CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CHO THANH NIÊN
Cơ sở lý luận về thanh niên và các phong trào của thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội
Trong mọi thời kỳ cách mạng, phong trào thanh niên luôn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, được xem như lực lượng xung kích tiên phong Sự hình thành của các phong trào này gắn liền với lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh dấu một kỷ nguyên mới cho dân tộc với độc lập và tự do Ngay sau khi thành lập, Nhà nước cách mạng non trẻ đã phải đối mặt với nhiều thách thức và tình huống khó khăn.
Phong trào “Ngàn cân treo sợi tóc” được phát động theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm tăng gia sản xuất, chống đói và xóa mù chữ Đoàn thanh niên cứu quốc đã tích cực tham gia các hoạt động như lạc quyên cứu đói và “Hũ gạo cứu đói” để hỗ trợ đồng bào Với khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”, phong trào thi đua sản xuất lan rộng khắp các vùng nông thôn và đô thị, thu hút hàng nghìn đoàn viên, thanh niên tham gia khai hoang, phục hóa đất đai, trồng cây lương thực Những nỗ lực này đã góp phần khôi phục sản xuất nông nghiệp và đẩy lùi nạn đói Đồng thời, tổ chức Đoàn cũng vận động đoàn viên, thanh niên xây dựng “Quỹ độc lập” để hỗ trợ Chính phủ giải quyết khó khăn tài chính.
Trong "Tuần lễ vàng", tổng cộng đã quyên góp được 370kg vàng và 20.000.000 đồng cho Nhà nước Những thành công ban đầu trong lĩnh vực kinh tế và tài chính đã thể hiện nỗ lực lớn của chính quyền cách mạng, tạo ra nhiều thành tích quan trọng Đây chính là nền tảng vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Pháp trong thời gian tới.
Vào năm 1946-1947, Xứ ủy Nam Bộ đã chủ trương xây dựng mặt trận đoàn kết thanh niên để tập hợp mọi tầng lớp và tổ chức thanh niên nhằm hỗ trợ kháng chiến và kiến quốc Ngày 05/01/1947, Liên đoàn Thanh niên Nam Bộ được thành lập Đến tháng 12/1947, Đại hội lần thứ nhất của Đoàn thanh niên cứu quốc Nam Bộ đã được tổ chức, phát động phong trào thi đua lập công với các nội dung như quân sự hóa thanh niên, xây dựng đời sống mới, phát triển nông thôn, tăng gia sản xuất lương thực, và tham gia công tác bình dân học vụ cũng như công tác thiếu nhi.
Đoàn thanh niên đã khuyến khích tuổi trẻ cả nước tham gia xây dựng chế độ mới thông qua các phong trào tòng quân, dân quân và du kích Thanh niên đã tích cực hưởng ứng phong trào sản xuất tự túc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng Đoàn tổ chức các đội thanh niên xung phong để khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, mở rộng diện tích trồng lúa và các loại cây màu, từ đó đảm bảo nguồn lương thực và thực phẩm cho dân quân vùng giải phóng Phong trào “Lao động sáng tạo” của thanh niên công nhân tại các công binh xưởng, nhà máy và xí nghiệp ở vùng rừng sâu cũng đã góp phần không nhỏ vào công cuộc chống giặc nơi tiền tuyến.
Năm 1950, phong trào thanh niên tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ dưới sự chỉ đạo của Đảng, dẫn đến sự hình thành và củng cố tổ chức Đoàn trên toàn quốc Để đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến và thực hiện chủ trương thống nhất phong trào thanh niên, Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên cứu quốc lần thứ nhất đã được tổ chức vào tháng 2 năm 1950 Tại đại hội, 4 nhiệm vụ quan trọng đã được đề ra nhằm động viên thanh niên tham gia tích cực vào công cuộc kháng chiến và chuẩn bị cho tổng phản công.
Tổ chức thanh niên cần kiên quyết xây dựng mối quan hệ gắn bó với Đảng, đồng thời mở rộng mặt trận thanh niên Đặc biệt, cần chú trọng mang lại quyền lợi thiết thực cho thanh niên, đặc biệt trong lĩnh vực học tập văn hóa và nghề nghiệp.
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II (25/10 - 04/11/1956) đã xác định nhiệm vụ quan trọng của Đoàn trong giai đoạn cách mạng, đó là khuyến khích thanh niên từ mọi tầng lớp tham gia tích cực vào công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng và xây dựng miền Bắc, tiến tới chủ nghĩa xã hội, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp thống nhất đất nước.
Sau cải cách ruộng đất, nông thôn miền Bắc đã có những chuyển biến tích cực, với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và cải thiện đời sống nhân dân Để nâng cao nền nông nghiệp miền Bắc, Đảng chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (khóa II) lần thứ 6 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức đoàn viên và thanh niên nông thôn học tập đường lối hợp tác hóa của Đảng Đoàn đã triển khai nhiều hoạt động phong phú trong công tác tuyên truyền và vận động Hội nghị đại biểu Đoàn toàn miền Bắc diễn ra từ ngày 15 đến 20/02/1960 đã có những nhận xét quan trọng về vấn đề này.
“Thanh niên đã hăng hái tham gia hợp tác xã, góp phần tích cực vào việc mở rộng và củng cố phong trào hợp tác hóa nông nghiệp”.
Trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương "Tiến hành cải tạo hòa bình công thương nghiệp tư bản tư doanh" và "Cải tạo dần dần người tư sản thành người lao động" Đoàn thanh niên có trách nhiệm tổ chức và giáo dục đoàn viên, thanh niên để họ tích cực tham gia vào công tác này Tại các nhà máy, xí nghiệp và hầm mỏ, Đoàn thanh niên đã tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp đoàn viên, thanh niên hiểu rõ và đóng góp tích cực vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngày lao động xã hội chủ nghĩa đã thu hút 250.000 đoàn viên thanh niên tham gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo cơ hội cho tuổi trẻ cống hiến và trưởng thành Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III vào tháng 3/1961 xác định nhiệm vụ mới là đoàn kết thanh niên và giáo dục họ dưới ngọn cờ của Đảng, với mục tiêu hoàn thành các nhiệm vụ lịch sử Phong trào “Xung phong tình nguyện vượt mức Kế hoạch nhà nước năm năm lần thứ nhất” (1961 - 1965) được phát động nhằm nâng cao ý thức xã hội chủ nghĩa và tinh thần trách nhiệm của thanh niên Đại hội cũng quyết định lấy ngày 26/3 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn Mặc dù phong trào mang tính toàn diện, nhưng mỗi lĩnh vực lại có nội dung và phương thức riêng, tạo nên sức sống mạnh mẽ cho phong trào Vào tháng 7 năm 1963, Trung ương Đoàn tổ chức đại hội những người xuất sắc trong phong trào với hơn 600 đại biểu tham dự Trước tình hình chiến tranh leo thang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi mỗi người làm việc gấp đôi để hỗ trợ miền Nam, và những người xung phong đã nỗ lực hết mình để đáp ứng lời kêu gọi này.
Vào ngày 05/8/1964, Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc sau sự kiện vịnh Bắc Bộ, khiến cả nước phẫn nộ và thanh niên sẵn sàng cho cuộc đối đầu lịch sử Ngày 09/8/1964, phong trào “Ba sẵn sàng” (Sẵn sàng chiến đấu – Sẵn sàng nhập ngũ – Sẵn sàng đến nơi Tổ quốc cần) được phát động và nhanh chóng lan rộng Tại miền Nam, tình hình chiến trường có sự chuyển biến mới; vào tháng 3/1965, Đại hội Đoàn thanh niên Nhân dân cách mạng Việt Nam lần thứ nhất khẳng định nhiệm vụ trọng tâm là “Đánh giặc, sản xuất, xây dựng đời sống mới vùng giải phóng” và phát động phong trào “Năm xung phong” với các mục tiêu cụ thể như tiêu diệt sinh lực địch, tham gia quân đội, phục vụ tiền tuyến và sản xuất nông nghiệp.
Phong trào “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” là biểu tượng của tinh thần cách mạng trong thế hệ thanh niên, thể hiện ý chí quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” Những phong trào này đã thu hút đông đảo đoàn viên thanh niên từ khắp nơi, tham gia tích cực vào các lĩnh vực công tác, sản xuất, chiến đấu, học tập và nghiên cứu, góp phần xây dựng tương lai tươi sáng cho đất nước.
Phong trào “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” thể hiện tinh thần nhiệt huyết và cống hiến của đoàn viên thanh niên trong mọi lĩnh vực hoạt động Sự hiện diện của thanh niên luôn gắn liền với khí thế sôi nổi, khát khao đóng góp sức lực và trí tuệ cho nhân dân và đất nước Những nỗ lực này đã góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa xuân năm 1975, đánh dấu sự thống nhất đất nước.
Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phát triển kinh tế cho thanh niên
Để đánh giá các hoạt động phát triển kinh tế cho thanh niên, có nhiều tiêu chí cần xem xét Một số nghiên cứu cho thấy có thể tập trung vào những tiêu chí cụ thể nhằm đánh giá hiệu quả và tác động của các chương trình này.
Thanh niên đang xây dựng nhiều mô hình kinh tế mới, thể hiện sự sáng tạo và tinh thần xung phong Tiêu chí này nhấn mạnh vai trò hỗ trợ của các đơn vị và tổ chức trong tỉnh, nhằm khuyến khích và tìm tòi những giải pháp kinh tế sáng tạo cho giới trẻ.
Số lượng thanh niên có việc làm ổn định trên tổng số thanh niên tại địa bàn là chỉ tiêu quan trọng để đo lường tỷ lệ việc làm của thanh niên Chỉ tiêu này giúp đánh giá và so sánh mức độ phát triển kinh tế trong cộng đồng thanh niên, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình việc làm và cơ hội phát triển nghề nghiệp của họ.
Hiệu quả kinh tế từ các hoạt động phát triển của thanh niên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ hội việc làm Nhiều mô hình kinh tế và doanh nghiệp do thanh niên khởi xướng không chỉ tạo ra giá trị kinh tế mà còn góp phần lan tỏa thông tin và hỗ trợ các thanh thiếu niên khác trong cộng đồng Chỉ tiêu này thể hiện sự phát triển bền vững và tác động tích cực đến nền kinh tế địa phương.
Ngoài các tiêu chí chính, cần xem xét thêm các yếu tố như quy mô lao động thanh niên có việc làm, tỷ lệ có việc làm theo nhóm tuổi và giới tính, cũng như phân bố việc làm theo khu vực kinh tế Bên cạnh đó, ảnh hưởng của khu vực sống đến tỷ lệ có việc làm của thanh niên cũng là một khía cạnh quan trọng cần được nghiên cứu.
