hưởng đến dịch vụ phát triển kinh doanh (DVPTKD) tại Việt Nam, tập trung vào lĩnh vực sở hữu trí tuệ, kế toán, kiểm toán và đào tạo Bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về thị trường DVPTKD, đồng thời chỉ ra những hạn chế pháp lý ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường này, đặc biệt là Nghị định 87/2002/NĐ-CP quy định về hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ tư vấn Nghiên cứu sẽ là cơ sở cho luận án phân tích môi trường pháp lý đối với dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam.
Management consulting is an emerging business service in Vietnam's private sector, as highlighted by authors Nguyễn Văn Lân and Nguyễn This innovative approach aims to enhance organizational efficiency and effectiveness, addressing the growing demand for professional guidance in the rapidly evolving market As businesses seek to navigate challenges and seize opportunities, management consulting provides essential strategies and insights, positioning itself as a vital resource for sustainable growth and competitive advantage in Vietnam's economy.
Phương Quỳnh Trang (2004) đã khảo sát tình hình cung ứng dịch vụ tư vấn quản lý tại Việt Nam, nêu rõ những thách thức và khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải trong lĩnh vực tư vấn nguồn nhân lực, marketing, tài chính và kế toán Nghiên cứu chỉ phác thảo một số rào cản đối với dịch vụ tư vấn và những điểm yếu của các nhà tư vấn, mà chưa đi sâu vào phân tích tình hình cung ứng và nhu cầu dịch vụ tư vấn marketing Từ những kết quả nghiên cứu này, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho luận án.
-“Dịch vụ phát triển kinh doanh ở Thành phố Hồ Chí Minh-Thực trạng &
Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của Nguyễn Đông Phong và Bùi Thanh Tráng (2004) tại Trường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, mã số CS-2004-23, phân tích tình hình cung ứng dịch vụ phát triển kinh doanh như tư vấn marketing, pháp luật, kế toán, tài chính và thuế, cũng như các dịch vụ liên quan đến ISO, SA 8000, HACCP, quản trị nguồn nhân lực, đào tạo, tư vấn kỹ thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu và quản trị chất lượng Nghiên cứu cũng khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại TP.HCM, cung cấp cái nhìn tổng quát về thực trạng cung cầu thị trường dịch vụ này tại khu vực.
Tải luận văn chất lượng tại địa chỉ luanvanchat@agmail.com, đây là cơ sở để nghiên cứu sâu hơn về các loại hình dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh tại Việt Nam.
Hoạt động quảng cáo tại Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội Nghiên cứu này tập trung vào thực trạng quảng cáo hiện nay, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của các chiến dịch quảng cáo Đồng thời, bài viết cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quảng cáo, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của thành phố Những kiến thức và kinh nghiệm từ nghiên cứu sẽ là cơ sở quan trọng cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng chiến lược quảng cáo hiệu quả hơn.
Hồ Chí Minh, mã số CS-2005-57 của Bùi Thanh Tráng và Nguyễn Đông Phong
Nghiên cứu năm 2006 phân tích sự phát triển dịch vụ quảng cáo tại TPHCM, khảo sát tình hình cung ứng và nhu cầu sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp Kết quả cho thấy thị trường quảng cáo TPHCM đang phát triển nhưng còn nhiều hạn chế về năng lực chuyên môn và kinh nghiệm cung ứng, trong khi mức độ sử dụng dịch vụ vẫn thấp do chất lượng chưa đáp ứng nhu cầu Dựa trên thực trạng này, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ quảng cáo, cung cấp bài học kinh nghiệm quý giá cho các nghiên cứu về dịch vụ marketing tại Việt Nam.
Các nghiên cứu và bài viết liên quan đến lĩnh vực luận án chủ yếu tập trung vào dịch vụ phát triển kinh doanh Những nghiên cứu này sẽ được kế thừa và tiếp tục phát triển nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ tư vấn phát triển môi trường (DVTVM) Điều này sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển DVTVM tại Việt Nam.
5.2 Những kết quả mới của đề tài
Luận án này tiến hành nghiên cứu sâu rộng về dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam, thể hiện tính mới ở cả khía cạnh lý thuyết và thực tiễn.
- Phân tích bản chất, đặc điểm và loại hình của dịch vụ tư vấn marketing
Nghiên cứu đã vận dụng lý thuyết cung cầu hàng hóa dịch vụ của Paul A
Samuelson và Willia D Nordhaus (1989) đã kết hợp các mô hình nghiên cứu về mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến cung cầu và xu hướng tiêu dùng để xây dựng mô hình phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam Mô hình này tạo nền tảng cho việc phân tích, xây dựng định hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp.
Nghiên cứu kinh nghiệm và phân tích thành công cũng như hạn chế của dịch vụ tư vấn marketing tại các quốc gia châu Á có điều kiện kinh tế-xã hội tương đồng với Việt Nam, nhằm rút ra bài học cho doanh nghiệp cung ứng và vai trò của chính phủ Những kết quả này sẽ làm cơ sở để áp dụng vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết cấu đề tài
Nội dung nghiên cứu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1 của bài viết tập trung vào cơ sở khoa học của dịch vụ tư vấn marketing, bao gồm việc nghiên cứu khái niệm, bản chất, đặc điểm và phân loại các dịch vụ này Bên cạnh đó, lý thuyết cung cầu hàng hóa dịch vụ và các mô hình phân tích nhân tố được đề cập nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ tư vấn marketing Cuối cùng, chương này cũng phân tích kinh nghiệm phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại một số quốc gia, cung cấp cái nhìn tổng quan và thực tiễn cho lĩnh vực này.
Chương 2 của bài viết tập trung vào việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam Nội dung chương này dựa trên cơ sở khoa học, xem xét môi trường kinh tế và pháp lý tác động đến dịch vụ tư vấn marketing Bên cạnh đó, chương cũng khảo sát quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ này, đồng thời đánh giá khả năng cung ứng và nhu cầu thị trường Cuối cùng, mô hình hồi quy tuyến tính được áp dụng để phân tích các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam.
DVTVM tại Việt Nam, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa của dịch vụ này
Chương 3 của bài viết tập trung vào việc phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam, kết hợp giữa cơ sở khoa học, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn trong nước Chương này phân tích các quan điểm và cơ sở đề xuất, từ đó xây dựng định hướng và giải pháp cho hai nhóm đối tượng chính: doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ Ngoài ra, các kiến nghị đối với nhà nước và các hiệp hội ngành nghề cũng được xem xét nhằm nâng cao hiệu quả của dịch vụ tư vấn marketing trong bối cảnh Việt Nam.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TƯ VẤN MARKETING
Khái niệm, đặc điểm, và nguyên tắc cơ bản để phát triển DVTVM
Dịch vụ là một lĩnh vực phong phú và đa dạng, phát triển không ngừng theo sự tiến bộ của kinh tế xã hội Trong các nước phát triển, ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng quốc gia Dịch vụ không chỉ là yếu tố thiết yếu trong quá trình sản xuất hàng hóa mà còn làm tăng giá trị và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Có nhiều định nghĩa về dịch vụ, trong đó, từ điển Oxford mô tả dịch vụ là ngành cung cấp sản phẩm vô hình, trong khi từ điển trực tuyến định nghĩa dịch vụ là hành động thực hiện trách nhiệm hoặc công việc của một đối tượng cho một đối tượng khác.
Theo Zeithaml và Bitner (1996), dịch vụ là một ngành kinh tế không tạo ra sản phẩm vật chất hữu hình, mà mang lại lợi ích kinh tế Quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời và không thể lưu trữ Các định nghĩa về dịch vụ đều nhấn mạnh rằng dịch vụ là sản phẩm của lao động sản xuất, với những đặc điểm riêng biệt.
- Mang tính vô hình không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu trữ được
- Quá trình sản xuất và tiêu thụ xảy ra đồng thời, nghĩa là có sự giao tiếp giữa người cung cấp và người sử dụng
Dịch vụ đa chủng mang lại sự độc đáo cho từng sản phẩm, vì quy trình sản xuất được điều chỉnh riêng cho mỗi khách hàng Mỗi khách hàng có những phản ứng và hành động riêng, tạo ra những tương tác độc nhất giữa họ và nhà cung cấp dịch vụ Sự khác biệt trong cách giao tiếp cũng góp phần làm cho mỗi trải nghiệm trở nên đặc biệt.
Dịch vụ không tạo ra sản phẩm hàng hóa như nông sản hay hàng công nghiệp, nhưng chúng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp Trong quá trình sản xuất, các dịch vụ này tham gia vào từng giai đoạn, do đó chi phí của chúng được tính vào giá trị hàng hóa cuối cùng.
Quá trình cung cấp dịch vụ phản ánh mối quan hệ giữa bên cung và bên cầu, trong đó dịch vụ mang lại giá trị và giá trị sử dụng Sự tác động của quy luật giá trị và quan hệ cung cầu đóng vai trò quan trọng trong việc xác định giá trị của dịch vụ.
Dịch vụ được định nghĩa là sản phẩm của lao động, không có hình thức vật thể, với quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra song song, nhằm đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng.
