GI Ớ I THI Ệ U
Đặ t v ấn đề nghiên c ứ u
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ Việt Nam, 96% doanh nghiệp đăng ký tại Việt Nam là DNVVN Thống kê từ Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia cho thấy, đến tháng 4/2014, chỉ 30% DNVVN có vay vốn ngân hàng, trong khi 70% không sử dụng tín dụng ngân hàng Điều này cho thấy việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn Nguồn vốn vay từ ngân hàng đã từ lâu được coi là kênh tài trợ chính thức phổ biến Khi kênh tài chính chính gặp khó khăn, các kênh tài trợ không chính thức sẽ xuất hiện để hỗ trợ doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận hạn chế Gần đây, tín dụng thương mại đã trở thành một nguồn tài trợ không chính thức quan trọng trong các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi.
Nghiên cứu của Fisman và Love (2003) chỉ ra rằng tín dụng thương mại là một nguồn vốn thay thế quan trọng ở các nước có thị trường tài chính chưa phát triển Tại Việt Nam, việc tiếp cận tín dụng từ ngân hàng gặp nhiều khó khăn, trong khi thị trường tài chính và chứng khoán, mặc dù đã hoạt động 15 năm, vẫn còn non trẻ và kém phát triển Do đó, tín dụng thương mại trở thành một giải pháp đáng chú ý trong bối cảnh này.
Tín dụng thương mại, được khởi xướng bởi Goff (1957) và phát triển bởi nhiều nhà nghiên cứu như Schwart (1974) và Ferris (1981), là thỏa thuận giữa người mua và người bán cho phép thanh toán chậm cho sản phẩm thay vì thanh toán ngay bằng tiền mặt (Mian và Smith, 1992) Đây là công cụ tài chính mà nhà cung ứng cung cấp cho khách hàng, giúp thúc đẩy doanh số bán hàng và hỗ trợ tài chính cho các công ty nhỏ (Marotta, 2005; McMillan và Woodruff, 1999) Nhu cầu tín dụng thương mại thể hiện khoản nợ mà công ty phải trả cho nhà cung ứng cho hàng hóa đã nhận nhưng chưa thanh toán So với các kênh tài trợ chính thức như vay ngân hàng, tín dụng thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của công ty (Garmaise & Moskowitz, 2003) và là nguồn tài trợ thiết yếu cho các công ty, bất kể quy mô (Demirguc-Kunt & Maksimovic, 1999).
Nghiên cứu thực nghiệm trên toàn cầu đã chỉ ra rằng tín dụng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung khi tín dụng ngân hàng không khả dụng, và các công ty thường chuyển sang tín dụng thương mại từ nhà cung ứng như một lựa chọn thay thế khi điều kiện tài chính xấu đi Mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có thể vừa bổ sung vừa thay thế lẫn nhau, cho thấy tín dụng thương mại là một nguồn vốn quan trọng cho doanh nghiệp ở mọi quy mô và lĩnh vực Tuy nhiên, nghiên cứu về vai trò của tín dụng thương mại tại Việt Nam còn hạn chế Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, sự mất thanh khoản và hạn chế cho vay của ngân hàng đã làm cho tín dụng thương mại trở nên quan trọng hơn, giúp doanh nghiệp vượt qua tác động tiêu cực từ chính sách tiền tệ thắt chặt Các nghiên cứu chỉ ra rằng doanh nghiệp có mối quan hệ kém với ngân hàng có xu hướng sử dụng tín dụng thương mại nhiều hơn, và nhà cung ứng thường hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn tài chính để duy trì mối quan hệ lâu dài Do đó, trong giai đoạn khủng hoảng, tín dụng thương mại không chỉ trở nên quan trọng mà còn có khả năng thay thế các hình thức tài trợ khác, đặc biệt từ các nhà cung ứng nguyên liệu thô, nhờ vào khả năng vượt qua rào cản thông tin tốt hơn so với các tổ chức tài chính.
Mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa kết nối trực tiếp với thị trường tài chính toàn cầu, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế.
Giai đoạn từ 2008 đến 2011 được coi là thời kỳ khủng hoảng thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam, bắt đầu với cuộc đua lãi suất vào năm 2008 khi lãi suất qua đêm liên ngân hàng tăng liên tục Các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, phải nỗ lực tham gia vào cuộc đua này để duy trì thanh khoản Để kiểm soát tình hình, Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp bằng cách áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, bao gồm các biện pháp hành chính như áp trần lãi suất vay và cho vay Trong bối cảnh này, khi nguồn tín dụng ngân hàng bị co hẹp, tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp tại Việt Nam có khả năng tăng lên và trở nên ngày càng quan trọng.
Nghiên cứu này tập trung vào vai trò quan trọng của tín dụng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính Tác giả tiến hành nghiên cứu thực nghiệm mang tên “Mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam” nhằm khám phá mối liên hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng tại Việt Nam.
M ụ c tiêu và câu h ỏ i nghiên c ứ u
Thứ nhất, nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại tại các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại tại Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế cho thấy rằng chính sách thắt chặt tiền tệ khiến các ngân hàng trở nên miễn cưỡng trong việc cho vay, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của doanh nghiệp Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, các doanh nghiệp đã điều chỉnh chính sách tín dụng thương mại để vượt qua khó khăn Do đó, sự hiểu biết về tín dụng thương mại và mối quan hệ của nó với tín dụng ngân hàng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Dựa trên hai lý do đã nêu, tác giả tiến hành nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam nhằm khám phá mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại Nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc trả lời các câu hỏi cụ thể liên quan đến vấn đề này.