Bài học kinh nghiệm về hỗ trợ phát triển kinh tế cho thanh niên
học từ tỉnh Hà Tĩnh
Tỉnh Hà Tĩnh xác định giải quyết việc làm là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Để thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, tỉnh đã ban hành nhiều chỉ thị và nghị quyết liên quan đến việc làm và đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là thanh niên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tại các cấp đã tích cực tuyên truyền, vận động và tổ chức lực lượng lao động trẻ tham gia các phong trào khởi nghiệp, đồng thời phối hợp hiệu quả với ngành Giáo dục – Đào tạo và Lao động – Thương binh.
Xã hội, các cơ sở dạy nghề và trường học đang tích cực phân luồng, hướng nghiệp và tư vấn nghề cho học sinh, giúp họ tự đánh giá và chọn nghề phù hợp với năng lực Các trung tâm giới thiệu việc làm cung cấp thông tin về chính sách lao động và phong tục của các nước nơi thanh niên làm việc, đồng thời hướng dẫn họ tìm việc phù hợp với trình độ chuyên môn Kể từ năm 2001, tỉnh đã tạo việc làm cho 2,5 – 3 vạn lao động mỗi năm, trong đó thanh niên chiếm khoảng 70% Các chương trình kinh tế - xã hội đã giúp giải quyết việc làm cho khoảng 1,2 vạn người, trong khi quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới.
Kênh của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã hỗ trợ 6.500 người với tổng nguồn vốn cho vay khoảng 21 tỷ đồng Mỗi năm, hơn 6.000 lao động, trong đó 92% là thanh niên, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, mang về nguồn thu nhập trên 900 tỷ đồng, gấp 1,5 lần thu ngân sách nội địa tỉnh Điều này góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tay nghề và đổi mới tư duy cho người lao động, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Công tác đào tạo nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đang được các cấp, ngành chú trọng hơn bao giờ hết Nhờ vào chương trình mục tiêu quốc gia và đề án xã hội hóa đào tạo nghề, hệ thống cơ sở dạy nghề tại tỉnh đã được đầu tư nâng cấp đáng kể từ nhiều nguồn vốn khác nhau Mỗi năm, tỉnh đào tạo gần 26.000 lao động, trong đó hơn 85% là thanh niên Đa số lao động sau khi hoàn thành khóa học đều được doanh nghiệp tuyển dụng hoặc tham gia xuất khẩu lao động.
Bài học từ tỉnh Thái Bình
Thái Bình là một tỉnh thuần nông với hơn một triệu lao động, nhưng thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp chỉ dưới 75% và tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chỉ đạt 16% Cơ cấu lao động kỹ thuật tại đây đang mất cân đối, với tỷ lệ lao động trí óc ở khu vực nông thôn chỉ dưới 5% Mặc dù ngành nông, ngư nghiệp chiếm hơn 90% tổng số lao động, nhưng chỉ khoảng 15% lao động kỹ thuật tập trung ở khu vực quản lý nhà nước và các cơ quan nghiên cứu, trong khi khu vực sản xuất lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ Các khu công nghiệp và khu chế xuất mới hình thành đang thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật Sự thiếu hụt đội ngũ lao động có trình độ đã hạn chế khả năng tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu lao động, đồng thời cản trở việc tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ để thúc đẩy kinh tế nông thôn.
Mục tiêu của tỉnh Thái Bình trong năm 2006 là nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động lên 78%, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% và lao động được đào tạo nghề lên 18%, đồng thời tạo việc làm mới cho 20.000 người Để đạt được những mục tiêu này, tỉnh đã thực hiện nhiều biện pháp như chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường và cơ sở dạy nghề.
Thực tế việc làm tại Thái Bình cho thấy dạy nghề cho nông dân là giải pháp hiệu quả để giải quyết việc làm Việc này không chỉ cần thiết cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, mà còn là biện pháp quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo Bằng cách giải quyết tình trạng lao động dôi dư ở nông thôn, dạy nghề còn tạo ra nhiều sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong xã hội.
Bài học từ tỉnh Bình Dương
Bình Dương là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất tại khu vực trọng điểm phía Nam, bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai.
Bình Dương đã trở thành một trong những tỉnh thu hút lực lượng lao động trẻ, đặc biệt là thanh niên nông thôn, trong những năm qua Kinh nghiệm của tỉnh trong việc tạo ra cơ hội việc làm cho người dân địa phương có thể được áp dụng rộng rãi trên toàn quốc.
- Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, tạo nhiều việc làm mới cho người lao động.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH và sản xuất hàng hóa lớn.
- Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung một cách liên hoàn, theo hướng đa ngành, hiệu quả kinh tế cao.
- Tập trung phát triển cơ sở hạ tầng gắn với cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư sản xuất.
- Liên kết dạy nghề phổ thông qua các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề của Thành phố
Hồ Chí Minh để nâng cao chất lượng nguồn lao động trẻ.
- Tổ chức các trung tâm dịch vụ việc làm của thanh niên gắn với thị trường lao động của tỉnh và cả nước.
Một số mô hình ạy nghề có hiệu u của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
- Dạy nghề cung ứng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất tại địa phương như Bình Dương, Đồng Nai, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
- Liên kết dạy nghề dài hạn Quảng Nam, Hà Nội, Trung ương Đoàn, Quảng Ngãi, Đồng Nai.