Trong nền kinh tế quốc dân tại Việt Nam và toàn cầu, các ngành kinh tế được phân chia thành ba nhóm lớn: nông nghiệp (bao gồm nông-lâm-thủy sản), công nghiệp (hay công nghiệp-xây dựng) và dịch vụ Việc phân loại này giúp hiểu rõ hơn về cơ cấu và vai trò của từng ngành trong phát triển kinh tế.
Tải LUAN VAN CHAT LUONG tại địa chỉ luanvanchat@agmail.com Quá trình sản xuất nông nghiệp và công nghiệp có sự tham gia của nhiều dịch vụ như tài chính, thương mại, vận tải, bảo hiểm, tiếp thị và nghiên cứu thị trường Theo phân loại của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), dịch vụ bao gồm mọi loại hình dịch vụ, ngoại trừ những dịch vụ thuộc chức năng của cơ quan chính phủ, tức là những dịch vụ không mang tính thương mại và không cạnh tranh với nhà cung cấp khác Dịch vụ được phân thành 155 phân ngành thuộc 12 nhóm, với nhóm cuối cùng bao gồm những dịch vụ chưa được đề cập trong 11 nhóm trước.
1 Dịch vụ kinh doanh: gồm dịch vụ nghề nghiệp, máy tính và liên quan, nghiên cứu và phát triển, bất động sản, cho thuê, dịch vụ kinh doanh khác (quảng cáo, nghiên cứu thị trường, tiếp thị, tư vấn, )
2 Dịch vụ thông tin, liên lạc: gồm bưu điện, chuyển phát nhanh, viễn thông, nghe nhìn, dịch vụ khác
3 Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật: gồm xây dựng nhà cửa, lắp đặt máy móc, hoàn thiện công trình, dịch vụ khác
4 Dịch vụ phân phối: gồm đại lý hoa hồng, bán buôn, bán lẻ, nhượng quyền, dịch vụ khác
5 Dịch vụ đào tạo: gồm tiểu học, trung học, đại học, dịch vụ đào tạo khác
6 Dịch vụ môi trường: gồm thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh, dịch vụ khác
7 Dịch vụ tài chính: gồm tất cả bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, ngân hàng, tài chính, dịch vụ khác
8 Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và xã hội: gồm chữa bệnh, bệnh viện, dịch vụ xã hội và các dịch vụ khác
9 Dịch vụ du lịch và liên quan: gồm khách sạn, nhà hàng, đại lý và điều hành du lịch, hướng dẫn du lịch và dịch vụ khác
10 Dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao: gồm giải trí, tin tức, kiến trúc, bảo tàng, thể thao và các giải trí khác
11 Dịch vụ vận tải: gồm vận tải đường biển, thủy nội địa, hàng không, đường sắt, ô tô, đường ống, vận tải đa phương thức, dịch vụ vận tải khác
12 Dịch vụ khác: bao gồm bất kỳ loại dịch vụ nào chưa được nêu ở trên
1.1.2 Khái niệm dịch vụ tư vấn
Theo phân loại của WTO, tư vấn thuộc nhóm dịch vụ kinh doanh và đã tồn tại và phát triển từ những năm 30 của thế kỷ 20, không chỉ ở Mỹ, Anh mà còn ở Pháp, Đức, Nhật và nhiều nước công nghiệp khác Sau Thế chiến thứ 2, sự phát triển nhanh chóng của các nước công nghiệp hóa đã thúc đẩy hoạt động dịch vụ tư vấn Từ định nghĩa của từ điển Oxford, tư vấn có nghĩa là trao lời khuyên, và không mang tính chất mệnh lệnh cho cá nhân hay tổ chức nào Bản chất của tư vấn là “cung cấp lời khuyên”, giá trị của lời khuyên phụ thuộc vào người cung cấp, khả năng tiếp nhận của người sử dụng, và sự tương tác giữa họ Theo từ điển trực tuyến, tư vấn là việc cung cấp lời khuyên chuyên nghiệp.
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa về tư vấn, nhìn chung có hai quan điểm:
Theo quan điểm của trường phái chức năng, tư vấn được hiểu rộng rãi như một hoạt động hoặc chức năng hỗ trợ Steele (1975) định nghĩa rằng hoạt động tư vấn bao gồm việc cung cấp lời khuyên về nội dung và phương pháp giải quyết vấn đề, trong đó người tư vấn không chịu trách nhiệm thực hiện công việc mà chỉ hỗ trợ người sử dụng lời khuyên Dịch vụ tư vấn thường đề cập đến các tổ chức hoặc cá nhân cung cấp giải pháp nhằm giúp đỡ người khác.
Tải xuống LUAN VAN CHAT LUONG tại địa chỉ: luanvanchat@gmail.com Quyết định thực hiện các phương án tư vấn phụ thuộc vào người nhận, và việc áp dụng lời khuyên hoàn toàn do họ lựa chọn Tư vấn có thể được xem như hình thức thu thập ý kiến chuyên gia về nhiều vấn đề, từ đơn giản đến phức tạp, áp dụng trong các lĩnh vực khác nhau như sức khỏe, tâm lý, giáo dục, pháp lý, kinh doanh, đầu tư, tài chính, và chiến lược Tư vấn có thể được thực hiện nội bộ hoặc bên ngoài, tùy thuộc vào nhu cầu của từng tổ chức hay cá nhân.
Cách tiếp cận thứ hai nhìn nhận dịch vụ tư vấn như một nghề chuyên môn Theo quan điểm của Greiner và Metger, dịch vụ tư vấn được xem xét trong nghĩa hẹp, nhấn mạnh vào tính chuyên nghiệp và vai trò của người tư vấn.
Tư vấn được định nghĩa là dịch vụ cung cấp lời khuyên dựa trên hợp đồng, với các chuyên viên hỗ trợ tổ chức trong việc xác định vấn đề quản lý, phân tích và đề xuất giải pháp Dịch vụ này không chỉ cung cấp thông tin mà còn xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của bên cung cấp Sự thành công của tư vấn được đánh giá qua kết quả ứng dụng vào thực tiễn Tư vấn được coi là một nghề nghiệp trí tuệ, tập trung vào việc phát hiện vấn đề, phân tích và lựa chọn giải pháp chiến lược phù hợp, đồng thời hỗ trợ khách hàng thực hiện các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Tư vấn là dịch vụ chuyên nghiệp độc lập, hỗ trợ các nhà quản lý và tổ chức đạt được mục tiêu bằng cách giải quyết vấn đề trong quản lý và kinh doanh Dịch vụ này giúp xác định và nắm bắt cơ hội, phát triển kỹ năng, cũng như thực hiện những thay đổi cần thiết.
Cơ sở khoa học phát triển dịch vụ tư vấn marketing
1.2.1.1 Lý thuyết cầu về xúc tiến nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn marketing
Dịch vụ tư vấn marketing là một loại hàng hóa đặc biệt, chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu giống như các loại hàng hóa khác Theo Paul A Samuelson và William D Nordhaus (1989), luôn tồn tại mối quan hệ giữa giá cả thị trường và khối lượng cầu của mặt hàng Điều này cho thấy quy luật cầu: khi giá của hàng hóa và dịch vụ tăng lên (trong khi các yếu tố khác không thay đổi), lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ đó sẽ giảm xuống, với các điều kiện khác giữ nguyên.
Bốn yếu tố chính ảnh hưởng đến cầu dịch vụ bao gồm thu nhập, quy mô thị trường, sản phẩm thay thế và sở thích của người tiêu dùng Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu cạnh tranh, các yếu tố này thường xuyên biến đổi, dẫn đến sự thay đổi trong nhu cầu dịch vụ Hiện nay, tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, doanh nghiệp ngày càng chú trọng đến việc sử dụng dịch vụ tư vấn marketing để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Mức độ sử dụng dịch vụ tư vấn marketing phụ thuộc vào khả năng tài chính và chất lượng dịch vụ Để kích cầu và phát triển lĩnh vực này, cần xem xét các yếu tố quan trọng liên quan đến nhu cầu và sự hài lòng của khách hàng.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao thu nhập là yếu tố quan trọng giúp cải thiện năng lực cạnh tranh và phát triển hoạt động kinh doanh hiệu quả Khi doanh nghiệp tăng cường hiệu suất, nguồn thu nhập và tích lũy sẽ tăng lên, từ đó đảm bảo khả năng chi trả cho các dịch vụ thuê ngoài Điều này cũng cho phép doanh nghiệp tận dụng nhiều dịch vụ tư vấn marketing chuyên nghiệp để tối ưu hóa hoạt động kinh doanh.
Khi nền kinh tế phát triển, quy mô thị trường ngày càng mở rộng, dẫn đến sự gia tăng số lượng doanh nghiệp được thành lập và mở rộng hoạt động kinh doanh Điều này tạo ra nhu cầu cao hơn về dịch vụ tư vấn, đặc biệt trong việc xây dựng thương hiệu.
Dịch vụ tư vấn thuê ngoài cần chứng minh hiệu quả rõ ràng để người sử dụng nhận thấy lợi ích vượt trội so với việc sử dụng nguồn lực nội bộ Việc này không chỉ giúp tăng cường sự tin tưởng mà còn khẳng định giá trị của dịch vụ thuê ngoài trong việc tối ưu hóa quy trình và tiết kiệm chi phí.
