1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam

89 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Về Tự Do Hóa Tài Khoản Vốn, Phát Triển Tài Chính Và Tăng Trưởng Kinh Tế Ở Các Quốc Gia Asean Và Bài Học Đối Với Việt Nam
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Thể loại Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Cấp Trường
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 89
Dung lượng 336,38 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (5)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (5)
    • 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu (6)
    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu (13)
    • 1.4. Câu hỏi nghiên cứu (14)
    • 1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (14)
    • 1.6. Phương pháp nghiên cứu (14)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HÓA TÀI KHOẢN VỐN, PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ (17)
    • 2.1. Những vấn đề cơ bản về tự do hóa tài khoản vốn (17)
      • 2.1.1. Khái niệm tự do hóa tài khoán vốn (17)
      • 2.1.2. Chỉ tiêu đo lường tự do hóa tài khoản vốn (21)
    • 2.2. Mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế (28)
      • 2.2.1. Tác động của tự do hóa tài khoản vốn tới tăng trưởng kinh tế (28)
      • 2.2.2. Vai trò của phát triển tài chính trong mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế (39)
  • CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TỰ DO HÓA TÀI KHOẢN VỐN, PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA ASEAN (41)
    • 3.1. Thực trạng tự do hóa tài khoản vốn ở khu vực Asean (42)
      • 3.1.1. Đánh giá thực trạng tự do hóa tài khoản vốn ở khu vực Asean qua chỉ số pháp lý và chỉ số dòng vốn thực tế (42)
      • 3.1.2. Quá trình tự do hóa tài khoản vốn ở một số quốc gia điển hình (45)
    • 3.2. Thực trạng phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở khu vực Asean (57)
      • 3.2.1. Phát triển tài chính ở khu vực Asean (57)
      • 3.2.2. Tăng trưởng kinh tế ở khu vực Asean (62)
    • 4.1. Phương pháp nghiên cứu (65)
      • 4.1.1. Mô hình hỗn hợp (Pooled OLS) (65)
      • 4.1.2. Mô hình hiệu ứng cố định (FE) (65)
      • 4.1.3. Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (RE) (67)
      • 4.1.4. Lựa chọn mô hình (68)
    • 4.2. Mô hình nghiên cứu (69)
      • 4.2.1. Lựa chọn các biến cơ bản cho mô hình (69)
      • 4.2.2. Dữ liệu nghiên cứu và mô tả các biến trong mô hình (70)
    • 4.3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận (71)
      • 4.3.1 Kết quả lựa chọn mô hình (71)
      • 4.3.2. Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình (72)
      • 4.3.3. Giải thích kết quả nghiên cứu (74)
  • CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM (77)
    • 5.1. Lộ trình tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam (77)
    • 5.2. Gợi ý đối với phát triển tài chính ở Việt Nam (78)
  • KẾT LUẬN (80)
  • PHỤ LỤC (85)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài Đề tài: “Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam” có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể như sau: Về lý luận: - Đề tài đã hệ thống hóa lý thuyết về tự do hóa tài khoản vốn và mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế đặc biệt đề tài nhấn mạnh vai trò của phát triển tài chính trong mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế. Về mặt thực tiễn: Cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là Asean) gồm 10 quốc gia: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam. Đây là các quốc gia có dân số trẻ và đang có tốc độ phát triển nhanh. Vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997-1998, các quốc gia Asean đã có những bước tiến lớn trong việc tăng cường khung khổ kinh tế vĩ mô và vị thế so với các quốc gia khác ngoài khu vực. Các quốc gia Asean đã có sự gia tăng đáng kể trong thương mại và dòng chảy vốn cả trong khu vực cũng như với phần còn lại của châu Á và thế giới. Hội nhập tài chính trong khu vực Asean cũng đã có những bước tiến triển, đặc biệt kể từ khi Cộng đồng kinh tế Asean AEC được thành lập vào năm 2015. Hội nhập tài chính trong khu vực Asean bao gồm các nội dung như Tự do hóa dịch vụ tài chính và Hội nhập ngân hàng; Tự do hóa tài khoản vốn; Phát triển thị trường vốn và Hài hòa hệ thống thanh toán. Như vậy có thể thấy, cùng với sự ra đời của Cộng đồng kinh tế Asean AEC, tự do hóa tài khoản vốn là một bước tiến không thể trì hoãn đối với các quốc gia Asean. Cho đến nay, Asean đã đạt được tiến triển tốt trong hội nhập thị trường vốn. Thái Lan, Malaysia và Singapore là những nước đầu tiên thực hiện việc hội nhập thị trường vốn, với nhiều biện pháp cụ thể đã được đưa ra nhằm mở rộng liên kết thị trường và hài hòa hóa các yêu cầu về bản cáo bạch thông qua việc công bố Các tiêu chuẩn về bản cáo bạch Asean (Asean Disclosure Standards). Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia Asean với nhau và với phần còn lại của thế giới, nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc đưa ra khuyến nghị chính sách đối với các quốc gia Asean. Ngoài ra, đối với Việt Nam, Việt Nam là một thành viên nằm trong cộng đồng Asean đồng thời cũng đang thực hiện tự do hóa tài khoản vốn với mức độ ngày càng tăng. Việc nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở khu vực Asean cũng sẽ giúp đưa ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong lộ trình tự do hóa tài khoản vốn. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nghiên cứu quốc tế “ Tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế có thể chia các nghiên cứu thành hai trường phái rõ ràng: trường phái ủng hộ tự do hóa tài khoản vốn với kết luận về những lợi ích mà tự do hóa mang lại đối với nền kinh tế đặc biệt là tác động tích cực tới tăng trưởng. Theo đó, tự do hóa tài khoản vốn sẽ tác động tới tăng trưởng kinh tế bằng cả hai con đường: trực tiếp (tăng đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng vốn) và gián tiếp (thông qua phát triển tài chính trong nước).” Ngược lại, các nhà kinh tế học ủng hộ chính sách kiểm soát vốn đưa ra ba lập luận chính cho luận điểm của mình. Thứ nhất, tự do hóa tài khoản vốn khiến quốc gia phải đối mặt với tấn công đầu cơ; Thứ hai, thúc đẩy rủi ro đạo đức xuất phát từ chính sách nới lỏng tín dụng quá mức; và cuối cùng, nếu khủng hoảng tài chính xảy ra, mục tiêu ngắn hạn là để ổn định thị trường tài chính quốc gia mà không quan tâm tới vấn đề hiệu quả. Krugman và cộng sự (1999) cũng cho rằng kiểm soát vốn không phải là một biện pháp quá tốt nhưng dù sao cũng là tốt hơn đối với các quốc gia có hệ thống tài chính trong nước yếu kém. Đồng quan điểm với Kruman và cộng sự (1999), Grick và các cộng sự (2004) cũng cho rằng các quốc gia thực hiện kiểm soát vốn có thể đạt được lợi ích bằng cách giảm tính bất ổn của thị trường tài chính và khủng hoảng tiền tệ. Các tác giả cũng lấy dẫn chứng về một số thị trường mới nổi thực hiện tự do hóa tài khoản vốn và phải đối mặt với khủng hoảng tiền tệ như khủng hoảng Mexico (1994-1995) và khủng hoảng khu vực Đông Á (1997-1998). Trịnh Thị Hoa Mai (2011) nhấn mạnh tới sự hạn chế của lý thuyết thị trường hiệu quả dẫn tới tính bất ổn của tự do tài chính. Theo tác giả, quan điểm nhấn mạnh thị trường tự do có chỗ dựa là lý thuyết thị trường hiệu quả, theo lý thuyết này thị trường tài chính có khả năng tự điều chỉnh để trở về trạng thái cân bằng và giá cả trên thị trường tài chính là giá cả hợp lý, phản ánh đầy đủ các thông tin hiện có trên thị trường. Tuy nhiên trên thực tế thị trường tài chính hoạt động không thực sự hiệu quả. Trong sự vận động của mình, thị trường tài chính luôn nảy sinh và gắn liền với những bất ổn đó. Thị trường tài chính càng tự do, tính bất ổn càng rõ rệt và nghiêm trọng. Nguyễn Toàn Thắng (2010) nêu lên ba tác động tiêu cực của tự do hóa tài khoản vốn đối với khu vực tài chính trong nước: Thứ nhất, luồng vốn nước ngoài vào nhiều sẽ tạo áp lực làm tăng lạm phát và sức ép tăng giá đồng bản tệ, tạo nên sự biến động trên thị trường ngoại hối; Thứ hai, tự do hóa tài khoản vốn đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp làm gia tăng nguy cơ bị khống chế và lũng đoạn trên thị trường tài chính trong nước; Thứ ba, tự do hóa tài khoản vốn gây khó khăn trong việc điều hành chính sách vĩ mô của Chính phủ đặc biệt là chính sách tiền tệ. Để đưa ra những bằng chứng thuyết phục cho lý luận, các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tự do hóa tài khoản vốn đối với tăng trưởng kinh tế đã được thực hiện. Điểm chung của hầu hết các nghiên cứu đều dựa trên mô hình tăng trưởng cơ bản bao gồm các biến độc lập như đầu tư, quy mô dân số, trình độ học vấn, tự do hóa tài khoản vốn và biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng gdp (Edison và cộng sự, 2002). Với việc sử dụng phân tích theo dữ liệu chéo trong các nghiên cứu của mình, Quinn và cộng sự (1997, 2008), Klein và Olivei (2000, 2008), Edwards (2001), Arteta và cộng sự (2001) đều cung cấp các bằng chứng ủng hộ tự do hóa tài khoản vốn“thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ước lượng thực nghiệm của Quinn và cộng sự (1997, 2008) cho thấy tự do hóa tài khoản vốn ảnh hưởng mạnh mẽ và có ý nghĩa lên tăng trưởng gdp thực. Nghiên cứu của Quinn và cộng sự (1997) được thực hiện dựa trên dữ liệu chéo của 58 quốc gia trong giai đoạn 1960-1989, với chỉ số Capital đo lường tự do hóa tài khoản vốn. Quinn và cộng sự (2008) tiếp tục nghiên cứu về tác động của tự do hóa tài khoản vốn tới tăng trưởng kinh tế tuy nhiên với mẫu và thời kỳ quan sát rộng hơn. Tác giả tiếp tục sử dụng chỉ số capital để đo lường mức độ tự do hóa nhưng thực hiện với quy mô lớn hơn 94 quốc gia trong giai đoạn 1955-2004. Và kết quả tái khẳng định rằng tự do hóa tài khoản vốn có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các quốc gia bao gồm cả những thị trường đang nổi. Ngoài ra, nghiên cứu của Quinn và cộng sự (2008) không tìm thấy bất kỳ ảnh hưởng quan trọng nào lên tăng trưởng kinh tế từ mối quan hệ ràng buộc giữa tự do hóa tài khoản vốn và các biến tài chính, chính trị hay thể”chế. “Klein và Olivei (2000, 2008) cũng tìm thấy ảnh hưởng có ý nghĩa của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng kinh tế đồng thời nhấn mạnh vai trò của sự phát triển tài chính như là một kênh dẫn nối mối quan hệ giữa hai biến kể trên. Bằng cách sử dụng dữ liệu mảng của 67 quốc gia trong giai đoạn 1976-1995, nghiên cứu của Klein và Olivei (2000, 2008) đưa ra kết luận rằng, các quốc gia với tài khoản vốn mở sẽ làm tăng độ sâu tài chính và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tự do hóa tài khoản vốn không mang lại cùng một lợi ích với tất cả các quốc gia. Đặc biệt, mối quan hệ cùng chiều giữa tự do hóa tài khoản vốn và độ sâu tài chính dường như chỉ tập trung ở những quốc gia phát triển. Có rất ít bằng chứng cho thấy tự do hóa tài khoản vốn thúc đẩy độ sâu tài chính ở những quốc gia còn lại. Klein và Olivei (2000, 2008) cũng cho rằng sự thay đổi trong chính sách, thể chế và môi trường kinh tế là cần thiết để thực hiện thành công tiến trình tự do hóa và hội nhập vào kinh tế thế giới của các nước đang phát”triển. Edwards (2001) cũng tìm ra ảnh hưởng tích cực của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng kinh tế bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất có trọng số của 55 quốc gia trong giai đoạn 1980-1989, trong đó trọng số phản ánh thu nhập quốc”dân vào năm 1985.“Dữ liệu chéo và kỹ thuật biến công cụ được sử dụng trong nghiên cứu. Tác giả bao gồm trong phương trình cả biến tự do hóa tài khoản vốn và biến tương tác độ mở - GDP, khi đó hệ số ước lượng của biến độ mở-GDP sẽ phản ánh tác động của thu nhập lên mối quan hệ giữa độ mở tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế. Kết quả trong nghiên cứu thực nghiệm của Edwards (2001) chỉ ra rằng, tự do hóa tài khoản vốn được đo lường bằng chỉ số Quinn tác động tích cực lên tăng trưởng tuy nhiên ước lượng biến tương tác lại cho thấy, nhưng quốc gia có mức GDP thấp, mở cửa thị trường vốn không những không thúc đẩy tăng trưởng mà còn khiến tăng trưởng GDP ở mức thấp hơn. Tương tự như Edwards (2001) trong việc sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất có trọng số với biến công cụ và chỉ số Quinn đo lường mức độ tự do hóa, Arteta và cộng sự (2001) tiến hành kiểm tra 59 quốc gia trong 3 giai đoạn 1973-1981, 1982-1987, 1988-1992. Kết quả chỉ ra, chỉ số Quinn có ý nghĩa trong việc giải thích lợi ích của tự do hóa song điều này không đúng với chỉ số Delta Quinn. Đặc biệt các biến tương tác giữa tự do hóa và chất lượng luật pháp hay độ mở có ý nghĩa cho thấy đây là những điều kiện tiền đề quan trọng để một quốc gia có thúc đẩy được tăng trưởng nhờ tự do hóa.” Nghiên cứu thực nghiệm của Eichengreen và cộng sự (2011) sau khi chạy mô hình hồi quy giữa biến LIB (đo lường tự do hóa tài khoản vốn) và biến tăng trưởng trong ba giai đoạn (1980-1989, 1990-1999 và 2000-2004) cũng chỉ ra tác động tích cực của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng kinh tế nhưng chỉ giới hạn ở những nước có hệ thống tài chính phát triển, chế độ kế toán đạt tiêu chuẩn, quyền lợi của chủ nợ, cổ đông được đảm bảo cũng như các cơ sở pháp luật thống nhất và vững mạnh. Tương tự Honig (2008) đã chạy mô hình hồi quy dựa trên dữ liệu chéo của các quốc gia trong giai đoạn 1997-2005 và kết quả thực nghiệm ủng hộ giả thuyết tự do hóa tài khoản vốn tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên kết quả này chỉ có ý nghĩa đối với các nước có chất lượng thể chế là tốt. Một điểm đặc biệt trong kết luận của Honig (2008) đó là ước lượng bằng biến công cụ cho ra kết quả tốt hơn và có ý nghĩa hơn ước lượng bằng OLS thông thường. Không“trực tiếp xem xét tác động của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng, Levine và Zervos (1998) kiểm tra ảnh hưởng của tự do hóa lên một yếu tố quan trọng của tăng trưởng là đầu tư. Thông qua việc sử dụng dữ liệu mảng của các quốc gia bao gồm cả phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1976-1995, các tác giả tìm thấy khi thị trường chứng khoán của các quốc gia hội nhập sâu vào thị trường quốc tế, tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư sẽ tăng lên trong dài”hạn. Bekaert“và cộng sự (2001) xem xét tự do hóa tài khoản vốn ở mức độ tự do hóa thị trường chứng khoán. Bằng mô hình hồi quy với dữ liệu mảng, các tác giả đã chỉ ra tự do hóa thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kể cả ở những nước đang phát triển. Một nghiên cứu thú vị khác, không sử dụng chỉ số đo lường tự do hóa, Soto (2003) đã phân tích điều kiện tự do hóa ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế thông qua dữ liệu mảng của 72 quốc gia trong giai đoạn 1985-1996. Tác giả cũng đồng thời phân chia dòng vốn thành FDI, vốn cổ phần danh mục, vốn nợ danh mục và vốn vào ngân hàng. Kết quả cho thấy, FDI và vốn vào khu vực ngân hàng có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa tới tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên dòng vốn vào ngân hàng duy trì được tác động này chỉ sau khi phân tích độ nhạy”cảm. Không“sử dụng chỉ số đo lường tự do hóa tài khoản vốn như các nhà nghiên cứu khác, Bailliu (2000) phân tích trực tiếp tác động của các dòng vốn tư nhân nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế của 40 nước đang phát triển trong giai đoạn 1975-1995. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng dòng vốn vào thúc đẩy tăng trưởng nhưng chỉ đúng với những nền kinh tế có khu vực ngân hàng đạt được mức độ phát triển nhất định. Hay nói một cách khác khu vực tài chính nội địa chính là điều kiện tiền đề để đảm bảo rằng dòng vốn quốc tế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở những nước đang phát triển.” Với“phạm vi nghiên cứu hẹp hơn, Alfaro và các cộng sự (2004) tập trung phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lên tăng trưởng kinh tế trong đó nhấn mạnh vai trò của thị trường tài chính. Phân tích thực nghiệm được tiến hành dựa theo số liệu chéo từ năm 1975 đến 1995 với hai bộ số liệu: bộ thứ nhất liên quan đến chỉ số thị trường tín dụng bao gồm 20 nước OECD và”51 nước non-OECD; bộ thứ hai nhấn mạnh vào các chỉ số thị trường vốn bao gồm 20 nước OECD và 29 nước ngoài OECD. Kết của cho thấy FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên các quốc gia với thị trường tài chính phát triển sẽ nhận được kết quả có ý nghĩa hơn từ FDI. Bên cạnh những nghiên cứu ủng hộ giả thuyết cho rằng tự do hóa tài khoản vốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vẫn có không ít tác giả nghi ngờ thậm chí bác bỏ giả thuyết này. Grilli và Milesi-Ferretti (1995), Rodrik (1998) và Kraay (1998) không tìm thấy bất kỳ một liên kết nào giữa tăng trưởng kinh tế và chỉ số tự do hóa theo đo lường của IMF. Grilli và Milesi-Ferretti (1995) thực hiện hồi quy tỷ lệ tăng trưởng trong 5 giai đoạn năm năm giữa 1966 và 1989 của 181 quan sát từ 61 quốc gia với biến đo lường tự do hóa tài khoản vốn, biến thể hiện kiểm soát tài khoản vãng lai (Curr Acct) và biến thể hiện hệ thống đa tỷ giá (Multex). Thêm vào đó họ đưa vào mô hình các biến kiểm soát như thu nhập ban đầu, chính trị và trình độ học vấn. Kết quả hồi quy cho thấy tự do hóa tài khoản vốn không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tương tự, Rodrik (1998) và Kraay (1998) cũng nghi ngờ mối quan hệ trên. Không chỉ nghiên cứu tác động của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng, Kraay (1998) còn mở rộng nghiên cứu tác động của tự do hóa tài khoản vốn lên các biến vĩ mô khác như đầu tư và lạm phát. Kết quả là, có rất ít bằng chứng cho thấy, mở rộng kiểm soát vốn có liên quan tới tăng trưởng/đầu tư cao hơn, hoặc lạm phát thấp hơn. Kraay (1998) đồng thời cũng xem xét hai cách giải thích lý do tại sao các bằng chứng thực nghiệm về những tác động kinh tế vĩ mô của tự do hóa tài khoản vốn rất khó nắm bắt. Thứ nhất, việc dỡ bỏ kiểm soát vốn đối với các quốc gia dễ dẫn tới dòng vốn đảo chiều đột ngột từ đó gây bất ổn cho nền kinh tế. Những biến động như vậy sẽ gây ức chế đầu tư và/hoặc tăng trưởng, khi đó bất kỳ lợi ích nào của tự do hóa tài khoản vốn cũng sẽ xóa nhòa bởi sự bất ổn lớn hơn mà tự do hóa mang lại. Thứ hai, tự do hóa có thể phơi bày hệ thống tài chính nội địa yếu kém. Khi hệ thống ngân hàng trong nước yếu kém cùng với sự thiếu vắng cơ chế giám sát tài chính hợp lý, tự do hóa tài khoản vốn có thể gây tổn thương cho toàn xã hội. Kết quả là, bất kỳ lợi ích nào của tự do hóa tài khoản vốn có thể bị che khuất bởi chi phí tài chính lớn (kể cả chi phí khủng hoảng ngân hàng). Nhìn chung, chỉ nên mong chờ vào lợi ích của tự do hóa tài khoản vốn ở những quốc gia có nền tảng kinh tế vĩ mô và thể thế vững mạnh. Tuy nhiên, khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm thì kết quả lại cho thấy, có rất ít bằng chứng thể hiện độ biến động của dòng vốn cao hơn ở những nền kinh tế mở cửa, và cũng có rất ít bằng chứng cho thấy tương quan giữa độ mở tài chính và sức mạnh chính sách thể chế có thể dẫn tới bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ hơn về ảnh hưởng của tự do hóa. O’Donnell (2001) cũng đưa ra điều kiện ngưỡng cho tăng trưởng là sự phát triển tài chính (FD). Thông qua việc việc hồi quy biến tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người so với chỉ số Share của 94 quốc gia trong giai đoạn từ 1971-1995 đồng thời đưa vào mô hình biến tương tác giữa FD và Share, kết quả của tác giả chỉ ra rằng cả biến Share và biến tương tác giữa Share và FD đều không có ý nghĩa trong việc giải thích tác động của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu tại khu vực Asean: Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean được chia thành hai nhóm chính: Nhóm 1 là nghiên cứu về hội nhập tài chính và tự do hóa tài khoản vốn ở các nước Asean. Nhóm 2 là nghiên cứu về tác động của phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế ở các nước Asean. Park và Takagi (2012) trong nghiên cứu về quản lý các dòng vốn trong cộng đồng kinh tế, trường hợp tự do hóa tài khoản vốn tại Asean cho rằng quá trình hội nhập tài chính ở các quốc gia Asean đã đi ngược lại với quan điểm cho rằng cần áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn ở những nền kinh tế mới nổi. Tự do hóa tài khoản vốn ở một số quốc gia Asean còn ở mức thấp cho thấy quá trình này cần được thực hiện nhanh chóng và rộng rãi trong toàn thể Asean. Các quốc gia Asean cần dỡ bỏ các hạn chế đối với các dòng vốn biên giới đồng thời nền kinh tế trong nước cần được bảo vệ bởi sự biến động của dòng vốn toàn cầu. Tương tự, Vinocorov (2017) cũng cho rằng các nước Asean cần đẩy mạnh tự do hóa giao dịch vốn xuất phát từ những tác động tích cực mà tự do hóa giao dịch vốn mang lại với nền kinh tế các quốc gia. Tác giả thực hiện một đánh giá dựa trên 6 tiêu chí bao gồm mức độ phát triển kinh tế, độ mở thương mại, thương mại tương hỗ, chất lượng chính sách kinh tế vĩ mô, độ sâu tài chính và độ mở tài chính ở các quốc gia Asean. Kết quả cho thấy ở hầu hết các tiêu chí, các quốc gia Asean đều nhận được những lợi ích tích cực từ hội nhập tài chính. Khác với các tác giả kể trên, Ariff (1996) cho rằng các quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển cần thực hiện cải cách tài khoản vốn và tài khoản vãng lai kèm theo các cải cách trong khu vực thực và cải cách tài khóa trong quá trình tự do hóa tài chính. Tác giả thực hiện đo lường những ảnh hưởng của các nhân tố quốc tế tới thị trường tài chính trong nước từ tự do hóa tài chính ở Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan. Các nhân tố quốc tế có tác động tới thị trường tài chính ở tất cả các nền kinh tế cho dù có sự khác biệt về tốc độ và mức độ mở cửa. Tương tự, Wang (2007) nghiên cứu về kinh nghiệm của các nước Đông Á trong việc thực hiện tự do hóa tài chính đặc biệt là kinh nghiệm của Malaysia và Trung Quốc trong quản lý khủng hoảng châu Á. Nghiên cứu chỉ ra rằng các quốc gia cần thiết duy trì kiểm soát vốn cho đến khi xây dựng được hạ tầng tài chính và chính sách hiệu quả. Các quốc gia nên thực hiện tự do hóa tài khoản vốn theo lộ trình và duy trì sự độc lập của chính sách tài chính.

GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Tính cấp thiết của đề tài

Đề tài “Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia ASEAN và bài học đối với Việt Nam” mang lại ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn Nghiên cứu này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và sự phát triển kinh tế, mà còn cung cấp những bài học quý giá cho Việt Nam trong việc cải cách và phát triển hệ thống tài chính Thông qua việc phân tích kinh nghiệm từ các quốc gia ASEAN, bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách tài chính linh hoạt trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Đề tài này đã tổng hợp lý thuyết về tự do hóa tài khoản vốn và mối liên hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn với phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế Đặc biệt, nghiên cứu nhấn mạnh vai trò quan trọng của phát triển tài chính trong mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế.

Cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm 10 quốc gia: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, nổi bật với dân số trẻ và tốc độ phát triển nhanh Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, ASEAN đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc củng cố khung kinh tế vĩ mô và nâng cao vị thế so với các quốc gia khác Thương mại và dòng vốn trong khu vực ASEAN đã gia tăng đáng kể, đồng thời mở rộng kết nối với phần còn lại của châu Á và thế giới Sự hội nhập tài chính trong ASEAN cũng đã có những bước tiến quan trọng, đặc biệt từ khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập vào năm 2015.

Hội nhập tài chính trong khu vực ASEAN bao gồm tự do hóa dịch vụ tài chính, hội nhập ngân hàng, tự do hóa tài khoản vốn, phát triển thị trường vốn và hài hòa hệ thống thanh toán Sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã thúc đẩy tự do hóa tài khoản vốn, điều này được xem là bước tiến quan trọng cho các quốc gia ASEAN Đến nay, ASEAN đã có những tiến bộ đáng kể trong hội nhập thị trường vốn, với Thái Lan, Malaysia và Singapore là những nước tiên phong thực hiện Các biện pháp cụ thể đã được áp dụng nhằm mở rộng liên kết thị trường và hài hòa hóa yêu cầu về bản cáo bạch thông qua việc công bố Các tiêu chuẩn về bản cáo bạch ASEAN (ASEAN Disclosure Standards).

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng giữa các quốc gia ASEAN và thế giới, việc nghiên cứu tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế trở nên thiết yếu Những nghiên cứu này không chỉ mang lại ý nghĩa thực tiễn mà còn cung cấp những khuyến nghị chính sách quan trọng cho các quốc gia ASEAN.

Việt Nam, là thành viên của cộng đồng ASEAN, đang tiến hành tự do hóa tài khoản vốn với mức độ ngày càng tăng Nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế trong khu vực ASEAN sẽ cung cấp những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong quá trình tự do hóa tài khoản vốn.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế chia thành hai trường phái chính Trường phái ủng hộ tự do hóa tài khoản vốn nhấn mạnh lợi ích của nó đối với nền kinh tế, đặc biệt là tác động tích cực đến tăng trưởng Tự do hóa tài khoản vốn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế qua hai con đường: trực tiếp, bằng cách tăng đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn, và gián tiếp, thông qua sự phát triển của hệ thống tài chính trong nước.

Các nhà kinh tế học ủng hộ chính sách kiểm soát vốn đưa ra ba lập luận chính: tự do hóa tài khoản vốn dẫn đến nguy cơ tấn công đầu cơ, gia tăng rủi ro đạo đức từ chính sách nới lỏng tín dụng, và mục tiêu ngắn hạn là ổn định thị trường tài chính mà không chú trọng đến hiệu quả Krugman và cộng sự (1999) cho rằng kiểm soát vốn là giải pháp tốt hơn cho các quốc gia có hệ thống tài chính yếu kém, trong khi Grick và các cộng sự (2004) khẳng định rằng kiểm soát vốn giúp giảm bất ổn thị trường tài chính và khủng hoảng tiền tệ, với dẫn chứng từ các cuộc khủng hoảng như Mexico (1994-1995) và Đông Á (1997-1998) Trịnh Thị Hoa Mai (2011) chỉ ra rằng lý thuyết thị trường hiệu quả không phản ánh đúng thực tế, khi thị trường tài chính thường xuyên gặp bất ổn, đặc biệt là khi tự do hóa tài khoản vốn Nguyễn Toàn Thắng (2010) nêu ba tác động tiêu cực của tự do hóa tài khoản vốn: gia tăng lạm phát và biến động ngoại hối, nguy cơ bị thao túng thị trường tài chính, và khó khăn trong điều hành chính sách vĩ mô Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tự do hóa tài khoản vốn đối với tăng trưởng kinh tế cho thấy mối liên hệ giữa các yếu tố như đầu tư, quy mô dân số, trình độ học vấn và tốc độ tăng trưởng GDP.