- Dạy nghề tại chỗ cho thanh niên nông thôn Khu vực đồng bằng Sông Hồng, Quảng Bình, Quảng Ninh, Quảng Nam.
- Đa dạng hóa các loại hình dạy nghề, các ngành nghề Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đồng Nai, Tiền Giang.
- Dạy nghề để xuất khẩu lao động Trung tâm DN&DVVLTN Hà Tĩnh, Kiên Giang, Thừa Thiên - Huế.
Trong những năm qua, các Trung tâm dịch vụ việc làm của thanh niên đã tích cực hoạt động giới thiệu việc làm và cung ứng lao động, thể hiện sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức thành công nhiều sự kiện như "Hội chợ việc làm", "Ngày hội việc làm" và "Ngày hội tư vấn việc làm", cùng với các diễn đàn thông tin về thị trường lao động Các trung tâm DVVLTN tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Bình và Quảng Ninh đã phối hợp hiệu quả với các huyện và thị đoàn để tổ chức "Ngày hội việc làm" Đặc biệt, Trung tâm DVVLTN TP Hồ Chí Minh và Hà Tĩnh đã triển khai mô hình "Siêu thị việc làm", trong khi Trung tâm giới thiệu việc làm thanh niên Cần Thơ tổ chức "Hội chợ việc làm" định kỳ hàng quý.
Từ kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động tại Hà Tĩnh, Thái Bình, Bình Dương và các mô hình dạy nghề hiệu quả của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, có thể rút ra những bài học quý giá để áp dụng trong việc tạo việc làm cho thanh niên tại tỉnh Lạng Sơn.
Các cấp, các ngành, đặc biệt là tổ chức đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cần tăng cường công tác tuyên truyền và định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ Việc này giúp thanh niên đánh giá và lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng lực cá nhân cũng như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và địa phương Cần xóa bỏ định kiến về việc học nghề, từ đó nâng cao nhận thức của thanh niên về vai trò và trách nhiệm trong việc rèn luyện, học tập và nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn.
Tỉnh cần triển khai các chính sách ưu tiên nhằm tập trung đất sản xuất và miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp cam kết tuyển dụng lao động địa phương, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ, để thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo thêm việc làm trong các nhà máy, xí nghiệp.
Tỉnh cần tập trung vào việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động và giới thiệu việc làm cho người lao động trong và ngoài nước, đặc biệt chú trọng đến đào tạo nghề, giáo dục định hướng, ngoại ngữ và pháp luật Cần bổ sung nguồn vốn cho vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh, giúp thanh niên tự tạo việc làm Đồng thời, duy trì và phát triển các ngày hội việc làm, hội chợ việc làm và sàn giao dịch việc làm để tạo cơ hội cho lực lượng lao động trẻ và nhà tuyển dụng hiểu biết lẫn nhau Cuối cùng, quy hoạch và phát triển mạng lưới dạy nghề là cần thiết để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
THỰC TRẠNG HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CHO THANH NIÊN LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2014 - 2018
Thực trạng các hoạt động hỗ trợ phát triển kinh tế cho thanh niên của tỉnh Lạng Sơn 58
2.2 Thực trạng các hoạt động hỗ trợ phát triển kinh tế cho thanh niên của tỉnh Lạng Sơn
Ngày 25-7-2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 25- NQ/TW về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnhCNH, HĐH", trong đó Đảng ta chỉ rõ "Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên". Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Nghị quyết nhấn mạnh các giải pháp chủ yếu sau:
Để nâng cao chất lượng dạy nghề và phổ cập sơ cấp nghề cho thanh niên, cần huy động nhiều nguồn lực xã hội và đầu tư ngân sách hợp lý Cần hoàn thiện chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm, đồng thời áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, đặc biệt là các nghề kỹ thuật cao Đầu tư vào phát triển hạ tầng dịch vụ thị trường lao động cũng rất quan trọng, cùng với việc cung cấp tín dụng ưu đãi cho thanh niên nhằm tạo việc làm và khởi nghiệp Ngoài ra, cần khuyến khích thanh niên tham gia lao động có thời hạn ở nước ngoài.
Xây dựng một chiến lược truyền thông quốc gia nhằm định hướng nghề nghiệp và việc làm cho thanh niên là rất quan trọng Điều này cần đảm bảo cơ cấu hợp lý trong việc đào tạo các đối tượng như công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
Để phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ mới, cần tập trung vào việc đào tạo đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức Điều này sẽ tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đồng thời, cần chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, bộ đội xuất ngũ và thanh niên dân tộc thiểu số, khuyến khích các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất tham gia vào quá trình đào tạo Bên cạnh đó, cần giáo dục ý thức kỷ luật, kỹ năng lao động và tay nghề cho thanh niên đi làm việc ở nước ngoài, đồng thời có các biện pháp quản lý và hỗ trợ để giúp đỡ họ trong quá trình làm việc.
Để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống thanh niên, cần tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất, tạo việc làm mới và tăng thu nhập Phát triển thị trường lao động năng động và khuyến khích thanh niên làm giàu chính đáng là rất quan trọng Nhà nước cần hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật và tổ chức sản xuất kinh doanh cho thanh niên nông thôn, đồng thời tôn vinh những cá nhân xuất sắc trong lĩnh vực kinh tế Việc phát huy thế mạnh lao động nông nghiệp cũng sẽ giúp đưa thanh niên đi làm việc ở các quốc gia có nhu cầu phù hợp.