Thay đổi thói quen và sở thích trong các quốc gia đang phát triển cho thấy doanh nghiệp thường có xu hướng tự thực hiện dịch vụ thay vì thuê ngoài, do lo ngại về việc tiết lộ bí mật kinh doanh Tuy nhiên, khi có sự thay đổi trong văn hóa kinh doanh, nhu cầu sử dụng dịch vụ marketing thuê ngoài sẽ gia tăng đáng kể.
Đánh giá nhu cầu sử dụng dịch vụ cần dựa trên các yếu tố quan trọng như: đối tượng sử dụng dịch vụ là ai, loại dịch vụ nào được ưa chuộng và loại nào ít được sử dụng hoặc không được sử dụng Bên cạnh đó, cần xem xét kỳ vọng của người dùng đối với dịch vụ để có cái nhìn tổng quan và chính xác hơn về thị trường.
Người sử dụng nhận thức và hiểu biết về dịch vụ ở mức độ nào là yếu tố quan trọng để đánh giá nhu cầu thị trường Nhu cầu này có thể lớn, nhưng cũng cần xem xét lý do tại sao họ chọn sử dụng hay không sử dụng dịch vụ Khả năng chi trả của người dùng cho các dịch vụ là một yếu tố quyết định, cùng với mong muốn về cách thức cung cấp dịch vụ Người sử dụng cũng có những yêu cầu cụ thể về các đặc điểm của dịch vụ Cuối cùng, mức độ hài lòng của họ đối với tình hình cung hiện tại sẽ phản ánh sự phù hợp giữa dịch vụ và nhu cầu của họ.
Thu thập các thông tin này sẽ giúp chúng ta hình thành bức tranh về cầu của thị trường, từ đó xây dựng các biện pháp kích cầu
1.2.1.2 Lý thuyết cung về phỏt triển dịch vụù tư vấn marketing
Theo Paul A Samuelson và William D Nordhaus (1989), cung hàng hóa dịch vụ là mối quan hệ giữa giá cả thị trường và khối lượng hàng hóa dịch vụ mà nhà sản xuất sẵn sàng cung cấp Điều này cho thấy mức giá nào sẽ khiến nhà cung cấp dịch vụ cung cấp tối đa hoặc ở một mức độ giới hạn nhất định, trong khi các điều kiện khác giữ nguyên.
Mức cung dịch vụ tư vấn marketing chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm chi phí sản xuất, chi phí đầu vào, nhu cầu thị trường và chính sách của chính phủ Để phát triển cung, cần xem xét các yếu tố này một cách toàn diện.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, giúp giảm chi phí đầu vào, từ đó làm tăng lợi nhuận cho các nhà cung cấp dịch vụ Điều này tạo điều kiện thuận lợi để các nhà cung cấp mở rộng lượng dịch vụ ra thị trường.
Để kích cầu sử dụng dịch vụ, nhà tư vấn cần đảm bảo chất lượng dịch vụ cao và chứng minh giá trị của việc sử dụng dịch vụ Do đó, nhà cung cấp phải có đủ năng lực và khả năng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ nên đóng vai trò là những người xúc tiến phát triển dịch vụ, thay vì trở thành nhà cung cấp trực tiếp Việc này giúp tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững và khuyến khích sự sáng tạo trong lĩnh vực dịch vụ.
Để đánh giá khả năng của nhà cung cấp dịch vụ tư vấn marketing, cần xem xét các yếu tố sau: Ai là những nhà cung cấp dịch vụ trên thị trường? Các dịch vụ cụ thể nào được cung cấp? Điểm mạnh và điểm yếu của từng nhà cung cấp là gì? Đồng thời, cần phân tích cơ hội và thách thức mà dịch vụ này đang đối mặt.
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển DVTVM tại một số quốc gia
Dịch vụ tư vấn marketing đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, và những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển có điều kiện kinh tế-văn hóa xã hội tương đồng với Việt Nam rất hữu ích cho nền kinh tế nước ta Những thành công trong phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại các quốc gia này cung cấp thông tin quý giá cho việc định hướng chiến lược phát triển ngành dịch vụ tư vấn tại Việt Nam.
Luận án này phân tích các yếu tố quyết định sự phát triển của dịch vụ tư vấn marketing tại một số quốc gia trong khu vực Châu Á.
1.3.1 Kinh nghiệm phát triển DVTVM của Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tư vấn marketing Ban đầu, dịch vụ tư vấn này phụ thuộc nhiều vào các công ty nước ngoài, nhưng từ thập niên 70, các tổ chức tư vấn nội địa bắt đầu phát triển Giai đoạn này chứng kiến sự phát triển song song của dịch vụ tư vấn marketing với các ngành công nghiệp khác Một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của dịch vụ tư vấn marketing tại Nhật Bản là sự gia tăng nhu cầu và chất lượng dịch vụ trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu.
Nhật Bản chú trọng phát triển dịch vụ tư vấn marketing, coi đây là một ngành nghề quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân Chính phủ đã hỗ trợ các công ty tư vấn marketing thông qua việc cung cấp kỹ thuật và thông tin, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các công ty nước ngoài Đồng thời, chính phủ cũng tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và các viện nghiên cứu tư nhân để thúc đẩy sự phát triển của ngành này.
Tải LUAN VAN CHAT LUONG tại địa chỉ: luanvanchat@agmail.com nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tư nhân Ngoài ra, các công ty tư vấn đã hợp tác để thành lập các hiệp hội tư vấn, tạo ra một mạng lưới hỗ trợ lẫn nhau.
Về phía doanh nghiệp cung ứng DVTVM:
Các công ty tư vấn marketing tại Nhật Bản có sự gắn kết chặt chẽ với các tập đoàn công nghiệp lớn như Toyota, Honda, Mitsubishi, Isuzu, Sony và Nisso Iwai Khác với mô hình ở Mỹ, phần lớn các công ty tư vấn mạnh của Nhật Bản không trở thành những tập đoàn độc lập mà hoạt động như một bộ phận của các tập đoàn lớn, từ đó nâng cao năng lực và khả năng tư vấn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng Sự gắn kết này giúp các công ty tư vấn marketing phát triển nhanh chóng và dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước ngoài, đặc biệt là ở các nước kém phát triển Dịch vụ tư vấn marketing của Nhật Bản hiện nay đạt được mức tương đồng với các nước châu Âu, mang lại bài học quý giá cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong lĩnh vực marketing và kỹ thuật, các công ty tư vấn Nhật Bản thường hỗ trợ các khoản viện trợ phát triển và chương trình hợp tác của chính phủ Nhật Bản dành cho các nước đang phát triển Họ cung cấp công nghệ, tư vấn quản lý và marketing, đồng thời giám sát chất lượng, tiến độ và hiệu quả của các dự án này.
Nền kinh tế phát triển nhanh chóng đã tạo ra nhiều cơ hội cho các công ty tư vấn marketing, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nguồn nhân lực và cải tiến chất lượng dịch vụ Cùng với sự gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ, sự cân bằng giữa cung và cầu trong lĩnh vực tư vấn marketing đã góp phần vào sự phát triển liên tục của thị trường này.
Doanh nghiệp Nhật Bản nổi bật với tính cộng đồng cao, dẫn đến mối liên kết chặt chẽ giữa các công ty Họ thường không ngần ngại sử dụng dịch vụ tư vấn bên ngoài, bất chấp lo ngại về việc rò rỉ thông tin Điều này mở ra cơ hội phát triển cho thị trường dịch vụ tư vấn marketing.
1.3.2 Kinh nghiệm phát triển DVTVM của Trung Quốc
Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm trên 9% trong suốt 25 năm qua, trở thành một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới với sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ Sau hơn 5 năm gia nhập WTO, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng nhanh, với sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng trưởng mạnh mẽ ở lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp Đặc biệt, lĩnh vực thương mại-dịch vụ, trong đó có dịch vụ tư vấn marketing, đã có những bước phát triển đột phá Những thành công này cung cấp bài học quý giá cho Việt Nam trong việc định hướng chiến lược phát triển dịch vụ tư vấn marketing Các nhân tố chính góp phần vào sự phát triển này có thể được tóm tắt như sau:
Chính sách mở cửa và ưu đãi của chính phủ đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều công ty tư vấn, đặc biệt là trong lĩnh vực marketing và quảng cáo, giúp các doanh nghiệp này phát triển mạnh mẽ về quy mô và tầm cỡ.
Để đạt được sự phát triển kinh tế bền vững, Trung Quốc đã triển khai chiến lược “vươn ra nước ngoài” bằng cách gỡ bỏ các rào cản đầu tư cho doanh nghiệp trong nước Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các quốc gia châu Á và châu Phi, tạo cơ hội cho các công ty tư vấn marketing Trung Quốc mở rộng ra thị trường quốc tế và khẳng định khả năng cũng như kinh nghiệm của họ.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Chính phủ đang tích cực hỗ trợ để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, điều này đã dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng và mở ra nhiều cơ hội cho nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn marketing Các công ty ngày càng nhận thức rõ vai trò quan trọng và những lợi ích mà dịch vụ tư vấn marketing mang lại.