Bài nghiên cứu đặt ra các câu hỏi nghiên cứu như sau:
(i) Tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng có tồn tại tác động bổ sung và thay thế trong các doanh nghiệp tại Việt Nam hay không?
(ii) Tác động của quy mô doanh nghiệp (lớn, nhỏ) tại Việt Nam lên cung và cầu tín dụng thương mại là như thế nào?
(iii) Tác động của các doanh nghiệp có hàng hóa công và có hàng hóa tư tại
Việt Nam lên cung và cầu tín dụng thương mại là như thế nào?
(iv) Tác động của ngành sản xuất và phi sản xuất tại Việt Nam lên cung và cầu tín dụng thương mại là như thế nào?
Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u
Do các giới hạn về số liệu, lịch sử hoạt động của thị trường chứng khoán và yêu cầu về chuỗi thời gian trong cấu trúc dữ liệu bảng (panel data), đề tài nghiên cứu sẽ được xác định dựa trên đối tượng và phạm vi cụ thể.
• Các công ty cổ phần phi tài chính niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HSX)
• Giai đoạn nghiên cứu 2006-2014 (dữ liệu tiếp cận theo tần suất quý)
Phương pháp nghiên cứ u
Dựa trên các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam theo phương pháp của Lin & Chou (2015) Mô hình này áp dụng dữ liệu bảng để hồi quy các hệ số và sử dụng biến giả (0;1) để phân loại các giai đoạn nghiên cứu Điều này cho phép phân tích tác động của khủng hoảng và hậu khủng hoảng so với giai đoạn trước khủng hoảng đối với mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng Các phép hồi quy được thực hiện bằng phần mềm Eview.
K ế t c ấ u c ủa đề tài
Dự kiến kết cấu đề tài gồm 05 phần và được trình bày theo thứ tự dưới đây:
Trong phần này, tác giả tổng quan các vấn đề nghiên cứu bao gồm: lý do đặt ra nghiên cứu, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, nội dung và phạm vi nghiên cứu, cùng với phương pháp nghiên cứu được áp dụng.
T Ổ NG QUAN CÁC NGHIÊN C ỨU TRƯỚC ĐÂY
T ổ ng quan v ề lý thuy ế t tín d ụ ng
Tín dụng là một khái niệm kinh tế quan trọng, xuất hiện trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội Nó diễn ra khi bên cho vay cung cấp nguồn tài chính cho bên đi vay, với cam kết hoàn trả trong thời gian và lãi suất đã thỏa thuận Hoạt động này tạo ra mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ, phản ánh cơ chế tín dụng cùng các điều khoản liên quan như thời gian cho vay và lãi suất phải trả.
Tín dụng là công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy tái sản xuất mở rộng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ tích tụ và tập trung vốn Nó cũng giúp tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội và thực hiện các chính sách xã hội Do đó, tín dụng được phân loại thành nhiều loại khác nhau.
Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào 2 đối tượng chính là tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là mối quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp thông qua hình thức mua bán chịu hàng hóa, cho phép người mua sử dụng vốn tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định Khi đến hạn, người mua phải hoàn trả vốn và lãi cho người bán Hình thức tín dụng này không chỉ bao gồm hàng hóa mà còn là một phần của vốn sản xuất chưa chuyển hóa thành tiền Cả người cho vay và người đi vay đều là những doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, với quy mô tín dụng phụ thuộc vào tổng giá trị hàng hóa trong giao dịch mua bán chịu.
Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài chính giữa ngân hàng và bên đi vay, bao gồm các tổ chức kinh tế và cá nhân Trong giao dịch này, ngân hàng cung cấp tài sản cho bên đi vay trong một khoảng thời gian nhất định, theo thỏa thuận Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả cả vốn gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn Quá trình huy động và cho vay vốn diễn ra dưới hình thức tiền tệ, với ngân hàng đóng vai trò trung gian quan trọng.
T ổ ng quan các nghiên c ứu trước đây
Trong phần này, tác giả tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương tác giữa hai loại hình tín dụng này.
Trong nghiên cứu này, tác giả phân tích mối quan hệ giữa hai đối tượng, liệu chúng có tồn tại mối quan hệ thay thế hay bổ sung Bên cạnh đó, quy mô công ty, bản chất công ty và ngành nghề sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ này như thế nào Cuối cùng, tác giả cũng đề xuất các giả thuyết nghiên cứu cụ thể cho trường hợp tại Việt Nam.