Dựa trên Hiến pháp Việt Nam và Bộ Luật Lao động đã được cập nhật, nhiều chính sách và cơ chế việc làm đã được triển khai nhằm hỗ trợ lao động, đặc biệt là lao động thanh niên Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, và Quỹ quốc gia về việc làm đã được ban hành Bên cạnh đó, các chương trình và Quỹ giải quyết việc làm tại địa phương, tổ chức dịch vụ việc làm, cũng như chính sách bảo hiểm thất nghiệp đều góp phần quan trọng trong việc nâng cao cơ hội việc làm cho người lao động.
Chính phủ áp dụng các chính sách hỗ trợ lao động trên toàn quốc, đặc biệt ưu tiên cho những nhóm lao động yếu thế như người dân tộc thiểu số, lao động ở vùng sâu, vùng xa, thanh niên và lao động nữ Những chính sách này đã tạo ra môi trường thuận lợi và mở ra nhiều cơ hội việc làm cho thanh niên trên toàn quốc.
Mặc dù nhiều chính sách đã được ban hành, nhưng thực tế cho thấy chúng còn chồng chéo và việc triển khai còn chậm Trách nhiệm cụ thể của các cấp, ngành chưa được quy định rõ ràng, khiến nhiều thanh niên khó tiếp cận các chính sách, điều kiện học nghề và cơ hội việc làm Nhiều chương trình và dự án hỗ trợ lao động thanh niên đã được phê duyệt nhưng tiến độ thực hiện vẫn chậm, thiếu sự gắn kết trong chính sách dạy nghề và tạo việc làm Hơn nữa, số lượng chương trình phát triển kinh tế - xã hội do thanh niên làm chủ còn hạn chế, trong khi những bất cập về cơ chế quản lý và tổ chức cũng ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện.
Tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động thanh niên, là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành Hiện nay, chưa có cơ chế hay chính sách đặc thù nào cho từng vùng, mà chủ yếu dựa vào các chính sách địa phương Các địa phương cần căn cứ vào thực tiễn để xây dựng các chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy tạo việc làm, đồng thời lồng ghép vào các chính sách chung.
Tỉnh Lạng Sơn đã chủ động triển khai nhiều văn bản và chính sách phù hợp với các chỉ đạo của Chính phủ nhằm hỗ trợ việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động thanh niên Các quy định và hướng dẫn này thể hiện sự quan tâm của tỉnh đối với việc tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên trong tìm kiếm việc làm.
Nhiều chính sách ưu đãi về vốn, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực đã được triển khai nhằm thu hút đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh Các chính sách này bao gồm phát triển khu công nghiệp, làng nghề, và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho thanh niên và lao động nói chung.
Từ năm 2015 đến 2020, tỉnh Lạng Sơn đã triển khai Chương trình giải quyết việc làm địa phương nhằm tạo cơ hội việc làm cho thanh niên Chương trình này tập trung vào các dự án hỗ trợ phát triển kinh tế, cung cấp vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm và Quỹ giải quyết việc làm địa phương Ngoài ra, các hoạt động như hỗ trợ tín dụng xuất khẩu lao động, tư vấn và giới thiệu việc làm miễn phí, tổ chức giao dịch việc làm cũng được thực hiện Nội dung tạo việc làm cho lao động, đặc biệt là thanh niên, đã được đưa vào nghị quyết và chương trình hành động của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, đồng thời tăng cường tuyên truyền về chính sách và pháp luật của Nhà nước liên quan đến việc làm cho thanh niên.
2.2.2 Công tác tổ chức hoạt động hỗ trợ thanh niên Lạng Sơn phát triển kinh tế Ở Lạng Sơn, ngoài các cơ chế, chính sách đã được ban hành và sự tạo điều kiện, hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn liên quan, Đoàn thanh niên của tỉnh là một trong các tổ chức chủ yếu đứng ra thực hiện nhiệm vụ đồng hành, giúp đỡ thanh niên phát triển kinh tế.
Cơ cấu tổ chức của Đoàn thanh niên tỉnh bao gồm ba cấp: Cấp tỉnh, Cấp huyện và Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) Tỉnh đoàn hoạt động dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Trung ương đoàn, đồng thời phối hợp với các cấp, ngành để xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển thanh
Tỉnh đoàn đã khởi xướng phong trào phát triển kinh tế cho thanh niên, khuyến khích xây dựng các mô hình kinh tế tiêu biểu Để tạo điều kiện cho thanh niên phát triển kinh tế, Tỉnh đoàn làm việc và kết nối với các cấp, ngành Đồng thời, các giải pháp hỗ trợ khởi nghiệp, lập nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo cũng được thực hiện nhằm giúp thanh niên thoát nghèo và phát triển bền vững.
HOÀN THIỆN CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CHO
Định hướng về hỗ trợ thanh niên phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn 83
Dự báo dân số và nhu cầu lao động tại tỉnh Lạng Sơn cho thấy, đến năm 2018, dân số sẽ đạt khoảng 1.949.621 người và dự kiến sẽ tăng lên 1.982.757 người vào năm 2020 Trong số đó, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 55%, dẫn đến nhu cầu việc làm ngày càng gia tăng.