Về phía doanh nghiệp cung ứng DVTVM:
Các công ty tư vấn marketing tại Trung Quốc đã hợp tác với các công ty nước ngoài để học hỏi và tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ phương Tây Hiện nay, các công ty này có khả năng hoạt động độc lập trong nhiều lĩnh vực như tư vấn chiến lược, khuyến mãi, tổ chức sự kiện và quan hệ công chúng, với trình độ công nghệ cao trong quảng cáo Họ có đủ năng lực và kinh nghiệm để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, đồng thời xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu rộng rãi và thường xuyên cập nhật Các công ty tư vấn marketing lớn tại Trung Quốc hoạt động trên nguyên tắc độc lập, khách quan và chuyên nghiệp, tạo dựng uy tín và độ tin cậy cao trong việc cung cấp dịch vụ, đạt được nhiều thành công trong ngành.
Kể từ khi gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt trong ngành dịch vụ Sự mở cửa của lĩnh vực này đã thu hút nhiều công ty đa quốc gia, đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý từ các nước phát triển Điều này không chỉ nâng cao chất lượng dịch vụ mà còn cải thiện hiệu quả của các chiến lược marketing tại Trung Quốc.
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TƯ VẤN MARKETING TẠI VIỆT NAM
Môi trường kinh tế và pháp luật tác động đến DVTVM tại Việt Nam
Phát triển kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển tổng thể của các ngành kinh tế, với tốc độ phát triển liên quan đến cơ cấu và sự chuyển dịch của các ngành theo từng giai đoạn Việc chuyển dịch cơ cấu đúng quy luật sẽ tạo ra tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của từng nhóm ngành trong nền kinh tế Trong hơn 20 năm đổi mới, cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch theo hướng tăng cường tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến dịch vụ tư vấn marketing có thể được phân tích qua các giai đoạn cụ thể.
2.1.1.1 Kinh tế Việt Nam và những ảnh hưởng đến DVTVM giai đoạn 1986 -1995
Kể từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện chính sách “đổi mới” để cải cách toàn bộ hệ thống quản lý kinh tế, chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Giai đoạn 1986-1990, với nhiều biện pháp cải cách kinh tế, đã mang lại những hiệu quả tích cực, giúp đất nước thoát dần khỏi cuộc khủng hoảng.
Trong giai đoạn hồi phục, kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức do nguồn vốn đầu tư giảm, viện trợ cắt giảm, thị trường xuất khẩu thu hẹp và lạm phát cao Đại hội Đảng lần VII (1991) đã khẳng định tiếp tục đường lối đổi mới để ổn định và phát triển kinh tế Từ năm 1986 đến 1990, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,5%/năm, đánh dấu thành công bước đầu của công cuộc đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi lĩnh vực dịch vụ vẫn chưa phát triển.
Chủ trương kết nối thị trường trong nước với thị trường quốc tế, mở rộng hợp tác song phương và đa phương, đồng thời thúc đẩy hội nhập kinh tế toàn cầu từ năm 1991 đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Năm 1995, Việt Nam thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), đồng thời mở rộng hợp tác với các tổ chức khu vực châu Á-Thái Bình Dương Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và gia nhập Khu mậu dịch tự do AFTA Đặc biệt, từ năm 1991, nhà nước cho phép khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào sản xuất và kinh doanh, góp phần thay đổi cơ cấu các thành phần kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế và khuyến khích tham gia vào sản xuất nông nghiệp, dẫn đến những chuyển biến tích cực trong khu vực nông nghiệp.
Giai đoạn 1991-1995, nền kinh tế Việt Nam trải qua sự ổn định và phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,2% mỗi năm Cơ cấu ngành kinh tế cho thấy nông nghiệp giảm từ 40,5% vào năm 1991 xuống còn 27,2% vào năm 1995, trong khi công nghiệp và xây dựng tăng từ 23,8% lên 28,76% Đồng thời, lĩnh vực dịch vụ cũng ghi nhận sự tăng trưởng từ 35,72%.
Từ năm 1991 đến 1995, ngành dịch vụ đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ với tỷ lệ tăng trưởng bình quân đạt 8,6%/năm, đóng góp 40,7% vào GDP Cơ cấu ngành dịch vụ đã có sự chuyển biến rõ rệt, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, khách sạn, nhà hàng và du lịch Tuy nhiên, các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ và tư vấn mới chỉ bắt đầu phát triển theo hướng thị trường Dịch vụ tư vấn marketing vẫn chưa phát triển mạnh do nhu cầu thấp, nhận thức về marketing của doanh nghiệp còn hạn chế, và thiếu nhân lực đủ khả năng cung cấp dịch vụ này.
2.1.1.2 Kinh tế Việt Nam từ năm 1996 và những ảnh hưởng đến DVTVM
Giai đoạn 1996-2000, kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998, dẫn đến sự giảm sút trong đầu tư nước ngoài và khó khăn trong thị trường xuất nhập khẩu Bên cạnh đó, các thiên tai lớn cũng đã góp phần làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam tích cực tham gia vào thị trường quốc tế thông qua việc gia nhập Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và là một trong những sáng lập viên của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) Quốc gia này cũng đã ký các hiệp định thương mại tự do với các nước ASEAN, bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand Năm 2000, Luật Doanh Nghiệp được ban hành, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân và nhấn mạnh sự công bằng giữa khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân.
Hiệp định Thương Mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ, ký năm 2000, thể hiện quyết tâm hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Trong giai đoạn này, tăng trưởng kinh tế đạt 6,96% mỗi năm Ngành dịch vụ gặp khó khăn, giảm từ 8,8% năm 1996 xuống còn 5,32% năm 2000, với tỉ trọng giảm từ 42,51% năm 1996 xuống 38,74% năm 2000.
Từ năm 1996 đến 2000, tốc độ tăng trưởng của ngành bất động sản và tư vấn giảm mạnh, từ 6,2% xuống 2,56%, chiếm 11% tổng ngành dịch vụ và 4,4% GDP Trong giai đoạn này, dịch vụ tư vấn marketing chưa đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh doanh, với mức đóng góp vào GDP rất thấp, chỉ mới bắt đầu hình thành vào cuối thập niên 90.
Giai đoạn 2001-2005, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nhờ vào việc cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, cùng với việc khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân.
Từ năm 2005, Việt Nam đã nỗ lực phát triển và cải tiến môi trường pháp lý nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, với việc hoàn thiện khung pháp luật, đặc biệt là các quy định kinh tế phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,5%/năm, trong đó ngành công nghiệp tăng 10,2%/năm, nông nghiệp 3,7%/năm và dịch vụ 7%/năm Đặc biệt, ngành dịch vụ lần đầu tiên đạt mức tăng trưởng 8,48%, vượt qua mức tăng trưởng GDP chung Tuy nhiên, theo đánh giá của Thời báo kinh tế Việt Nam, cơ cấu kinh tế của Việt Nam vẫn tương đương với các nước trong khu vực vào những năm 80, với tỷ trọng GDP của khu vực dịch vụ chỉ đạt 37%, thấp hơn so với Malaysia (41,9%), Thái Lan (49,8%) và Hàn Quốc (54,1%) Mặc dù khu vực dịch vụ đang được chú trọng, tỷ trọng GDP của lĩnh vực này vẫn thấp và tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ, đặc biệt là bất động sản và tư vấn, vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 2,87% vào năm 2005.
Từ 2005 đến nay mức tăng trưởng trên 8%, năm 2006 đạt 8,17%, và năm
Năm 2007, Việt Nam đạt mức tăng trưởng kinh tế 8,44%, kéo dài chuỗi tăng trưởng liên tục trong 27 năm Sự tăng trưởng này diễn ra ở ba nhóm ngành, với tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm, trong khi công nghiệp và dịch vụ trở thành động lực chính Ngành dịch vụ đã có sự tăng trưởng liên tục trong các năm 2005, 2006 và 2007, vượt qua mức tăng trưởng của GDP Đặc biệt, năm 2007 cũng đánh dấu sự kiện quan trọng khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho tất cả các ngành kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ Ngành dịch vụ tư vấn marketing đang mở ra nhiều cơ hội phát triển, đặc biệt khi nhu cầu marketing của doanh nghiệp ngày càng gia tăng trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu Ngành tư vấn marketing tại Việt Nam đã bắt đầu phát triển từ năm 2000, theo báo cáo của Alexandra (2002).
Phân tích tình hình hoạt động dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam
Dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam được cung cấp bởi các cá nhân và tổ chức, bao gồm doanh nghiệp, tổ chức chính phủ và phi chính phủ như Phòng Thương Mại và Công Nghiệp, các trung tâm xúc tiến đầu tư, hiệp hội ngành nghề và tổ chức quốc tế Các tổ chức chính phủ và phi chính phủ chủ yếu đóng vai trò xúc tiến và hỗ trợ phát triển dịch vụ này, không trực tiếp cung cấp dịch vụ thương mại Đối tượng sử dụng dịch vụ tư vấn marketing chủ yếu là doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức phi chính phủ và tổ chức nước ngoài, trong đó doanh nghiệp có nhu cầu cao hơn Đề tài nghiên cứu tập trung vào hai đối tượng chính là doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ, nhằm phân tích tình hình hoạt động dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam, bao gồm khả năng của doanh nghiệp cung ứng và nhu cầu của doanh nghiệp sử dụng.
