Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ Hữu Đạt * * PGS.TS., Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đ
Trang 1Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân
tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ
Hữu Đạt (*)
(*) PGS.TS., Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
Trong nghiên cứu từ vựng - ngữ
nghĩa của ngôn ngữ, lý thuyết trường
nghĩa đóng góp một phần rất quan trọng
vào việc phân chia các lớp từ vựng cũng
như vạch ra mối quan hệ bản chất giữa
các nhóm từ trong một lớp, giữa các từ
trong một nhóm [3, 4] Khi đi sâu vào
phân tích ngữ nghĩa từ vựng, lý thuyết
trường nghĩa còn cho ta nhìn nhận một
cách hệ thống về quá trình phát triển
của nghĩa từ và cơ cấu nghĩa của nó Một
trong các nội dung quan trọng của lý
thuyết trường nghĩa là việc phân tích
nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, trường
nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu
niệm Đây là hướng nghiên cứu rất có ích
đối với việc tìm hiểu hệ thống các từ gần
nghĩa, đồng nghĩa (xem thêm [10] cũng
như việc hiểu nghĩa từ trong văn bản,
đặc biệt là các văn bản có tính hình
tượng cao như văn bản thơ ca (xem thêm
[6, 7])
Nghĩa biểu vật và nghĩa biểu
niệm
Trong lý thuyết trường nghĩa, hai
loại nghĩa được quan tâm đầu tiên là
nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm Đây
là các loại nghĩa khái quát cho phép
người ta từ đó đi sâu vào các nét nghĩa
của từ Theo cách hiểu chung nhất,
nghĩa biểu vật là ý nghĩa khái quát về
chủng loại sự vật Còn nghĩa biểu niệm
là ý nghĩa được hình thành trong quá
trình chúng ta nhận thức về nghĩa chủng loại sự vật [3]
1 Nghĩa biểu vật của từ
Một từ không chỉ có một nghĩa biểu vật mà thường có nhiều nghĩa biểu vật khác nhau Ví dụ, phân tích các nghĩa biểu vật của từ "mũi", ta sẽ có sự phân xuất như sau:
Mũi: - Bộ phận nhô lên ở giữa mặt người và động vật có xương sống,
là cơ quan dùng để thở và ngửi [12] (1)
- Bộ phận nhọn, nhô ra phía trước của một số vật dùng vận tải trên nước như
tàu, thuyền (mũi tàu, mũi thuyền) (2)
- Bộ phận có đầu nhọn nhô ra phía trước của một số vật thường dùng hàng ngày: mũi kim, mũi kéo, mũi dao…(3)
- Bộ phận có đầu nhọn nhô ra phía trước của một số loại vũ khí: mũi tên, mũi giáo, mũi mác, mũi kiếm, mũi súng…(4)
- Doi đất nhọn nhô ra khỏi bờ trên sông, trên biển: mũi Né (Bình Thuận), mũi Cà Mau…(5)
Từ mỗi nghĩa biểu vật nêu trên, trong quá trình sử dụng, từ "mũi" có thể tham gia vào nhiều kết hợp khác nhau, với các ý nghĩa khác nhau Nếu không hiểu được ranh giới giữa các nghĩa biểu vật sẽ không thể hiểu chính xác nghĩa của từ "mũi" trong từng trường hợp
Trang 2Ví dụ:
1 Anh ta hát giọng mũi
2 Cho nó thêm một mũi để nó ngủ đi
3 Nhiều mũi một lúc sợ không ổn
4 Hôm nay, phân nó có nhiều mũi
Sự khác nhau về nghĩa giữa các từ
"mũi" trong mấy ví dụ trên có liên quan
tới các nghĩa biểu vật khác nhau của từ
"mũi" Trong đó "mũi" ở ví dụ 1 và 2 có
liên quan tới nghĩa biểu vật (1), còn
"mũi" ở ví dụ 3 và 4 liên quan tới nghĩa
biểu vật (3) "Hát giọng mũi" là cách hát
để cho hơi dồn qua mũi là chính, nhiều
hơn là qua miệng"
Đi vào thực tiễn, các ẩn dụ từ vựng
đã được khai thác triệt để để phục vụ cho
việc hình thành ra các ẩn dụ tu từ:
Đầu Tổ quốc chính đây tiền tuyến
Mũi Cà Mau nhọn hoắt mũi chông
Trong câu thơ thứ 2, kết hợp "mũi Cà
Mau" là ẩn dụ từ vựng được hình thành
theo nghĩa biểu vật (5) của từ "mũi", còn
"mũi chông" là ẩn dụ từ vựng được hình
thành từ kiểu nghĩa biêu vật (4) của nó
Khi hai ẩn dụ từ vựng này được phối hợp
với nhau qua cách so sánh của tác giả
(mũi Cà Mau nhọn hoắt như mũi chông),
câu thơ hình thành nên một ẩn dụ tu từ
độc đáo: khí thế tiến công Mỹ nguỵ của
đồng bào miền Nam trong những năm
đánh Mỹ (xem thêm [1])
2 Nghĩa biểu niệm của từ
Nghĩa biểu niệm của từ là cái nghĩa
khái quát ở mức cao hơn so với nghĩa
biểu vật [3, 4] Nó là cái nghĩa được hình
thành trong quá trình nhận thức về
nghĩa chủng loại của sự vật Một từ có nhiều nghĩa biểu niệm sẽ là sự chuyển
đổi của một quá trình nhận thức, trong
đó các kết quả nhận thức đi sau không phủ nhận các kết quả nhận thức đã có từ trước về nghĩa biểu niệm của nó Chẳng hạn, phân tích nghĩa biểu niệm của từ
"che", ta sẽ thấy có một sự tiến lên về quá trình nhận thức như sau:
"Che": - Làm cho người khác không
nhìn thấy [12] Vd: Che ngực, che mặt… (1)
- Làm cho không bị tác động từ bên
ngoài [12] Vd: Che nắng, che mưa… (2)
- Bưng bít không cho người khác
nhận ra khuyết điểm Vd: Được thủ trưởng che cho nên nó không việc gì (3)
Từ các nghĩa biểu niệm trên đây, khi
đi vào thực tế, từ "che" còn có nhiều nghĩa khác nhau
Ta xét các ví dụ
5 Khi cười, nó vẫn hay che miệng
6 Lấy tay che mặt trời
Trong ví dụ 5, từ "che" không được dùng với mục đích nhằm "không cho người ta thấy" mà với nghĩa là ” thích làm duyên" Nghĩa này được phát triển
từ nghĩa biểu niệm (1) Còn từ "che" trong ví dụ 6 lại có nghĩa là " cố tình làm một việc vượt quá nhiều so với sức mình" Đây là ý nghĩa được phát triển từ nghĩa biểu niệm (2)
Qua các ví dụ vừa phân tích, có thể thấy rằng, để hiểu chính xác nghĩa của
từ trong từng văn cảnh cụ thể, cần phải hiểu rõ các nghĩa biểu vật và các nghĩa biểu niệm của từ cũng như con đường phái sinh ý nghĩa của nó Trong các văn
Trang 3bản thơ, việc phân tích nghĩa từ, đặc biệt
là với các từ "chốt" sẽ có một ý nghĩa cực
kỳ quan trọng, vì nó liên quan trực tiếp
tới việc tiếp nhận hình tượng nghệ thuật
Thậm chí, trong một số trường hợp, do
việc hiểu khác nhau về nghĩa từ, những
kết quả lý giải đối với cùng một hiện
tượng thơ ca sẽ hoàn toàn khác nhau
Chẳng hạn, đoạn thơ sau đây của Tố
Hữu đã được in và phân tích thành hai
biến thể hoàn toàn khác nhau
Ví dụ:
7a Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từ ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi
Biến thể này xuất hiện trong các bản
in từ 1983 cho đến bản in toàn tập của
Nhà xuất bản Giáo dục 1995 Đặc biệt là
trong sách Văn 10 dùng cho chuyên ban
A,B của Nhà xuất bản Giáo dục in năm
1994, câu thơ thứ hai được giải thích:
"Ruồng che mát: lùm cây che mát- ruồng
tiếng địa phương có nghĩa là lùm cây"
Trong khi đó, Sách giáo khoa chuyên
ban Văn lớp 12 cũng được xuất bản trong
thời gian này thì vẫn in theo các bản in
có từ 1946 và 1959:
7b Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui
Đâu từ ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi
Với cách hiểu như 7a từ "che" được
hiểu theo nghĩa biểu niệm (2) trong cấu
trúc biểu niệm của động từ này Từ
"ruồng" là tiếng địa phương, có nghĩa
tương tự như từ "lùm" của ngôn ngữ toàn
dân Như vậy, câu thơ thứ hai sẽ được hiểu là: ruồng/lùm + che mát + thở yên vui Với cách hiểu như 7b từ "che" được hiểu theo nghĩa biểu vật là "tre" (cây tre) ý nghĩa của câu thơ sẽ được hiểu là: ruồng/lùm tre mát + thở yên vui
Theo Từ điển tiếng Việt [15], từ
"lùm" có nghĩa là:
Đám cành lá rậm rạp của nhiều cây
kết thành vòm rộng Ví dụ: Ngồi nghỉ dười lùm tre (1)
- Đống lớn có hình giống như lùm
cây Ví dụ: Từng lùm khói lơ lửng giữa trời (2)
Về mặt ngữ nghĩa, từ "lùm" được các nhà biên soạn từ điển coi là một danh từ nhưng trong cấu trúc danh ngữ, nó có vai trò như loại từ: lùm tre, lùm nhãn, lùm vải, lùm cây… Có nghĩa là, trong các trường hợp này, từ "lùm" không chỉ ra một loài cây cụ thể mà nó chỉ đứng phụ cho danh từ chính để tạo thành một tổ hợp Trong câu, từ "lùm" không đứng độc lập làm chủ ngữ hay bổ ngữ như các danh từ thực thụ
Ví dụ, không thể nói:
- Họ đứng dưới lùm ( - )
- Lùm che mát chúng tôi ( - )
Mà phải nói:
- Họ đứng dưới lùm cây ( + )
- Lùm nhãn che mát chúng tôi ( + )
Trong thơ ca, do qui luật hài âm, hài thanh, chúng ta vẫn gặp nhiều cấu trúc tỉnh lược Nhưng đối với câu tỉnh lược thì, về cơ bản, chúng ta có thể khôi phục lại được các thành phần của nó [2]
Trang 4Trong đoạn thơ trên, nhà thơ hoàn toàn
không dùng cấu trúc tỉnh lược (vì nó
không được dùng để thay thế cho một tổ
hợp từ xuất hiện trước đó) Tuy nhiên,
khi tiếp nhận nó, lại có hai cách hiểu
khác nhau cùng tồn tại trong một thời
gian khá dài
Để có thể nêu lên nguyên nhân dẫn
đến sai lầm trong việc tiếp nhận khổ thơ
trên, ta hãy thử phân tích nghĩa biểu
niệm của một từ có liên quan đến cả câu
thơ vừa dẫn Đó là nghĩa biểu niệm của
từ "nhớ"
Trong Từ điển tiếng Việt [15], từ
"nhớ" được hiểu như sau:
- Giữ lại trong trí điều đã cảm biết,
nhận biết để rồi sau đó có thể tái hiện được
- Tái hiện ra trong trí điều trước đó
đã từng được cảm biết, nhận biết
Với cả hai nghĩa biểu niệm này, với
câu thơ trên, ta sẽ thấy cách hiểu thứ hai
mới là chính xác và đúng với nguyên bản
vì nó có tính lô gích hơn Bởi vì, người ta