Từ mục tiêu phát triển kinh tế và dự báo lao động của tỉnh đến năm 2020, mục tiêu chính là tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, nâng cao tỷ lệ sử dụng lao động nông thôn Đồng thời, cần đảm bảo chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý, nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
Theo dự báo dân số dựa trên mức sinh và phân bố tuổi, giới tính từ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2015, kết quả sử dụng phương pháp thành phần cho thấy những biến động trong cơ cấu dân số Thông tin này được thu thập từ cuộc điều tra vào ngày 1/4/2015 do Tổng Cục Thống Kê thực hiện.
Bảng số 3.1: Dự báo dân số 15 tuổi trở lên và dân số trong tuổi thanh niên của tỉnh Lạng
Sơn (giả định mức sinh giảm xuống)
Năm Số ngư i 1 tuổi trở lên Số thanh niên 1 – tuổi TN so với tổng số
Nguồn: Tính toán từ kết quả dự báo dân số cho cả nước, các vùng địa lý - kinh tế và
1 tỉnh thành phố Việt Nam, 1 – 2024, TCTK [10]
Dân số từ 15 tuổi trở lên đã tăng từ 1.584.045 người năm 2014 lên 1.715.903 người năm 2018, với mức tăng trung bình hàng năm là 32.964 người Đặc biệt, dân số trong độ tuổi thanh niên cũng ghi nhận sự tăng trưởng, từ 552.553 người năm 2014 lên 627.531 người năm 2018.
2018 Nếu tính bình quân từ 2014 đến 2018 mỗi năm tăng 18.744 người Thanh niên tiếp tục chiếm tỷ trọng cao trong tổng số người 15 tuổi trở lên.
Mục tiêu cụ thể về tạo việc làm từ nay đến 2025:
- Số lao động nói chung và thanh niên nói riêng có khả năng được tạo việc làm đến năm
2020 và 2025 được cụ thể ở Bảng số 3.2:
- Từ năm 2014 đến 2018 bình quân mỗi năm phải giải quyết việc làm mới trong giai đoạn 2014 – 2016 từ 35 - 40 nghìn lao động, trong giai đoạn 2017 – 2018 từ 45
- 50 nghìn Trong đó, số thanh niên cần được tạo việc làm mới đến năm 2018 là
351.663 người, và đến năm 2020 là 489.604 người.
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 4%, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở Lạng Sơn lên trên 85%.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động: Giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp xuống còn 35
- 65%, tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng lên 23 - 47% và thương mại dịch vụ là 12 - 18% vào năm 2020.
Đến năm 2020, mục tiêu nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% và đạt trên 50% vào năm 2025 Bảng số 3.2 dự báo quy mô tạo việc làm cho thanh niên tại Lạng Sơn sẽ có sự gia tăng đáng kể trong giai đoạn này.
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2020 2025
Quy mô lực lượng lao động Người 1.222.444 1.316.411
Số lao động được tạo việc làm Nghìn người 35 ÷ 40 45 ÷ 50
Quy mô lực lượng lao động thanh niên Người 351.663 489.604
Số thanh niên có khả năng được tạo việc làm Người 349.947 449.024
Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê, Cục Thống Kê tỉnh Lạng Sơn [11].
Nhà nước và nhân dân cùng nhau nỗ lực tạo việc làm, nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này đối với người lao động Đảng và Nhà nước đã chủ trương xã hội hóa công tác tạo việc làm, xác định đây là nhiệm vụ của tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với lao động thanh niên tỉnh Lạng Sơn Việc huy động tối đa các nguồn lực xã hội và đầu tư phát triển việc làm, dịch vụ hỗ trợ tạo việc làm và dạy nghề là cần thiết Đồng thời, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của thanh niên trong việc tự học nghề và tạo việc làm cũng rất quan trọng Chính sách khuyến khích thanh niên tự tạo việc làm thông qua các biện pháp hỗ trợ khởi sự kinh doanh sẽ giúp họ tạo ra công việc cho bản thân và cho người khác.
Giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho thanh niên cần liên kết chặt chẽ với quy hoạch xã hội và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cần chú trọng vào các ngành nghề, vùng miền và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế để khai thác tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, từ đó tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, đặc biệt là thanh niên.
Để nâng cao năng lực cho các trường và cơ sở dạy nghề, cần điều chỉnh quy hoạch mạng lưới dạy nghề theo hướng xã hội hóa, đảm bảo quy mô và cơ cấu nghề hợp lý Cần xây dựng các cơ sở dạy nghề trọng điểm nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo mới, đào tạo lại và nâng cao kỹ năng Đào tạo nghề nên được thực hiện theo ba cấp trình độ: sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, kết hợp đa dạng các hình thức và phương pháp đào tạo.
Tỉnh Lạng Sơn cần xây dựng các chính sách ưu đãi về thuế, nguồn vốn và mặt bằng để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào khu vực ngoại thành, đặc biệt là trong các khu công nghiệp và vùng nông thôn Điều này sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho thanh niên, đặc biệt là thanh niên nông thôn, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Các doanh nghiệp cần xây dựng chính sách hiệu quả để thu hút và sử dụng lao động thanh niên, đặc biệt là lao động tại địa phương, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững.
Để nâng cao chất lượng nguồn lao động và đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, cần xây dựng các phương án đào tạo nghề hiệu quả Việc này không chỉ giúp chuyển đổi cơ cấu lao động mà còn mở rộng các nghề truyền thống Đặc biệt, cần chú trọng vào đào tạo nghề gắn liền với việc làm, đồng thời phát triển các chương trình đào tạo cho lao động xuất khẩu.