2.2.1 Tổng quan quá trình phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam
Từ năm 1986, khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường, ngành tư vấn marketing đã bắt đầu hình thành và phát triển, đặc biệt từ năm 2000 Hoạt động marketing ngày càng trở nên quan trọng, trở thành vũ khí chiến lược giúp doanh nghiệp thành công trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam rất chú trọng đến marketing, đầu tư ngân sách lớn cho quảng bá thương hiệu, khuyến mãi và tổ chức sự kiện Để đối phó với cạnh tranh toàn cầu, doanh nghiệp trong nước cũng phải đầu tư mạnh mẽ vào xây dựng và phát triển thương hiệu Sự gia tăng nhu cầu dịch vụ tư vấn marketing đã dẫn đến sự bùng nổ của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này.
2.2.1.1 Số lượng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2006, cả nước có 2.608 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn marketing, chiếm 2% tổng số doanh nghiệp Hiệp Hội Quảng Cáo Việt Nam cho biết hiện nay có hơn 3.000 công ty tư vấn marketing và quảng cáo Nhờ sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, hầu hết các công ty đều đăng ký đầy đủ các chức năng như tư vấn thương hiệu, quảng cáo, khuyến mãi, tổ chức sự kiện, quan hệ công chúng, xây dựng hệ thống bán hàng và nghiên cứu thị trường Tuy nhiên, theo đánh giá của Hội Marketing Việt Nam, chỉ khoảng 50 công ty tư vấn marketing thực sự chuyên nghiệp và có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng.
Bảng 2.2: Số lượng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing
Tổng số DN cả nước 42,288 51,680 62,908 72,012
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Tỉ lệ DNTVM so với
Nguồn: Tổng Cục Thống kê- Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000 -2006, [74]
Số lượng công ty cung ứng dịch vụ tài chính, ngân hàng đã tăng nhanh chóng từ 228 doanh nghiệp vào năm 2000 lên 2.508 doanh nghiệp vào năm 2006, tức là gấp 11 lần Sự tăng trưởng này được phân chia theo loại hình doanh nghiệp, quy mô vốn, quy mô lao động và theo từng địa phương.
Sự tăng trưởng của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn và quản lý (DVTVM) theo loại hình doanh nghiệp cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Cụ thể, số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước đã tăng từ 214 vào năm 2000 lên 2.552 vào năm 2006, tương đương với mức tăng gấp 12 lần, chiếm 98% tổng số doanh nghiệp cung ứng DVTVM.
Từ năm 2000 đến 2006, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 7 lên 51, chiếm 2% tổng số doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tài chính và ngân hàng Doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm và chiếm tỷ lệ không đáng kể Trong khi đó, kinh tế tư nhân và doanh nghiệp FDI ngày càng tham gia nhiều hơn vào thị trường, thể hiện sự linh hoạt và cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Bảng 2.3: Số lượng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing phân theo loại hình doanh nghiệp
Nguồn: Tổng Cục Thống kê- Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000 -2006, [74]
Bảng 2.4: Cơ cấu doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing phân theo loại hình doanh nghiệp (%)
Nguồn: Tổng Cục Thống kê- Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000 - 2006, [74]
Trong lĩnh vực marketing, 98% doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn dưới 10 tỉ đồng, với hơn 75% doanh nghiệp trong giai đoạn 2000-2005 có vốn nhỏ hơn 1 tỉ đồng Hơn 20% doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỉ đồng, trong khi tỷ lệ doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ là không đáng kể Đến năm 2006, sự cạnh tranh gia tăng đã thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng quy mô và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở vật chất và thương hiệu, dẫn đến việc hơn 50% doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỉ đồng.
Bảng 2.5: Cơ cấu doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing phaân theo qui moâ voán (%)
Nguồn: Tổng Cục Thống kê- Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000 -2006, [74]
Số lượng doanh nghiệp tư vấn marketing được phân loại theo quy mô lao động, cho thấy rằng đây là dịch vụ “chất xám” cung cấp thông tin và khả năng phân tích Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý tình huống và đề xuất các giải pháp hiệu quả cho khách hàng.
Tải xuống LUAN VAN CHAT LUONG qua email: luanvanchat@gmail.com là rất quan trọng Nguồn nhân lực không chỉ bao gồm các chuyên viên tư vấn mà còn có đội ngũ lao động hỗ trợ trong việc triển khai các hoạt động marketing.
Bảng 2.6 : Cơ cấu doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing phân theo qui mô lao động (%)
Từ năm 2000 đến 2005, khoảng 20% doanh nghiệp có số lao động dưới 5 người, trong khi hơn 75% doanh nghiệp có từ 5-50 lao động Đến năm 2006, quy mô vốn và khối lượng công việc tăng, dẫn đến số lượng lao động cũng gia tăng, với hơn 90% doanh nghiệp có từ 5-50 nhân viên Xu hướng tăng số lượng lao động tại các doanh nghiệp tư vấn marketing là điều tất yếu, và nhu cầu về chuyên viên tư vấn dự kiến sẽ tăng nhanh trong những năm tới.
Số lượng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing phân bố không đồng đều theo địa phương, với phần lớn doanh nghiệp hoạt động chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chí Minh và Hà Nội, còn tại các tỉnh hầu như không đáng kể (bảng 2.7)
Bảng 2.7: Cơ cấu doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing phaõn theo ủũa phửụng (%)
13 Các tỉnh còn lại 2.6 9.1 7.7 10.9 10.3 11.1 9.0 Nguồn: Tổng Cục Thống kê- Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000 -2006, [74]
Doanh nghiệp tư vấn marketing tại thành phố Hồ Chí Minh nhiều nhất nước, trên 50%, và tốc độ tăng trưởng nhanh năm 2000 chỉ có 94 doanh nghiệp đến năm
Tính đến năm 2006, cả nước có 1.370 doanh nghiệp, trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm 15 lần so với năm 2000 Hà Nội đứng thứ hai với hơn 30% tổng số doanh nghiệp, tăng gấp 8 lần so với năm 2000, nhưng chỉ bằng một nửa số lượng doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh Đà Nẵng chỉ có 2,2% tổng số doanh nghiệp, trong khi các tỉnh còn lại có số lượng doanh nghiệp rất ít, gần như không đáng kể Điều này cho thấy thị trường dịch vụ tư vấn marketing chủ yếu phát triển tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong khi các tỉnh như Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau vẫn chưa phát triển dịch vụ này.
2.2.1.2 Doanh thu và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp cung ứng DVTVM
Sự phát triển của thị trường dịch vụ tư vấn marketing được thể hiện qua sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp, quy mô vốn, lao động và doanh thu Mặc dù doanh thu từ dịch vụ này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh thu cả nước, trung bình khoảng 0,3% mỗi năm, nhưng thị trường này vẫn rất tiềm năng với tốc độ tăng trưởng cao, đạt mức tăng trung bình trên 60% mỗi năm.
Bảng 2.8: Doanh thu của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing
DT cả nước (tỉ đồng) 810,076
DT cuûa DN TVM (tỉ đồng) 664
DT cuûa DN TVM so với DN cả nước (%) 0.08% 0.18% 0.18% 0.19% 0.27% 0.31% 0.34%
Tăng trưởng doanh thu cuûa DN TVM (%) - 152 35 23 74 44 34
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Nguồn: Tổng Cục Thống kê- Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000 – 2006,
Doanh thu của các doanh nghiệp tư vấn marketing đã tăng gấp 14 lần từ năm 2000 đến 2006, cho thấy nhu cầu đầu tư vào quảng bá thương hiệu, khuyến mãi, và tổ chức sự kiện đang gia tăng nhanh chóng Mức độ tăng trưởng doanh thu này có sự khác biệt lớn giữa các loại hình doanh nghiệp và các địa phương trên toàn quốc.
Doanh thu và tốc độ tăng trưởng doanh thu phân theo loại hình doanh nghiệp cho thấy doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 80% doanh thu với tốc độ tăng trưởng bình quân 65%/năm Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 20% doanh thu, tăng gấp 20 lần so với năm 2000 và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong các năm tới, mặc dù chỉ chiếm 2% số lượng doanh nghiệp Ngược lại, doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng giảm dần và chiếm tỉ lệ không đáng kể trong tổng doanh thu Khu vực kinh tế tư nhân và FDI đang phát triển nhanh chóng và chiếm lĩnh thị trường.
Hình 2.1: Thị phần của các loại hình doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tử vaỏn marketing (%)
Nguồn: Tổng Cục Thống kê- Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000 -2006,
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DVTVM tại Việt Nam…95
Để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ tư vấn marketing (DVTVM) tại Việt Nam, chúng ta dựa vào cơ sở khoa học đã trình bày ở chương một Theo lý thuyết cung cầu của Paul A Samuelson và William D Nordhaus (1989), cùng với mô hình của Field, Hitchin & Bear (2000), ba nhân tố chính tác động đến cung và cầu DVTVM bao gồm năng lực và khả năng của nhà cung ứng, nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ từ phía người tiêu dùng, và khả năng chi trả của họ Thêm vào đó, mô hình của Tung-Zong Chang và Albert (1994) cùng với mô hình giá trị khách hàng của Michael Porter (1985) chỉ ra rằng chất lượng cảm nhận và giá trị cảm nhận là hai nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến xu hướng tiêu dùng.