chỉ có thể nhớ một loại cây cụ thể, chứ
không thể nhớ một cái "lùm" chung
chung Bài thơ "Nhớ đồng" của Tố Hữu
được viết khi ông xa quê, nhớ về quê
hương Trong bài thơ, các hình ảnh được
tái hiện là những sự vật cụ thể gắn bó
với tuổi thơ của tác giả: Tiếng hò, gió cồn
thơm, đất nhả mùi, ô mạ xanh, nương
khoai ngọt, sắn bùi, xóm nhà tranh,
ruộng đồng, lưng cong, luống cày, những
bàn tay, chiều sương, bãi đồng, lúa mềm
xao xác, tiếng xe lùa nước, mẹ già đơn
chiếc, con chim cà lơi (chim sơn ca)
Như vậy, cái có thể tái hiện được sau
"nỗi nhớ" phải là một hình ảnh thực và
có tính xác định, đó là "lùm tre" Nếu hiểu là "lùm che" thì đó là một cái lùm vô định, không rõ là lùm cây nào Một cái lùm vô định như thế không thể hình thành ra nỗi nhớ Hơn nữa, tổ hợp "lùm tre"/"rặng tre" là một tổ hợp thường hay
được dùng trong khẩu ngữ và thơ ca dân gian Với người Việt Nam, "Rặng tre" là biểu tượng cho làng quê, đồng quê thương nhớ Nó cũng là cái mã nghệ thuật được Tố Hữu tái tạo trong bài thơ
"Nhớ đồng"
Trong thực tế, việc tiếp nhận và phân tích các hình tượng thơ ca nhiều khi xảy
ra tình trạng đối lập nhau khi đứng trước cùng một văn bản Bài thơ "Tây tiến" của Quang Dũng là một ví dụ điển hình Trong bài thơ này, có một số đoạn gây ra những tranh luận sôi nổi, bắt đầu
từ việc hiểu nghĩa của một vài từ có tính chất là "từ chốt" của văn bản
Ví dụ
8 Người đi: Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Trong giới nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn bậc đại học, có người cho rằng, câu thơ thứ tư trong khổ thơ này là phi
lý, khó chấp nhận được vì "nước lũ" là dòng nước trôi rất mạnh thì làm sao hoa
có thể "đong đưa"? Đi tới chỗ cực đoan hơn, một số người theo quan niệm này còn kết luận: câu thơ viết như vậy là sai, không đúng với chuẩn mực
Vậy xuất phát điểm của quan niệm trên bắt nguồn từ đâu?
Để có thể hình dung cách lập luận của quan niệm đó, ta hãy phân tích
Trang 5nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm của
các từ "chốt" trong câu thơ Đó là các từ
"lũ", "đong đưa"
Lũ: Nước dâng cao ở vùng nguồn, dồn
vào dòng sông trong một thời
gian tương đối ngắn, do mưa hoặc tuyết
tan gây ra [15]
Từ nghĩa biểu vật này, tổ hợp "nước lũ"
sẽ được hiểu là "nước chảy mạnh và dữ"
Đong đưa: - Đưa qua đưa lại Tàu lá
đong đưa trước gió [15] (1)
- Tráo trở, không thật thà ăn nói
đong đưa [15] (2)
Trong quá trình phát triển ý nghĩa,
từ "đong đưa" còn có nghĩa biểu niệm:
- ánh mắt nhìn có ý tán tỉnh á nh
mắt đong đưa (3)
Như vậy, về cơ bản, từ "đong đưa"
trong câu thơ trên được tiếp nhận đúng
theo ý nghĩa biểu niệm (1) của nó Tuy
nhiên, việc hiểu sai ý của tác giả lại bắt
nguồn từ chỗ, người đọc đã đem vào thơ
Quang Dũng cái trật tự cú pháp thông
thường của câu văn xuôi nên kết luận đó
là một câu phi lô gích Nghĩa là, theo
cách lý giải này, câu thơ trên được hiểu