Nghiên cứu của Quinn và cộng sự (1997, 2008), Klein và Olivei (2000, 2008), Edwards (2001), và Arteta và cộng sự (2001) đã sử dụng phân tích dữ liệu chéo để cung cấp bằng chứng cho thấy tự do hóa tài khoản vốn có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Các ước lượng thực nghiệm từ Quinn và cộng sự đã chứng minh rõ ràng mối liên hệ này.

Nghiên cứu của Quinn và cộng sự (1997, 2008) chỉ ra rằng tự do hóa tài khoản vốn có tác động mạnh mẽ và quan trọng đến tăng trưởng GDP thực Nghiên cứu đầu tiên (1997) dựa trên dữ liệu của 58 quốc gia trong giai đoạn 1960-1989, sử dụng chỉ số Capital để đo lường mức độ tự do hóa Nghiên cứu tiếp theo (2008) mở rộng mẫu và thời gian quan sát, áp dụng chỉ số Capital trên 94 quốc gia từ năm 1955, nhằm phân tích sâu hơn về ảnh hưởng của tự do hóa tài khoản vốn đối với tăng trưởng kinh tế.

Năm 2004, nghiên cứu đã khẳng định rằng tự do hóa tài khoản vốn có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các quốc gia, bao gồm cả các thị trường đang nổi Tuy nhiên, nghiên cứu của Quinn và cộng sự (2008) không phát hiện bất kỳ ảnh hưởng quan trọng nào từ mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và các biến tài chính, chính trị hay thể chế đối với tăng trưởng kinh tế.

Klein và Olivei (2000, 2008) đã chứng minh rằng tự do hóa tài khoản vốn có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời nhấn mạnh vai trò của phát triển tài chính như một cầu nối giữa hai yếu tố này Nghiên cứu dựa trên dữ liệu từ 67 quốc gia trong giai đoạn 1976-1995 cho thấy các quốc gia có tài khoản vốn mở sẽ gia tăng độ sâu tài chính, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, lợi ích của tự do hóa tài khoản vốn không đồng đều giữa các quốc gia, đặc biệt là mối quan hệ này chủ yếu tồn tại ở các quốc gia phát triển Ngoài ra, Klein và Olivei cũng chỉ ra rằng sự thay đổi trong chính sách, thể chế và môi trường kinh tế là cần thiết để các nước đang phát triển thực hiện thành công quá trình tự do hóa và hội nhập kinh tế toàn cầu.

Edwards (2001) đã chỉ ra rằng tự do hóa tài khoản vốn có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế qua nghiên cứu trên 55 quốc gia giai đoạn 1980-1989, sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất có trọng số với dữ liệu chéo và kỹ thuật biến công cụ Tác giả đã đưa vào phương trình biến tự do hóa tài khoản vốn và biến tương tác độ mở - GDP, cho thấy mối quan hệ giữa độ mở tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế Kết quả nghiên cứu cho thấy, tự do hóa tài khoản vốn được đo bằng chỉ số Quinn có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhưng ở những quốc gia có GDP thấp, việc mở cửa thị trường vốn lại không thúc đẩy tăng trưởng mà còn làm giảm GDP Tương tự, Arteta và cộng sự (2001) cũng sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất có trọng số để kiểm tra 59 quốc gia trong ba giai đoạn khác nhau và nhận thấy chỉ số Quinn có ý nghĩa trong việc giải thích lợi ích của tự do hóa, trong khi chỉ số Delta Quinn không đạt được điều này Đặc biệt, các biến tương tác giữa tự do hóa và chất lượng luật pháp hay độ mở được xác định là điều kiện quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tự do hóa.

Nghiên cứu của Eichengreen và cộng sự (2011) cho thấy tự do hóa tài khoản vốn có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nhưng chỉ ở những nước có hệ thống tài chính phát triển và cơ sở pháp lý vững mạnh Tương tự, Honig (2008) cũng khẳng định rằng tự do hóa tài khoản vốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng chỉ có ý nghĩa với các quốc gia có chất lượng thể chế tốt Đặc biệt, Honig (2008) chỉ ra rằng ước lượng bằng biến công cụ mang lại kết quả chính xác hơn so với ước lượng OLS thông thường.

Levine và Zervos (1998) đã nghiên cứu tác động của tự do hóa tài khoản vốn lên đầu tư, một yếu tố quan trọng của tăng trưởng Sử dụng dữ liệu từ các quốc gia phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1976-1995, họ phát hiện rằng khi thị trường chứng khoán của các quốc gia hội nhập sâu vào thị trường quốc tế, tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư sẽ tăng lên trong dài hạn.

Bekaert và cộng sự (2001) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và tự do hóa thị trường chứng khoán, cho thấy rằng tự do hóa thị trường chứng khoán có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển Trong một nghiên cứu khác, Soto (2003) đã phân tích ảnh hưởng của các điều kiện tự do hóa đến tăng trưởng kinh tế qua dữ liệu của 72 quốc gia từ năm 1985 đến 1996, phân chia dòng vốn thành FDI, vốn cổ phần danh mục, vốn nợ danh mục và vốn vào ngân hàng Kết quả cho thấy FDI và vốn vào khu vực ngân hàng có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa đến tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, tác động của dòng vốn vào ngân hàng chỉ duy trì được sau khi phân tích độ nhạy.

Bailliu (2000) đã tiến hành phân tích tác động trực tiếp của dòng vốn tư nhân nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của 40 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1975-2000, thay vì sử dụng chỉ số đo lường tự do hóa tài khoản vốn như nhiều nhà nghiên cứu khác.

Nghiên cứu năm 1995 cho thấy dòng vốn đầu tư có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng điều này chỉ xảy ra ở những nền kinh tế có hệ thống ngân hàng phát triển Do đó, sự phát triển của khu vực tài chính nội địa là yếu tố quan trọng để đảm bảo dòng vốn quốc tế có thể hỗ trợ tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển.

Alfaro và các cộng sự (2004) đã nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lên tăng trưởng kinh tế, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thị trường tài chính Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ năm 1975 đến 1995, với hai bộ số liệu: một về chỉ số thị trường tín dụng ở 20 nước OECD và 51 nước non-OECD, và một về chỉ số thị trường vốn ở 20 nước OECD và 29 nước ngoài OECD Kết quả cho thấy FDI có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt ở các quốc gia có thị trường tài chính phát triển, nơi mà lợi ích từ FDI được tối ưu hóa hơn.

Mặc dù nhiều nghiên cứu ủng hộ giả thuyết rằng tự do hóa tài khoản vốn có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng một số tác giả như Grilli và Milesi-Ferretti (1995), Rodrik (1998) và Kraay (1998) đã bác bỏ quan điểm này Cụ thể, Grilli và Milesi-Ferretti (1995) không tìm thấy mối liên hệ nào giữa tăng trưởng kinh tế và chỉ số tự do hóa theo đo lường của IMF Họ đã thực hiện hồi quy tỷ lệ tăng trưởng trong 5 giai đoạn năm năm từ 1966 đến 1989 trên 181 quan sát từ 61 quốc gia, sử dụng các biến đo lường tự do hóa tài khoản vốn, kiểm soát tài khoản vãng lai và hệ thống đa tỷ giá, đồng thời đưa vào các biến kiểm soát như thu nhập ban đầu, chính trị và trình độ học vấn Kết quả cho thấy tự do hóa tài khoản vốn không có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

Tương tự, Rodrik (1998) và Kraay (1998) cũng nghi ngờ mối quan hệ trên. Không chỉ nghiên cứu tác động của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng, Kraay

Nghiên cứu của Kraay (1998) mở rộng việc xem xét tác động của tự do hóa tài khoản vốn lên các yếu tố vĩ mô như đầu tư và lạm phát, cho thấy rất ít bằng chứng cho thấy việc mở rộng kiểm soát vốn liên quan đến tăng trưởng hay lạm phát thấp hơn Hai lý do chính được đưa ra để giải thích cho sự khó khăn trong việc nắm bắt tác động kinh tế vĩ mô của tự do hóa tài khoản vốn là: trước tiên, việc dỡ bỏ kiểm soát vốn có thể dẫn đến dòng vốn đảo chiều đột ngột, gây bất ổn cho nền kinh tế và ức chế đầu tư, từ đó xóa nhòa lợi ích của tự do hóa Thứ hai, tự do hóa có thể phơi bày những yếu kém trong hệ thống tài chính nội địa, dẫn đến tổn thương cho xã hội khi thiếu cơ chế giám sát hợp lý Kết quả là, lợi ích của tự do hóa tài khoản vốn có thể bị che khuất bởi chi phí tài chính lớn, đặc biệt là trong các quốc gia có nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém Do đó, chỉ nên mong chờ vào lợi ích của tự do hóa tài khoản vốn ở những quốc gia có nền tảng kinh tế vững mạnh, nhưng thực tế cho thấy, có rất ít bằng chứng về độ biến động của dòng vốn cao hơn ở các nền kinh tế mở cửa, cùng với sự thiếu tương quan giữa độ mở tài chính và sức mạnh chính sách thể chế.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế tại khu vực ASEAN nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình thực hiện tự do hóa tài khoản vốn Các yếu tố này có tác động quan trọng đến sự phát triển bền vững và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó góp phần định hướng chính sách tài chính hiệu quả cho Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi 1: Các quốc gia Asean hiện đang thực hiện tự do hóa tài khoản vốn ở mức độ nào?

Câu hỏi 2: Mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean như thế nào?

Câu hỏi 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về quá trình tự do hóa tài khoản vốn là gì?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tập trung vào tự do hóa tài khoản vốn và mối liên hệ giữa tự do hóa này với tăng trưởng kinh tế trong khu vực ASEAN Tài khoản vốn được phân loại theo các hình thức đầu tư, bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), vay nước ngoài, cùng với các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp ra nước ngoài, cũng như đầu tư ra nước ngoài dưới dạng tiền và tiền gửi.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thống kê bao gồm các hoạt động thu thập, xử lý và trình bày số liệu, cũng như tính toán các chỉ tiêu liên quan đến tăng trưởng kinh tế, luồng vốn và mức độ tự do hóa tài khoản vốn Những số liệu này, chủ yếu là số liệu thứ cấp, được thu thập từ Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới, nhằm phục vụ cho quá trình phân tích và đánh giá.

- Mô hình nghiên cứu dự kiến:

Y it = α + β1CAL it + β 2 FD it + β 3 CONTROL it + β 4 CALFD it + є it

Yit là logarit của GDP danh nghĩa và tốc độ tăng trưởng GDP tại năm thứ t CAL đại diện cho logarit của chỉ số tự do hóa tài khoản vốn, được đo lường theo hai phương pháp: thứ nhất, theo cơ sở pháp lý (de jure) với chỉ số Kaopen; thứ hai, theo lượng vốn thực tế chảy vào trong nước (de facto), bao gồm tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài (foreign asset and liabilities) so với GDP (FAL), như đề xuất bởi Lane và Milesti Ferreti (2006).

FD là chỉ số phản ánh sự phát triển tài chính, đóng vai trò quan trọng trong mô hình tăng trưởng nội sinh, nơi mà sự phát triển tài chính cao hơn dẫn đến tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn Phát triển tài chính bao gồm năm chức năng chính: tìm kiếm và cung cấp thông tin đầu tư, giám sát và quản trị doanh nghiệp, tạo điều kiện cho thương mại và quản trị rủi ro, huy động tiết kiệm, và cung cấp dịch vụ tài chính Ngân hàng Thế giới đã xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá sự phát triển tài chính của các quốc gia, chia thành hai nhóm: phát triển định chế tài chính và phát triển thị trường tài chính Bài viết này tập trung vào các biến đại diện cho sự phát triển của các định chế tài chính.

Cụ thể các biến được lựa chọn bao gồm: Tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/ GDP.

Kiểm soát tăng trưởng kinh tế bao gồm các biến như tổng đầu tư trong nước/GDP (INV) và độ mở thương mại (OPEN), được tính bằng (xuất khẩu + nhập khẩu)/GDP Theo lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển và tăng trưởng nội sinh, đầu tư trong nước có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Edwards (1993) chỉ ra rằng các nền kinh tế mở cửa thương mại quốc tế sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn Thêm vào đó, biến tương tác CALFD trong mô hình giúp đánh giá vai trò của phát triển tài chính trong mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế; nếu hệ số của biến này khác không, điều đó cho thấy phát triển tài chính có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm mối quan hệ này, tùy thuộc vào dấu hiệu của biến CAL trong mô hình.

- Phương pháp ước lượng: Phương trình có thể được ước lượng theo phương pháp hồi quy dữ liệu mảng với các mô hình như sau:

Mô hình hỗn hợp (Pooled OLS) giả định rằng tung độ gốc và hệ số độ dốc không thay đổi theo thời gian và đơn vị, với phương pháp ước lượng là bình phương nhỏ nhất cổ điển, không có nhân tố ci trong mô hình Ngược lại, mô hình hiệu ứng cố định (FE) cho rằng các hệ số độ dốc có thể không đổi nhưng tung độ gốc có thể thay đổi theo đơn vị hoặc theo thời gian, và có thể có sự khác biệt đặc trưng giữa các đơn vị, ảnh hưởng đến biến giải thích Mô hình FE đánh giá tác động của những khác biệt này đến biến được giải thích, thể hiện tính linh hoạt hơn trong việc phân tích dữ liệu.

Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (RE) giả định sự khác biệt đặc trưng giữa các đơn vị là ngẫu nhiên và không tương quan với biến giải thích, với ci không có tương quan với các biến này Phương pháp ước lượng cho mô hình RE sử dụng bình phương nhỏ nhất tổng quát, cho phép sử dụng một hệ số chặn duy nhất cho tất cả các đơn vị chéo, được tính là giá trị trung bình của tất cả các đơn vị chéo và có khả năng đo lường các nhân tố không đổi theo thời gian Để xác định mô hình hiệu quả nhất, các kiểm định như kiểm định nhân tử Breuch & Pagan và kiểm định Hausman được áp dụng.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HÓA TÀI KHOẢN VỐN, PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Những vấn đề cơ bản về tự do hóa tài khoản vốn

2.1.1 Khái niệm tự do hóa tài khoán vốn

Tự do hóa tài khoản vốn là khái niệm trái ngược với kiểm soát vốn, phản ánh xu hướng các quốc gia dần dần loại bỏ kiểm soát đối với dòng vốn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập Việc hiểu rõ về tự do hóa tài khoản vốn đòi hỏi phải xem xét kiểm soát vốn, bao gồm khái niệm, mục đích và các chi phí mà nó gây ra cho nền kinh tế.

Kiểm soát vốn là hành động mà một quốc gia thực hiện để điều chỉnh các dòng vốn vào và ra khỏi lãnh thổ của mình Các biện pháp kiểm soát vốn có thể đa dạng và phục vụ nhiều mục đích khác nhau Thông thường, các biện pháp này bao gồm việc đánh thuế giao dịch trên tài khoản vốn, kiểm soát giá và khối lượng, hoặc thậm chí là hạn chế hoàn toàn các giao dịch vốn quốc tế.

Các quốc gia có thể thực hiện kiểm soát vốn với các mục đích như sau:

Các quốc gia tham chiến trong hai cuộc chiến tranh thế giới đã áp dụng biện pháp kiểm soát dòng vốn ra để tạo thêm thu nhập và tài trợ cho chiến tranh Họ giới hạn dòng vốn ra nhằm bảo toàn vốn trong nước, giúp Chính phủ dễ dàng thu thuế từ tài sản và thu nhập Ngoài ra, việc cho phép lạm phát cao hơn cũng góp phần tăng thu nhập trong nước Hơn nữa, lãi suất giảm sẽ làm giảm chi phí vay nợ của Chính phủ, từ đó hỗ trợ tài chính cho các nỗ lực chiến tranh.

Khi các quốc gia gặp thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế (BOP), họ thường thực hiện biện pháp hạn chế dòng vốn ra để giảm nhu cầu đối với tài sản nước ngoài Điều này giúp quản lý tình trạng thâm hụt mà không cần phải giảm cung tiền hay tiến hành phá giá đồng nội tệ.

Trong trường hợp thặng dư cán cân thanh toán quốc tế (BOP), các quốc gia sẽ kiểm soát dòng vốn vào để giảm cầu nước ngoài đối với tài sản trong nước Điều này giúp ngăn chặn lãng phí nguồn lực tài chính mà không cần phải tăng cung tiền hay nâng giá đồng nội tệ.

Để ổn định kinh tế vĩ mô, các quốc gia cần ngăn chặn dòng vốn vào bất ổn bằng cách hạn chế các dòng vốn ngắn hạn dễ bay hơi, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế.

Để ngăn chặn sự tăng giá thực của đồng nội tệ do dòng vốn vào quá mức, các quốc gia có thể cần tăng cung tiền, nhưng điều này có thể dẫn đến lạm phát trong nước và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Do đó, một biện pháp thay thế là giới hạn dòng vốn vào để duy trì sự ổn định cho đồng nội tệ.

Vào thứ sáu, chính phủ sẽ hạn chế quyền sở hữu của nước ngoài đối với tài sản trong nước, đặc biệt là các nguồn lực tự nhiên Đồng thời, việc kiểm soát dòng vốn ra cũng có thể được áp dụng nhằm bảo vệ tiết kiệm trong nước, từ đó khuyến khích đầu tư nội địa.

Kiểm soát vốn, mặc dù được áp dụng để phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, đã hạn chế lợi ích từ di chuyển vốn quốc tế như chia sẻ rủi ro, đa dạng hóa, tăng trưởng và chuyển giao công nghệ Hơn nữa, việc này còn mâu thuẫn với các cam kết quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng Do đó, xóa bỏ kiểm soát giao dịch vốn và tự do hóa tài khoản vốn là cần thiết để các quốc gia nâng cao mức độ hội nhập tài chính với nền kinh tế thế giới.

Kiểm soát vốn là các biện pháp mà quốc gia áp dụng để hạn chế hoặc điều chỉnh dòng vốn vào và ra khỏi lãnh thổ, trong khi tự do hóa tài khoản vốn là việc xóa bỏ những hạn chế này Theo Henry (2007), tự do hóa tài khoản vốn là quyết định của Chính phủ để chuyển từ cơ chế tài khoản vốn đóng sang hệ thống tài khoản vốn mở, cho phép dòng vốn tự do ra vào lãnh thổ Prasad và Rajan cũng đã đưa ra khái niệm tương tự về tự do hóa tài khoản vốn.

Tự do hóa tài khoản vốn, theo quan điểm của năm 2008, là quá trình loại bỏ các hạn chế đối với dòng vốn và cho phép nhà đầu tư trong nước tự do đầu tư vào tài sản nước ngoài Điều này phản ánh quyết định của Chính phủ một quốc gia nhằm dỡ bỏ rào cản đối với các giao dịch trên tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế Các giao dịch này bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài, vay nợ nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài.

Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và quy định của các tổ chức quốc tế mà quốc gia tham gia, Chính phủ các nước có thể quyết định thực hiện tự do hóa một phần hoặc hoàn toàn tài khoản vốn.

Năm 2007 đã trình bày ba cấp độ của việc tự do hóa giao dịch trên tài khoản vốn của các quốc gia, bao gồm tự do hóa hoàn toàn, tự do hóa một phần và không tự do hóa, tức là kiểm soát vốn hoàn toàn.

Bảng 2.1: Nội dung tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn

Tự do hóa hoàn toàn

Vay nợ nước ngoài của các ngân hàng và tổ chức

Các ngân hàng và tổ chức được phép vay nợ nước ngoài một cách tự do, với yêu cầu thông báo cho Chính phủ nhưng việc cấp phép diễn ra gần như tự động Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể thấp hơn 10%, và thời gian vay tối thiểu quy định có thể dưới 2 năm.

Chế độ đa tỷ giá và các hạn chế khác

Không quy định tỷ giá đặc biệt cho giao dịch tài khoản vãng lai và tài khoản vốn Không quy định hạn chế đối với dòng vốn ra.

Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài

Các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ cổ phiếu trong nước không giới hạn (ngoại trừ một số lĩnh vực đặc biệt).

Chuyển vốn và cổ tức từ các nhà đầu tư nước ngoài có thể thực hiện trong vòng 2 năm kể từ thời điểm đầu tư ban đầu, bao gồm cả lợi nhuận.

Tự do hóa một phần

Vay nợ nước ngoài của ngân hàng và tổ chức

Mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế

2.2.1 Tác động của tự do hóa tài khoản vốn tới tăng trưởng kinh tế

2.2.1.1 Tự do hóa tài khoản vốn tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua kênh đầu tư

Trở ngại lớn nhất đối với các nước đang phát triển là thiếu vốn đầu tư và công nghệ, điều này ảnh hưởng đến việc tạo ra công ăn việc làm, đổi mới công nghệ và tăng năng suất lao động Để phát triển kinh tế, các quốc gia này cần tìm kiếm nguồn vốn bên ngoài, vì tỷ lệ tiết kiệm trong nước thường thấp Vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra cú huých quan trọng, giúp các nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu Do đó, tự do hóa tài khoản vốn và nới lỏng các hạn chế của Chính phủ đối với dòng vốn sẽ thu hút đầu tư nước ngoài, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Xét trên phương diện kinh tế vĩ mô, đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế ở cả hai mặt: tổng cung và tổng cầu.

Tổng cầu được xác định bởi các yếu tố như tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình (C), đầu tư (I), chi tiêu của Chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (X-M) Trong đó, Y đại diện cho GDP, I bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, cho thấy vai trò quan trọng của đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Khi một quốc gia đang phát triển tự do hóa tài khoản vốn, việc tăng cường vốn đầu tư từ nước ngoài sẽ dẫn đến sự gia tăng tổng đầu tư (I), từ đó trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng GDP.

Các mô hình tăng trưởng tổng cung, như Harrod-Domar và mô hình tân cổ điển của Rober M Solow, đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của vốn trong quá trình tăng trưởng kinh tế.

Mô hình tăng trưởng Harrod-Domar, được phát triển bởi hai nhà kinh tế học Roy Harrod và Evsay Domar vào thập kỷ 40 của thế kỷ XX, là một công cụ quan trọng trong nghiên cứu kinh tế Mô hình này thường được áp dụng ở các nước đang phát triển để phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nhu cầu vốn.

Mô hình Harrod-Domar nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong tăng trưởng kinh tế Đối với các nước đang phát triển, khả năng tích lũy vốn trong nước thường hạn chế, do đó, Chính phủ cần dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài như đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay nợ và viện trợ quốc tế để đảm bảo đủ vốn cho sự phát triển kinh tế.

Mô hình tăng trưởng tân cổ điển:

Giả định rằng sản lượng đầu ra Y được tạo ra từ vốn K, lao động L và năng suất lao động A, bắt đầu từ hàm sản xuất Cobb-Douglas.

Hàm sản xuất được mô tả bởi Y = f(K, AL) = K^α(AL)^(1-α), với k = K/AL là vốn trên một đơn vị lao động hiệu dụng và y = Y/AL là sản lượng trên một đơn vị lao động hiệu dụng, có thể viết lại thành y = f(k) = k^α Tỷ lệ tiết kiệm s và tỷ lệ khấu hao δ của tư bản ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của vốn Khi đầu tư mới diễn ra, vốn sẽ tăng lên, nhưng đồng thời cũng bị khấu hao theo thời gian Phương trình Δcapital của một số nước Châu Á được biểu diễn là Δk = I – δk = sf(k) – δk Nếu đầu tư mới lớn hơn khấu hao, vốn tiếp tục tăng và Δk > 0 Quá trình này sẽ tiếp diễn cho đến khi đầu tư mới chỉ đủ để bù đắp khấu hao, dẫn đến Δk = 0 và nền kinh tế đạt trạng thái dừng, nơi lượng vốn và sản lượng giữ nguyên không đổi Tại trạng thái dừng, mọi biến số trong nền kinh tế hội tụ về một giá trị cố định.

Giả sử lực lượng lao động hàng năm tăng trưởng với tỷ lệ n (%) và trình độ công nghệ tăng với tỷ lệ g (%), để duy trì mức vốn không đổi, giá trị đầu tư cần thiết bao gồm: nk để cung ứng vốn cho lao động mới, gk để cung ứng vốn cho lao động hiệu dụng nhờ tiến bộ công nghệ, và δk để thay thế vốn hao mòn Phương trình biểu diễn mối quan hệ này là: Δcapital của một số nước Châu Ák = sf(k) – (n+g+δ) k Khi Δcapital của một số nước Châu Ák = 0, nền kinh tế đạt trạng thái dừng tại điểm A trên đồ thị, thể hiện tốc độ tăng trưởng của các biến qua bảng thống kê.

Bảng 2.5: Mức tăng trưởng ở trạng thái dừng của các biến

Biến Ký hiệu Mức tăng trưởng ở trạng thái dừng

Vốn trên một lao động hiệu dụng k=K/AL 0

Sản lượng trên một lao động hiệu dụng y=Y/AL 0

Sản lượng trên lao động Y/L=y*A g

Trong bối cảnh lãi suất ở các nước đang phát triển luôn cao hơn lãi suất toàn cầu, việc tự do hóa vốn sẽ thu hút dòng vốn từ bên ngoài, dẫn đến sự cân bằng giữa lãi suất thế giới và lãi suất nội địa Khi không còn rào cản nào, đầu tư sẽ gia tăng, làm cho đường sf(k) dịch chuyển sang phải và cắt đường (n+g+δ)k tại điểm A’, từ đó nền kinh tế sẽ đạt trạng thái dừng mới ở k*.

Trước khi tự do hóa, tỷ lệ vốn trên mỗi đơn vị lao động hiệu dụng (ks.state) giữ nguyên hằng số, với tổng vốn K tăng trưởng theo tỷ lệ n+g Sau khi tự do hóa, tỷ lệ vốn trên lao động hiệu dụng (ks.state *) cũng duy trì hằng số, và tổng vốn tiếp tục tăng trưởng với tỷ lệ n+g.

Sản lượng trên mỗi lao động hiệu dụng k ks.state k*s.stat e

Theo mô hình tăng trưởng tân cổ điển, tự do hóa tài khoản vốn đối với các nước nhỏ và đang phát triển mang lại nhiều lợi ích đáng kể Đầu tiên, dòng vốn từ nước ngoài sẽ chảy vào trong nước, tạo điều kiện cho vốn đầu tư tăng đột biến Điều này dẫn đến sự gia tăng sản lượng đầu ra trên mỗi lao động, mặc dù mức tăng trưởng này chỉ mang tính tạm thời và sẽ giảm dần theo thời gian Tuy nhiên, quá trình tự do hóa sẽ tạo ra cú huých giúp nâng cao mức sản lượng trên mỗi lao động trong dài hạn (Henry, 2007).

2.1.1.2 Tự do hóa tài khoản vốn tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua sự

Tỷ lệ tăng trưởng K r r* to t

Chi phí vốn Đầu tư Lãi suất to t

Tác động trong dài hạn của tự do hóa phát triển tài chính

Phát triển tài chính đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, như đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm Lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh nhấn mạnh rằng khu vực tài chính cung cấp dịch vụ tài chính cho doanh nghiệp và hộ gia đình, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững Một hệ thống tài chính phát triển giúp huy động và phân bổ vốn hiệu quả, giảm thiểu rủi ro tài chính và chi phí giao dịch Thêm vào đó, thị trường vốn phát triển tạo ra nhiều cơ hội đầu tư cho nhà đầu tư, khuyến khích tiết kiệm và tăng tích lũy vốn, từ đó thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế Ngược lại, một khu vực tài chính bất ổn và kém phát triển sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Tự do hóa tài khoản vốn không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc gia tăng vốn đầu tư mà còn ảnh hưởng gián tiếp đến nền kinh tế qua khu vực tài chính, với cả những tác động tích cực và tiêu cực Dòng vốn vào khu vực tài chính bao gồm vốn vào ngân hàng và thị trường vốn Đặc biệt, dòng vốn vào ngân hàng thể hiện qua sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài, vốn vay nợ nước ngoài của ngân hàng thương mại trong nước, và huy động vốn từ thị trường quốc tế Bên cạnh đó, thị trường vốn trong nước, khi mở cửa và hội nhập với thị trường quốc tế, sẽ thu hút một lượng lớn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua bán tài sản tài chính một cách chính thức và công khai.

