1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Báo cáo " Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ " potx

7 5K 21

Đang tải... (xem toàn văn)

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghĩa Biểu Vật, Biểu Niệm Của Từ Và Việc Phân Tích Chúng Trong Quá Trình Tiếp Cận Hình Tượng Thơ
Tác giả Hữu Đạt
Người hướng dẫn PGS.TS., Khoa Ngôn Ngữ Học
Trường học Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
Chuyên ngành Ngôn Ngữ Học
Thể loại Bài báo
Năm xuất bản 2007
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 7
Dung lượng 153,52 KB

Nội dung

Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ Hữu Đạt * * PGS.TS., Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đ

Trang 1

Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân

tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ

Hữu Đạt (*)

(*) PGS.TS., Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN

Trong nghiên cứu từ vựng - ngữ

nghĩa của ngôn ngữ, lý thuyết trường

nghĩa đóng góp một phần rất quan trọng

vào việc phân chia các lớp từ vựng cũng

như vạch ra mối quan hệ bản chất giữa

các nhóm từ trong một lớp, giữa các từ

trong một nhóm [3, 4] Khi đi sâu vào

phân tích ngữ nghĩa từ vựng, lý thuyết

trường nghĩa còn cho ta nhìn nhận một

cách hệ thống về quá trình phát triển

của nghĩa từ và cơ cấu nghĩa của nó Một

trong các nội dung quan trọng của lý

thuyết trường nghĩa là việc phân tích

nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, trường

nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu

niệm Đây là hướng nghiên cứu rất có ích

đối với việc tìm hiểu hệ thống các từ gần

nghĩa, đồng nghĩa (xem thêm [10] cũng

như việc hiểu nghĩa từ trong văn bản,

đặc biệt là các văn bản có tính hình

tượng cao như văn bản thơ ca (xem thêm

[6, 7])

Nghĩa biểu vật và nghĩa biểu

niệm

Trong lý thuyết trường nghĩa, hai

loại nghĩa được quan tâm đầu tiên là

nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm Đây

là các loại nghĩa khái quát cho phép

người ta từ đó đi sâu vào các nét nghĩa

của từ Theo cách hiểu chung nhất,

nghĩa biểu vật là ý nghĩa khái quát về

chủng loại sự vật Còn nghĩa biểu niệm

là ý nghĩa được hình thành trong quá

trình chúng ta nhận thức về nghĩa chủng loại sự vật [3]

1 Nghĩa biểu vật của từ

Một từ không chỉ có một nghĩa biểu vật mà thường có nhiều nghĩa biểu vật khác nhau Ví dụ, phân tích các nghĩa biểu vật của từ "mũi", ta sẽ có sự phân xuất như sau:

Mũi: - Bộ phận nhô lên ở giữa mặt người và động vật có xương sống,

là cơ quan dùng để thở và ngửi [12] (1)

- Bộ phận nhọn, nhô ra phía trước của một số vật dùng vận tải trên nước như

tàu, thuyền (mũi tàu, mũi thuyền) (2)

- Bộ phận có đầu nhọn nhô ra phía trước của một số vật thường dùng hàng ngày: mũi kim, mũi kéo, mũi dao…(3)

- Bộ phận có đầu nhọn nhô ra phía trước của một số loại vũ khí: mũi tên, mũi giáo, mũi mác, mũi kiếm, mũi súng…(4)

- Doi đất nhọn nhô ra khỏi bờ trên sông, trên biển: mũi Né (Bình Thuận), mũi Cà Mau…(5)

Từ mỗi nghĩa biểu vật nêu trên, trong quá trình sử dụng, từ "mũi" có thể tham gia vào nhiều kết hợp khác nhau, với các ý nghĩa khác nhau Nếu không hiểu được ranh giới giữa các nghĩa biểu vật sẽ không thể hiểu chính xác nghĩa của từ "mũi" trong từng trường hợp

Trang 2

Ví dụ:

1 Anh ta hát giọng mũi

2 Cho nó thêm một mũi để nó ngủ đi

3 Nhiều mũi một lúc sợ không ổn

4 Hôm nay, phân nó có nhiều mũi

Sự khác nhau về nghĩa giữa các từ

"mũi" trong mấy ví dụ trên có liên quan

tới các nghĩa biểu vật khác nhau của từ

"mũi" Trong đó "mũi" ở ví dụ 1 và 2 có

liên quan tới nghĩa biểu vật (1), còn

"mũi" ở ví dụ 3 và 4 liên quan tới nghĩa

biểu vật (3) "Hát giọng mũi" là cách hát

để cho hơi dồn qua mũi là chính, nhiều

hơn là qua miệng"

Đi vào thực tiễn, các ẩn dụ từ vựng

đã được khai thác triệt để để phục vụ cho

việc hình thành ra các ẩn dụ tu từ:

Đầu Tổ quốc chính đây tiền tuyến

Mũi Cà Mau nhọn hoắt mũi chông

Trong câu thơ thứ 2, kết hợp "mũi Cà

Mau" là ẩn dụ từ vựng được hình thành

theo nghĩa biểu vật (5) của từ "mũi", còn

"mũi chông" là ẩn dụ từ vựng được hình

thành từ kiểu nghĩa biêu vật (4) của nó

Khi hai ẩn dụ từ vựng này được phối hợp

với nhau qua cách so sánh của tác giả

(mũi Cà Mau nhọn hoắt như mũi chông),

câu thơ hình thành nên một ẩn dụ tu từ

độc đáo: khí thế tiến công Mỹ nguỵ của

đồng bào miền Nam trong những năm

đánh Mỹ (xem thêm [1])

2 Nghĩa biểu niệm của từ

Nghĩa biểu niệm của từ là cái nghĩa

khái quát ở mức cao hơn so với nghĩa

biểu vật [3, 4] Nó là cái nghĩa được hình

thành trong quá trình nhận thức về

nghĩa chủng loại của sự vật Một từ có nhiều nghĩa biểu niệm sẽ là sự chuyển

đổi của một quá trình nhận thức, trong

đó các kết quả nhận thức đi sau không phủ nhận các kết quả nhận thức đã có từ trước về nghĩa biểu niệm của nó Chẳng hạn, phân tích nghĩa biểu niệm của từ

"che", ta sẽ thấy có một sự tiến lên về quá trình nhận thức như sau:

"Che": - Làm cho người khác không

nhìn thấy [12] Vd: Che ngực, che mặt… (1)

- Làm cho không bị tác động từ bên

ngoài [12] Vd: Che nắng, che mưa… (2)

- Bưng bít không cho người khác

nhận ra khuyết điểm Vd: Được thủ trưởng che cho nên nó không việc gì (3)

Từ các nghĩa biểu niệm trên đây, khi

đi vào thực tế, từ "che" còn có nhiều nghĩa khác nhau

Ta xét các ví dụ

5 Khi cười, nó vẫn hay che miệng

6 Lấy tay che mặt trời

Trong ví dụ 5, từ "che" không được dùng với mục đích nhằm "không cho người ta thấy" mà với nghĩa là ” thích làm duyên" Nghĩa này được phát triển

từ nghĩa biểu niệm (1) Còn từ "che" trong ví dụ 6 lại có nghĩa là " cố tình làm một việc vượt quá nhiều so với sức mình" Đây là ý nghĩa được phát triển từ nghĩa biểu niệm (2)

Qua các ví dụ vừa phân tích, có thể thấy rằng, để hiểu chính xác nghĩa của

từ trong từng văn cảnh cụ thể, cần phải hiểu rõ các nghĩa biểu vật và các nghĩa biểu niệm của từ cũng như con đường phái sinh ý nghĩa của nó Trong các văn

Trang 3

bản thơ, việc phân tích nghĩa từ, đặc biệt

là với các từ "chốt" sẽ có một ý nghĩa cực

kỳ quan trọng, vì nó liên quan trực tiếp

tới việc tiếp nhận hình tượng nghệ thuật

Thậm chí, trong một số trường hợp, do

việc hiểu khác nhau về nghĩa từ, những

kết quả lý giải đối với cùng một hiện

tượng thơ ca sẽ hoàn toàn khác nhau

Chẳng hạn, đoạn thơ sau đây của Tố

Hữu đã được in và phân tích thành hai

biến thể hoàn toàn khác nhau

Ví dụ:

7a Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từ ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi

Biến thể này xuất hiện trong các bản

in từ 1983 cho đến bản in toàn tập của

Nhà xuất bản Giáo dục 1995 Đặc biệt là

trong sách Văn 10 dùng cho chuyên ban

A,B của Nhà xuất bản Giáo dục in năm

1994, câu thơ thứ hai được giải thích:

"Ruồng che mát: lùm cây che mát- ruồng

tiếng địa phương có nghĩa là lùm cây"

Trong khi đó, Sách giáo khoa chuyên

ban Văn lớp 12 cũng được xuất bản trong

thời gian này thì vẫn in theo các bản in

có từ 1946 và 1959:

7b Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từ ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi

Với cách hiểu như 7a từ "che" được

hiểu theo nghĩa biểu niệm (2) trong cấu

trúc biểu niệm của động từ này Từ

"ruồng" là tiếng địa phương, có nghĩa

tương tự như từ "lùm" của ngôn ngữ toàn

dân Như vậy, câu thơ thứ hai sẽ được hiểu là: ruồng/lùm + che mát + thở yên vui Với cách hiểu như 7b từ "che" được hiểu theo nghĩa biểu vật là "tre" (cây tre) ý nghĩa của câu thơ sẽ được hiểu là: ruồng/lùm tre mát + thở yên vui

Theo Từ điển tiếng Việt [15], từ

"lùm" có nghĩa là:

Đám cành lá rậm rạp của nhiều cây

kết thành vòm rộng Ví dụ: Ngồi nghỉ dười lùm tre (1)

- Đống lớn có hình giống như lùm

cây Ví dụ: Từng lùm khói lơ lửng giữa trời (2)

Về mặt ngữ nghĩa, từ "lùm" được các nhà biên soạn từ điển coi là một danh từ nhưng trong cấu trúc danh ngữ, nó có vai trò như loại từ: lùm tre, lùm nhãn, lùm vải, lùm cây… Có nghĩa là, trong các trường hợp này, từ "lùm" không chỉ ra một loài cây cụ thể mà nó chỉ đứng phụ cho danh từ chính để tạo thành một tổ hợp Trong câu, từ "lùm" không đứng độc lập làm chủ ngữ hay bổ ngữ như các danh từ thực thụ

Ví dụ, không thể nói:

- Họ đứng dưới lùm ( - )

- Lùm che mát chúng tôi ( - )

Mà phải nói:

- Họ đứng dưới lùm cây ( + )

- Lùm nhãn che mát chúng tôi ( + )

Trong thơ ca, do qui luật hài âm, hài thanh, chúng ta vẫn gặp nhiều cấu trúc tỉnh lược Nhưng đối với câu tỉnh lược thì, về cơ bản, chúng ta có thể khôi phục lại được các thành phần của nó [2]

Trang 4

Trong đoạn thơ trên, nhà thơ hoàn toàn

không dùng cấu trúc tỉnh lược (vì nó

không được dùng để thay thế cho một tổ

hợp từ xuất hiện trước đó) Tuy nhiên,

khi tiếp nhận nó, lại có hai cách hiểu

khác nhau cùng tồn tại trong một thời

gian khá dài

Để có thể nêu lên nguyên nhân dẫn

đến sai lầm trong việc tiếp nhận khổ thơ

trên, ta hãy thử phân tích nghĩa biểu

niệm của một từ có liên quan đến cả câu

thơ vừa dẫn Đó là nghĩa biểu niệm của

từ "nhớ"

Trong Từ điển tiếng Việt [15], từ

"nhớ" được hiểu như sau:

- Giữ lại trong trí điều đã cảm biết,

nhận biết để rồi sau đó có thể tái hiện được

- Tái hiện ra trong trí điều trước đó

đã từng được cảm biết, nhận biết

Với cả hai nghĩa biểu niệm này, với

câu thơ trên, ta sẽ thấy cách hiểu thứ hai

mới là chính xác và đúng với nguyên bản

vì nó có tính lô gích hơn Bởi vì, người ta

chỉ có thể nhớ một loại cây cụ thể, chứ

không thể nhớ một cái "lùm" chung

chung Bài thơ "Nhớ đồng" của Tố Hữu

được viết khi ông xa quê, nhớ về quê

hương Trong bài thơ, các hình ảnh được

tái hiện là những sự vật cụ thể gắn bó

với tuổi thơ của tác giả: Tiếng hò, gió cồn

thơm, đất nhả mùi, ô mạ xanh, nương

khoai ngọt, sắn bùi, xóm nhà tranh,

ruộng đồng, lưng cong, luống cày, những

bàn tay, chiều sương, bãi đồng, lúa mềm

xao xác, tiếng xe lùa nước, mẹ già đơn

chiếc, con chim cà lơi (chim sơn ca)

Như vậy, cái có thể tái hiện được sau

"nỗi nhớ" phải là một hình ảnh thực và

có tính xác định, đó là "lùm tre" Nếu hiểu là "lùm che" thì đó là một cái lùm vô định, không rõ là lùm cây nào Một cái lùm vô định như thế không thể hình thành ra nỗi nhớ Hơn nữa, tổ hợp "lùm tre"/"rặng tre" là một tổ hợp thường hay

được dùng trong khẩu ngữ và thơ ca dân gian Với người Việt Nam, "Rặng tre" là biểu tượng cho làng quê, đồng quê thương nhớ Nó cũng là cái mã nghệ thuật được Tố Hữu tái tạo trong bài thơ

"Nhớ đồng"

Trong thực tế, việc tiếp nhận và phân tích các hình tượng thơ ca nhiều khi xảy

ra tình trạng đối lập nhau khi đứng trước cùng một văn bản Bài thơ "Tây tiến" của Quang Dũng là một ví dụ điển hình Trong bài thơ này, có một số đoạn gây ra những tranh luận sôi nổi, bắt đầu

từ việc hiểu nghĩa của một vài từ có tính chất là "từ chốt" của văn bản

Ví dụ

8 Người đi: Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Trong giới nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn bậc đại học, có người cho rằng, câu thơ thứ tư trong khổ thơ này là phi

lý, khó chấp nhận được vì "nước lũ" là dòng nước trôi rất mạnh thì làm sao hoa

có thể "đong đưa"? Đi tới chỗ cực đoan hơn, một số người theo quan niệm này còn kết luận: câu thơ viết như vậy là sai, không đúng với chuẩn mực

Vậy xuất phát điểm của quan niệm trên bắt nguồn từ đâu?

Để có thể hình dung cách lập luận của quan niệm đó, ta hãy phân tích

Trang 5

nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm của

các từ "chốt" trong câu thơ Đó là các từ

"lũ", "đong đưa"

Lũ: Nước dâng cao ở vùng nguồn, dồn

vào dòng sông trong một thời

gian tương đối ngắn, do mưa hoặc tuyết

tan gây ra [15]

Từ nghĩa biểu vật này, tổ hợp "nước lũ"

sẽ được hiểu là "nước chảy mạnh và dữ"

Đong đưa: - Đưa qua đưa lại Tàu lá

đong đưa trước gió [15] (1)

- Tráo trở, không thật thà ăn nói

đong đưa [15] (2)

Trong quá trình phát triển ý nghĩa,

từ "đong đưa" còn có nghĩa biểu niệm:

- ánh mắt nhìn có ý tán tỉnh á nh

mắt đong đưa (3)

Như vậy, về cơ bản, từ "đong đưa"

trong câu thơ trên được tiếp nhận đúng

theo ý nghĩa biểu niệm (1) của nó Tuy

nhiên, việc hiểu sai ý của tác giả lại bắt

nguồn từ chỗ, người đọc đã đem vào thơ

Quang Dũng cái trật tự cú pháp thông

thường của câu văn xuôi nên kết luận đó

là một câu phi lô gích Nghĩa là, theo

cách lý giải này, câu thơ trên được hiểu

thành một câu đơn có hai thành phân vị

ngữ đẳng lập với nhau:

Hoa trôi theo dòng nước lũ/ và (hoa)

đong đưa

Nhưng nếu nhìn câu thơ trên là một

câu ghép chuỗi, trong đó có các nòng cốt

C-V đẳng lập với nhau thì tình hình lại

hoàn toàn khác Khi đó bản chất của câu

thơ này sẽ là:

Dòng nước lũ trôi/ hoa đong đưa

"Hoa đong đưa" ở đây là những cây

hoa lau bên bờ suối, đã được gợi từ câu

thơ thứ hai "có thấy hồn lau nẻo bến bờ", chứ không phải là những bông hoa trôi trên dòng nước lũ

Hiểu như vậy thì cả khổ thơ bốn câu của Quang Dũng sẽ là một bức tranh thuỷ mạc, vừa có nét cổ kính lại vừa hiện

đại Đó là một khổ thơ rất hay có sự kết hợp tài hoa của bút pháp tả thực lẫn bút pháp lãng mạn Nó vẫn hoàn toàn có tính lô gích chứ không phi lý như một vài người quan niệm

Tất nhiên, việc hiểu nghĩa hình tượng của từ trong mỗi câu thơ, bài thơ

cụ thể còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề

Đó là sự đồng cảm giữa người đọc và nhà thơ, là sự tương đồng hay không tương

đồng trong quá trình qui chiếu giữa cái nghĩa từ trong văn bản với sự vật và hiện tượng ngoài đời sống mà nó phản

ánh Cũng vẫn là khổ thơ trên, nhưng qua bài làm của nhiều học sinh thi vào

đại học, tổ hợp "hoa đong đưa" được hiểu hoàn toàn khác Có không ít học sinh giải thích sai rằng: "Hoa đong đưa" ở đây chính là hình ảnh của các cô gái Thái xinh đẹp đang đánh mắt đưa tình với những chàng trai Tây tiến" Nguyên nhân của cách hiểu sai này xuất phát từ chỗ hiểu từ "đong đưa" trong văn bản theo nghĩa biểu niệm (3), và hiểu từ

"hoa" theo nghĩa ẩn dụ là "người con gái Thái" Đây là những cách hiểu máy móc, mô phỏng, hoàn toàn theo sự cảm nhận chủ quan mà không xuất phát từ việc phân tích cấu trúc nghĩa của từ và quá trình hiện thực hoá của nó trong từng văn cảnh cụ thể

Tương tự như vậy, trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, chúng ta cũng

Trang 6

gặp không ít các trường hợp hiểu sai các

văn bản thơ do sự lẫn lộn giữa nghĩa

biểu niệm và nghĩa biểu vật của từ

Chẳng hạn, trong bài thơ "Tiếng hát đi

đày" của nhà thơ Tố Hữu, có một khổ thơ

bị in sai và dẫn đến chỗ bình giảng sai

suốt mấy chục năm (xem thêm [7]) Đó là

khổ thơ thứ nhất Khổ thơ này bị hiểu

sai như sau:

Đường qua mấy phố Qui Nhơn

Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần

Người đi quần áo chen chân

ờ sao như đã quen thân từ nào?

Sự sai lầm xảy ra ở câu thơ thứ 3:

"Người đi quần áo chen chân" Hiểu theo

cách này, câu thơ sẽ có nhịp 2/4, trong

khi bản chất của câu thơ là có nhịp:

2/2/2, một kiểp nhịp phổ biến trong thể

thơ lục bát Tuy nhiên, đó mới chỉ nói

đến phương diện ngữ âm Còn về bản

chất ngữ nghĩa, thì việc hiểu kết hợp của

hai từ thứ 3 và thứ 4 trong câu thành

một từ ghép hợp nghĩa "quần áo" đã dẫn

đến một sự phi lô gích và làm cho câu

thơ trở nên "ngớ ngẩn": quần áo chen

chân? Câu thơ thứ 3 sẽ được hiểu là:

người (ta) đi và quần áo chen chân nhau!