thành một câu đơn có hai thành phân vị
ngữ đẳng lập với nhau:
Hoa trôi theo dòng nước lũ/ và (hoa)
đong đưa
Nhưng nếu nhìn câu thơ trên là một
câu ghép chuỗi, trong đó có các nòng cốt
C-V đẳng lập với nhau thì tình hình lại
hoàn toàn khác Khi đó bản chất của câu
thơ này sẽ là:
Dòng nước lũ trôi/ hoa đong đưa
"Hoa đong đưa" ở đây là những cây
hoa lau bên bờ suối, đã được gợi từ câu
thơ thứ hai "có thấy hồn lau nẻo bến bờ", chứ không phải là những bông hoa trôi trên dòng nước lũ
Hiểu như vậy thì cả khổ thơ bốn câu của Quang Dũng sẽ là một bức tranh thuỷ mạc, vừa có nét cổ kính lại vừa hiện
đại Đó là một khổ thơ rất hay có sự kết hợp tài hoa của bút pháp tả thực lẫn bút pháp lãng mạn Nó vẫn hoàn toàn có tính lô gích chứ không phi lý như một vài người quan niệm
Tất nhiên, việc hiểu nghĩa hình tượng của từ trong mỗi câu thơ, bài thơ
cụ thể còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề
Đó là sự đồng cảm giữa người đọc và nhà thơ, là sự tương đồng hay không tương
đồng trong quá trình qui chiếu giữa cái nghĩa từ trong văn bản với sự vật và hiện tượng ngoài đời sống mà nó phản
ánh Cũng vẫn là khổ thơ trên, nhưng qua bài làm của nhiều học sinh thi vào
đại học, tổ hợp "hoa đong đưa" được hiểu hoàn toàn khác Có không ít học sinh giải thích sai rằng: "Hoa đong đưa" ở đây chính là hình ảnh của các cô gái Thái xinh đẹp đang đánh mắt đưa tình với những chàng trai Tây tiến" Nguyên nhân của cách hiểu sai này xuất phát từ chỗ hiểu từ "đong đưa" trong văn bản theo nghĩa biểu niệm (3), và hiểu từ
"hoa" theo nghĩa ẩn dụ là "người con gái Thái" Đây là những cách hiểu máy móc, mô phỏng, hoàn toàn theo sự cảm nhận chủ quan mà không xuất phát từ việc phân tích cấu trúc nghĩa của từ và quá trình hiện thực hoá của nó trong từng văn cảnh cụ thể
Tương tự như vậy, trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, chúng ta cũng
Trang 6gặp không ít các trường hợp hiểu sai các
văn bản thơ do sự lẫn lộn giữa nghĩa
biểu niệm và nghĩa biểu vật của từ
Chẳng hạn, trong bài thơ "Tiếng hát đi
đày" của nhà thơ Tố Hữu, có một khổ thơ
bị in sai và dẫn đến chỗ bình giảng sai
suốt mấy chục năm (xem thêm [7]) Đó là
khổ thơ thứ nhất Khổ thơ này bị hiểu
sai như sau:
Đường qua mấy phố Qui Nhơn
Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần
Người đi quần áo chen chân
ờ sao như đã quen thân từ nào?
Sự sai lầm xảy ra ở câu thơ thứ 3:
"Người đi quần áo chen chân" Hiểu theo
cách này, câu thơ sẽ có nhịp 2/4, trong
khi bản chất của câu thơ là có nhịp:
2/2/2, một kiểp nhịp phổ biến trong thể
thơ lục bát Tuy nhiên, đó mới chỉ nói
đến phương diện ngữ âm Còn về bản
chất ngữ nghĩa, thì việc hiểu kết hợp của
hai từ thứ 3 và thứ 4 trong câu thành
một từ ghép hợp nghĩa "quần áo" đã dẫn
đến một sự phi lô gích và làm cho câu
thơ trở nên "ngớ ngẩn": quần áo chen
chân? Câu thơ thứ 3 sẽ được hiểu là:
người (ta) đi và quần áo chen chân nhau!
Nó được hiểu thành thành 2 kết cấu C-V:
Người đi
C - V
Quần áo chen chân
C V
Để thấy rõ sự vô lý trong cách hiểu
mang tính cảm quan thuần về ngữ âm
học, chúng ta thử quan sát nghĩa biểu
niệm của động từ : "chen chân"
Chen chân: đg - Chen vào để đứng, để
chiếm chỗ Người đứng vòng trong vòng
ngoài, chen chân không lọt Khó lòng chen chân vào thương trường [15] Với nghĩa biểu niệm như đã nêu, từ
"chen chân" đòi hỏi chủ thể hành động của nó phải là một danh từ chỉ người Nói một cách khác, nó không thể là V của một danh từ chỉ sự vật (danh từ bất
động vật)
Như vậy, các từ thứ 3 và thứ 4 của câu thơ này không phải là một kết hợp mang ý nghĩa là một từ ghép tổng hợp
"quần áo" Nó là một kết hợp giữa một
động từ và một danh từ: quấn + áo Kết hợp này có mô hình giống với kết hợp của hai từ tiếp sau đó là từ thứ 4 và thứ 5 của câu thơ: chen (đt) + chân (dt)
Câu thơ thứ 3 của khổ thơ trên sẽ
được hiểu đúng với nguyên bản của nó là: Người đi/ quấn áo/ chen chân
/Người (ta) đi Người (ta) quấn áo lại cho đỡ lạnh Người (ta) chen chân nhau mà đi/
Từ những sự phân tích trên đây có thể kết luận rằng, việc phân tích nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm cũng như trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm của từ là vô cùng cần thiết đối với việc hiểu nghĩa hình tượng của từ trong thơ nói riêng và hình tượng thơ nói chung Đó chính là tính ứng dụng của lý thuyết ngôn ngữ học trong việc hiểu và tiếp cận văn chương Nó giúp cho chúng
ta có được những cơ sở chắc chắn để tái lập lại những cách hiểu đúng đắn về văn bản thơ, đặc biệt là các văn bản thơ có hiện tượng "tam sao thất bản" hoặc bị hiểu sai do việc tiếp nhận văn bản bằng con đường cảm tính
Trang 7Tài liệu tham khảo
1 Bate S.E., Language and context New York, San Fransico, London: Academic Press,
1976
2 Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo Dục, H., 2005
3 Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, H., 1981
4 Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1998
5 Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục, H., 1993
6 Hữu Đạt, Phong cách học với việc dạy văn và lý luận phê bình văn học, NXB ĐHQG,
H., 2000
7 Hữu Đạt, Ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2000
8 Hữu Đạt, Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc gia, H., 2001
9 Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt (câu), NXB ĐH&THCN, H., 1980
10 Lê Quang Thiêm, Những bước tiến về kiến giải nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 11, 2005
11 Lotman I.U.M, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB Đại học Quốc gia, H., 2004
12 Nguyễn Đức Tồn, Từ đồng nghĩa tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia, H., 2006
13 Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, H., 1998
14 Nguyễn Văn Tu, Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, NXB ĐH&THCN, H., 1976
15 Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2004
16 Wallace L.Chafe, ý nghĩa và cấu trúc của Ngôn ngữ, NXB Giáo dục, H., 1998
VNU JOURNAL OF SCIENCE, soc., sci., human, T.xXIII, n 0 1, 2007
Denotational and Connotational Meanings of Words and
the analysis of poetic images
Assoc Prof Dr Huu Dat
Department of Linguistics, College of Social Sciences and Humanities
This article attempts to apply the semantic field theory to analyzing the shift in the denotational and connotational meanings of words in poetry Based on the data collected from modern Vietnamese poems, the article attempts to show the principles needed for analyzing the meaning of words and their results when looking at the images of the poem This is a new approach to poetry: a linguistic approach to poetry Apart from this, the article points out the mistakes made by some approaches to poetry which ignore the analysis of the image revealed in some types of word formation and word combination In this way, the article proposes a way to reconstruct the real meanings of some poems which have been understood in different ways