Mở cửa thị trường vốn không chỉ thúc đẩy sự phát triển tài chính về quy mô mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính, từ đó góp phần vào tăng trưởng kinh tế bền vững.

Thứ nhất, tự do hóa tài khoản vốn làm tăng quy mô của khu vực ngân hàng.

THỰC TRẠNG TỰ DO HÓA TÀI KHOẢN VỐN, PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA ASEAN

Thực trạng tự do hóa tài khoản vốn ở khu vực Asean

3.1.1 Đánh giá thực trạng tự do hóa tài khoản vốn ở khu vực Asean qua chỉ số pháp lý và chỉ số dòng vốn thực tế

Dựa trên chỉ số KAOPEN, có thể chia các quốc gia trong khu vực Asean thành

Có ba nhóm nước về kiểm soát dòng vốn: Nhóm thứ nhất là Myanmar, nơi kiểm soát hoàn toàn dòng vốn Nhóm thứ hai bao gồm Singapore và Campuchia, với Singapore tự do hóa hoàn toàn giao dịch vốn và Campuchia cũng đã thực hiện điều này từ năm 2016 Nhóm thứ ba là các nước tự do hóa một phần giao dịch vốn, bao gồm Lào, Việt Nam, Indonesia, Philippines, Malaysia và Thái Lan.

Biểu đồ 3.1: Chỉ số KAOPEN của khu vực Asean trong hai năm 2005 và 2018

Nguồn: Chinn and Ito website

Singapore là quốc gia duy nhất thực hiện tự do hóa hoàn toàn tài khoản vốn từ năm 2005 đến 2018, trong khi Myanmar lại duy trì kiểm soát hoàn toàn đối với các giao dịch vốn Theo báo cáo AREAER của IMF (2018), Myanmar hiện đang kiểm soát các giao dịch trên thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, tín dụng thương mại, tín dụng tài chính, đầu tư trực tiếp, giao dịch tài sản thực và giao dịch vốn cá nhân.

Giữa giai đoạn 2005-2018, Campuchia và Việt Nam đã có xu hướng tăng cường tự do hóa tài khoản vốn Đặc biệt, vào năm 2018, Campuchia đã hoàn toàn tự do hóa giao dịch vốn, trong khi Việt Nam cũng ghi nhận sự cải thiện đáng kể với chỉ số KAOPEN tăng từ 0,1657 năm 2005 lên 0,4164 năm 2018.

Ngược lại, Thái Lan và Indonesia là hai quốc gia có mức độ tự do hóa tài khoản vốn có xu hướng giảm xuống trong giai đoạn 2005-2018.

Năm 2018, chỉ số KAOPEN cho thấy mức độ tự do hóa tài khoản vốn của các quốc gia ASEAN được phân loại như sau: Singapore và Campuchia đứng đầu với tự do hóa hoàn toàn, tiếp theo là Philippines, Indonesia, Malaysia và Việt Nam, trong khi Thái Lan và Myanmar thuộc nhóm thứ ba, với Myanmar kiểm soát hoàn toàn vốn Dù Campuchia có mức độ tự do hóa cao, nhưng hệ thống tài chính yếu kém khiến quốc gia này thiếu cơ chế điều chỉnh dòng tài chính xuyên biên giới Thách thức lớn nhất của Campuchia là phát triển thị trường tài chính nội địa và duy trì ổn định tài chính để ứng phó với sự bất ổn từ dòng vốn nước ngoài, đặc biệt là dòng vốn ngắn hạn.

Theo báo cáo AREAER (2018) của IMF, tài khoản vốn của các quốc gia ASEAN có những đặc điểm nổi bật: nhiều quốc gia có độ mở cao nhưng vẫn duy trì một số hạn chế đối với dòng vốn; việc kiểm soát dòng vốn ra là phổ biến; mặc dù hầu hết các nước chấp thuận điều VIII trong thỏa thuận của IMF, nhiều quốc gia vẫn áp dụng giới hạn thanh toán cho các giao dịch vãng lai, chẳng hạn như quy trình xác minh nghiêm ngặt đối với thanh toán dịch vụ; và nhiều quốc gia cũng áp dụng các hạn chế đối với vay nợ nước ngoài, có thể do bài học từ khủng hoảng tài chính ASEAN năm 1997.

Chỉ số dòng vốn thực tế

Chỉ số KAOPEN, dựa trên cơ sở pháp lý, cùng với chỉ số dòng vốn thực tế (tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài/GDP) được sử dụng để đánh giá mức độ tự do hóa tài khoản vốn của các quốc gia Thực trạng tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài/GDP của các quốc gia ASEAN được thể hiện rõ qua bảng số liệu dưới đây.

Indonesia Lào Malaysia Myanmar Philippine Thái Lan Việt Nam Campuchia

Biểu đồ 3.2: Tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài/GDP của khu vực

Biểu đồ 3.2 cho thấy rằng chỉ số dòng vốn thực tế của các quốc gia có sự biến động mạnh qua các năm, với Malaysia và Thái Lan là hai quốc gia có chỉ số này dao động mạnh nhất Năm 2006 và giai đoạn 2009-2015, Malaysia ghi nhận chỉ số FAL cao nhất, đặc biệt là năm 2007 với mức 0,284 Tuy nhiên, Malaysia cũng nằm trong số bốn quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, khi tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài/GDP của nước này giảm xuống mức -0,0191 vào năm 2008.

Giống như Malaysia, Thái Lan cũng ghi nhận sự biến động mạnh trong chỉ số dòng vốn thực tế Biểu đồ cho thấy bốn đỉnh cao nhất của chỉ số FAL xảy ra vào năm 2006.

2010, 2012 và 2017, đồng thời có 3 đáy thấp nhất rơi vào các năm 2008, 2011 và

2015 Trong đó năm 2008, chỉ số FAL là thấp nhất và cũng là chỉ số thấp nhất trong toàn bộ khu vực Asenan + 3, ở mức -0,0071.

Campuchia đã hoàn toàn tự do hóa giao dịch vốn trong giai đoạn 2015-2018, với chỉ số Kaopen đạt 1 Trong cùng thời gian, chỉ số FAL tại Campuchia có xu hướng tăng, từ mức thấp nhất 0,072 vào năm 2005 lên mức cao nhất 0,1523 vào năm 2018, cho thấy sự ổn định tương đối Trong khu vực ASEAN, Philippines, Myanmar và Indonesia là ba quốc gia có chỉ số FAL thuộc nhóm thấp.

Lào là quốc gia có chỉ số pháp lý Kaopen rất thấp, giữ nguyên ở mức 0,1657 từ năm 2005 đến 2018 Tuy nhiên, chỉ số dòng vốn thực tế của Lào lại tương đối cao so với các nước trong khu vực, đặc biệt trong giai đoạn 2014-2018 Đến năm 2018, chỉ số FAL của Lào đạt mức tương đương với Việt Nam, chỉ thấp hơn Campuchia và Nhật Bản.

So với Malaysia, Thái Lan và Philippines, chỉ số FAL của Việt Nam thể hiện sự ổn định hơn Trong giai đoạn 2005-2018, chỉ số FAL của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao so với các quốc gia khác Mặc dù khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 đã làm giảm chỉ số FAL so với năm 2007, nhưng mức giảm này vẫn thấp hơn đáng kể so với Malaysia, Thái Lan, Lào và Philippines.

3.1.2 Quá trình tự do hóa tài khoản vốn ở một số quốc gia điển hình

(1) Quá trình tự do hóa tài khoản vốn ở Indonesia

Giữa giai đoạn 1970-1997, Indonesia ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng với GDP trung bình đạt 6,8% mỗi năm trước khi xảy ra khủng hoảng Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng và quá trình tự do hóa tài chính Kể từ năm 1978, Indonesia đã tự do hóa tài khoản vốn và áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt, dẫn đến dòng vốn nước ngoài lớn đổ vào, góp phần nâng cao sự giàu có và thịnh vượng của quốc gia.

Các dòng vốn nước ngoài chảy vào Indonesia

Trong giai đoạn phát triển ban đầu, Indonesia chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng với sự hỗ trợ quan trọng từ nguồn đầu tư nước ngoài do nguồn lực trong nước hạn chế Tăng trưởng nhanh chóng của khu vực tư nhân đã thúc đẩy dòng vốn đầu tư, tuy nhiên, việc đầu tư ngắn hạn gia tăng đã làm tăng rủi ro và góp phần vào cuộc khủng hoảng năm 1997 Trong thập kỷ 70 và 80, hầu hết dòng vốn vào là từ nguồn vốn chính thức, nhưng từ cuối những năm 80, tỷ trọng vốn tư nhân đã tăng lên, phản ánh vai trò ngày càng quan trọng của khu vực tư nhân trong nền kinh tế Indonesia Từ 1990 đến 1996, dòng vốn vào Indonesia tăng nhanh nhờ vào việc xóa bỏ hạn chế đối với các khoản vay thương mại bằng ngoại tệ, sự ra đời của công cụ tài chính hoán đổi tiền tệ và lãi suất nội địa cao hơn lãi suất quốc tế.

Số dư các khoản vay tư nhân đã thay đổi từ mức cho vay 0,1 tỷ USD năm

Năm 1989, Việt Nam đã vay 0,5 tỷ USD, và con số này tăng lên 0,89 tỷ USD vào năm 1991 Tuy nhiên, đến năm 1993, số tiền vay của khu vực tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước đã giảm Sự sụt giảm này tiếp tục diễn ra vào năm 1994 khi các khoản vay của ngân hàng cũng giảm, dẫn đến việc lãi suất tăng vào cuối năm 1994.

Năm 1996, dòng vốn đầu tư vào Indonesia đạt 2,6 tỷ USD, với sự gia tăng đáng kể trong đầu tư gián tiếp từ 0,4 tỷ USD năm 1989 lên 2 tỷ USD năm 1990, trước khi giảm xuống 1 tỷ USD trong hai năm 1991 và 1992 Sự gia tăng này chủ yếu nhờ vào các biện pháp chính sách của Chính phủ đối với thị trường vốn và lãi suất trong nước Đầu tư gián tiếp tăng mạnh vào năm 1990 nhờ điều chỉnh quy định quản lý thị trường vốn, và sau đó tiếp tục tăng cho đến mức tối đa vào năm 1996 trước khi giảm vào năm 1997.

Thực trạng phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở khu vực Asean

3.2.1 Phát triển tài chính ở khu vực Asean

Theo nghiên cứu của Ratna Sahay và cộng sự (2015), hệ thống tài chính của các thị trường mới nổi đã có sự phát triển đáng kể trong những năm gần đây, nhưng vẫn thấp hơn so với các nước phát triển Tính đến cuối năm 2013, tín dụng tư nhân trung bình ở các nước mới nổi chiếm khoảng 50% GDP, trong khi thị trường chứng khoán tăng trưởng từ 10-15% GDP mỗi năm, đạt mức trung bình 40% GDP Ngược lại, ở các nước phát triển, tín dụng tư nhân trung bình vượt 130% GDP, với mức vốn hóa thị trường chứng khoán khoảng 70% GDP.

Năm 2008 đã khơi dậy nhiều tranh luận về mối liên hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế cũng như sự ổn định của khu vực tài chính Mặc dù phát triển tài chính có thể thúc đẩy tăng trưởng, nhưng nếu không được kiểm soát, các quốc gia có thể đối mặt với rủi ro bất ổn định Cả trong các quốc gia phát triển và mới nổi, vai trò của các tổ chức tài chính phi ngân hàng như ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm ngày càng trở nên quan trọng Thị trường tài chính cung cấp cơ hội cho cá nhân và doanh nghiệp đa dạng hóa tiết kiệm và huy động vốn qua các thị trường cổ phiếu, trái phiếu và ngoại hối Để đánh giá sự phát triển tài chính, Ratna Sahay và cộng sự (2015) đã xây dựng chỉ số phát triển tài chính tổng hợp cho 128 quốc gia từ 1980 đến 2017, bao gồm chỉ số các tổ chức tài chính và chỉ số thị trường tài chính, với các chỉ số con về độ sâu, tiếp cận và hiệu quả.

Bảng 3.1: Tổng hợp các chỉ số phát triển tài chính

Chỉ số tổ chức tài chính Chỉ số thị trường tài chính ĐỘ SÂU TÀI

1 Tín dụng tư nhân (%GDP)

2 Tài sản quỹ hưu trí (%GDP)

3 Tài sản quỹ tương hỗ (%GDP)

4 Phí bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ (%GDP)

1 Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu trên GDP

2 Khối lượng giao dịch cổ phiếu trên GDP

3 Chứng khoán nợ chính phủ quốc tế (%GDP)

4 Tổng chứng khoán nợ của các doanh nghiệp phi tài chính (%GDP)

5 Tổng chứng khoán nợ của các tổ chức tài chính (%GDP)

TIẾP CẬN 1 Số chi nhánh ngân hàng trên 1 Thị phần mức vốn hóa thị trường

2 Số ATM trên 100,000 người lớn bên ngoài nhóm 10 công ty lớn nhất

2 Tổng số đơn vị phát hành nợ

2 Chênh lệch giữa tiết kiệm và cho vay

3 Thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập

1 Hệ số vòng quay thị trường chứng khoán (khối lượng giao dịch/vốn hóa)

Nguồn: Ratna Sahay và cộng sự (2015)

Campuchia Indonesia Lào Malaysia Myanmar Philippine Singapore Thái Lan Việt Nam

Biều đồ 3.3: Phát triển tài chính của khu vực Asean trong giai đoạn 2005-2017

Nghiên cứu này phân chia 9 quốc gia thành 4 nhóm dựa trên mức độ phát triển tài chính Nhóm 1 bao gồm Singapore, quốc gia có phát triển tài chính cao Nhóm 2 gồm Malaysia và Thái Lan, với mức độ phát triển tài chính trung bình cao Nhóm 3 là Philippines, Indonesia và Việt Nam, thuộc nhóm phát triển tài chính trung bình thấp Cuối cùng, nhóm 4 là Lào, quốc gia có phát triển tài chính ở mức độ thấp.