2.2.1 Tác động thay thế (substitution) và bổ sung (complementary) giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng
Nghiên cứu trước đây chưa xác định rõ mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại, nhưng cho thấy tín dụng thương mại có thể bổ sung khi tín dụng ngân hàng không khả dụng (Demirguc-Kunt & Maksimovic, 2001; Giannetti et al., 2011; Biais & Collier, 1997) Các công ty thường chuyển sang tín dụng thương mại từ nhà cung ứng như một
Nghiên cứu của Love và các cộng sự (2007) trên 890 công ty ở sáu nền kinh tế mới nổi cho thấy, trước khủng hoảng, các công ty có tỷ lệ nợ ngắn hạn cao đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tín dụng thương mại Tuy nhiên, sau khủng hoảng, họ cắt giảm mạnh khoản tín dụng cho khách hàng, dẫn đến sự gia tăng phụ thuộc vào tín dụng từ nhà cung ứng Hai kết luận chính từ nghiên cứu này là: đầu tiên, có sự gia tăng tạm thời trong tín dụng thương mại ngay sau khủng hoảng, khi người mua ngừng thanh toán và tín dụng tích lũy cho đến khi người bán giảm cung hoặc người mua khôi phục thanh toán; thứ hai, có sự suy giảm rõ rệt về tín dụng sau khủng hoảng, kéo dài trong vài năm Sự giảm sút này có thể do hiệu ứng nguồn cung, khi các công ty không thể tiếp cận tài trợ ngân hàng, làm giảm khả năng cung cấp tín dụng cho khách hàng Đồng thời, Coulibaly và các cộng sự (2013) nghiên cứu vai trò của thắt chặt tín dụng trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009, cho thấy các công ty dễ bị tổn thương về tài chính đã chuyển sang tín dụng thương mại từ nhà cung ứng như một hình thức tài trợ bổ sung khi điều kiện tài chính xấu đi.
Trong nghiên cứu của Yang (2011), mối quan hệ đồng thời giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính được kiểm tra, cho thấy rằng tín dụng ngân hàng và các khoản phải trả/phải thu có sự liên kết chặt chẽ Kết quả chỉ ra rằng có sự tác động thay thế hoặc bổ sung giữa hai loại tín dụng này Hơn nữa, Yang cũng nhấn mạnh rằng các công ty có tình hình tài chính yếu kém, đặc biệt là những công ty bị hạn chế về tài chính, thường cắt giảm nguồn cung tín dụng cho khách hàng và gia tăng việc sử dụng tín dụng từ các nhà cung cấp.
Năm 2015, một nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu theo tần suất quý của 1213 doanh nghiệp tại Trung Quốc trong khoảng thời gian từ Q1 2006 đến Q4 2012 để phân tích mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng Nghiên cứu cũng xem xét tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đối với mối quan hệ này.
Nghiên cứu của Lin & Chou (2015) chỉ ra rằng có mối quan hệ dương và có ý nghĩa thống kê giữa nguồn cung cấp tín dụng thương mại (các khoản phải thu) và khoản nợ vay ngân hàng Ngược lại, nghiên cứu cũng phát hiện mối quan hệ nghịch biến có ý nghĩa thống kê giữa nhu cầu tín dụng thương mại (các khoản trả) và khoản nợ vay ngân hàng Kết quả này cho thấy sự tương tác vừa bổ sung vừa thay thế giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tổng hợp các các kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 2.1 dưới đây Bảng 2.1: Tổng kết các nghiên cứu về mối quan hệ giữa TNTM và TDNH
Tác giả nghiên cứu Tác động thay thế (Substitution)
Giannetti cùng các cộng sự(2011) ✓
Love cùng các cộng sự (2007) ✓
Coulibaly cùng các cộng sự (2013) ✓
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước đây
Tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng có bản chất tương tự trong ngắn hạn, do đó, việc phân tích mối quan hệ giữa hai loại tín dụng này là cần thiết Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chưa đưa ra kết luận rõ ràng về việc tín dụng thương mại có bổ sung hay thay thế cho tín dụng ngân hàng Quy mô công ty, bản chất công ty và các ngành khác nhau sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ này Do đó, tác giả sẽ tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan đến các yếu tố này trong phần tiếp theo.
Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, các tổ chức tài chính thường giảm hoặc thắt chặt nguồn tài trợ, dẫn đến việc các công ty tìm kiếm kênh tài trợ không chính thức và sử dụng tín dụng thương mại để vượt qua khó khăn Điều này tạo ra mối tương quan âm giữa vốn vay ngân hàng và các khoản phải trả, cho thấy tác động thay thế Đồng thời, việc siết chặt điều kiện tài chính khiến các công ty cắt giảm tín dụng thương mại cho khách hàng, dẫn đến mối tương quan dương giữa các khoản vay ngân hàng và các khoản phải thu, thể hiện tác động bổ sung Dựa trên những lập luận này, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu cho tình huống của Việt Nam.
Tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng tại Việt Nam có mối quan hệ phức tạp, trong đó tín dụng ngân hàng có thể thay thế cho khoản vay từ ngân hàng, trong khi đó, nó lại bổ sung cho các khoản phải thu Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp có thể linh hoạt trong việc sử dụng nguồn vốn, vừa tận dụng tín dụng ngân hàng vừa quản lý các khoản phải trả một cách hiệu quả.
2.2.2 Tác động của quy mô công ty lên cung và cầu của tín dụng thương mại
Nhiều nghiên cứu đã phân tích ảnh hưởng của quy mô công ty đối với tín dụng thương mại, bao gồm các tác phẩm của Nilsen (2002), Severin và cộng sự (2004), Choi và Kim (2005), Petersen và Rajan (1997), Ng cùng cộng sự (1999), và Lin & Chou (2015).