Năm nhân tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ tư vấn marketing (DVTVM) bao gồm: (1) Nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ, (2) Khả năng chi trả của doanh nghiệp sử dụng, (3) Năng lực và khả năng của doanh nghiệp cung ứng, (4) Chất lượng cảm nhận, và (5) Giá trị cảm nhận Bên cạnh đó, do đặc thù của từng quốc gia, cần xem xét thêm các yếu tố liên quan khác Tại Việt Nam, khảo sát cho thấy cả hai phía cung và cầu đều nhận định rằng nguồn thông tin dịch vụ và người cung ứng đầy đủ, chính xác sẽ giúp người sử dụng lựa chọn nhà cung ứng chất lượng, từ đó thúc đẩy nhu cầu sử dụng Do đó, nguồn thông tin dịch vụ và người cung ứng có vai trò quan trọng trong việc phát triển DVTVM tại Việt Nam Tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến DVTVM tại Việt Nam dựa trên những phân tích này.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Hình 2 10 : Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DVTVM Nguồn: Mô hình đề xuất từ kết quả nghiên cứu
Mô hình phân tích sáu nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ tài chính vi mô (DVTVM) tại Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn Nghiên cứu nhằm xác định mức độ tác động của từng nhân tố đến sự phát triển DVTVM, xác định nhân tố có ảnh hưởng mạnh nhất và phân tích mối tương quan giữa các nhân tố Tác giả đã thiết lập giả thuyết và tiến hành kiểm định mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố này.
Nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ tư vấn marketing phản ánh sự quan tâm của người tiêu dùng đối với dịch vụ này Khi doanh nghiệp quyết định sử dụng dịch vụ, họ không chỉ hiểu biết về nó mà còn cảm nhận được sự cần thiết để mang lại lợi ích cho mình Nhận thức này đóng vai trò quyết định trong hành vi mua sắm dịch vụ.
Khi khách hàng nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của dịch vụ tư vấn và quản lý, nhu cầu sử dụng dịch vụ này sẽ tăng cao, dẫn đến xu hướng phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn và quản lý.
DV và nhà cung ứng
Nhận thức tầm quan trọng của DVTVM
Giá trị cảm nhận của
DVTVM Khả năng chi trả của
Khả năng và năng lực cuỷa DN tử vaỏn
Chất lượng cảm nhận cuûa DVTVM
Xu hướng phát trieồn DVTVM
Khả năng chi trả của doanh nghiệp cho dịch vụ tư vấn marketing là yếu tố quyết định để hiện thực hóa nhu cầu sử dụng dịch vụ này Doanh nghiệp cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của dịch vụ tư vấn marketing, nhưng để đáp ứng nhu cầu, họ phải có khả năng chi trả tương xứng với giá trị và lợi ích mà dịch vụ mang lại.
Khả năng chi trả cao mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp, dẫn đến việc sử dụng dịch vụ thường xuyên hơn Điều này không chỉ tác động tích cực đến sự phát triển cung và cầu trên thị trường mà còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Giả thuyết H2 : Khi khách hàng có khả năng chi trả cao cho DVTVM thì nhu cầu sử dụng của họ cao và xu hướng phát triển DVTVM càng cao
Khả năng và năng lực của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing (DVTVM) không chỉ dựa vào kiến thức, kinh nghiệm và nguồn lực mà còn ở khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng Năng lực này quyết định chất lượng và giá trị dịch vụ, ảnh hưởng đến việc cung có đáp ứng được cầu hay không Khi cung ứng dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường, sẽ mở ra nhiều cơ hội tăng trưởng Người tiêu dùng chỉ sử dụng dịch vụ khi họ tin tưởng vào khả năng và năng lực của nhà cung ứng.
Dựa vào cơ sở này, giả thuyết là:
Khi khách hàng nhận thấy giá trị và năng lực của doanh nghiệp tư vấn marketing, nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn marketing sẽ tăng cao, dẫn đến xu hướng phát triển mạnh mẽ của ngành này.
Chất lượng cảm nhận dịch vụ tư vấn marketing là yếu tố quyết định cho việc khách hàng chi trả cho dịch vụ Đánh giá chất lượng dịch vụ thường khó khăn hơn so với sản phẩm hữu hình, và nó được xem xét qua hai khía cạnh chính: quá trình cung cấp dịch vụ và kết quả cuối cùng Chất lượng thực tế mà khách hàng nhận được và chất lượng mà họ cảm nhận thường không trùng khớp, thể hiện tính không đồng nhất của dịch vụ Yếu tố cảm nhận chất lượng này đóng vai trò quan trọng trong quyết định của khách hàng.
Chất lượng cảm nhận đóng vai trò quan trọng trong quyết định tiêu dùng dịch vụ tư vấn marketing Khi người tiêu dùng có cảm nhận tích cực về chất lượng dịch vụ, họ có xu hướng sử dụng dịch vụ nhiều hơn Do đó, việc nâng cao chất lượng cảm nhận là yếu tố then chốt để kích thích cầu của dịch vụ này.
Giả thuyết H4: Khi khách hàng cảm nhận chất lượng DVTVM cao thì nhu cầu sử dụng của họ cao và xu hướng phát triển DVTVM càng cao
Giá trị cảm nhận của dịch vụ tư vấn marketing (DVTVM) đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua sắm của doanh nghiệp Khi nhận thấy lợi ích cụ thể mà dịch vụ mang lại, doanh nghiệp sẽ sẵn sàng xem xét khả năng chi trả Tuy nhiên, do tính vô hình của dịch vụ, việc truyền tải thông điệp rõ ràng về giá trị lợi ích đến khách hàng trở nên khó khăn Do đó, giá trị mà khách hàng cảm nhận chính là yếu tố quyết định đến sự sẵn lòng chi trả cho dịch vụ và ảnh hưởng đến sự phát triển của DVTVM.
Giả thuyết H5: Khi khách hàng cảm nhận giá trị DVTVM cao thì nhu cầu sử dụng của họ cao và xu hướng phát triển DVTVM càng cao
Kết quả khảo sát cho thấy, khi doanh nghiệp quyết định sử dụng dịch vụ tư vấn marketing, họ luôn tìm kiếm nhà tư vấn chất lượng Tuy nhiên, thông tin về nhà tư vấn tại Việt Nam chủ yếu đến từ nguồn cá nhân, thường không đầy đủ và không hoàn toàn đáng tin cậy Gần 50% doanh nghiệp cho biết họ thiếu thông tin cần thiết để lựa chọn nhà cung ứng phù hợp, cũng như không đủ dữ liệu để phân biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ chất lượng tốt và kém Điều này tạo ra khó khăn trong việc lựa chọn nhà tư vấn khi nguồn thông tin bị hạn chế.
Thông tin đầy đủ và chính xác sẽ thúc đẩy nhu cầu tăng nhanh, giúp doanh nghiệp dễ dàng lựa chọn dịch vụ phù hợp Dựa trên cơ sở này, chúng ta có thể đưa ra giả thuyết rằng
Giả thuyết H6 cho rằng khi khách hàng được cung cấp đầy đủ thông tin về dịch vụ tư vấn và nhà cung cấp, quá trình lựa chọn của họ sẽ trở nên dễ dàng hơn Điều này dẫn đến xu hướng phát triển dịch vụ tư vấn ngày càng mạnh mẽ.
Phân tích SWOT của dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Qua phân tích tình hình hoạt động dịch vụ tài chính vi mô (DVTVM) tại Việt Nam và khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp cung ứng và sử dụng dịch vụ, chúng ta có thể rút ra các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của DVTVM Các điểm mạnh bao gồm sự gia tăng nhu cầu về dịch vụ tài chính từ các nhóm đối tượng chưa được phục vụ đầy đủ Tuy nhiên, điểm yếu là cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực còn hạn chế Cơ hội phát triển đến từ việc mở rộng thị trường và ứng dụng công nghệ, trong khi thách thức đến từ sự cạnh tranh gia tăng và các quy định pháp lý chưa hoàn thiện.
Sự gia tăng nhanh chóng của các nhà cung ứng dịch vụ tư vấn marketing đã tạo ra một thị trường sôi động, với số lượng doanh nghiệp tăng gấp 11 lần so với năm 2000 và doanh thu tăng gấp 14 lần tính đến năm 2006 Mức tăng trưởng doanh thu bình quân hàng năm đạt 50%, cho thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Dịch vụ tư vấn marketing tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đang phát triển mạnh mẽ, với số lượng doanh nghiệp và doanh thu tăng trưởng đáng kể Cụ thể, thành phố Hồ Chí Minh có 52% tổng số doanh nghiệp và đóng góp 73% vào doanh thu toàn ngành, trong khi Hà Nội chiếm 30% số doanh nghiệp và 22% doanh thu.