Nó được hiểu thành thành 2 kết cấu C-V:

Người đi

C - V

Quần áo chen chân

C V

Để thấy rõ sự vô lý trong cách hiểu

mang tính cảm quan thuần về ngữ âm

học, chúng ta thử quan sát nghĩa biểu

niệm của động từ : "chen chân"

Chen chân: đg - Chen vào để đứng, để

chiếm chỗ Người đứng vòng trong vòng

ngoài, chen chân không lọt Khó lòng chen chân vào thương trường [15] Với nghĩa biểu niệm như đã nêu, từ

"chen chân" đòi hỏi chủ thể hành động của nó phải là một danh từ chỉ người Nói một cách khác, nó không thể là V của một danh từ chỉ sự vật (danh từ bất

động vật)

Như vậy, các từ thứ 3 và thứ 4 của câu thơ này không phải là một kết hợp mang ý nghĩa là một từ ghép tổng hợp

"quần áo" Nó là một kết hợp giữa một

động từ và một danh từ: quấn + áo Kết hợp này có mô hình giống với kết hợp của hai từ tiếp sau đó là từ thứ 4 và thứ 5 của câu thơ: chen (đt) + chân (dt)

Câu thơ thứ 3 của khổ thơ trên sẽ

được hiểu đúng với nguyên bản của nó là: Người đi/ quấn áo/ chen chân

/Người (ta) đi Người (ta) quấn áo lại cho đỡ lạnh Người (ta) chen chân nhau mà đi/

Từ những sự phân tích trên đây có thể kết luận rằng, việc phân tích nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm cũng như trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm của từ là vô cùng cần thiết đối với việc hiểu nghĩa hình tượng của từ trong thơ nói riêng và hình tượng thơ nói chung Đó chính là tính ứng dụng của lý thuyết ngôn ngữ học trong việc hiểu và tiếp cận văn chương Nó giúp cho chúng

ta có được những cơ sở chắc chắn để tái lập lại những cách hiểu đúng đắn về văn bản thơ, đặc biệt là các văn bản thơ có hiện tượng "tam sao thất bản" hoặc bị hiểu sai do việc tiếp nhận văn bản bằng con đường cảm tính

Trang 7

Tài liệu tham khảo

1 Bate S.E., Language and context New York, San Fransico, London: Academic Press,

1976

2 Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo Dục, H., 2005

3 Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, H., 1981

4 Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1998

5 Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục, H., 1993

6 Hữu Đạt, Phong cách học với việc dạy văn và lý luận phê bình văn học, NXB ĐHQG,

H., 2000

7 Hữu Đạt, Ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2000

8 Hữu Đạt, Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc gia, H., 2001

9 Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt (câu), NXB ĐH&THCN, H., 1980

10 Lê Quang Thiêm, Những bước tiến về kiến giải nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 11, 2005

11 Lotman I.U.M, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB Đại học Quốc gia, H., 2004

12 Nguyễn Đức Tồn, Từ đồng nghĩa tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia, H., 2006

13 Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, H., 1998

14 Nguyễn Văn Tu, Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, NXB ĐH&THCN, H., 1976

15 Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2004

16 Wallace L.Chafe, ý nghĩa và cấu trúc của Ngôn ngữ, NXB Giáo dục, H., 1998

VNU JOURNAL OF SCIENCE, soc., sci., human, T.xXIII, n 0 1, 2007

Denotational and Connotational Meanings of Words and

the analysis of poetic images

Assoc Prof Dr Huu Dat

Department of Linguistics, College of Social Sciences and Humanities

This article attempts to apply the semantic field theory to analyzing the shift in the denotational and connotational meanings of words in poetry Based on the data collected from modern Vietnamese poems, the article attempts to show the principles needed for analyzing the meaning of words and their results when looking at the images of the poem This is a new approach to poetry: a linguistic approach to poetry Apart from this, the article points out the mistakes made by some approaches to poetry which ignore the analysis of the image revealed in some types of word formation and word combination In this way, the article proposes a way to reconstruct the real meanings of some poems which have been understood in different ways

Ngày đăng: 14/03/2014, 15:20

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w