Nilsen (2002) chỉ ra rằng các công ty nhỏ thường có nhu cầu tín dụng thương mại cao hơn so với các công ty lớn do hạn mức tín dụng hạn chế Tín dụng thương mại được sử dụng để lấp đầy khoảng trống tài chính và cải thiện mức độ tín nhiệm của công ty, như nghiên cứu của Severin, Alphonse, và Ducret (2004) cho thấy Choi và Kim (2005) không tìm thấy chứng cứ cho thấy các công ty lớn sẽ tăng tín dụng thương mại nhiều hơn khi chính sách tiền tệ thắt chặt Petersen và Rajan (1997) nhấn mạnh rằng các công ty lớn thường cung cấp tín dụng thương mại nhiều hơn do lợi thế quy mô, trong khi các công ty nhỏ có thể không cung cấp tín dụng thương mại ngay cả khi có khả năng tiếp cận vốn ngân hàng Nilsen (2002) cũng cho thấy rằng cả hai loại công ty đều có nhiều khoản phải trả hơn trong thời kỳ thắt chặt tiền tệ Lin & Chou (2015) kết luận rằng các công ty lớn có tác động thay thế và bổ sung giữa khoản vay ngân hàng và các khoản phải trả, trong khi các công ty nhỏ có nhu cầu tín dụng thương mại tăng liên tục trong giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng.
Tổng hợp các các kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 2.2 dưới đây.
Bảng 2.2: Tổng kết các nghiên cứu tác động của quy mô công ty lên nguồn cung và cầu của tín dụng thương mại.
Tác giả Quy mô lớn
Quy mô nhỏ (Small firms)
Nilsen (2002) Cung cấp Nhu cầu
Severin cùng cộng sự (2004) Cung cấp Nhu cầu
Choi & Kim (2005) Cung cấp Nhu cầu
Petersen & Rajan (1997) Cung cấp Nhu cầu
Ng cùng cộng sự (1999) Cung cấp Nhu cầu
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước đây
Các nghiên cứu cho thấy các công ty lớn thường là nhà cung cấp tín dụng thương mại, với mối tương quan dương giữa quy mô công ty và khoản phải thu Ngược lại, các công ty nhỏ thường là người có nhu cầu tín dụng thương mại, cho thấy mối tương quan âm giữa quy mô và khoản phải trả Tại Việt Nam, chỉ khoảng 30% doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận vốn ngân hàng, tương tự như tình hình ở Trung Quốc, nơi ngân hàng chủ yếu phục vụ doanh nghiệp nhà nước lớn Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, tín dụng ngân hàng giảm đáng kể, làm cho tín dụng thương mại trở nên quan trọng hơn với các công ty lớn, trong khi các công ty nhỏ lại tăng khoản phải thu để duy trì mối quan hệ với khách hàng.
Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, các công ty lớn có xu hướng gia tăng sử dụng tín dụng thương mại khi nguồn vay ngân hàng bị hạn chế Điều này dẫn đến việc nhu cầu về khoản phải trả của các công ty lớn tăng cao hơn so với các công ty nhỏ Từ những lập luận và kết quả này, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu cho tình huống của Việt Nam.
Trong suốt khủng hoảng tài chính, các công ty lớn có xu hướng giảm nguồn cung các khoản phải thu và tăng cường sử dụng các khoản phải trả hơn so với các công ty nhỏ Điều này cho thấy sự khác biệt trong cách quản lý tài chính giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ trong bối cảnh khó khăn kinh tế.
2.2.3 Tác động của doanh nghiệp có hàng hóa công và doanh nghiệp có hàng hóa tư lên cung và cầu tín dụng thương mại
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨ U
Gi ả thuy ế t nghiên c ứ u
Dựa trên các giả thuyết của Lin & Chou (2015) đã được trình bày ở phần 2, bài viết nhằm khám phá mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, đồng thời phân tích ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 đến mối quan hệ này.
Tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng tại Việt Nam có mối quan hệ tác động bổ sung và thay thế trong các doanh nghiệp Cụ thể, việc vay vốn ngân hàng có thể thay thế cho các khoản phải trả, trong khi đó, nó lại có tác động bổ sung đối với các khoản phải thu.
Trong suốt khủng hoảng tài chính, các công ty lớn thường giảm nguồn cung của các khoản phải thu và tăng cường sử dụng các khoản phải trả nhiều hơn so với các công ty nhỏ Điều này cho thấy sự khác biệt trong chiến lược tài chính giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ trong bối cảnh khủng hoảng.
Trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính, các công ty kinh doanh hàng hóa công đã nhận được nhiều tín dụng thương mại hơn từ các nhà cung ứng, trong khi các công ty kinh doanh hàng hóa tư lại gặp khó khăn hơn và nhận được tín dụng thương mại ít hơn.
Giả thuyết H4: Suốt khủng hoảng tài chính, cung và cầu tín dụng thương mại của ngành sản xuất sẽ nhiều hơn ngành phi sản xuất.
Mô hình nghiên c ứ u và các bi ế n s ố trong mô hình
Theo nghiên cứu của Lin&Chou (2015), tác giả đã phát triển một bộ ba mô hình để phân tích mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng Mô hình này áp dụng phương pháp dữ liệu bảng (panel data) để hồi quy các hệ số, kết hợp với một loạt biến kiểm soát và các biến giả (0;1) nhằm phân loại các giai đoạn trong quá trình nghiên cứu Các giai đoạn này bao gồm trước khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong khủng hoảng và sau khủng hoảng Phương pháp này cho phép tác giả phân tích rõ ràng tác động của khủng hoảng và hậu khủng hoảng so với giai đoạn trước khủng hoảng đối với mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
TcRec it = α 0 + β 1 BkLoan it + β 2 PRE2+ β 3 PRE1 + β 4 Crisis + β 5 POST1+ β 6 POST2 + β 7 POST3 + β 8 POST4 + β 9 POST5 + β 10 POST6 + X it + ε it (1)
TcPay it = α 0 + β 1 BkLoan it + β 2 PRE2+ β 3 PRE1 + β 4 Crisis + β 5 POST1+ β 6 POST2 + β 7 POST3 + β 8 POST4 + β 9 POST5 + β 10 POST6 + X it + ε it (2)
TcNet it = α 0 + β 1 BkLoan it + β 2 PRE2+ β 3 PRE1 + β 4 Crisis + β 5 POST1+ β 6 POST2 + β 7 POST3 + β 8 POST4 + β 9 POST5 + β 10 POST6 + X it + ε it (3)
+ α là hệ số chặn và ε là sai số.
+ β 1 thể hiện mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Các hệ số β 2 đến β 10 phản ánh sự tương tác giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng trong các giai đoạn trước khủng hoảng, trong khủng hoảng và sau khủng hoảng.
+ Các biến số trong mô hình được trình bày chi tiết dưới đây.
Trong phương trình (1), nghiên cứu dự đoán rằng sẽ có tác động bổ sung giữa vốn vay ngân hàng và các khoản phải thu, vì vậy hệ số β1 được kỳ vọng có giá trị dương (+), cho thấy mối quan hệ đồng biến giữa TcRec và BkLoan.
Nghiên cứu cho thấy có tác động thay thế giữa vốn vay ngân hàng và khoản phải trả, với hệ số β 1 được kỳ vọng mang dấu (-), phản ánh mối quan hệ nghịch biến giữa TcPay và BkLoan Trong điều kiện bình thường, khoản phải thu thường lớn hơn khoản phải trả (TcNet > 0), do đó, hệ số β 1 được kỳ vọng mang dấu (+).
Theo Lin&Chou (2015), tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng thường được coi là các biến độc lập trong các nghiên cứu trước đây, dẫn đến khả năng xuất hiện vấn đề nội sinh và mối quan hệ nhân quả trong mô hình thực nghiệm Để khắc phục các vi phạm về giả định phương sai thay đổi, nội sinh và mối quan hệ nhân quả, tác giả đã áp dụng mô hình hiệu ứng cố định theo nhóm doanh nghiệp (firm-fixed effects) trong các mô hình hồi quy.
3.2.2 Các biến số trong các mô hình
Nhóm các biến chính Đây là nhóm các biến đo lường tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, bao gồm:
+ TcRec it đo lường khoản phải thu (khoản phải thu trên tổng tài sản) của công ty i tại thời điểm t.
+ TcPay it đo lường khoản phải trả (khoản phải trả trên tổng tài sản) cho công ty i tại thời điểm t.
+ TcNet it là tín dụng thương mại ròng (khoản phải thu trừ khoản phải trả chia tổng tài sản) của công ty i tại thời điểm t.
+ BkLoan it là nợ vay ngân hàng (nợ ngắn hạn của ngân hàng chia cho tổng tài sản) của công ty i tại thời điểm t.
Tín dụng thương mại ròng (TcNet) xác định vai trò của công ty là nhà cung cấp hay sử dụng tín dụng thương mại Trong điều kiện bình thường, TcNet thường lớn hơn 0, cho thấy các công ty sẵn sàng mở rộng tín dụng cho khách hàng Ngược lại, khi TcNet nhỏ hơn 0, công ty sẽ nhận tín dụng thương mại từ nhà cung ứng.
Nhóm các biến giả kiểm soát các giai đoạn khủng hoảng
Crisis là biến giả (0;1) phản ánh giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu, với giá trị bằng 1 từ quý 1 năm 2008 đến quý 1 năm 2009 và bằng 0 trong các giai đoạn khác.
Trước khi khủng hoảng diễn ra:
Biến giả PRE2 (1,0) đại diện cho năm 2006, thời điểm hai năm trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ Cụ thể, PRE2 có giá trị bằng 1 trong suốt năm 2006 (từ Q1 đến Q4) và bằng 0 trong các giai đoạn khác.
Biến giả PRE1 (1,0) đại diện cho thời điểm một năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2007 Cụ thể, PRE1 có giá trị bằng 1 trong năm 2007, từ Q1 đến Q4, và bằng 0 trong các giai đoạn còn lại.
Sau khi khủng hoảng diễn ra:
POST1 là biến giả (1,0) thể hiện thời điểm một năm sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, cụ thể là năm 2009 Biến này có giá trị 1 trong khoảng thời gian từ quý 2 đến quý 4 năm 2009 và giá trị 0 trong các giai đoạn khác.
Các biến giả POST2, POST3, POST4, POST5, POST6 đại diện cho các năm 2010, 2011, 2012, 2013 và 2014, tương ứng với thời điểm 2, 3, 4, 5 và 6 năm sau cuộc khủng hoảng Mỗi biến này nhận giá trị 1 tại năm mà chúng đại diện.
- POST2 nhận giá trị 1 trong giai đoạn Q1 2010 đến Q4 2010
- POST3 nhận giá trị 1 trong giai đoạn Q1 2011 đến Q4 2011
- POST4 nhận giá trị 1 trong giai đoạn Q1 2012 đến Q4 2012
- POST5 nhận giá trị 1 trong giai đoạn Q1 2013 đến Q4 2013
- POST6 nhận giá trị 1 trong giai đoạn Q1 2014 đến Q4 2014 và bằng 0 trong các giai đoạn còn lại.
Các biến kiếm soát trong mô hình
Ba biến tín dụng thương mại (TcRec, TcPay, BkLoan) chịu ảnh hưởng lớn từ quy mô hoạt động của doanh nghiệp Để phân tích mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, tác giả đã sử dụng một nhóm biến kiểm soát Xit liên quan đến quy mô doanh nghiệp trong các phương trình (1, 2, 3) Đầu tiên, tác giả kiểm soát sự suy giảm doanh thu (SALES), yếu tố thường gắn liền với các cuộc khủng hoảng kinh tế Tiếp theo, quy mô công ty (SIZE), giá vốn hàng bán (CGS - cost of goods sold) và hàng tồn kho (Inventory) cũng được đưa vào mô hình, với các biến này được chia theo tổng tài sản để đảm bảo tính chính xác trong phân tích.
+ SALES = Doanh thu / Tổng tài sản
+ CGS = Giá vốn hàng bán / Tổng tài sản
+ SIZE = Ln ( Tổng tài sản) (Với Ln : logarit Nepe)
+ INVENTORY = Hàng tồn kho / Tổng tài sản
Ký hiệu Tên gọi Cách tính
TcRec TcPay TcNet Đo lường khoản phải thu Đo lường khoản phải trả Tín dụng thương mại ròngKhoản phải thu / Tổng tài sản Khoản phải trả / Tổng tài sản
(Khoản phải thu - khoản phải trả) / Tổng tài sản
BkLoan Nợ vay ngân hàng
Biến giả cho giai đoạn khủng hoảngNợ ngắn hạn/ Tổng tài sản
Trong giai đoạn Q1 2008 đến Q1 2009, tình trạng khủng hoảng được xác định với giá trị Crisis = 1, trong khi các giai đoạn khác có giá trị Crisis = 0 Giai đoạn PRE từ Q1 2006 đến Q4 2007 có giá trị PRE = 1, và các giai đoạn còn lại có giá trị PRE = 0 Tương tự, giai đoạn POST từ Q2 2009 đến Q4 2014 có giá trị POST = 1, trong khi các giai đoạn khác có giá trị POST = 0 Chỉ số doanh thu trên tổng tài sản được sử dụng để đánh giá hiệu suất tài chính trong các giai đoạn này.
Giá vốn hàng bán / Tổng tài sản
Ln (Tổng tài sản) (với Ln : logarit Nepe) Hàng tồn kho / Tổng tài sản
Biến giả kiểm soát giai đoạn khủng hoảng
Biến giả giai đoạn trước khủng hoảng
Biến giả giai đoạn sau khủng hoảng
Doanh thu Giá vốn hàng bán Quy mô Hàng tồn kho
Bảng 3.1: Bảng tổng kết các biến trong mô hình
K Ế T QU Ả NGHIÊN C Ứ U
Th ố ng kê mô t ả các bi ế n
Mẫu nghiên cứu bao gồm 63 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở GDCK TP HCM (HSX) trong giai đoạn 2006-2014, với dữ liệu thu thập theo tần suất quý Tác giả thực hiện thống kê mô tả các biến trong mô hình, cung cấp giá trị trung bình, trung vị, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất và độ lệch chuẩn để hiểu rõ đặc tính dữ liệu Nghiên cứu kiểm định 4 giả thuyết: giả thuyết 1 xem xét toàn bộ mẫu; giả thuyết 2 chia mẫu thành 2 nhóm quy mô nhỏ và lớn; giả thuyết 3 phân loại theo bản chất hàng hóa công và tư; và giả thuyết 4 phân chia thành 2 nhóm ngành sản xuất và phi sản xuất.
4.1.1 Thống kê mô tả toàn mẫu
Hình 4.1 minh họa xu hướng tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại của 63 doanh nghiệp trong giai đoạn 2006-2014, bao gồm các giai đoạn khủng hoảng, trước và sau khủng hoảng Dữ liệu cho thấy tỷ lệ nợ vay ngắn hạn (Bkloan/TA) chiếm 30-40% tổng tài sản, trong khi tín dụng thương mại chiếm tỷ trọng nhỏ hơn: các khoản phải thu (TcRec) từ 12-16% và các khoản phải trả (TcPay) từ 5-8% tổng tài sản Cả tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng đều giảm trong giai đoạn khủng hoảng và một năm sau đó, trước khi tăng trở lại trong các năm tiếp theo.
Hình 4.1: Xu hướng tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng
Bảng 4.1 tóm tắt mô tả thống kê các biến độc lập và phụ thuộc trong giai đoạn nghiên cứu từ 2006 – 2014 Ba biến phụ thuộc gồm các khoản phải thu (TcRec) với giá trị trung bình 0.1355, các khoản phải trả (TcPay) với giá trị trung bình 0.069, cho thấy tín dụng thương mại ròng (TcNet) là dương Điều này chứng tỏ các công ty tại Việt Nam sẵn lòng mở rộng tín dụng thương mại cho khách hàng Biến độc lập BkLoan có giá trị trung bình 0.3498, cao hơn đáng kể so với TcRec và TcPay, nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn vốn vay từ ngân hàng Các biến còn lại, sau khi được chia cho tổng tài sản, có giá trị trung bình lần lượt là 0.3055 (Sales), 0.2575 (CGS), 7.1042 (Size) và 0.1859 (Inventory).
Bảng 4.1: Mô tả thống kê các biến trên toàn bộ mẫu quan sát
Obs Mean Median Max Min Std.D
Nguồn: tác giả tự tính dựa vào số liệu tổng hợp, thực hiện trên Eview
4.1.2 Thống kê mô tả trên các mẫu con
Phân chia mẫu theo quy mô
Dựa trên quy mô tài sản (SIZE = Ln (Tổng tài sản)), tác giả chia mẫu nghiên cứu thành hai nhóm: công ty lớn và công ty nhỏ, dựa trên điểm trung vị (median) của Size là 6.9304 Các doanh nghiệp có Size lớn hơn 6.9304 được phân loại vào nhóm quy mô lớn, trong khi nhóm còn lại được xem là quy mô nhỏ Kết quả cho thấy có 1030 quan sát thuộc nhóm quy mô lớn và 1029 quan sát thuộc nhóm quy mô nhỏ Bảng 4.2 cung cấp tóm tắt mô tả thống kê cho tất cả các biến tương ứng với các mẫu con phân chia theo quy mô, với dãy A mô tả cho doanh nghiệp quy mô lớn và dãy B cho doanh nghiệp quy mô nhỏ.
So sánh giữa hai dãy A và B trong bảng 4.2 cho thấy các doanh nghiệp quy mô nhỏ sử dụng tín dụng thương mại nhiều hơn so với doanh nghiệp quy mô lớn, với giá trị trung bình của TcRec là 0.162 và TcPay là 0.0752 cho doanh nghiệp nhỏ, trong khi tương ứng của doanh nghiệp lớn là 0.1107 và 0.0628 Điều này chứng tỏ rằng các công ty nhỏ, thường bị hạn chế trong việc tiếp cận tín dụng chính thức, có nhu cầu tín dụng thương mại cao hơn Mặc dù vậy, giá trị trung bình nợ vay ngắn hạn từ ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ cũng cao hơn so với doanh nghiệp lớn, với các chỉ số lần lượt là 0.3818 và 0.3179.
DN nhỏ cũng lớn hơn giá trị trung bình của DN lớn.
Bảng 4.2: Mô tả thống kê các biến trên mẫu phân theo quy mô
Dãy A: Nhóm DN quy mô lớn (Large firms)
Obs Mean Median Max Min Std.D
Dãy B: Nhóm DN quy mô nhỏ (Small firms)
Obs Mean Median Max Min Std.D
Nguồn: tác giả tự tính dựa vào số liệu tổng hợp, thực hiện trên Eview
Phân chia mẫu thành 2 nhóm là doanh nghiệp có hàng hóa công và doanh nghiệp có hàng hóa tư
Dựa trên tiêu chuẩn phân ngành ICB do FTSE Group và DowJones phát triển, tác giả đã chia mẫu nghiên cứu thành hai nhóm: doanh nghiệp có hàng hóa công và doanh nghiệp có hàng hóa tư ICB phân loại các ngành kinh tế quốc dân thành bốn cấp độ, bao gồm cấp 1 với 10 nhóm ngành (Industries), cấp 2 với 19 phân ngành lớn (Super sectors), cấp 3 với 41 phân ngành chính (Sectors), và cấp 4 với 114 phân ngành phụ (Sub sectors).
Trong ICB, các ngành công nghiệp bao gồm Dầu khí, Nguyên vật liệu, Công nghiệp, Hàng tiêu dùng, Y tế, Dịch vụ tiêu dùng, Hàng hóa công, Tài chính, Công nghệ và Viễn thông Nhóm công ty phục vụ hàng hóa công (utilities – mã ICB: 7000) bao gồm các công ty sản xuất và phân phối điện, quản lý hệ thống nước và khí gas sinh hoạt Do đó, các doanh nghiệp thuộc mã ngành 7000 được phân loại là doanh nghiệp có hàng hóa công, trong khi 57 doanh nghiệp còn lại thuộc nhóm doanh nghiệp có hàng hóa tư với 1859 quan sát Kết quả phân loại cho thấy có 200 quan sát từ 6 doanh nghiệp trong nhóm hàng hóa công Bảng 4.3 tóm tắt mô tả thống kê của tất cả các biến tương ứng với các mẫu con, với dãy A cho doanh nghiệp có hàng hóa công và dãy B cho doanh nghiệp có hàng hóa tư.
Trong bảng 4.3, tác giả so sánh hai nhóm doanh nghiệp có hàng hóa công và hàng hóa tư, nhận thấy rằng doanh nghiệp có hàng hóa công sử dụng tín dụng thương mại ít hơn, với giá trị trung bình của TcRec là 0.099 so với 0.139 của doanh nghiệp có hàng hóa tư, và TcPay lần lượt là 0.0477 và 0.0713 Kết quả này không như kỳ vọng ban đầu rằng các nhà cung ứng sẽ cung cấp nhiều khoản phải thu hơn cho doanh nghiệp có hàng hóa công Hơn nữa, giá trị trung bình của nợ vay ngắn hạn từ ngân hàng của nhóm doanh nghiệp có hàng hóa công cũng thấp hơn, với BkLoan là 0.1843 so với 0.3677 của nhóm hàng hóa tư Do đó, các doanh nghiệp có hàng hóa công trong mẫu nghiên cứu tại Việt Nam có nhu cầu sử dụng các nguồn tín dụng ngắn hạn thấp hơn so với các doanh nghiệp có hàng hóa tư.
Bảng 4.3: Mô tả thống kê các biến trên mẫu phân theo bản chất hàng hóa
Dãy A: Nhóm DN có hàng hóa công (Public utilities)
Obs Mean Median Max Min Std.D
Dãy B: Nhóm DN có hàng hóa tư (Private companies)
Obs Mean Median Max Min Std.D
Nguồn: tác giả tự tính dựa vào số liệu tổng hợp, thực hiện trên Eview
Phân chia mẫu thành 2 nhóm sản xuất và phi sản xuất
Dựa trên tiêu chuẩn phân ngành ICB, tác giả đã phân chia mẫu nghiên cứu thành hai nhóm: sản xuất và phi sản xuất Nhóm ngành sản xuất bao gồm 10 nhóm nhỏ, được trình bày trong bảng 4.4 Kết quả phân loại cho thấy có 1.022 quan sát từ 31 doanh nghiệp thuộc nhóm ngành sản xuất và 1.037 quan sát từ 32 doanh nghiệp thuộc nhóm phi sản xuất.
Bảng 4.4: Bảng mô tả nhóm ngành sản xuất
Stt Nhóm ngành sản xuất bao gồm Industries Super sectors
1 Sản xuất sản phẩm điện tử, vi tính Công nghiệp Hàng và Dịch vụ CN
2 Sản xuất trang thiết bị nội thất Công nghiệp Xây dựng và Vật liệu
3 Sản xuất thiết bị, máy móc Công nghiệp Hàng và Dịch vụ CN
4 Sản xuất SP khoáng chất phi kim Công nghiệp Hàng và Dịch vụ CN
5 Sản xuất các sản phẩm gỗ Nguyên vật liệu Tài nguyên Cơ bản
6 Sản xuất giấy Nguyên vật liệu Tài nguyên Cơ bản
7 Sản xuất sợi, vải Nguyên vật liệu Hóa chất
8 Sản xuất hóa chất Nguyên vật liệu Hóa chất
9 Sản xuất sản phẩm nhựa và cao su Nguyên vật liệu Hóa chất
10 Sản xuất thực phẩm Hàng tiêu dùng Sản xuất thực phẩm
Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên bảng phân ngành ICB
Bảng 4.5 cung cấp tóm tắt mô tả thống kê cho tất cả các biến liên quan đến các mẫu con, trong đó dãy A phản ánh các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành sản xuất, còn dãy B đại diện cho các doanh nghiệp trong nhóm ngành phi sản xuất.
Trong bảng 4.5, tác giả so sánh hai dãy A và B và nhận thấy rằng các doanh nghiệp trong ngành sản xuất có xu hướng sử dụng nhiều khoản phải thu hơn so với các doanh nghiệp thuộc nhóm phi sản xuất, với giá trị trung bình của TcRec ở các doanh nghiệp sản xuất cao hơn.
Các doanh nghiệp sản xuất có nhu cầu tín dụng thương mại cao hơn so với các doanh nghiệp phi sản xuất, với giá trị trung bình của tín dụng thương mại ròng (TcNet) lần lượt là 0.0772 và 0.0558 Mặc dù các doanh nghiệp phi sản xuất sử dụng nhiều hơn trong các khoản phải trả (TcPay) với giá trị trung bình là 0.0644 so với 0.0736 của doanh nghiệp sản xuất, nhưng tổng thể, doanh nghiệp sản xuất vẫn chiếm ưu thế về việc sử dụng tín dụng thương mại Thêm vào đó, giá trị trung bình của nợ vay ngắn hạn từ ngân hàng của nhóm doanh nghiệp sản xuất cũng cao hơn, đạt 0.3533 so với 0.3464 của nhóm doanh nghiệp phi sản xuất.
Bảng 4.5: Mô tả thống kê các biến trên mẫu phân theo đặc tính ngành
Dãy A: Nhóm DN ngành sản xuất (Manufacturing industries)
Obs Mean Median Max Min Std.D
Dãy B: Nhóm DN ngành phi sản xuất (Non-manufacturing industries)
Obs Mean Median Max Min Std.D
Nguồn: tác giả tự tính dựa vào số liệu tổng hợp, thực hiện trên Eview
Phân tích tương quan
Trước khi thực hiện các phép hồi quy, tác giả đã phân tích tương quan giữa các biến trong mô hình, với kết quả được trình bày trong bảng 4.6 Kết quả cho thấy TcNet có mối tương quan lớn với TcRec, chỉ ra rằng tín dụng thương mại ròng phụ thuộc vào các khoản phải thu, đặc biệt trong bối cảnh các công ty tại Việt Nam chủ yếu là nhà cung cấp tín dụng Hơn nữa, hệ số tương quan của các biến kiểm soát và các biến độc lập khác đều thấp (