Doanh nghiệp ngoài nhà nước đang ngày càng gia tăng sự hiện diện trên thị trường, chiếm 98% số lượng và đạt 80% thị phần Những doanh nghiệp này hoạt động linh hoạt, kết hợp giữa tư vấn và tổ chức thực hiện, đặc biệt chú trọng vào khâu thực hiện Họ chủ yếu tập trung vào các hoạt động gia công quảng cáo, tổ chức hội chợ, triển lãm, và đóng vai trò vệ tinh cho các công ty tư vấn có vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp hiện nay cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tư vấn marketing đa dạng, bao gồm xây dựng thương hiệu, quảng cáo, khuyến mãi, tổ chức sự kiện, quan hệ công chúng, nghiên cứu thị trường và hệ thống phân phối Trong số đó, quảng cáo, tổ chức sự kiện, khuyến mãi và quan hệ công chúng đang phát triển mạnh mẽ.
Doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ vai trò quan trọng của dịch vụ tư vấn marketing trong việc hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh Các chủ doanh nghiệp hiểu rằng việc sử dụng dịch vụ này là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động Mức độ sử dụng các dịch vụ như tổ chức sự kiện, quảng cáo và khuyến mãi đang gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Số lượng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing (DTVM) tại Việt Nam rất hạn chế, chỉ chiếm 2% tổng số doanh nghiệp và đóng góp 0,3% vào doanh thu cả nước Ngoại trừ thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, các tỉnh và thành phố khác đều chưa phát triển dịch vụ này, với doanh thu từ DTVM tại mỗi tỉnh chưa đạt 1%.
So với các nước trong khu vực, ngành dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn non trẻ và đang trong quá trình hình thành và phát triển Con số hiện tại cho thấy tiềm năng lớn cho sự tăng trưởng trong tương lai.
Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing quy mô nhỏ chủ yếu có vốn dưới 5 tỷ đồng, chiếm hơn 90%, trong khi khoảng 7% doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng Hầu hết các doanh nghiệp này đều có số lượng lao động dưới 50 người.
Mặc dù có sự tăng trưởng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp, nhưng chỉ 2% trong số đó được đánh giá là chuyên nghiệp do quy mô nhỏ và hạn chế về vốn cũng như lao động Điều này dẫn đến chất lượng dịch vụ còn thấp và tính chuyên nghiệp chưa được đảm bảo.
Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ truyền thông Việt Nam chiếm 98% tổng số doanh nghiệp trong lĩnh vực này và đóng góp 80% doanh thu, trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 2% nhưng lại tạo ra 20% doanh thu Các doanh nghiệp nội địa chủ yếu thực hiện marketing, trong khi doanh nghiệp nước ngoài tập trung vào tư vấn ý tưởng marketing, nghiên cứu thị trường và dịch vụ truyền thông sáng tạo Tuy nhiên, doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn về thương hiệu, tính chuyên nghiệp, chuyên môn và mối quan hệ với các công ty đa quốc gia.
Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tài chính vi mô tại Việt Nam còn mới mẻ, với khoảng 70% trong số đó được thành lập chưa đầy 5 năm Số lượng chuyên viên tư vấn trong ngành rất hạn chế, khi có đến 75% doanh nghiệp chỉ có dưới 10 nhân viên tư vấn Ngoài ra, các nhà cung ứng thuộc khu vực tư nhân vẫn đang trong giai đoạn hình thành và gặp khó khăn về kinh nghiệm.
Nhiều doanh nghiệp tư vấn trong nước gặp khó khăn do thiếu đào tạo chuẩn mực và tính chuyên nghiệp, thường chỉ “vừa học, vừa tư vấn” Họ chủ yếu chuyên về một số lĩnh vực cụ thể, dẫn đến kinh nghiệm giải quyết vấn đề trong các tình huống nhất định bị hạn chế Thiếu kỹ năng và kinh nghiệm tư vấn, đặc biệt là khả năng truyền đạt giá trị dịch vụ đến khách hàng, khiến họ khó thuyết phục khách hàng và hạn chế ý tưởng sáng tạo, chỉ tập trung vào tổ chức thực hiện.
Doanh nghiệp tư vấn quy mô nhỏ và có khả năng tài chính hạn chế thường không chuyên sâu vào một lĩnh vực cụ thể, mà cung cấp nhiều dịch vụ để bù đắp chi phí Hệ quả là năng lực cạnh tranh yếu, chất lượng sản phẩm kém, không đáp ứng được yêu cầu khách hàng và thiếu tính chuyên nghiệp Hơn nữa, khoảng 75% doanh nghiệp chưa đầu tư cho thương hiệu và ít chú trọng đến hoạt động marketing, chưa xây dựng chiến lược quảng bá, chủ yếu khai thác khách hàng qua mối quan hệ cá nhân.
Nhà cung cấp dịch vụ thường thiếu thông tin về thị trường và khách hàng, dẫn đến việc các giải pháp đưa ra không có cơ sở khách quan Dữ liệu thống kê về các ngành nghề và thị trường cụ thể tại Việt Nam hiện vẫn chưa được hệ thống hóa và đồng nhất.
ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TƯ VẤN MARKETING TẠI VIỆT NAM
Cơ sở đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển DVTVM Việt Nam
Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam cần dựa trên xu hướng toàn cầu và kinh nghiệm quốc tế, đồng thời xác định mục tiêu và định hướng phát triển ngành Phân tích tình hình hoạt động dịch vụ tư vấn marketing trong nước và thực hiện phân tích SWOT sẽ giúp xác định những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của dịch vụ này.
3.1.1 Xu hướng thế giới và kinh nghiệm của các nước về phát triển DVTVM
Ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, như Hoa Kỳ với 80%, Canada 69%, và Thái Lan gần 50% Ngay cả ở các quốc gia đang phát triển, ngành dịch vụ cũng đóng góp tối thiểu 45% GDP, tạo ra thu nhập quốc gia và việc làm cho lực lượng lao động Sự tăng trưởng này chủ yếu đến từ các ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và tư vấn Các nước phát triển hiện nay đang chú trọng vào dịch vụ tư vấn, khai thác sáng chế và xây dựng thương hiệu thông qua các chiến dịch quảng bá và thương mại điện tử để thu hút khách hàng Do đó, ngành dịch vụ tư vấn marketing đang có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang gia tăng, với sự mở rộng thị trường thông qua các cam kết song phương, đa phương, khu vực và toàn cầu, tạo điều kiện cho các công ty đa quốc gia trong lĩnh vực tư vấn marketing mở rộng hoạt động ra toàn cầu Dịch vụ tư vấn marketing không chỉ phát triển tại các quốc gia phát triển mà còn nhanh chóng lan rộng ở các nước đang phát triển Các chuyên gia dự đoán rằng tốc độ phát triển của dịch vụ tư vấn marketing sẽ gia tăng trong những năm tới Hiện nay, dịch vụ này chủ yếu tập trung vào tư vấn chiến lược, ý tưởng, thương hiệu, định giá sản phẩm, giá trị tài sản thương hiệu, cũng như quảng cáo bằng công nghệ hiện đại và sử dụng phần mềm để thu thập, xử lý và phân tích thông tin thị trường.
Các hoạt động này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra doanh thu cao cho ngành tư vấn marketing Qua việc phân tích kinh nghiệm phát triển dịch vụ tư vấn marketing của các quốc gia trong chương một, chúng ta có thể rút ra những bài học quý giá để định hình hướng phát triển cho dịch vụ này trong tương lai.
(1) Đối với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tư vấn marketing:
Đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực chuyên môn và kinh nghiệm là yếu tố quan trọng để nâng cao tính chuyên nghiệp trong doanh nghiệp Nhiều công ty tư vấn nội địa tại Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore đã thực hiện chính sách liên kết và liên doanh với các công ty đa quốc gia trong giai đoạn đầu nhằm học hỏi và tích lũy kinh nghiệm quý báu.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Để phát triển dịch vụ tư vấn marketing, việc có khách hàng là yếu tố tiên quyết Các công ty tư vấn thường hợp tác với các tập đoàn công nghiệp và tài chính nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động tư vấn Sự thành công của các doanh nghiệp tư vấn marketing tại Nhật Bản là minh chứng rõ ràng cho điều này.
Ngoài nguồn nhân lực, các doanh nghiệp tư vấn marketing còn chú trọng đầu tư vào hoạt động marketing để xây dựng thương hiệu và duy trì hệ thống thông tin dữ liệu cập nhật Những yếu tố này đóng vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của công ty cung cấp dịch vụ tư vấn marketing.
Các công ty tư vấn marketing cần hoạt động dựa trên nguyên tắc độc lập, khách quan và chuyên nghiệp Sự tin cậy cao trong việc cung cấp dịch vụ là yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả và uy tín trong ngành.
Nhân tố này quyết định sự thành công và xây dựng uy tín đối với khách hàng
Sự hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và hiệp hội với các công ty tư vấn đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao Qua đó, các chuyên gia được đào tạo và huấn luyện kiến thức cũng như kinh nghiệm cần thiết để đáp ứng yêu cầu của thị trường.
(2) Đối với doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn marketing
Nghiên cứu các yếu tố quyết định sự phát triển dịch vụ tư vấn marketing cho thấy rằng khi nền kinh tế phát triển, tính chuyên môn hóa gia tăng, khiến các doanh nghiệp tập trung vào lĩnh vực kinh doanh cốt lõi và thường thuê ngoài dịch vụ để tiết kiệm chi phí Mặc dù mỗi quốc gia có đặc thù riêng, nhưng nhu cầu dịch vụ tư vấn marketing của doanh nghiệp vẫn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố chung.
Tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn marketing, giúp các doanh nghiệp có đủ nguồn lực để đầu tư vào quảng cáo, tài trợ, tổ chức sự kiện và nghiên cứu thị trường.
Xu hướng chuyển từ tư duy cảm tính sang tư duy định lượng đang gia tăng tại các quốc gia đang phát triển Doanh nghiệp ngày càng mong muốn có thông tin và dữ liệu rõ ràng để giảm thiểu rủi ro khi đầu tư vào các dự án hoặc ra quyết định Điều này dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ nghiên cứu thị trường trong khu vực.
Cung cấp thông tin chi tiết về dịch vụ tư vấn marketing cho doanh nghiệp là yếu tố quan trọng giúp thu hút khách hàng Việc thiếu thông tin rõ ràng khiến khách hàng gặp khó khăn trong việc lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ tư vấn marketing chất lượng.
Dịch vụ tư vấn marketing đóng vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp, nhưng nhiều doanh nghiệp ở một số quốc gia vẫn chưa nhận thấy sự cần thiết trong việc sử dụng dịch vụ này Nguyên nhân chính là do họ chưa hiểu rõ lợi ích mà dịch vụ mang lại so với chi phí đầu tư, cùng với lo ngại về rủi ro khi chia sẻ thông tin kinh doanh nhạy cảm với nhà cung cấp Do đó, cần có biện pháp kích cầu thông qua việc chứng minh rõ ràng lợi ích từ việc sử dụng dịch vụ tư vấn marketing.
(3) Veà phía cuûa chính phuû
Kinh nghiệm từ các quốc gia châu Á cho thấy rằng chính phủ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ tư vấn marketing Sự can thiệp và hỗ trợ từ chính quyền không chỉ tạo ra môi trường thuận lợi mà còn định hình các chiến lược marketing hiệu quả cho doanh nghiệp.
Mục tiêu và quan điểm đề xuất các giải pháp phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam
3.3.1 Mục tiêu của các giải pháp
Mục tiêu của các giải pháp phát triển dịch vụ tư vấn marketing là nhằm:
Để nâng cao khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới, cần tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn marketing phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, nhằm đáp ứng hiệu quả nhu cầu thị trường.
Doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ vai trò quan trọng của dịch vụ tư vấn marketing, từ đó thúc đẩy việc sử dụng dịch vụ này Việc đầu tư đúng mức cho các hoạt động marketing không chỉ giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững trên thị trường.
Phát triển dịch vụ tư vấn marketing đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các ngành sản xuất khác, góp phần tích cực vào sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
3.3.2 Quan điểm đề xuất giải pháp
Dịch vụ tư vấn marketing đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển kinh doanh và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, dịch vụ này trở thành vũ khí thiết yếu giúp doanh nghiệp thành công Nó không chỉ giúp xây dựng thương hiệu mà còn hỗ trợ phát triển kinh doanh và xây dựng thương hiệu quốc gia Để dịch vụ tư vấn marketing phát triển, cần đánh giá thực trạng thị trường và đề xuất giải pháp dựa trên chiến lược phát triển kinh tế, ngành dịch vụ, và định hướng phát triển tư vấn marketing tại Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Để phát triển dịch vụ tư vấn marketing hiệu quả, cần thực hiện một cách đồng bộ, tập trung và ưu tiên vào các loại hình dịch vụ có thế mạnh và khai thác cơ hội thị trường Việc phát triển này nên được hoạch định theo lộ trình rõ ràng, giống như các quốc gia trong khu vực, với từng giai đoạn triển khai Trước hết, cần chú trọng vào các hoạt động marketing mà doanh nghiệp trong nước đã có ưu thế như tư vấn tổ chức sự kiện, hội chợ triển lãm, khuyến mãi và quan hệ công chúng Đồng thời, cần phát triển các loại hình marketing sáng tạo hơn và học hỏi từ những thành công tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để mở rộng phát triển ở các khu vực khác.
Cạnh tranh trong lĩnh vực phát triển hiện nay đòi hỏi sự hợp tác và liên kết giữa các công ty để tạo ra sức mạnh tổng hợp Quá trình sát nhập và hợp nhất giữa các công ty, cùng với sự gia tăng của các công ty đa quốc gia trong lĩnh vực tư vấn marketing tại Việt Nam, đang diễn ra mạnh mẽ Để khai thác cơ hội thị trường và khắc phục điểm yếu, các công ty tư vấn marketing quy mô nhỏ nên tìm kiếm các hình thức liên kết, liên doanh hoặc hợp tác để thực hiện một số công đoạn dịch vụ cho các công ty lớn Sự cạnh tranh cần chuyển hướng từ số lượng sang chất lượng, nhằm nâng cao tiêu chuẩn dịch vụ, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, duy trì khách hàng hiện tại và thu hút khách hàng mới.
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và thúc đẩy phát triển dịch vụ tư vấn marketing (DVTVM) Các tổ chức như hiệp hội và trung tâm xúc tiến được xác định rõ ràng là những đơn vị có nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp, nâng cao năng lực và khả năng của họ để đáp ứng nhu cầu khách hàng mà không tham gia cung cấp dịch vụ trực tiếp.
3 4 Các giải pháp phát triển dịch vụ tư vấn marketing tại Việt Nam
Để phát triển dịch vụ tư vấn marketing, cần tập trung vào hai nhóm giải pháp chính: (1) thực hiện các biện pháp kích cầu nhằm gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn marketing, và (2) cải thiện, nâng cao cả số lượng lẫn chất lượng của dịch vụ tư vấn marketing.
3.4.1 Nhóm giải pháp kích cầu khuyến khích doanh nghiệp sử dụng DVTVM
3.4.1.1 Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp sử dụng về tầm quan trọng của dịch vụ tư vấn marketing, từ đó giúp họ đầu tư đúng mức cho hoạt động marketing Mục tiêu của giải pháp
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ tư vấn marketing giúp doanh nghiệp nhận ra vai trò thiết yếu của marketing trong hoạt động kinh doanh Từ đó, doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược đầu tư dài hạn nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
Nội dung của giải pháp
Thị trường dịch vụ tư vấn marketing phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng của khách hàng Nghiên cứu cho thấy mức độ và tần suất sử dụng marketing tại Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực Phân tích cho thấy nhận thức về tầm quan trọng của marketing ảnh hưởng lớn đến sự phát triển dịch vụ tư vấn marketing; cụ thể, nếu nhận thức này tăng 1%, xu hướng phát triển sẽ tăng 0,7% Mặc dù doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của marketing, để đầu tư hiệu quả và đồng đều, cần có các giải pháp phù hợp.
Phát triển chương trình marketing xã hội là cần thiết do nền kinh tế kém phát triển, dẫn đến thói quen chỉ tập trung vào hiệu quả ngắn hạn Hiện nay, các doanh nghiệp chủ yếu đầu tư vào hoạt động marketing ngắn hạn như khuyến mãi và quảng cáo Để cải thiện tình hình, nhà nước, hiệp hội và các doanh nghiệp tư vấn marketing cần triển khai các chiến dịch truyền thông để nêu bật những thành công của doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn marketing Các chương trình này cần giúp doanh nghiệp nhận thức rằng marketing không chỉ là quảng cáo mà còn bao gồm hoạch định chiến lược tổng thể, định vị thương hiệu, định giá sản phẩm, và phân phối Đặc biệt, các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng tiêu dùng và dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, vận chuyển, và bất động sản cần đầu tư vào marketing chiến lược dài hạn để phát triển thương hiệu và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Để khuyến khích thay đổi văn hóa kinh doanh và giúp doanh nghiệp cảm thấy an toàn khi sử dụng dịch vụ tư vấn marketing, cần giải quyết những rào cản như thói quen tự tổ chức marketing, lo ngại về việc tiết lộ thông tin, và thiếu niềm tin vào chất lượng dịch vụ Tại Việt Nam, văn hóa kinh doanh chưa khuyến khích việc thuê ngoài; do đó, các nhà tư vấn marketing cần chứng minh lợi ích của việc này thông qua các hội thảo và buổi gặp gỡ giữa doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp sử dụng Hơn nữa, việc liên kết với Hội marketing và Hiệp hội quảng cáo để tổ chức các hội thảo định kỳ sẽ giúp chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao cam kết của nhà tư vấn đối với khách hàng.
Khuyến khích doanh nghiệp chuyển từ việc tự thực hiện sang vai trò giám sát dịch vụ tư vấn marketing là cần thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh ngày càng khốc liệt Điều này giúp nâng cao tính chuyên môn và chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
Doanh nghiệp nên tránh việc xây dựng một bộ phận marketing quá lớn và thay vào đó, nên xem xét việc sử dụng dịch vụ thuê ngoài Việc chuyển từ vai trò thực hiện sang giám sát hoạt động của đơn vị tư vấn marketing không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn nâng cao hiệu quả Các công ty đa quốc gia thường rất chú trọng đến hoạt động marketing và hàng năm dành một ngân sách lớn cho tiếp thị, thường xuyên sử dụng dịch vụ tư vấn thuê ngoài để tối ưu hóa chiến lược của mình.