Myanmar và Campuchia. Độ sâu tài chính của các tổ chức tài chính: được đo lường bằng chỉ tiêu tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/GDP

Campuchia Indonesia Lào Malaysia Myanmar Philippine Singapore Thái Lan Việt Nam

Biểu đồ 3.4: Độ sâu tài chính của tổ chức tài chính

Biểu đồ phân loại các quốc gia nghiên cứu thành hai nhóm dựa trên mức độ phát triển tài chính Nhóm 1, với độ sâu tài chính cao, bao gồm Thái Lan, Malaysia, Singapore và Việt Nam, trong đó Thái Lan, Malaysia và Singapore có tỷ lệ tín dụng trong nước/GDP trên 100% từ năm 2010, trong khi Việt Nam đạt mốc này từ năm 2015 Nhóm 2, với tỷ lệ tín dụng thấp hơn, gồm Myanmar, Lào, Indonesia và Campuchia, trong đó Campuchia nổi bật với sự tăng trưởng vượt bậc về tỷ lệ tín dụng trong giai đoạn 2005-2020.

2018, tăng từ 8,23% năm 2005 lên 80,32% năm 2018.

Tiếp cận tài chính của các tổ chức tài chính

Campuchia Indonesia Lào Malaysia Myanmar Philippine Singapore Thái Lan Việt Nam

Biểu đồ 3.5: Tiếp cận tài chính của các tổ chức tài chính

Biểu đồ 3.5 cho thấy Thái Lan và Indonesia đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong chỉ số tiếp cận tài chính từ 2005 đến 2018 Trong giai đoạn 2015-2018, chỉ số tiếp cận tài chính của Thái Lan và Indonesia cao hơn so với Malaysia và Singapore Ngược lại, các quốc gia như Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam và Philippines có chỉ số tiếp cận tài chính thấp hơn, trong đó Philippines có chỉ số cao nhất và Myanmar có chỉ số thấp nhất.

Chỉ số hiệu quả của các tổ chức tài chính:

Campuchia Indonesia Lào Malaysia Myanmar Philippine Singapore Thái Lan Việt Nam

Biểu đồ 3.6: Chỉ số hiệu quả của các tổ chức tài chính

Lào và Campuchia ghi nhận chỉ số hiệu quả tài chính thấp nhất trong khu vực, với Lào có xu hướng giảm dần từ 2005 đến 2018 Indonesia và Philippines đứng ở vị trí thứ hai về hiệu quả tài chính thấp Trong khi đó, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam duy trì mức độ hiệu quả tài chính ổn định và đồng đều trong cùng khoảng thời gian Myanmar lại cho thấy sự biến động lớn nhất về hiệu quả tài chính trong giai đoạn này.

3.2.2 Tăng trưởng kinh tế ở khu vực Asean

Giữa giai đoạn 2005-2018, các nước ASEAN đã ghi nhận sự phát triển kinh tế ấn tượng, với tổng GDP đạt 3 tỷ USD vào năm 2018, đưa ASEAN trở thành nền kinh tế lớn thứ năm toàn cầu, chỉ sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Đức Sự tăng trưởng GDP của khu vực này diễn ra liên tục từ năm 2000 đến 2018, và không bị ảnh hưởng đáng kể bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008-2009.

Từ năm 2000 đến 2018, khu vực ASEAN ghi nhận mức tăng trưởng GDP thực trung bình 5,3%, với đỉnh điểm đạt 7,5% vào năm 2010 Trong số các quốc gia ASEAN, Myanmar dẫn đầu với mức tăng trưởng GDP thực trung bình cao nhất là 9,8%, tiếp theo là Campuchia, Lào và Việt Nam.

Bảng 3.2: Tăng trưởng GDP thực giai đoạn 2000-2018 Đơn vị: %

Thu nhập bình quân đầu người tại khu vực ASEAN đã tăng từ 3.299,3 USD vào năm 2010 lên 4.601,3 USD vào năm 2018 Singapore dẫn đầu với thu nhập cao nhất trong khu vực, theo sau là Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines Trong khi đó, Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam là bốn quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất trong ASEAN.

Trong giai đoạn nghiên cứu, thu nhập bình quân đầu người của Malaysia và Thái Lan tương đối giống nhau, chịu ảnh hưởng nặng nề từ khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 và khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, nhưng đã phục hồi nhanh chóng Malaysia đã chuyển mình từ nền kinh tế phụ thuộc vào nông nghiệp và xuất khẩu hàng hóa sang một nền kinh tế đa dạng và mở, gắn kết chặt chẽ với chuỗi giá trị toàn cầu Tương tự, Thái Lan cũng có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với xuất khẩu chiếm hơn 70% GDP, cho thấy sự kết nối mạnh mẽ với thị trường toàn cầu.

Indonesia và Philippines đều có thu nhập bình quân đầu người và tăng trưởng GDP cao trong khu vực ASEAN Cuối thế kỷ 20, Indonesia đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, dẫn đến sự sụp đổ kinh tế nghiêm trọng với mức suy giảm lên tới 15% Tuy nhiên, nhờ vào các cải cách cơ cấu và chính sách kinh tế hiệu quả, Indonesia đã phục hồi nhanh chóng và duy trì tăng trưởng ổn định, ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 Ngược lại, Philippines không chịu tác động nặng nề từ khủng hoảng tài chính châu Á nhưng lại bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu, hiện nay triển vọng tăng trưởng kinh tế của Philippines được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đánh giá tích cực về đầu tư và cạnh tranh.

CHƯƠNG 4: MỐI QUAN HỆ GIỮA TỰ DO HÓA TÀI KHOẢN VỐN, PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA ASEAN

Phương pháp nghiên cứu

Trong phân tích số liệu mảng, các phương pháp truyền thống thường áp dụng bao gồm mô hình OLS gộp (Pooled OLS), mô hình tác động cố định và mô hình tác động ngẫu nhiên Những mô hình này giúp xử lý và phân tích dữ liệu hiệu quả, cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa các biến.

4.1.1 Mô hình hỗn hợp (Pooled OLS):

Mô hình hỗn hợp giả định rằng tung độ gốc và hệ số độ dốc không thay đổi theo thời gian và các đơn vị quốc gia Phương pháp ước lượng cho mô hình này sử dụng bình phương nhỏ nhất cổ điển Cụ thể, mô hình POLS cho rằng không có sự tồn tại của nhân tố ci, tức là nhân tố phản ánh sự khác biệt đặc trưng giữa các đơn vị nhưng không thể đo lường được trong mô hình.

4.1.2 Mô hình hiệu ứng cố định (FE):

Mô hình hiệu ứng cố định (FE) được áp dụng trong các trường hợp khi các hệ số độ dốc không đổi nhưng tung độ gốc hoặc tung độ góc có thể thay đổi theo các đơn vị và thời gian Mô hình này khẳng định sự khác biệt đặc trưng giữa các đơn vị và theo thời gian, cho phép đánh giá ảnh hưởng của những khác biệt này đến biến được giải thích FE giúp xác định mối quan hệ giữa các biến giải thích và sự biến đổi của biến phụ thuộc trong bối cảnh có sự khác biệt rõ rệt giữa các đơn vị.

Trong một mối quan hệ kinh tế, với biến phụ thuộc Y và hai biến giải thích quan sát được X11 và X22, cùng với các biến không quan sát được, chúng ta có dữ liệu bảng cho Y, X11 và X22 Dữ liệu này bao gồm N đối tượng và T thời điểm, tạo thành NxT quan sát Mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển không có hệ số cắt được xác định bởi các yếu tố này.

Mô hình hồi quy được trình bày dưới dạng Yitit = β11Xit1it1 + β22Xit2it2 + μitit, trong đó Yitit đại diện cho giá trị của biến Y đối với đối tượng i tại thời điểm t Các biến độc lập Xit1it1 và Xit2it2 lần lượt là giá trị của X11 và X22 cho đối tượng i tại thời điểm t Sai số μitit phản ánh sự không chính xác trong dự đoán của mô hình cho đối tượng i tại thời điểm t.

Mô hình hồi quy tác động cố định, là một dạng mở rộng của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển, được cho bởi:

Mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển được biểu diễn bằng công thức Yitit = β11Xit1it1 + β22Xit2it2 + νii + εitit, trong đó sai số μitit được phân tách thành hai thành phần Thành phần νii phản ánh các yếu tố không quan sát được, khác nhau giữa các đối tượng nhưng không thay đổi theo thời gian, trong khi thành phần εitit đại diện cho những yếu tố không quan sát được, khác nhau giữa các đối tượng và có sự thay đổi theo thời gian.

Phương pháp ước lượng mô hình tác động cố định:

Có hai phương pháp ước lượng tham số của mô hình tác động cố định: ước lượng hồi quy biến giả tối thiểu LSDV và ước lượng tác động cố định Khi kích thước mẫu lớn, như N = 1000, việc sử dụng ước lượng LSDV trở nên cồng kềnh do cần tạo ra 1000 biến giả, vì vậy ước lượng tác động cố định là lựa chọn hợp lý hơn Nguyên tắc của ước lượng tác động cố định là đánh giá tác động nhân quả của các biến độc lập lên biến phụ thuộc thông qua sự thay đổi theo thời gian của chúng Biến không quan sát Zii, khác nhau giữa các đối tượng nhưng không thay đổi theo thời gian, không gây ra sự thay đổi trong biến phụ thuộc Yit, do đó, loại trừ tác động cố định của Zii giúp phân tích sự thay đổi trong Yit theo thời gian.

4.1.3 Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (RE)

Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (RE) giả định sự khác biệt đặc trưng giữa các đơn vị là ngẫu nhiên và không tương quan với biến giải thích, tức là tồn tại ci mà không có mối liên hệ với các biến này Phương pháp ước lượng cho mô hình RE là bình phương nhỏ nhất tổng quát, giúp tối ưu hóa kết quả Mô hình RE được coi là ưu việt hơn mô hình hiệu ứng cố định (FE) vì chỉ sử dụng một hệ số chặn duy nhất cho tất cả các đơn vị chéo, với giá trị này là trung bình của tất cả các đơn vị và có khả năng đo lường các nhân tố không đổi theo thời gian.

Trong một mối quan hệ kinh tế, chúng ta xem xét một biến phụ thuộc Y cùng với hai biến giải thích quan sát được là X11 và X22 Dữ liệu bảng cho Y, X11 và X22 sẽ được sử dụng để phân tích mối liên hệ này.

Dữ liệu bảng gồm có N đối tượng và T thời điểm, và vì vậy chúng ta có NxT quan sát.

Mô hình tác động ngẫu nhiên được viết dưới dạng:

YitYit = β11Xit1Xit1 + β22Xit2Xit2 + νii + εitεit với i = 1, 2, …, N và t = 1, 2, …, T

Sai số cổ điển được phân chia thành hai thành phần chính Thành phần νii đại diện cho các yếu tố không quan sát được, thay đổi giữa các đối tượng nhưng ổn định theo thời gian Ngược lại, thành phần εit thể hiện những yếu tố không quan sát được, thay đổi theo cả đối tượng và thời gian Giả sử rằng vii được xác định bởi công thức: vii = α00 + ωii, với i = 1, 2, …, N.

Trong đó, vii lại được phân chia làm hai thành phần: i) thành phần bất định a00, ii) thành phần ngẫu nhiên ωii.

Giả sử rằng, ωi cho mỗi đối tượng được lấy từ một phân phối xác suất độc lập, có giá trị trung bình bằng 0 và phương sai không đổi, tức là E(ωii) = 0 và Var(ωii).

N biến ngẫu nhiên ωi được gọi tác động ngẫu nhiên (random effects).

Mô hình tác động ngẫu nhiên có thể được viết lại:

Mô hình YitYit được biểu diễn bằng công thức α00Xit1Xit1 + β22Xit2Xit2 + μitit, trong đó thành phần sai số μitit được phân tách thành ωii và εitit Một giả định quan trọng trong mô hình tác động ngẫu nhiên là thành phần sai số μit không có mối tương quan với bất kỳ biến giải thích nào trong mô hình.

Phương pháp ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên sử dụng OLS sẽ cung cấp các tham số ước lượng không chệch nhưng không hiệu quả, dẫn đến sai số chuẩn và thống kê t không chính xác Nguyên nhân là do OLS không xem xét sự tự tương quan trong thành phần sai số μit Để đạt được kết quả ước lượng vừa không chệch vừa hiệu quả, chúng ta nên áp dụng ước lượng GLS khả thi (FGLS) nhằm khắc phục hiện tượng sai số nhiễu tự tương quan.

Câu hỏi đặt ra là mô hình nào sẽ là mô hình phù hợp: Pooled

Trong nghiên cứu kinh tế, việc lựa chọn giữa ước lượng tác động ngẫu nhiên (RE) và tác động cố định (FE) là rất quan trọng Để kiểm chứng tính phù hợp của ước lượng, ước lượng FE được kiểm tra bằng kiểm định F với giả thuyết Ho cho rằng tất cả các hệ số vi đều bằng 0, và nếu bác bỏ giả thuyết này với mức ý nghĩa 5%, điều đó cho thấy ước lượng FE là phù hợp Đối với ước lượng RE, phương pháp nhân tử Lagrange (LM) và kiểm định Breusch-Pagan được áp dụng để xác định tính phù hợp, với giả thuyết Ho cho rằng sai số không bao gồm các sai lệch giữa các đối tượng Nếu bác bỏ giả thuyết Ho, điều này chứng tỏ sai số trong ước lượng có sự sai lệch giữa các nhóm Cuối cùng, kiểm định Hausman sẽ được sử dụng để so sánh hai phương pháp này, với giả thuyết Ho cho rằng không có sự tương quan giữa sai số đặc trưng và các biến giải thích, cho thấy ước lượng FE là hợp lý trong cả hai giả thuyết.

Nếu giả thuyết Ho bị bác bỏ, thì ước lượng tác động cố định sẽ phù hợp hơn ước lượng tác động ngẫu nhiên Tuy nhiên, khi chưa có đủ bằng chứng để bác bỏ Ho, tức là không thể loại trừ mối tương quan giữa sai số và các biến giải thích, thì ước lượng tác động cố định sẽ không còn phù hợp và ước lượng ngẫu nhiên sẽ được ưu tiên sử dụng.

Mô hình nghiên cứu

4.2.1 Lựa chọn các biến cơ bản cho mô hình

Dựa trên lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tự do hóa tài khoản vốn đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển, tác giả đề xuất các biến cơ bản cho mô hình nghiên cứu.

Tăng trưởng (Y): nhóm tác giả sử dụng hai biến để đo lường tăng trưởng kinh tế: (1) GDP danh nghĩa; (2) tốc độ tăng trưởng GDP

Tự do hóa tài khoản vốn (CAL) được đo lường thông qua hai biến chính: chỉ số Kaopen và tỷ lệ tổng tài sản cùng khoản phải trả nước ngoài so với GDP.

Foreign assets encompass various categories, including direct investment assets, portfolio investment assets, other investment assets, and reserve assets.

Foreign liabilities encompass direct investment liabilities, portfolio investment liabilities, and other investment liabilities.

Sự phát triển tài chính (FD) được hiểu là sự cải thiện về số lượng, chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ trung gian tài chính Theo mô hình tăng trưởng nội sinh, sự gia tăng mức độ phát triển tài chính sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Phát triển tài chính của một quốc gia bao gồm sự tiến bộ của các định chế tài chính như ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm và các tổ chức tài chính khác, cũng như sự phát triển của thị trường tài chính Tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/GDP là biến đại diện cho phát triển tài chính và được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu của Braun (2007), Arics (2014), Prochniak (2011), Gantman và Dabos (2012), cùng Al-Malkawi và cộng sự (2012).

Các biến kiểm soát ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bao gồm đầu tư trong nước/GDP (INV) và độ mở thương mại (xuất khẩu + nhập khẩu)/GDP (OPEN) Theo mô hình tăng trưởng tân cổ điển, đầu tư trong nước có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Edwards (1993) cho rằng, lý thuyết tăng trưởng nội sinh chỉ ra rằng các nền kinh tế có độ mở thương mại cao sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội hơn.

Biến tương tác CALFD được tính bằng tích số của hai biến CAL và FD1.

Biến tương tác được sử dụng trong mô hình để đo lường mức độ ảnh hưởng của phát triển tài chính đối với mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế Nếu hệ số của biến tương tác khác không (≠ 0), điều này cho thấy phát triển tài chính có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm mối quan hệ này, tùy thuộc vào dấu của biến CALFD trong mô hình Nghiên cứu thực hiện kiểm định 4 mô hình khác nhau để làm rõ vấn đề này.

Mô hình 1: (Y1/CAL1, FD, INV, OPEN, CALFD)

Mô hình 2: (Y3/CAL1, FD, INV, OPEN, CALFD)

Mô hình 3: (Y1/CAL2, FD, INV, OPEN, CALFD)

Mô hình 4: (Y3/CAL2, FD, INV, OPEN, CALFD)

Giả thuyết nghiên cứu trong mô hình định lượng:

H1:“Tự do hóa tài khoản vốn được đo lường bằng chỉ số pháp lý Kaopen có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.”

Tự do hóa tài khoản vốn, được đo lường qua tỷ lệ tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài trên GDP, có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

H3:“Sự phát triển tài chính ảnh hưởng tới tác động của tự do hóa tài khoản vốn tới tăng trưởng kinh tế.”

4.2.2 Dữ liệu nghiên cứu và mô tả các biến trong mô hình

This study utilizes panel data from 12 ASEAN countries plus three additional nations, sourced from the International Monetary Fund's International Financial Statistics and the World Bank, covering the period from 2005 to 2018.

Bảng 4.1 : Diễn giải các biến trong mô hình

Tên biến Ký hiệu Diễn giải Nguồn dữ liệu

Tốc độ tăng trưởng GDP WDI

Tự do hóa tài khoản vốn CAL1 Kaopen Chin and Ito website

Tự do hóa tài khoản vốn CAL2 thể hiện tổng tài sản và khoản phải trả bằng ngoại tệ so với GDP theo IMF Đầu tư trong nước INV được đo bằng tổng giá trị tích lũy vốn so với GDP theo WDI Độ mở thương mại OPEN phản ánh tổng xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP theo WDI.

Phát triển tài chính FD Tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/GDP WDI

Tương tác tự do hóa và phát triển tài chính

CALFD Bằng tích số của hai biến CAL và FD

Tính toán của tác giả

Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

4.3.1 Kết quả lựa chọn mô hình

- Kiểm định Breusch-Pagan xem mô hình OLS gộp có phù hợp không:

Ho: Mô hình OLS gộp phù hợp

H1: Mô hình OLS gộp không phù hợp

Kết quả kiểm định Breusch-Pagan cho cả 4 mô hình cho thấy giá trị P = 0.0000, điều này bác bỏ giả thuyết Ho và chỉ ra rằng mô hình OLS gộp không phù hợp Do đó, cần xem xét sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên hoặc mô hình tác động cố định.

- Kiểm định Hausman xem mô hình ước lượng tác động cố định có phù hợp không:

Ho: ci không tương quan với các biến giải thích trong mô hình (mô hình fe là không phù hợp)

H1: ci có tương quan với các biến giải thích trong mô hình (mô hình fe là phù hợp)

Bảng 4.2: Kết quả lựa chọn mô hình

P-value Lựa chọn mô hình

Mô hình 1 0,5325 Mô hình RE

Mô hình 2 0,4377 Mô hình RE

Mô hình 3 0,2312 Mô hình RE

Mô hình 4 0,7344 Mô hình RE

Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả từ kết quả mô hình – phần mềm Stata 4.3.2 Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình

Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình được thể hiện thông qua bảng sau:

Bảng 4.3: Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình 1 và 2

Mô hình 1 (fixed effect) Y1/CAL1, FD, INV, OPEN, CALFD

Mô hình 2 (random effect) Y3/CAL1, FD, INV, OPEN, CALFD

(0,9539) Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả từ kết quả mô hình – phần mềm Stata

Bảng 4.4: Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình 3 và 4

Mô hình 3 (random effect) Y1/CAL2, FD, INV, OPEN,

Mô hình 4 (random effect) Y3/CAL2, FD, INV, OPEN,

(3,7453) Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả từ kết quả mô hình – phần mềm Stata

Phân tích ý nghĩa hệ số của các biến trong mô hình:

+ Hệ số biến CAL1 là 0,53466 cho biết khi hệ số Kaopen tăng 1% thì GDP danh nghĩa tăng 0,5346%

+ Hệ số của biến FD1 là 0,6396 cho biết khi tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/GDP tăng 1% thì GDP danh nghĩa tăng 0,6396%

+ Hệ số của biến OPEN là 0,6334 cho biết khi tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu/GDP tăng 1% thì GDP danh nghĩa tăng 0,6334%.

Biến CAL, INV và CALFD không có ý nghĩa thống kê.

+ Hệ số của biến FD là -2,1919 cho biết khi tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/GDP tăng 1% thì tốc độ tăng trưởng GDP giảm 0,0219%

+ Hệ số của biến OPEN là 1,3791 cho biết khi tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu/GDP tăng 1% thì tốc độ tăng trưởng GDP tăng 0,0137%.

+ Hệ số biến CAL là 0,4741 cho biết khi tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài/GDP tăng 1% thì GDP danh nghĩa tăng 0,4741%

+ Biến FD và CALFD không có ý nghĩa thống kê

+ Hệ số của biến INV là 0,8107 cho biết khi đầu tư trong nước/GDP tăng 1% thì GDP danh nghĩa tăng 0,8107%.

+ Hệ số của biến OPEN là 0,6451 cho biết khi tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu/GDP tăng 1% thì GDP danh nghĩa tăng 0,6451%.

+ Hệ số biến CAL là 1,3768 cho biết khi tổng tài sản và khoản phải trả nước ngoài/GDP tăng 1% thì tốc độ tăng trưởng GDP tăng 0,0137%

+ Hệ số của biến FD là -7,3877 cho biết khi tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/GDP tăng 1% thì tốc độ tăng trưởng GDP giảm 0,073877%

+ Hệ số của biến INV là 1,9058 cho biết khi đầu tư trong nước/GDP tăng 1% thì GDP danh nghĩa tăng 0,019058%.

+ Hệ số của biến CALFD là một số âm cho thấy FD hiện đang hạn chế tác động tích cực của CAL lên tốc độ tăng trưởng GDP.

+ Biến OPEN không có ý nghĩa thống kê.

4.3.3 Giải thích kết quả nghiên cứu

Kết quả phân tích định lượng cho thấy tác động của tự do hóa tài khoản vốn đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN được tóm tắt trong bảng dưới đây.

Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả nghiên cứu định lượng

Tự do hóa tài khoản vốn được đánh giá qua hai chỉ tiêu quan trọng: chỉ số Kaopen và tỷ lệ tổng tài sản cùng khoản phải trả nước ngoài so với GDP, cả hai đều có ý nghĩa thống kê và ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế.

“Đầu tư trong nước và độ mở thương mại có ý nghĩa thống kê và tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.

Tín dụng trong nước từ khu vực tài chính có ý nghĩa thống kê quan trọng trong việc phát triển tài chính, góp phần tích cực vào GDP danh nghĩa Tuy nhiên, nó lại ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng GDP.

Biến tương tác CALFD có ý nghĩa thống kê và tác động tiêu cực tới tăng trường kinh tế

Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả Giả thuyết H1 và H2: Tự do hóa tài khoản vốn tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế

Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy tự do hóa tài khoản vốn, được đo lường qua chỉ số Kaopen, cùng với chỉ số tổng tài sản và khoản phải trả bằng ngoại tệ/GDP, có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN Điều này chứng tỏ rằng việc mở cửa thị trường vốn tại ASEAN trong thời gian qua là hợp lý và mang lại lợi ích cho nền kinh tế.

Giả thuyết H3: Sự phát triển tài chính ảnh hưởng tới tác động của tự do hóa tài khoản vốn tới tăng trưởng kinh tế

Kết quả kiểm định giả thiết 3 cho thấy hệ số của biến CALFD có ý nghĩa thống kê, khẳng định rằng phát triển tài chính là điều kiện tiên quyết cho lộ trình tự do hóa tài khoản vốn ở các nước Asean+3 Tuy nhiên, hệ số âm của biến CALFD chỉ ra rằng sự phát triển tài chính trong thời gian qua đã hạn chế tác động tích cực của tự do hóa tài khoản vốn đến tăng trưởng kinh tế Cụ thể, khi tỷ lệ tín dụng trong nước từ khu vực tài chính/GDP tăng cao, tác động tích cực của tự do hóa tài khoản vốn đến tăng trưởng kinh tế lại giảm Điều này cho thấy rằng nếu tăng trưởng tín dụng diễn ra nhanh chóng mà không có một hệ thống tài chính vững mạnh, thì khả năng hấp thụ và phân bổ hiệu quả dòng vốn nước ngoài sẽ bị hạn chế trong bối cảnh tự do hóa tài khoản vốn gia tăng.

Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phát triển tài chính trong quá trình tự do hóa Nếu tự do hóa tài khoản vốn không được hỗ trợ bởi một hệ thống tài chính vững mạnh, các quốc gia sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính.

MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Lộ trình tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam

Nghiên cứu kinh nghiệm tự do hóa tài khoản vốn của các quốc gia Asean, đặc biệt trước và sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, cho thấy Việt Nam cần xây dựng lộ trình tự do hóa tài khoản vốn phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước Quá trình này nên diễn ra dần dần, từng bước một, đồng thời cần thường xuyên thực hiện các nghiên cứu đánh giá tác động của tự do hóa tài khoản vốn đối với tăng trưởng kinh tế, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.

Hiện nay, Việt Nam cần ưu tiên phát triển hệ thống tài chính nội địa thay vì tập trung vào việc tự do hóa tài khoản vốn, nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính và thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu ngày càng sâu rộng.

Để tối ưu hóa dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, cần xem xét nâng cao tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài trong các tổ chức tín dụng Điều này nhằm tận dụng lợi thế về năng lực quản trị, kinh nghiệm phát triển sản phẩm dịch vụ mới và khả năng điều hành Đồng thời, cần tiếp tục kiểm soát tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong các ngành nghề có điều kiện thông qua quy định pháp luật về tỷ lệ sở hữu tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài.

Dòng vốn vay nước ngoài cần tuân thủ quy định về hạn mức và đăng ký để tránh vay nợ quá mức Cần ưu tiên các khoản vay trung và dài hạn, đồng thời hạn chế các khoản vay ngắn hạn để đảm bảo kiểm soát hiệu quả.

Để thúc đẩy dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có khả năng đầu tư, giúp họ tận dụng cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế Việc này không chỉ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà còn gia tăng uy tín cho doanh nghiệp Đồng thời, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài cũng có thể mang về nguồn ngoại tệ từ lợi nhuận, góp phần vào sự phát triển kinh tế trong nước.

Việc kiểm soát dòng vốn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là cần thiết để ngăn chặn tình trạng chảy máu ngoại tệ, đặc biệt khi cán cân thương mại và ngân sách Nhà nước vẫn đang thâm hụt.

+ Dòng tiền, tiền gửi ra nước ngoài: vẫn cần thiết giữ nguyên nội dung quản lý như trong Pháp lệnh ngoại hối 2005 và Pháp lệnh ngoại hối sửa đổi 2015.

Căn cứ vào kết quả cải cách hệ thống tài chính và khả năng đáp ứng của các chủ thể kinh tế trong bối cảnh TPP và AEC, tự do hóa tài khoản vốn sẽ tiếp tục được thực hiện một cách phù hợp Cụ thể, tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán sẽ được nâng cao, đồng thời xây dựng các văn bản hướng dẫn cho việc đầu tư ra nước ngoài dưới dạng tiền, tiền gửi và giấy tờ có giá Mặc dù tự do hóa đồng nghĩa với việc dỡ bỏ các hạn chế, nhưng không có nghĩa là không quản lý; do đó, Chính phủ và các Bộ, ngành cần duy trì các biện pháp quản lý để đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính Trong một số giai đoạn cần thiết, việc áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn có thể được xem xét để ổn định hệ thống tài chính.