Các cấp, các ngành cần chủ động phối hợp với tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh để tạo sự đồng bộ trong định hướng nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên, đồng thời hỗ trợ phát triển kinh tế Tổ chức Đoàn cần đồng hành với thanh niên, hiểu tâm tư và nguyện vọng của họ, khuyến khích tinh thần tự tin, chủ động học nghề và tìm kiếm việc làm, cũng như xây dựng các mô hình kinh tế cá nhân Việc giải quyết việc làm cho thanh niên cần được coi là ưu tiên hàng đầu trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhằm phát huy tối đa nguồn nhân lực và tạo nhiều cơ hội việc làm Đặc biệt, phát triển kinh tế và tạo việc làm cho thanh niên tại Lạng Sơn phải gắn liền với mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong bối cảnh đô thị hóa và công nghiệp hóa Cần có chính sách và giải pháp đồng bộ để đảm bảo thanh niên có cơ hội phát triển và tham gia tích cực vào nền kinh tế.
Đề xuất hoàn thiện các giải pháp tăng cường hỗ trợ thanh niên phát triển kinh tế cho
Định hướng phát triển thị trường lao động cần tuân thủ các quy luật của thị trường, đồng thời tăng cường vai trò hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế Cần mở rộng sự tham gia của tổ chức xã hội và người dân Thanh niên, với sự đa dạng về đặc điểm nhân khẩu, không còn là một nhóm đồng nhất, do đó, chính sách cần phải cụ thể và phù hợp với nhu cầu của từng nhóm trong lực lượng lao động này Hỗ trợ phát triển kinh tế và tạo việc làm cho thanh niên tại Lạng Sơn cần khai thác tối đa tiềm năng và thế mạnh của họ, từ đó phát huy sức trẻ, sự sáng tạo để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
3.3 Đề xuất hoàn thiện các giãi pháp tăng cường hỗ trợ thanh niên phát triển kinh tế cho thanh niên trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
3.3.1 Nhóm giải pháp tạo sự thay đổi và tư duy tích cực cho thanh niên vươn lên phát triển kinh tế, xóa nghèo
Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật lao động
Việc trang bị kiến thức về quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động là rất cần thiết cho thanh niên Việt Nam Tuyên truyền và phổ biến pháp luật lao động cần được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với từng đối tượng Các buổi tập huấn ngắn hạn và lồng ghép trong sinh hoạt chi đoàn thanh niên là những cách hiệu quả để giới thiệu các quy định pháp luật lao động, kèm theo tờ rơi và tài liệu liên quan Đối với học sinh, sinh viên, cần có chương trình giới thiệu quy định pháp luật lao động tại các trường học Bên cạnh đó, việc phổ biến pháp luật lao động qua hệ thống truyền thanh cộng đồng và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật lao động cũng rất quan trọng nhằm nâng cao nhận thức cho thanh niên.
Để nâng cao nhận thức của thanh niên về vấn đề việc làm, cần triển khai các biện pháp tuyên truyền hiệu quả, giúp họ xác định rõ quyền và nghĩa vụ trong lao động Điều này không chỉ tạo động lực cho thanh niên phấn đấu trong học tập và công việc, mà còn khuyến khích họ đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội, đồng thời tránh tình trạng ỷ lại và trông chờ vào sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Trong những năm qua, mặc dù có sự tuyên truyền về chính sách xóa đói giảm nghèo, vẫn còn nhiều hộ gia đình, đặc biệt là hộ nghèo, phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nhà nước và các nhà hảo tâm, dẫn đến tâm lý ỷ lại và lười lao động Cần tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục, nhằm giúp người dân nhận thức rằng đói nghèo là điều nhục nhã và thiếu ý chí Đồng thời, Đảng và Nhà nước cần thay đổi chính sách hỗ trợ, không chỉ cung cấp "cần câu" mà tạo điều kiện cho người dân tự vươn lên Cần định hướng cho thanh niên về tiềm năng quê hương, khuyến khích họ khởi nghiệp và tạo việc làm cho bản thân và cộng đồng Phương thức tuyên truyền cũng cần đổi mới, tập trung vào vận động, thuyết phục và biểu dương những hộ gia đình đã thoát nghèo, đồng thời phê bình những hộ có khả năng nhưng vẫn lười lao động.
3.3.2 Nhóm giải pháp hỗ trợ kiến thức cho thanh niên phát triển kinh tế Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề cho phù hợp với quy mô, cơ cấu nghề nghiệp và tốc độ phát triển kinh tế Tạo được sự hợp tác và phân công của cả hệ thống dạy nghề trên địa bàn Xây dựng một số khoa trọng điểm trong các trường nghề Phát triển các trung tâm dạy nghề vùng và cấp huyện, cố gắng phấn đấu huyện nào cũng có cơ sở dạy nghề đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của thị trường lao động.
Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cần xây dựng và nâng cấp các cơ sở dạy nghề tại tỉnh, tập trung vào những nghề công nghệ cao và dịch vụ chất lượng phục vụ kinh tế nông nghiệp Đồng thời, tạo điều kiện cho các trường dạy nghề của Trung ương nâng cấp lên Cao đẳng nghề, nhằm đào tạo lực lượng lao động có kỹ năng chuyên môn cao Phát triển mạnh mẽ chương trình dạy nghề tại các trường trung học và cao đẳng kỹ thuật, mở rộng ngành nghề và quy mô đào tạo để đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho địa phương.