Gợi ý đối với phát triển tài chính ở Việt Nam

Nghiên cứu cho thấy phát triển tài chính khu vực ASEAN đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn và tăng trưởng kinh tế Mặc dù phát triển tài chính chưa phải là động lực chính hỗ trợ tác động tích cực từ tự do hóa tài khoản vốn, nhưng nó vẫn ảnh hưởng đến tăng trưởng Tác động này tích cực đối với GDP danh nghĩa, nhưng tiêu cực đối với tăng trưởng GDP, cho thấy dấu hiệu “quá nhiều tài chính” đã gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế ở ASEAN giai đoạn 2005-2018 Đối với quốc gia có nền tài chính phát triển như Singapore, cần tối ưu hóa độ sâu tài chính và nâng cao chất lượng, hiệu quả tài chính thay vì chỉ mở rộng Trong khi đó, các quốc gia có độ sâu tài chính thấp cần tăng cường độ sâu tài chính để thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời cũng phải chú trọng đến chất lượng và hiệu quả tài chính.

Hệ thống tài chính Việt Nam hiện tại chủ yếu phụ thuộc vào ngân hàng, trong khi thị trường tài chính chưa phát triển đầy đủ để trở thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế Do đó, việc phát triển tài chính ở Việt Nam cần gắn liền với việc mở rộng hệ thống các tổ chức tài chính và thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.

Một số gợi ý cụ thể đối với phát triển tài chính ở Việt Nam như sau:

Việt Nam cần tăng cường độ sâu tài chính bằng cách đẩy mạnh tín dụng trong nước, đặc biệt là tín dụng đối với khu vực tư nhân Đồng thời, mở rộng mạng lưới chi nhánh ngân hàng và các định chế tài chính nhận tiền gửi là rất cần thiết Việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động tài chính cũng sẽ giúp người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ, từ đó góp phần tăng tổng tiền gửi của hệ thống tài chính.

Để nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại, cần đẩy mạnh tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, tạo lập hệ thống cơ sở hạ tầng tài chính hiệu quả Điều này sẽ giúp tăng khả năng cung cấp tín dụng cho nền kinh tế Đồng thời, các ngân hàng thương mại cần cải thiện hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh, đảm bảo có đủ vốn tự có theo chuẩn mực Basel II, cũng như nâng cao khả năng quản trị rủi ro, phù hợp với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.

Mở rộng tỷ lệ cổ phần của các ngân hàng thương mại nước ngoài tại các ngân hàng thương mại trong nước, đặc biệt là các ngân hàng Nhà nước, sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo cơ hội cho việc xây dựng chiến lược hoạt động hiệu quả hơn Việc bán cổ phần cho ngân hàng nước ngoài giúp ngân hàng trong nước học hỏi kinh nghiệm quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời cải thiện quản trị rủi ro và tăng cường tính công khai, minh bạch Tuy nhiên, với việc hạn chế tỷ lệ cổ phần mà ngân hàng nước ngoài được nắm giữ hiện nay, tác động tích cực của tự do hóa tài khoản vốn trong lĩnh vực ngân hàng đến sự phát triển tài chính trong nước vẫn chưa được quan sát rõ rệt.

Việt Nam cần cân nhắc việc mở rộng tỷ lệ sở hữu cổ phần của các ngân hàng thương mại (NHTM) nước ngoài đối với các NHTM trong nước, đặc biệt là các NHTM Nhà nước, nhằm tăng cường tác động tích cực của tự do hóa tài khoản vốn lên tăng trưởng kinh tế.

Phát triển thị trường vốn là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn hiệu quả, nhằm đáp ứng các tiêu chí xếp hạng thị trường chứng khoán của MSCI để nâng hạng lên thị trường mới nổi Đặc biệt, cần chú trọng đến mức độ tiếp cận thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời yêu cầu công khai minh bạch thông tin và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế.

Phát triển thị trường phái sinh vào ngày thứ năm nhằm cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro và đa dạng hóa sản phẩm tài chính Điều này bao gồm chứng khoán các khoản cho vay có thế chấp bất động sản để hỗ trợ xử lý nợ xấu, phát hành trái phiếu để huy động vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, và phát triển các sản phẩm phái sinh như hợp đồng tương lai và quyền chọn đối với chỉ số, cổ phiếu, trái phiếu và các tài sản khác.

Ngày đăng: 29/10/2022, 20:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Arteta, C., Eichengreen, B. and Wyplosz, C.(2001), “When does capital account liberalization help more than it hurts?”, NBER Working Paper Series 84 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Arteta, C., Eichengreen, B. and Wyplosz, C.(2001), “When does capitalaccount liberalization help more than it hurts?”
Tác giả: Arteta, C., Eichengreen, B. and Wyplosz, C
Năm: 2001
2. Ariff, M. (1996), “Effects of Financial Liberalization on Four Southeast Asian Financial Markets, 1973–94”, ASEAN Economic Bulletin, 325-338 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ariff, M. (1996), “Effects of Financial Liberalization on Four Southeast AsianFinancial Markets, 1973–94”," ASEAN Economic Bulletin
Tác giả: Ariff, M
Năm: 1996
3. Alfaro,Chanda,Kalemli-Ozcan and Sayek (2004),“FDI and Economic Growth:The role of local Financial Markets”,Journal of International Economics,Vol 64 No 1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Alfaro,Chanda,Kalemli-Ozcan and Sayek (2004),“FDI and EconomicGrowth:The role of local Financial Markets”
Tác giả: Alfaro,Chanda,Kalemli-Ozcan and Sayek
Năm: 2004
4. Al-Malkawi, Husam-Aldin N., Hazem A. Marashdeh and Naziruddin Abdullah (2012), “Financial Development and Economic Growth in the UAE: Empirical Assessment Using ARDL Approach to Co-integration”, International Journal of Economics and Finance, Vol. 4, No. 5, pp. 105-115 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Financial Development and Economic Growth in the UAE: EmpiricalAssessment Using ARDL Approach to Co-integration”, "International Journalof Economics and Finance
Tác giả: Al-Malkawi, Husam-Aldin N., Hazem A. Marashdeh and Naziruddin Abdullah
Năm: 2012
5. Arcand, Jean-Louis, Enrico Berkes, and Ugo Panizza (2012), "Too much finance?”, IMF Working Paper, WP/12/161 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Too muchfinance
Tác giả: Arcand, Jean-Louis, Enrico Berkes, and Ugo Panizza
Năm: 2012
6. ARIầ, Kıvanỗ Halil (2014), "The Effects of Financial Development on Economic Growth in the European Union: A Panel Data Analysis." International Journal of Economic Practices and Theories 4.4, 466-471 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Effects of Financial Development onEconomic Growth in the European Union: A Panel DataAnalysis
Tác giả: ARIầ, Kıvanỗ Halil
Năm: 2014
7. Bailliu, J.N. (2000), “Private Capital Flows, Financial Development and Economic Growth in Developing Countries”, Working Paper 2000-15, Bank of Canada Sách, tạp chí
Tiêu đề: Private Capital Flows, Financial Development andEconomic Growth in Developing Countries”, "Working Paper 2000-15
Tác giả: Bailliu, J.N
Năm: 2000
8. Bekaert (G.), Harvey (C.R.), Lundblad (C.) (2001), “Does financial liberalization spur growth?”, National Bureau of Economic Research Working Paper, Series No.7763 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Does financialliberalization spur growth?”, "National Bureau of Economic Research WorkingPaper
Tác giả: Bekaert (G.), Harvey (C.R.), Lundblad (C.)
Năm: 2001
9. Braun, Matias, and Claudio Raddatz, "Trade liberalization, capital account liberalization and the real effects of financial development." Journal of International Money and Finance 26.5 (2007): 730-761 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trade liberalization, capital accountliberalization and the real effects of financial development
Tác giả: Braun, Matias, and Claudio Raddatz, "Trade liberalization, capital account liberalization and the real effects of financial development." Journal of International Money and Finance 26.5
Năm: 2007
10. Edwards, S. (2001), “Capital mobility and Economic Performance: Are Emerging Economies different”, NBER Working Paper Series 8076 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Edwards, S. (2001), “Capital mobility and Economic Performance: AreEmerging Economies different”
Tác giả: Edwards, S
Năm: 2001
12. Eichengreen, B., Gullapalli, R. and Panizza, U. (2011), “Capital account liberalization, Financial Development and Industry Growth: A Synthetic View”, Journal of International Money and Finance Vol 30, Issue 6, Pages 1090-1106 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Eichengreen, B., Gullapalli, R. and Panizza, U. (2011), “Capital accountliberalization, Financial Development and Industry Growth: A SyntheticView”
Tác giả: Eichengreen, B., Gullapalli, R. and Panizza, U
Năm: 2011
13. Gantman, E. R. and Dabos P. M. (2012), “A Fragile Link? A New Empirical Analysis of the Relationship Between Financial Development and Economic Growth”, Oxford Development Studies, Vol. 40, No. 4: 517-532 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Fragile Link? A New EmpiricalAnalysis of the Relationship Between Financial Development and EconomicGrowth”, "Oxford Development Studies
Tác giả: Gantman, E. R. and Dabos P. M
Năm: 2012
14. Grick, R., Guo, X. and Hutchison, M. (2004), “Currency Crises, Capital Account Liberalization and Selection Bias”, Federal reserve bank of San Francisco Working Paper Series Sách, tạp chí
Tiêu đề: Currency Crises, CapitalAccount Liberalization and Selection Bias”
Tác giả: Grick, R., Guo, X. and Hutchison, M
Năm: 2004
15. Grilli, Vittorio and Gian Maria Milesi-Ferretti (1995), “Economic Effects and Structural Determinants of Capital Controls”, IMF Staff Papers, 42(3), 517- 551 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Grilli, Vittorio and Gian Maria Milesi-Ferretti (1995), “Economic Effects andStructural Determinants of Capital Controls”
Tác giả: Grilli, Vittorio and Gian Maria Milesi-Ferretti
Năm: 1995
16. Henry, Peter Blair (2007), “Capital Account Liberalization: Theory, Evidence, and Speculation”, Journal of Economic Literature Vol. XLV, pp. 887-935 17. Honig, Adam. (2008) "Addressing causality in the effect of capital accountliberalization on growth." Journal of Macroeconomics 30.4: 1602-1616 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Capital Account Liberalization: Theory, Evidence,and Speculation”, Journal of Economic Literature Vol. XLV, pp. 887-93517.Honig, Adam. (2008) "Addressing causality in the effect of capital accountliberalization on growth
Tác giả: Henry, Peter Blair
Năm: 2007
18. Kaminsky and Schmukler (2007), “Short-Run Pain, Long-Run Gain: The effects of Financial Liberalization”, NBER Working Paper 2912 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kaminsky and Schmukler (2007), “Short-Run Pain, Long-Run Gain: Theeffects of Financial Liberalization”
Tác giả: Kaminsky and Schmukler
Năm: 2007
19. Klein, M. Olivei, J.P. (2000), “Capital Account Liberalization, financial depth and economic growth”, Tufts University Working Paper Sách, tạp chí
Tiêu đề: Klein, M. Olivei, J.P. (2000), “Capital Account Liberalization, financial depthand economic growth”
Tác giả: Klein, M. Olivei, J.P
Năm: 2000
20. Klein, M. Olivei, J.P. (2008), “Capital Account Liberalization, financial depth and economic growth”, Journal of International Money and Finance 27 861- 875 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Klein, M. Olivei, J.P. (2008), “Capital Account Liberalization, financial depthand economic growth”
Tác giả: Klein, M. Olivei, J.P
Năm: 2008
21. Kose, M. A., Prasad, E., Rogoff, K., & Wei, S. J. (2009), “Financial globalization: A reappraisal”, IMF Staff Papers, 8-62 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Financialglobalization: A reappraisal”, "IMF Staff Papers
Tác giả: Kose, M. A., Prasad, E., Rogoff, K., & Wei, S. J
Năm: 2009
22. Kraay, A. (1998), “In search of the Macroeconomic Effects of Capital Account Liberalization”, unpublished Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kraay, A. (1998), “In search of the Macroeconomic Effects of Capital AccountLiberalization”
Tác giả: Kraay, A
Năm: 1998

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.3. Ví dụ về việc cho điểm đối với Mỹ và Ấn Độ dựa vào dữ liệu - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
Bảng 2.3. Ví dụ về việc cho điểm đối với Mỹ và Ấn Độ dựa vào dữ liệu (Trang 23)
Bảng 2.4: Chỉ số Capital và Δcapital của một số nước Châu Ácapital của một số nước Châu Á - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
Bảng 2.4 Chỉ số Capital và Δcapital của một số nước Châu Ácapital của một số nước Châu Á (Trang 24)
Đồ thị 2.1: Tự do hóa tài khoản vốn trong“mô hình tăng trưởng tân cổ điển” - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
th ị 2.1: Tự do hóa tài khoản vốn trong“mô hình tăng trưởng tân cổ điển” (Trang 31)
Bảng 2.5: Mức tăng trưởng ở trạng thái dừng của các biến - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
Bảng 2.5 Mức tăng trưởng ở trạng thái dừng của các biến (Trang 31)
Đồ thị 2.2.Tác động của tự do hóa tới chi phí vốn, đầu tư và tăng trưởng - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
th ị 2.2.Tác động của tự do hóa tới chi phí vốn, đầu tư và tăng trưởng (Trang 32)
Sơ đồ 1:“Điều kiện để tự do hóa tài chính tác động tích cực tới tăng trưởng” - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
Sơ đồ 1 “Điều kiện để tự do hóa tài chính tác động tích cực tới tăng trưởng” (Trang 40)
Bảng 3.1: Tổng hợp các chỉ số phát triển tài chính - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
Bảng 3.1 Tổng hợp các chỉ số phát triển tài chính (Trang 58)
Bảng 3.2: Tăng trưởng GDP thực giai đoạn 2000-2018 - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
Bảng 3.2 Tăng trưởng GDP thực giai đoạn 2000-2018 (Trang 63)
Bảng 4.3: Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình 1 và 2 - Nghiên cứu về tự do hóa tài khoản vốn, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Asean và bài học đối với Việt Nam
Bảng 4.3 Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình 1 và 2 (Trang 72)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w