Lựa chọn nghề đào tạo cần tập trung vào các lĩnh vực như thủ công mỹ nghệ, thêu dệt, chế biến nông lâm sản, và các nghề như thợ sửa chữa máy nông, thợ xây dựng, thợ điện, thợ cơ khí để phục vụ cho điện khí hóa nông thôn Đồng thời, có thể liên kết đào tạo công nhân cho các ngành nghề khác phù hợp với sở trường và nguyện vọng của người lao động, đồng thời cung cấp nguồn lao động cho các địa phương khác Để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần đa dạng hóa ngành đào tạo, kết hợp giữa đào tạo nghề ngắn hạn và nghề bậc cao, nhằm phục vụ nhu cầu của thị trường lao động khu vực và xuất khẩu lao động.
Để thúc đẩy hướng nghiệp cho thanh niên, cần tích cực khuyến khích tham gia học nghề và ưu tiên đầu tư kinh phí đào tạo, miễn giảm học phí cho con em gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ và người nghèo Cần đổi mới chế độ thu học phí, đảm bảo hỗ trợ từ nhà nước cho chi phí dạy nghề, xóa bỏ các khoản thu ngoài học phí và hỗ trợ kinh phí cho các đối tượng chính sách xã hội Đồng thời, cần cải cách cơ chế quản lý và hoạt động dạy nghề theo ba hình thức: công lập, dân lập, tư thục và cổ phần hóa, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng Cuối cùng, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư và chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia dạy nghề để nâng cao số lượng và chất lượng lao động được đào tạo hàng năm, đảm bảo gắn kết giữa đào tạo và sử dụng lao động.
* Nâng cao chất lượng đào tạo nghề
Để nâng cao chất lượng đào tạo, cần thực hiện các biện pháp như giáo dục định hướng, đào tạo thợ bậc cao, rèn luyện kỹ năng nghề và tác phong kỷ luật lao động Ngoài ra, việc đào tạo ngoại ngữ và pháp luật lao động cũng rất quan trọng, đặc biệt là phổ cập nghề cho lao động nông thôn Đồng thời, cần xây dựng danh mục ngành nghề và đăng ký tiêu chuẩn nghề, tiêu chuẩn cơ sở dạy nghề để đảm bảo chất lượng đào tạo.
Cải tiến và đổi mới nội dung chương trình đào tạo nghề là cần thiết để phù hợp với thực tế sản xuất Việc biên soạn và chỉnh lý chương trình nghề, bao gồm giáo trình, bài giảng và tài liệu tham khảo, sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Để nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, cần tăng cường đào tạo và bồi dưỡng giáo viên theo hướng chuẩn hóa Điều này đảm bảo các trường và trung tâm có đủ số lượng và chất lượng giáo viên theo quy định Đồng thời, cần có kế hoạch cập nhật những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất trong giảng dạy nghề chất lượng cao.
- Khuyến khích người lao động tự học, tự nghiên cứu, tiếp cận theo phương pháp giáo dục đào tạo hiện đại.
* Huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nguồn nhân lực
Hàng năm, tỉnh cần dành từ 1 – 2% tổng thu ngân sách để thành lập quỹ hỗ trợ dạy nghề và giải quyết việc làm Đặc biệt, cần xác định rõ mức đóng góp của các doanh nghiệp và thu hút các nguồn tài trợ trong và ngoài nước, theo phương châm xã hội hóa công tác dạy nghề.
Để phát huy tối đa nguồn lực, đặc biệt là nguồn nội lực, cần tập trung vào mục tiêu đào tạo hiệu quả Tăng cường huy động nguồn lực xã hội hóa và đổi mới cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư từ dân, nguồn thu sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cũng như đóng góp của người học và doanh nghiệp thông qua hợp đồng liên kết đào tạo nghề và các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm.
Tỉnh cần thành lập các đội, câu lạc bộ nhà khoa học trẻ và đội chuyển giao kỹ thuật định kỳ để hướng dẫn người dân và thanh niên áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh Bên cạnh đó, cần xây dựng bảng tin tại các khu vực công cộng để truyền tải thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người dân Các hội nghị đầu bờ và hệ thống thông tin truyền thông tại cơ sở cũng nên được áp dụng để tuyên truyền và cung cấp thông tin cần thiết.
3.3.3 Nhóm giải pháp hỗ trợ nguồn lực cho thanh niên phát triển kinh tế Để thực hiện công tác hỗ trợ cho thanh niên phát triển kinh tế, các cấp, các ngành cần chú trọng đến các nhóm giải pháp hỗ trợ nguồn lực cho thanh niên phát triển kinh tế Xác định một số nhóm giải pháp trọng tâm, trọng điểm cho từng vùng, từng đối tượng thanh niên mới có thể phát huy được tối ưu vai trò của thanh niên tham gia phát triển kinh tế Hiện nay các nhóm giải pháp nằm trong các chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, trên cơ sở đó các cấp, các ngành liên quan tự xác định giải pháp cụ thể cho đơn vị mình, ngành mình, nên chưa phát huy tối ưu được sức trẻ trong phát triển kinh tế.
Trong thời gian tới, cần quan tâm đến việc hỗ trợ nguồn lực cho thanh niên với một số nội dung chủ yếu sau: