TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ SẢN PHẨM CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
KHÁI NIÊM CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1 Khái niệm làng nghề truyền thống
Làng nghề Việt Nam, hay còn gọi là làng nghề truyền thống, là những cộng đồng nơi cư dân chủ yếu tập trung vào một nghề duy nhất, với tính chuyên sâu cao Những nghề này không chỉ thể hiện nét văn hóa đặc sắc mà còn đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhập cho người dân trong làng.
Làng nghề thủ công truyền thống được định nghĩa là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi tập hợp các nghệ nhân và hộ gia đình có nghề truyền thống lâu đời Tại đây, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo mô hình phường hội, tương tự như hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ Các thành viên trong làng nghề luôn tuân thủ các quy tắc xã hội và gia tộc, tạo nên một môi trường sản xuất bền vững và phát triển.
Sự liên kết và hỗ trợ giữa các gia đình trong cùng dòng tộc và phường nghề đã góp phần hình thành các làng nghề truyền thống ngay tại nơi cư trú Tại những làng nghề này, không phải toàn bộ cư dân đều làm nghề truyền thống; nhiều thợ thủ công đồng thời là nông dân Tuy nhiên, nhu cầu chuyên môn hóa cao đã dẫn đến sự xuất hiện của những thợ chuyên sản xuất làng nghề ngay tại quê hương hoặc ở những khu vực tập trung khác.
2 Tiêu chí để được công nhận là làng nghề truyền thống của Việt Nam
Thông tư số 16/2006/TT-BNN hướng dẫn thực hiện Nghị định số 66/2006 NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn đã quy định các tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền thống do Bộ NN & PTNT ban hành.
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau:
- Nghề đã xuất hiệ tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận
- Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc
- Nghề gắn liền với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận.
- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Làng nghề truyền thống được công nhận khi:
- Đạt đủ các tiêu chí của làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống được công nhận thẹo quy định của thông tư này
Các làng chưa đạt tiêu chuẩn thứ nhất và thứ hai trong tiêu chí công nhận làng nghề, nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được công nhận theo quy định, vẫn sẽ được công nhận là làng nghề truyền thống.
3 Đặc điểm của làng nghề truyền thống Việt Nam.
3.1 Các làng nghề tuyền thống đã được hình thành, tồn tại và phát triển từ lâu đời ở nước ta.
Sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp đã dẫn đến sự ra đời của nhiều nghề thủ công tại các vùng nông thôn Việt Nam, bắt nguồn từ những hoạt động mà cư dân thực hiện trong thời gian nông nhàn Kinh tế của người Việt cổ chủ yếu dựa vào trồng lúa nước, tuy nhiên, công việc này không thường xuyên, chỉ tập trung vào những ngày đầu và cuối vụ Dù xã hội đã có nhiều thay đổi, tình trạng nông nhàn vẫn phổ biến, với tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn chỉ đạt 65% (theo tạp chí sức sống Việt – Hiệp hội làng nghề Việt Nam) Trước thực tế này, nhiều người đã tìm kiếm công việc phụ để cải thiện bữa ăn và nhu cầu thiết yếu hàng ngày, đồng thời tăng thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, các nghề phụ đã chứng minh vai trò quan trọng của mình, mang lại lợi ích thiết thực cho cư dân Chẳng hạn, sản xuất các sản phẩm từ mây, tre, lụa, cũng như đồ sắt, đồ đồng không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt mà còn trở thành hàng hóa để trao đổi Điều này đã giúp người dân thoát khỏi việc chỉ phụ thuộc vào vụ lúa, mang lại lợi ích kinh tế to lớn Nhiều gia đình bắt đầu học hỏi và mở rộng nghề nghiệp, từ đó hình thành các làng nghề, được gìn giữ và phát triển qua nhiều thế hệ.
3.2 Các làng nghề trung chủ yếu ở vùng Bắc Bộ.
Khu vực Bắc Bộ chiếm ưu thế về số lượng làng nghề, với khoảng 79% tổng số làng nghề cả nước, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp tới 43% Khu vực miền Trung và miền Nam lần lượt chiếm khoảng 15% và 6% tổng số làng nghề (Nguồn: Hiệp hội làng nghề Việt)
Nam) Các làng nghề nước ta thường nằm gần các con sông lớn để thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển buôn bán và thông thương.
3.3 Tại mỗi làng nghề truyền thống đều có một “ông tổ nghề”.
Ông tổ nghề là người giữ bí quyết sản xuất và kỹ thuật truyền lại từ cha ông, đồng thời là người truyền nghề cho các thế hệ sau qua phương thức kèm cặp Sự truyền nghề này đã tạo ra những nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề cho các làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay.
3.4 Mỗi làng nghề truyền thống là một nét tinh hoa văn hoá độc đáo của dân tộc
Làng nghề truyền thống không chỉ bảo tồn kỹ thuật làm nghề mà còn gìn giữ nhiều giá trị văn hóa vật chất và phi vật chất, cùng với các di tích lịch sử quý giá Những làng nghề này đã đóng góp đáng kể vào việc làm phong phú nền văn hóa dân tộc.
3.5 Việc sản xuất tại các làng nghề chủ yếu vẫn dựa vào lao động thủ công là chủ yếu.
Một điểm khác biệt nổi bật giữa sản xuất tại các làng nghề truyền thống và các ngành công nghiệp hiện đại là sự duy trì phương thức sản xuất thủ công từ hàng trăm năm trước Mặc dù công nghệ đã phát triển, nhiều ngành nghề đã chuyển sang sử dụng dây chuyền máy móc hiện đại, nhưng các làng nghề vẫn chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo của thợ thủ công Dù một số làng nghề đã áp dụng máy móc trong một số công đoạn sản xuất, các khâu chính vẫn cần sự can thiệp của người thợ, giữ gìn nét độc đáo và giá trị truyền thống.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SẢN PHẨM CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1 Khái niệm về sản phẩm của làng nghề truyền thống
Việt Nam sở hữu một hệ thống làng nghề truyền thống phong phú và đa dạng, trải dài khắp đất nước, mang đến những sản phẩm đặc sắc và đa dạng.
Sản phẩm của các làng nghề truyền thống chủ yếu là hàng hóa được sản xuất thủ công, với công nghệ và bí quyết sản xuất được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Những sản phẩm này không ngừng được hoàn thiện và phát triển cho đến ngày nay.
Nhờ sự khéo léo của người thợ thủ công và việc ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, sản phẩm của các làng nghề truyền thống ngày càng được cải thiện về chất lượng, đa dạng về kiểu dáng và mẫu mã, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Một số sản phẩm tiêu biểu:
Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng
Sản phẩm gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ
Sản phẩm mây tre đan
2 Đặc điểm sản phẩm của các làng nghề truyền thống.
2.1 Được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta.
Quá trình phát triển của sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống tại Việt Nam phản ánh những biến động trong lịch sử xã hội Kỹ năng sản xuất các sản phẩm này được gìn giữ và truyền lại qua nhiều thế hệ Hiện nay, Việt Nam có khoảng 200 loại sản phẩm thủ công mỹ nghệ, trong đó nhiều sản phẩm có lịch sử lâu đời như lụa Hà Đông với hàng nghìn năm, mây tre đan Phú Vinh trên 700 năm, và gốm Bát Tràng hơn 500 năm.
2.2 Công nghệ sản xuất ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống còn mang tính thủ công.
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ các làng nghề truyền thống chủ yếu được tạo ra bằng tay khéo léo của người thợ, kết hợp với nguyên liệu sẵn có tại địa phương như mây tre đan và gỗ mỹ nghệ Điều này tạo nên giá trị độc đáo và khác biệt cho sản phẩm, góp phần bảo tồn văn hóa và nghệ thuật truyền thống.
2.3 Mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống là một tác phẩm nghệ thuật vừa có giá trị sử dụng, giá trị văn hoá và giá trị nhân văn sâu sắc.
Mỗi tác phẩm nghệ thuật của người thợ thủ công không chỉ phản ánh sinh hoạt và cảnh vật dân gian mà còn chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, sản phẩm của các làng nghề Việt Nam không chỉ được xuất khẩu ra thị trường quốc tế mà còn là phương tiện hiệu quả để quảng bá văn hóa và hình ảnh con người Việt Nam đến bạn bè toàn cầu.
SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT TẠI CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1 Đối với việc duy trì bản sắc văn hoá dân tộc.
Hệ thống làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, lưu giữ các phương thức sản xuất thủ công và những giá trị văn hóa vật chất, phi vật chất như di tích, lễ hội và tín ngưỡng Các giá trị văn hóa nhân văn của cha ông vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, với sản phẩm thủ công là kết tinh của sự sáng tạo và khéo léo của người thợ Mỗi sản phẩm không chỉ là hàng hóa mà còn là tác phẩm nghệ thuật phản ánh vẻ đẹp quê hương và cuộc sống của người dân Việt Nam, trở thành biểu tượng văn hóa quý giá của dân tộc.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ các làng nghề truyền thống Việt Nam hiện đang được xuất khẩu sang nhiều quốc gia, với kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng liên tục qua các năm Xuất khẩu này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế đáng kể cho các làng nghề và đất nước, mà còn góp phần quảng bá văn hóa, con người và đất nước Việt Nam ra thế giới.
Xã hội phát triển đòi hỏi chúng ta phải chú trọng bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, vì văn hóa là cội nguồn giúp chúng ta phát triển Sự mai một của các làng nghề truyền thống đang diễn ra ngày càng nhiều, và điều này yêu cầu mỗi cá nhân cần chung tay bảo vệ và gìn giữ Nếu các làng nghề này tiếp tục bị lãng quên, chúng ta sẽ mất đi những nét văn hóa đa dạng và đặc sắc của dân tộc.
2 Đối với phát triển kinh tế.
2.1 Phát triển sản xuất tại các làng nghề truyền thống góp phần đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Hoạt động sản xuất thủ công tại các làng nghề truyền thống đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng nông nghiệp ở nông thôn Sự phát triển của các ngành thủ công đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, nơi không chỉ còn nông nghiệp mà còn có sự hiện diện và phát triển của tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ Hiện nay, cơ cấu kinh tế tại các làng nghề truyền thống đã chuyển dịch với 60 – 80% là công nghiệp và dịch vụ, trong khi nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 20 – 40%.
2.2 Xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống góp phần đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
Trong những năm gần đây, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ các làng nghề truyền thống tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt 121 triệu USD, và đến năm 2007, con số này đã tăng lên 750 triệu USD, theo thông tin từ Hiệp hội làng nghề.
Việt Nam) Hiện nay mặt hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống
Việt Nam hiện diện tại hơn 186 quốc gia và khu vực, chủ yếu ở Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc Xuất khẩu hàng thủ công từ các làng nghề truyền thống có tỷ lệ thực thu ngoại tệ cao, lên tới 98-99%, nhờ vào nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương mà không cần nhập khẩu Bên cạnh đó, nguồn lao động tại các làng nghề này cũng phong phú và chi phí thuê lao động tương đối thấp.
Việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm từ các làng nghề truyền thống là một chiến lược đúng đắn, mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước Mặc dù từ cuối năm 2008, xuất khẩu gặp khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các chuyên gia kinh tế vẫn nhận định rằng sản phẩm từ làng nghề truyền thống của Việt Nam vẫn là mặt hàng xuất khẩu tiềm năng và có lợi thế.
2.3 Xu hướng kết hợp giữa du lịch – làng nghề, làng nghề – du lịch góp phần làm phong phú thêm cho sản phẩm của ngành du lịch và tăng sức hút của du lịch Việt Nam với du khách nước ngoài
Với nền văn hóa dân gian phong phú của hơn 54 dân tộc, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách toàn cầu Du lịch làng nghề đang thu hút sự quan tâm từ du khách quốc tế, trở thành một phần không thể thiếu trong hành trình khám phá đất nước Phát triển du lịch làng nghề không chỉ nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân địa phương, mà còn thúc đẩy sự phát triển thương mại và dịch vụ ở nông thôn Từ góc độ vĩ mô, đây là hướng đi tiềm năng giúp tăng sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam, đồng thời gia tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
3 Đối với phát triển xã hội.
3.1 Phát triển sản xuất tại các làng nghề giúp giải quyết công ăn việc làm cho một khối lượng lớn lao động thất nghiệp tại nông thôn.
Giải quyết vấn đề việc làm cho lao động thất nghiệp ở nông thôn Việt Nam hiện nay gặp nhiều khó khăn, chủ yếu do trình độ lao động thấp và thiếu khả năng tiếp cận các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao Mặc dù lực lượng lao động ở nông thôn rất dồi dào, nhưng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động chỉ đạt 65%, dẫn đến tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng.
Việc thực hiện hiệu quả các chính sách phát triển ngành nghề và làng nghề ở nông thôn là giải pháp quan trọng để thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động Sản xuất sản phẩm thủ công, chủ yếu bằng tay, không yêu cầu lao động có trình độ văn hóa cao, kỹ thuật hay ngoại ngữ, do đó phù hợp với nhiều người dân nông thôn.
Theo Hiệp Hội làng nghề Việt Nam, cả nước hiện có khoảng 2.790 làng nghề, thu hút khoảng 42.000 hộ gia đình tham gia, tạo ra khoảng 1,35 triệu lao động chính và hàng triệu lao động phụ trong thời gian nông nhàn.
Bảng 1: Lao động tại một số làng nghề Phía Bắc năm 2003 Đơn vị : người
Tỉnh/ Thành phố Số lao động
Hà Tây ( trước khi sáp nhập với Hà Nội)
Hà Nội ( trước khi sáp nhâp với Hà Tây)
Nguồn: Bộ lao động,thương binh và xã hội.
Việc tạo ra công ăn việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt tại các làng nghề, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc Nó tạo cơ hội việc làm cho những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như người già, người tàn tật và trẻ em, những người thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm Theo thống kê, nhóm này chiếm khoảng 30-35% lực lượng lao động tại các làng nghề.
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT TẠI CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở THÁI LAN
Thái Lan, nằm trong khu vực Đông Nam Á, có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về phát triển Chính sách hợp lý đã giúp Thái Lan nhanh chóng vươn lên, trở thành một trong những nước dẫn đầu khu vực Cả hai quốc gia đều sở hữu nền văn hóa đặc sắc và đa dạng Chính phủ Thái Lan chú trọng duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, góp phần gìn giữ văn hóa dân tộc, phát triển du lịch và tạo công ăn việc làm cho người dân.
Thái trong việc bảo vệ phát triển sản xuất tại các làng nghề truyền thống đó là dự án “ Một làng nghề – một sản phẩm” - “One village, one product”
1 Giới thiệu dự án “Một làng nghề – một sản phẩm” của Thái lan.
Dự án “ Một làng nghề – một sản phẩm” của Thái Lan được Chính Phủ Thái Lan khởi xướng vào năm 2001 với những nội dung cơ bản sau:
Mục tiêu chung của dự án là tập trung nguồn lực và chú ý vào các sản phẩm và dịch vụ đặc thù của địa phương Mỗi làng sẽ lựa chọn và phát triển một sản phẩm chất lượng cao dựa trên thế mạnh riêng của mình Điều này sẽ giúp các sản phẩm truyền thống của Thái Lan chiếm lĩnh các thị trường ngách toàn cầu, được công nhận qua chất lượng và sự khác biệt đặc trưng của từng làng quê.
6 Mục tiêu cụ thể của Dự án:
Để tăng doanh số bán hàng, cần tạo ra những đặc điểm riêng biệt cho sản phẩm địa phương Đồng thời, để hàng hóa có thể thâm nhập vào thị trường toàn cầu, chúng phải đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh và chất lượng quốc tế.
- Làm sống lại, phục hồi và phát huy các giá trị truyền thống của địa phương nhằm nâng cao hiệu kinh doanh của địa phương.
- Phát huy những tri thức của địa phương để sáng tạo ra những sản phẩm và hàng hoá mới có tính đặc thù.
- Song song với phát triển du lịch sinh thái và du lịch làng nghề thủ công mỹ nghệ nhằm tăng thu nhập cho địa phương.
- Xây dựng lòng tự hào dân tộc đối với các sản phẩm của Thái Lan.
Hỗ trợ doanh nghiệp địa phương phát triển và cạnh tranh trên thị trường quốc tế là rất quan trọng Điều này được thực hiện thông qua việc thiết kế và phát triển sản phẩm, giúp doanh nghiệp theo kịp sự thay đổi trong thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng.
Dự án này tuân thủ nguyên tắc cơ bản là phát triển từ địa phương nhưng hướng tới toàn cầu, nhấn mạnh tính tự lực và sáng tạo, đồng thời chú trọng vào việc phát triển nguồn nhân lực.
Để đảm bảo tính toàn diện của chính sách quốc gia, nhiều Bộ, ngành chủ chốt của Thái Lan tham gia thực hiện dự án, bao gồm Văn phòng Thủ tướng, Cục phát triển kinh tế – xã hội và kinh tế quốc gia (NESDB), Bộ Nội vụ (Vụ phát triển xã hội), Bộ Nông nghiệp và Bộ Tài chính.
Bộ Thương mại ( cục xúc tiến thương mại), Bộ công nghiệp, Bộ y tế, Tổng cục du lịch
Cơ chế thực hiện Dự án được thiết lập bởi Nội các Chính phủ thông qua Ủy ban Quốc gia và 8 tiểu ban, nhằm điều phối chính sách và tiếp nhận phản hồi từ các tỉnh, quận Tiểu ban cấp tỉnh quản lý ngân sách nhà nước, trong khi tiểu ban cấp quận đảm nhiệm phân loại sản phẩm và hỗ trợ cộng đồng trong thiết kế và đảm bảo chất lượng Các hội đồng Làng phát triển sản phẩm và dịch vụ đặc thù cho từng làng Cơ chế này phân định rõ trách nhiệm, nhấn mạnh vai trò điều phối của Chính phủ, sự tự quản của địa phương và sự tham gia của nhân dân, nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động và phát huy tính tự chủ của địa phương.
Bộ Thương mại Thái Lan đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm từ Dự án, liên kết thị trường địa phương với thị trường quốc tế và bảo vệ tri thức địa phương Bộ thực hiện quyền bảo vệ sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, phát triển chiến lược marketing và đào tạo nguồn nhân lực cho các làng và địa phương Đồng thời, Bộ phân loại các đối tượng sản xuất theo tiềm năng thị trường thành ba nhóm: nhóm xuất khẩu, nhóm tiêu thụ nội địa và nhóm tiêu thụ địa phương Một nhiệm vụ quan trọng khác của Bộ là tìm kiếm thị trường mới và theo dõi các xu hướng phát triển.
Những chính sách ưu tiên của Chính phủ Thái lan cho Dự án bao gồm:
- Ân hạn ba năm cho nông dân.
- Lập quỹ một triệu Bath cho từng làng nghề, trong đó vốn ngân sách cấp là
- Xây dựng mạng Internet với website www.thaitambon.com để giúp cộng đồng sử dụng mạng điện tử.
Các giai đọan thực hiện dự án:
Giai đoạn 1 của dự án là giai đoạn lập kế hoạch, trong đó tập trung vào việc hình thành mạng lưới các cơ quan điều phối của Chính Phủ liên kết với cộng đồng địa phương Giai đoạn này bao gồm việc chỉ định các ủy ban công tác ở cấp tỉnh, quận và làng, đồng thời thực hiện tuyên truyền giáo dục cho cộng đồng về tầm quan trọng và những nguyên tắc cơ bản của dự án.
Giai đoạn 2: Giai đoạn các uỷ ban công tác xã cần phải xác định sản phẩm đặc trưng của từng làng
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chính của các ủy ban là xác định và đánh giá các sản phẩm địa phương có tiềm năng tiêu thụ cao trên thị trường Họ sẽ lựa chọn và xếp hạng các sản phẩm đặc trưng của từng làng Các ủy ban tiến hành rà soát một cách hệ thống các sản phẩm đã được chọn, với 6430 sản phẩm từ 7255 làng được đưa vào Dự án ở vòng đầu tiên, và thêm 589 sản phẩm trong vòng hai.
Các sản phẩm được phân loại thành ba cấp độ: cấp A cho sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu, cấp B cho sản phẩm tiêu thụ rộng rãi trong nước, và cấp C cho sản phẩm chỉ tiêu thụ tại địa phương Ủy ban quốc gia cũng phân loại tám nhóm sản phẩm dự án để quản lý hiệu quả hơn, trong đó nổi bật là các tác phẩm văn hóa nghệ thuật, sự kiện văn hóa, lễ hội, điểm du lịch, di tích lịch sử và dịch vụ du lịch Thái Lan xác định những nhóm sản phẩm tiềm năng tiêu thụ mạnh trên thị trường như hàng mây, tre đan, đồ gốm sứ, đồ sơn mài và chạm khắc gỗ.
Giai đoạn 3: Giai đoạn chú trọng và nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm.
Giai đoạn này bao gồm quản lý, thiết kế, chế biến, đóng gói và lưu kho sản phẩm để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế Để cải thiện chất lượng và nghiên cứu sản phẩm, cần có sự hỗ trợ tài chính, bao gồm việc tìm hiểu thị trường, nghiên cứu thị hiếu khách hàng và phân tích sản phẩm cạnh tranh Kết quả nghiên cứu sẽ hình thành ý tưởng về kiểu dáng sản phẩm Chính phủ đầu tư và hỗ trợ giai đoạn thiết kế ban đầu, phát triển mô hình và hoàn thiện chi tiết sản phẩm Thêm vào đó, Chính phủ Thái cũng hỗ trợ in tài liệu hướng dẫn sản xuất và chế tạo sản phẩm.
Giai đoạn 4: Giai đoạn mở rộng thị trường cho các sản phẩm.
Giai đoạn này được Chính phủ tài trợ mạnh mẽ với các hoạt động chính như xây dựng chiến lược marketing cho thị trường nội địa và quốc tế, lập kế hoạch hậu cần và kênh phân phối Các hoạt động khuyếch trương và xúc tiến sản phẩm bao gồm phát triển quan hệ công chúng, quảng cáo qua phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức triển lãm sản phẩm trong nước, trao giải thưởng và cấp bằng công nhận cho các sản phẩm tiêu biểu Chính phủ còn hỗ trợ mở các "Trung tâm sản phẩm tinh xảo" tại các tỉnh và tài trợ cho các cuộc triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế Đặc biệt, toàn bộ chi phí cho các doanh nhân và sản phẩm Thái Lan tham dự hội chợ quốc tế được Chính phủ tài trợ gần như hoàn toàn, chỉ trừ một khoản chi phí tượng trưng.
Trong giai đoạn hiện nay, Thương mại Điện tử đóng vai trò quan trọng và được Chính phủ Thái Lan xem là chiến lược mở rộng thị trường Để phát triển website thaitambon.com, Chính phủ đã huy động sự tham gia của nhiều Bộ ngành như Bộ Nội vụ, TOT, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp, các hợp tác xã và Bộ Thương mại Website cung cấp thông tin chi tiết về các làng nghề trên cả nước, bao gồm catalogue sản phẩm, giá cả, dịch vụ thương mại điện tử và chương trình hỗ trợ tài chính, cùng với tính toán chi phí vận chuyển và thuế VAT Ba ngân hàng tham gia phát triển website là Ngân hàng Châu Á, Ngân hàng Thương mại Siam và Ngân hàng Nông dân Thái Lan Đội ngũ kỹ thuật luôn sẵn sàng hỗ trợ giao dịch, phục vụ nhu cầu của người bán và người mua Hiện tại, website có khoảng 1200 mặt hàng, được phân loại theo nhóm sản phẩm như nông sản, thực phẩm chế biến và hàng thủ công mỹ nghệ.
Việc xây dựng website mang lại hiệu quả ấn tượng với sự gia tăng giao dịch mua hàng quốc tế lớn Internet đã chứng minh là một kênh bán hàng tiện lợi, chính xác và có chi phí giao dịch thấp, miễn là các điều kiện về an ninh và quy định pháp luật được đảm bảo.
Giai đoạn 5: Giai đoạn đánh giá hiệu quả trên cơ sở các tiêu chí và chỉ số đo hoạt động kinh doanh.
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM HIỆN NAY
1 Cơ sở pháp lý làm tiền đề cho việc phát triển các làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Để việc bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống có hiệu quả và mang tính nhất quán cao thì rất cần có những văn bản pháp lý quy định cụ thể về vấn đề này Tính đến thời điểm hiện nay, liên quan đến các ngành nghề nông thôn nói chung và cách ngành nghề thủ công mỹ nghệ nói riêng đã có nhiều văn bản được ban hành nhưng tiêu biểu nhất là ba văn bản pháp lý sau:
Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 24/11/2000, đề ra các chính sách phát triển ngành nghề nông thôn, đặc biệt chú trọng đến sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Quyết định này quy định cụ thể về các chủ trương phát triển, bao gồm quản lý đất đai, nguyên liệu phục vụ sản xuất, đầu tư tín dụng, thuế và lệ phí, thông tin thị trường tiêu thụ, chất lượng sản phẩm, đào tạo lao động, ứng dụng khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường.
Nghị định 66/2006/NĐ-CP, được ban hành vào ngày 07/07/2006, quy định về phát triển ngành nghề nông thôn, xác định rõ phạm vi đối tượng áp dụng và các hoạt động liên quan Nghị định cũng đưa ra các tiêu chuẩn công nhận nghề và làng nghề, quản lý chất lượng sản phẩm, cùng với các chính sách khuyến khích bảo tồn và phát triển làng nghề thông qua đầu tư tín dụng, xúc tiến thương mại và đào tạo nhân lực.
Thông tư số 113/2006/TT-BTC, được ban hành vào ngày 28/12/2006, hướng dẫn các nội dung liên quan đến ngân sách Nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 Thông tư này nêu rõ các đối tượng đủ điều kiện nhận hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Nhà nước, cùng với các nội dung liên quan đến nguồn kinh phí hỗ trợ (Phụ lục 3)
2.Thực trạng phát triển của các làng nghề truyền thống hiện nay.
Tính đến tháng 12/2008, Việt Nam có 2790 làng nghề theo thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, chủ yếu tập trung ở Đồng bằng Bắc bộ, Nam bộ và miền Trung Hà Nội, sau khi sáp nhập với Hà Tây, hiện có khoảng 1270 làng nghề, trong đó có 201 làng nghề được công nhận danh hiệu truyền thống với các nghề giá trị như sơn mài, khảm trai, gốm sứ Sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn đã làm thay đổi cơ cấu sản xuất tại các làng nghề, với xu hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong khi tỷ trọng nông – lâm nghiệp giảm Tại Bát Tràng, ngành nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 0,2%, trong khi ngành công nghiệp chiếm tới 80 – 90% giá trị sản xuất toàn xã.
Bảng2: Giá trị sản xuất của các ngành tại một số làng nghề Hà Nội Đơn vị: triệu VNĐ Các làng nghề Nông-lâm nghiệp
Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội 2.2 Du lịch và dịch vụ tại các làng nghề.
Làng nghề đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch, giới thiệu văn hóa và phong tục tập quán của các dân tộc và vùng miền Hình thức du lịch làng nghề không chỉ làm phong phú thêm sản phẩm du lịch Việt Nam mà còn giúp các làng nghề vượt qua khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm Sự kết hợp giữa du lịch và làng nghề hứa hẹn mang lại tiềm năng phát triển bền vững cho các làng nghề.
Du lịch làng nghề mang lại nhiều lợi ích cho du khách, bao gồm việc tìm hiểu quy trình sản xuất các sản phẩm thủ công truyền thống của Việt Nam và hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng nông thôn Du khách cũng có cơ hội lựa chọn và mua sắm các mặt hàng thủ công với giá cả hợp lý Theo thống kê từ viện nghiên cứu và phát triển du lịch, hàng năm có khoảng 60% trong số 800 triệu khách du lịch toàn cầu đến Việt Nam tham gia các tour du lịch văn hóa làng nghề.
Việt Nam hiện có hơn 2790 làng nghề thủ công phong phú và đa dạng, nhiều trong số đó đã trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn cho du khách quốc tế như làng gốm Bát Tràng, gốm Phù Lãng, tranh Đông Hồ, làng khảm trai Phú Mỹ, làng chạm bạc Đồng Xâm, làng gỗ Đồng Kỵ và làng giấy dó Yên Thái Ngoài Bắc Bộ, khu vực sông Tiền và sông Hậu cũng sở hữu hàng trăm làng trái cây, tạo nên nét đặc trưng cho du lịch miệt vườn Nam Bộ Các làng nghề thường nằm trên các trục giao thông đường bộ và đường sông, thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa và phát triển các tuyến du lịch Với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, vị trí địa lý thuận lợi và nét văn hóa độc đáo, mỗi làng nghề đều mang đến sức hút riêng, gắn liền với các vùng văn hóa và hệ thống du lịch đặc sắc.
Tiềm năng thu hút khách du lịch của các làng nghề truyền thống ở Việt Nam rất lớn; tuy nhiên, trong tổng số 2790 làng nghề, chỉ khoảng 100 làng nghề được đầu tư đồng bộ vào cơ sở hạ tầng để thu hút du khách Một số làng nghề tiêu biểu có thể kể đến.
Tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội, đã đầu tư 6,4 tỷ VNĐ để phát triển cơ sở hạ tầng du lịch chuyên đề làng nghề, bao gồm việc xây dựng 8km đường vào các làng nghề rèn Đa Sỹ, tiện Nhị Khê và khảm trai Chuyên.
Mỹ đã hỗ trợ 240 triệu VNĐ cho công tác quảng bá và giới thiệu về các làng nghề, trong đó có mây tre đan Phú Vinh (nguồn: Báo Nhân dân).
Bến Tre, với 500km sông rạch chằng chịt, đã trở thành điểm đến hấp dẫn nhờ vào hàng trăm vườn cây trái đặc sản, sân chim và nhà cổ Tỉnh đã triển khai các chính sách khuyến khích người dân tham gia vào ngành du lịch, kết hợp giữa du lịch và xóa đói giảm nghèo thông qua sự hỗ trợ hợp lý Hiện tại, Bến Tre có khoảng 29 điểm du lịch vườn, đứng đầu vùng đồng bằng sông Cửu Long Nhiều điểm du lịch do người dân quản lý không chỉ khai thác giá trị kinh tế mà còn giới thiệu các làng nghề truyền thống và văn hóa dân gian Du khách đến đây không chỉ được thưởng thức đặc sản hoa trái và món ăn hấp dẫn mà còn được trải nghiệm các chương trình đờn ca tài tử độc đáo.
Các tỉnh Bắc Ninh, Huế và Đà Nẵng đang chú trọng xây dựng các website giới thiệu về làng nghề, nhằm tạo cơ hội quảng bá thương hiệu sản phẩm và phát triển du lịch làng nghề.
Hà Nội, nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền thống, thu hút du khách thông qua các tour du lịch giá rẻ, chỉ khoảng 300 nghìn VNĐ cho một hành khách Đặc biệt, làng gốm Bát Tràng đã phát triển mô hình du lịch độc đáo với xe trâu, cho phép du khách trải nghiệm chỉ với 10.000 VNĐ Nhờ vào những hình thức tiếp thị sáng tạo này, lượng khách đến Bát Tràng đã tăng gấp 3-4 lần so với trước đây.
(nguồn theo nghệ nhân Nguyễn Văn Hai - làng gốm Bát Tràng).
Mô hình xe trâu – làng gốm Bát Tràng Theo tiến sỹ Nguyễn Trung Lương - viện nghiên cứu và phát triển du lich:
Làng nghề là một tài nguyên nhân văn quan trọng, với sản phẩm du lịch mang giá trị vật thể và phi vật thể Dù hiện nay nhiều làng nghề đang đối mặt với khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nếu được đầu tư và khai thác hợp lý, du lịch làng nghề có thể phát triển mạnh mẽ, mang lại giá trị kinh tế lớn.
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
1 Đánh giá về sản phẩm của các làng nghề truyền thống Việt Nam hiện nay.
Trước khi nghiên cứu tình hình xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống, cần có cái nhìn tổng quát và khách quan về sản phẩm này tại Việt Nam, vì đây là yếu tố quyết định để thúc đẩy xuất khẩu Mặc dù tiềm năng sản xuất lớn và nhu cầu nhập khẩu từ thị trường nước ngoài ngày càng tăng, kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam lại không có bước đột phá và thậm chí có giai đoạn còn giảm Nguyên nhân chủ yếu là do sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế và sức cạnh tranh yếu so với sản phẩm cùng loại từ các nước khác Theo khảo sát của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện đang yếu ở hai khâu chính là thông tin thị trường và kiểu dáng mẫu mã.
Các doanh nghiệp sản xuất tại các làng nghề Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin thị trường, dẫn đến việc không theo kịp xu hướng và nhu cầu của người tiêu dùng quốc tế Sự thụ động này ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam, khiến chúng không được ưa chuộng khi xuất khẩu ra nước ngoài.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc thu hút người tiêu dùng do kiểu dáng và mẫu mã không được cải tiến, đặc biệt là tại các thị trường phát triển như Nhật Bản Trước đây, sản phẩm Việt Nam được ưa chuộng nhờ vào giá rẻ và kiểu dáng mới lạ, nhưng hiện nay sức hấp dẫn đã giảm do thiếu sự đổi mới trong thiết kế Nhiều sản phẩm hiện tại chủ yếu sao chép từ các nước khác hoặc sản xuất theo mẫu của nhà nhập khẩu, dẫn đến việc thiếu tính ứng dụng trong sản phẩm Các doanh nghiệp thường tập trung vào tính nghệ thuật và văn hóa mà bỏ qua yếu tố thương mại và khả năng ứng dụng Xu hướng tiêu dùng hiện nay cho thấy người tiêu dùng sẵn sàng chi trả cao cho những sản phẩm có giá trị thẩm mỹ và tính ứng dụng Do đó, việc kết hợp tài năng thiết kế độc đáo với sự hiểu biết về thị trường là rất quan trọng để nâng cao giá trị sản phẩm và đảm bảo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
Trong những năm tới, các doanh nghiệp làng nghề truyền thống cần chủ động nghiên cứu và phát triển thị trường nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm Đầu tư vào thiết kế để cải thiện mẫu mã và kiểu dáng sản phẩm sẽ giúp nâng cao sức cạnh tranh cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường quốc tế.
2.Tình hình xuất khẩu chung.
SNửa cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX mà chủ yếu là giai đoạn từ 1975 –
Năm 1986 đánh dấu giai đoạn hoàng kim của ngành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam, với mức tăng trưởng ấn tượng đạt trung bình 40% Đặc biệt, năm 1979 ghi nhận mức xuất khẩu kỷ lục lên tới 53,4%, theo thông tin từ Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
Năm 1997, Việt Nam lần đầu tiên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ra nước ngoài, đạt kim ngạch 121 triệu USD Từ đó, kim ngạch xuất khẩu của ngành này liên tục tăng trưởng với tốc độ ấn tượng trong các năm sau.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ 1997 đến 2007 Đơn vị : triệu USD
Năm Kim ngạch xuất khẩu
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên có thể nhân thấy rằng chỉ trong vòng
Từ năm 1997 đến 2007, kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã tăng khoảng 6 lần, với mức tăng trưởng ổn định từ 20-25% Đến năm 2008, chúng ta hy vọng kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 1 tỷ USD, nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã gây khó khăn cho sản phẩm này trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ Nhiều doanh nghiệp sản xuất tại các làng nghề gặp khó khăn, giá nguyên vật liệu tăng trong khi đầu ra giảm Tính đến tháng 3/2009, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa ký kết được đơn hàng nào, và tổng số đơn hàng xuất khẩu đã giảm 40% so với cuối năm 2008, giá sản phẩm giảm từ 10-15%.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đang trở thành một trong mười nhóm hàng xuất khẩu tiềm năng, với sự đa dạng về chủng loại và tiêu thụ rộng rãi tại thị trường nội địa cũng như hơn 186 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới Các sản phẩm như gốm sứ và đồ gỗ mỹ nghệ thường xuyên nhận được nhiều đơn đặt hàng lớn, trong khi cơ cấu xuất khẩu chủ yếu bao gồm gốm sứ mỹ nghệ, đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre đan, cùng với các sản phẩm thêu ren và thảm len.
2.3.Cơ cấu thị trường xuất khẩu.
Sản phẩm thủ công truyền thống của Việt Nam hiện đang được ưa chuộng tại hơn 186 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu Thị trường tiêu thụ các sản phẩm này đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng mở rộng.
Bảng 4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Đơn vị : Triệu USD
Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu sản phẩm thủ của các làng nghề truyền thống bao gồm các thị trường chính sau:
EU là một thị trường lớn nhất và có nhu cầu nhập khẩu rất lớn hàng năm.
Trong những năm qua, sản phẩm thủ công truyền thống của Việt Nam đã xuất khẩu vào thị trường EU ngày càng tăng, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của cả nước Nhu cầu của thị trường này rất đa dạng, đặc biệt là các sản phẩm gốm sứ, đồ gỗ và mây tre đan, với nhiều sản phẩm mỹ nghệ Việt Nam được ưa chuộng Nhiều sản phẩm đã xây dựng được thương hiệu riêng và nhận được đơn đặt hàng lớn từ các quốc gia như Đức, Bỉ và Anh Tiềm năng xuất khẩu từ các làng nghề truyền thống vào EU rất lớn, nhưng các doanh nghiệp cần nắm vững quy định pháp luật, phong tục tập quán và tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hóa Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần cải tiến mẫu mã và chất lượng sản phẩm để phù hợp với nhu cầu của thị trường Nếu thực hiện tốt những yếu tố này, thị trường EU sẽ mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho các làng nghề và đất nước.
Mỹ là một trong những thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới, đặc biệt đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Mặc dù tiêu chuẩn hàng hóa nhập khẩu khá khắt khe, người tiêu dùng Mỹ lại có nhu cầu đa dạng và dễ tính Sau khi hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được ký kết vào năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, đặc biệt trong ngành tiểu thủ công nghiệp, đã tăng trưởng ấn tượng, từ vị trí thứ 8 lên thứ 2 trong số các nước nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu vẫn còn khiêm tốn so với nhiều nước khác, cho thấy tiềm năng lớn của Việt Nam Do đó, trong những năm tới, cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và xúc tiến thương mại để gia tăng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào thị trường Mỹ.
Thị trường Nhật Bản, nằm trong khu vực Châu Á, có nhiều điểm tương đồng về văn hóa với Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy xuất khẩu Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản luôn chiếm tỷ lệ từ 10% đến 29%, cho thấy tiềm năng lớn trong việc mở rộng thị trường này.
Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện chưa tương xứng với tiềm năng về nguyên liệu và lực lượng lao động Doanh nghiệp làng nghề gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh Khi xuất khẩu sang Nhật Bản, người tiêu dùng Nhật đặc biệt quan tâm đến nguyên liệu, phương pháp sản xuất và tính truyền thống của sản phẩm Yếu tố tính truyền thống được coi là quan trọng nhất, vì người Nhật yêu cầu sản phẩm phải thể hiện tâm tư của người lao động và có nét độc đáo riêng Sản phẩm gốm sứ Việt Nam được ưa chuộng, vì vậy doanh nghiệp cần tạo ra sản phẩm chất lượng, phù hợp với sở thích của người Nhật và có giá trị sử dụng cao Để thành công, hàng hóa cần đa dạng về chủng loại và đảm bảo cân bằng giữa giá cả và chất lượng, vì người Nhật coi hàng rẻ là hàng kém chất lượng và sẵn sàng chi trả cao cho sản phẩm tốt Nhật Bản vẫn là một trong những thị trường xuất khẩu chính cho sản phẩm thủ công truyền thống của Việt Nam đến năm 2010.
Liên Bang Nga là một thị trường tiềm năng cho sản phẩm gỗ mỹ nghệ và thủ công truyền thống Việt Nam với dân số 142 triệu người và GDP bình quân đầu người đạt 9075 USD Mối quan hệ thương mại lâu năm giữa hai nước cùng với tốc độ đô thị hóa cao đã tạo ra khoảng 43% nhu cầu đồ gỗ nội thất và thủ công mỹ nghệ cần nhập khẩu hàng năm Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm này từ Việt Nam vào Nga vẫn còn thấp, chỉ đạt 4,5 triệu USD cho gỗ và sản phẩm từ gỗ, cùng với 4,6 triệu USD cho sản phẩm mây, tre, cói và thảm vào năm 2008, trong khi tổng mức tiêu dùng đồ gỗ của Nga rất lớn.
Năm 2008, giá trị thị trường nội thất tại Nga đạt 4,5 tỷ USD (nguồn: vinanet) Người tiêu dùng Nga sẵn sàng chi tiêu lớn cho việc làm đẹp không gian sống, ưu tiên các sản phẩm chất lượng cao và thiết kế tinh tế, phù hợp với phong cách và không gian văn hóa của họ.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VIỆC XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1.Quan điểm phát triển các làng nghề truyền thống đẩy mạnh xuất khẩu.
Các làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế xã hội Nhận thức rõ tiềm năng kinh tế từ việc phát triển và xuất khẩu sản phẩm thủ công, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến sự phát triển của các làng nghề Trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2001 – 2010, Nhà nước đã nhấn mạnh việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo việc làm cho lao động nông thôn Đồng thời, cần phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn, hình thành các khu vực tập trung công nghiệp và các làng nghề gắn liền với thị trường trong nước và xuất khẩu Mục tiêu là tăng tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp để phát triển các khu công nghiệp công nghệ cao và các doanh nghiệp gắn với làng nghề.
X) Nhà nước ta luôn khuyến khích, tạo điều kiện và có những chính sách bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại các làng nghề truyền thống để đẩy mạnh xuất khẩu.
Trước tình trạng mai một và dần biến mất của nhiều ngành nghề và làng nghề truyền thống, Chính phủ cùng các Bộ, ngành liên quan đã triển khai nhiều chính sách và dự án nhằm bảo tồn và phát triển hiệu quả các làng nghề truyền thống của Việt Nam hiện nay.
Dự án "Mỗi làng một nghề" giai đoạn 2006 – 2015, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khởi xướng vào năm 2005, nhằm mục tiêu phát huy tiềm năng và lợi thế của các địa phương trong lĩnh vực nghề nông thôn, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ cả trong nước và quốc tế.
Quyết định số 132/200/QĐ-TTg ban hành ngày 24/1/2000 nhằm thúc đẩy phát triển ngành nghề nông thôn, đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Chính sách này tập trung vào việc nâng cao giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường cho các sản phẩm thủ công, góp phần vào sự phát triển kinh tế địa phương và tạo việc làm cho người dân.
Vào ngày 7/7/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2006/NĐ-CP nhằm phát triển ngành nghề nông thôn, với nhiều chính sách khuyến khích cho các làng nghề truyền thống Nghị định này bao gồm các biện pháp hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, đầu tư, tín dụng, xúc tiến thương mại, khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực Nhờ đó, nghị định đã đáp ứng sát thực tế và giúp giải quyết nhiều khó khăn mà các làng nghề đang phải đối mặt.
2 Định hướng đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm của các làng nghề truyền thống.
Kể từ năm 1997, sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ các làng nghề truyền thống lần đầu tiên được xuất khẩu ra thị trường quốc tế, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của ngành này.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã đạt 121 triệu USD vào năm 2007, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 20 – 25% trong suốt 10 năm Tuy nhiên, từ cuối năm 2008, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngành thủ công truyền thống và các mặt hàng xuất khẩu khác của Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, dẫn đến kim ngạch xuất khẩu năm 2008 không đạt mục tiêu 810 triệu USD.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam được xác định là mặt hàng xuất khẩu tiềm năng trong những năm tới, đặc biệt khi nền kinh tế toàn cầu phục hồi Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp làng nghề cần năng động cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường quốc tế Nếu thực hiện tốt, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ có thể đạt tốc độ tăng trưởng trên 20%, với mục tiêu đạt khoảng 1,5 tỷ USD vào năm 2010 theo đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010.
Cơ cấu xuất khẩu Trong những năm tới ta vẫn tập trung phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu vào
Việt Nam có 6 nhóm sản phẩm chính trong xuất khẩu, bao gồm đồ gỗ và mỹ nghệ, gốm sứ mỹ nghệ, hàng mây tre đan, thêu ren thổ cẩm, và hàng chạm bạc khắc đá Mặc dù tình hình kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2008 đến nay gặp nhiều biến động, nhiều chỉ tiêu xuất khẩu chưa đạt được Tuy nhiên, với những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thế giới, chúng ta vẫn có hy vọng hoàn thành các chỉ tiêu xuất khẩu vào năm 2010.
Bảng 10 : Mục tiêu xuất khẩu năm 2010 của một số nhóm hàng chính Đơn vị : triệu USD.
Nhóm đồ gỗ mỹ nghệ 250 – 300
Nhóm gốm sứ mỹ nghệ 400 – 450
Nhóm chạm bạc, khắc đá 80
Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu chủ yếu cho sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam Tuy nhiên, trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào các thị trường này vẫn còn thấp, chưa phản ánh đúng tiềm năng Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chỉ chiếm 1,5% tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này vào Hoa Kỳ, 1,7% vào Nhật Bản và 5,4% vào thị trường Châu Âu.
Mục tiêu xuất khẩu của ta vào năm 2010 vào các thị trường xuất khẩu chính như sau:
Hoa Kỳ EU Nhật Bản
Tăng từ 1,5 % lên 3% trong kim ngạch nhập khẩu thủ công mỹ nghệ vào
Tăng từ 5,4 lên 6,4 % trong kim ngạch nhập khẩu thủ công mỹ nghệ và
Tăng từ 1,7 lên 4% trong kim ngạch nhập khẩu thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản ( tương
Hoa Kỳ ( tương đương với 0,4 tỷ USD) tỷ USD) đương với 150 triệu USD)
Chúng ta không chỉ tập trung vào các thị trường xuất khẩu chính mà còn củng cố và phát triển các thị trường truyền thống như Nga, các nước mới của EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, và Canada Đồng thời, cần đẩy mạnh xúc tiến tìm kiếm và xâm nhập vào các thị trường tiềm năng như Châu Phi và các nước Trung Đông, nơi có nhu cầu nhập khẩu cao nhưng vẫn chưa được khai thác.
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1.Giải pháp bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
1.1 Cần tuyên truyền, nâng cao nhân thực về các ngành nghề thủ công cho mọi tầng lớp dân cư nhất là thế hệ trẻ được biết và hiểu rõ
Trong những năm gần đây, nhận thức của người dân về các nghề thủ công truyền thống ở nước ta còn hạn chế, dẫn đến việc nhiều nghề ít được biết đến và quan tâm, thậm chí có nguy cơ bị mai một Để nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của các ngành nghề truyền thống, cần có những kiến nghị cụ thể gửi đến các Bộ, nhằm thúc đẩy sự quan tâm và bảo tồn các nghề này.
Bộ Văn hóa Thông tin cần tăng cường tuyên truyền về các làng nghề và nghề thủ công truyền thống qua các phương tiện thông tin đại chúng Đề xuất hợp tác với các đài truyền hình để sản xuất phim tài liệu giới thiệu về các làng nghề, phát sóng vào khung giờ hợp lý Ngoài ra, cần tổ chức triển lãm và hội thảo cùng các bộ khác nhằm nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm của các làng nghề truyền thống.
Bộ Giáo dục và Đào tạo nên đưa vào chương trình học các bài giới thiệu về nghề thủ công và làng nghề truyền thống để khơi dậy lòng tự hào của thế hệ trẻ Ngoài giờ học chính thức, các trường cũng nên tổ chức các tour tham quan ngoại khóa đến viện bảo tàng và làng nghề, giúp học sinh có cơ hội trải nghiệm và học hỏi trực tiếp từ các nghề truyền thống.
1.2 Thống nhất các văn Bản pháp lý có liên quan Để có thể tiến hành phát triển các làng nghề truyền thống một các có bài bản Nhà nước cần phải thống nhất những văn bản pháp lý có liên quan, đưa ra những văn bản pháp lý quy định rõ ràng về yêu cầu, mục đích và phương hướng phát triển để đảm bảo một sự phát triển thống nhất, tránh tình trạng các văn bản pháp luật chồng chéo nhau, mâu thuẫn với nhau.
1.3.Cần phải có một chiến lược quy hoạch, phát triển dài hạn cho các làng nghề truyền thống
Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay đang phát triển manh mún, thiếu quy hoạch rõ ràng, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp và nhiều vấn đề môi trường Để cải thiện tình trạng này, cần gắn quy hoạch phát triển các làng nghề với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển các ngành nghề ưu tiên, đặc biệt là các ngành thủ công mỹ nghệ Hầu hết cơ sở sản xuất tại các làng nghề hiện nay hoạt động dưới hình thức hộ kinh tế gia đình, dẫn đến hạ tầng sản xuất không đảm bảo tiêu chuẩn Do đó, cần tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực nhà ở để đảm bảo điều kiện hạ tầng và bảo vệ môi trường Việc này đòi hỏi một quy hoạch dài hạn để cung cấp mặt bằng sản xuất cho các cơ sở tại làng nghề.
Trong tương lai, việc phát triển các cụm công nghiệp làng nghề chuyên sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu là rất quan trọng Quy hoạch cần quy định rõ trách nhiệm của từng Bộ, ban ngành từ trung ương đến địa phương để tránh tình trạng đổ thừa Ngoài ra, quy hoạch các làng nghề cần được công bố công khai và xác định rõ thời gian thực hiện nhằm giảm thiểu lãng phí.
Chiến lược quy hoạch phát triển hiệu quả cần có tầm nhìn rõ ràng và tính thực tiễn, nhằm giải quyết những thách thức mà các làng nghề đang đối mặt Việc chú trọng quy hoạch phát triển các làng nghề không chỉ giúp bảo tồn mà còn bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống cho các thế hệ tương lai.
1.4 Giải quyết, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nặng nề tại các làng nghề hiện nay
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, cần có sự chú ý và hợp tác từ tất cả các tầng lớp dân cư cũng như các Bộ, ban, ngành, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Để giải quyết ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống, Bộ NN&PTNN và doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức cho người dân về tác hại của ô nhiễm đến sức khỏe cộng đồng Việc này sẽ khuyến khích mọi tầng lớp tham gia bảo vệ môi trường và yêu cầu doanh nghiệp ký cam kết hạn chế sử dụng hóa chất độc hại Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh sẽ chỉ đạo nghiên cứu giải pháp xử lý chất thải và đưa ra biện pháp hạn chế ô nhiễm trong tương lai Nhà nước và Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ hỗ trợ tài chính và nhân lực cho các hoạt động này.
1.5 Hỗ trợ các doanh nghiếp sản xuât tại các làng nghề truyền thống giải quyết vấn đề thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Vốn là yếu tố quyết định giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn về cơ sở hạ tầng, sản xuất và ô nhiễm môi trường Để giải quyết vấn đề thiếu vốn hiện nay, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các làng nghề, bao gồm việc thành lập quỹ tín dụng ưu đãi cho các làng nghề truyền thống chuyên sản xuất hàng xuất khẩu với điều kiện vay vốn linh hoạt Các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, cũng như ngân hàng chính sách xã hội, nên nghiên cứu và đề xuất với chính phủ thành lập quỹ hỗ trợ đặc biệt dành riêng cho doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Các nguồn tín dụng cần có chế độ ưu đãi với thời hạn cho vay linh hoạt, lãi suất thấp và thủ tục vay đơn giản, nhanh chóng Chính phủ nên cho phép các chính quyền địa phương bảo lãnh cho doanh nghiệp làng nghề trong việc vay vốn.
1.6 Khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành hàng
Các hiệp hội ngành hàng đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển sản xuất cho các làng nghề truyền thống Để nâng cao hiệu quả hoạt động và khẳng định vị thế của mình, các hiệp hội cần tập trung vào việc duy trì và phát triển các làng nghề, đồng thời cải thiện năng lực cạnh tranh cho sản phẩm Hiện tại, các hiệp hội ngành hàng tại Việt Nam cần chú trọng giải quyết một số vấn đề cụ thể để đạt được mục tiêu này.
Hiệp hội ngành hàng cần phải quan tâm, thu hút được nhiều hơn nữa các doanh nghiệp trong ngành tham gia hoạt động.
Mỗi Hiệp hội cần thiết lập một cơ cấu tổ chức rõ ràng và linh hoạt, đồng thời xây dựng các website để cung cấp đầy đủ thông tin về hiệp hội, công khai các hoạt động, quy chế tham gia và cơ cấu tổ chức Điều này giúp mọi tầng lớp nhân dân và các doanh nghiệp làng nghề dễ dàng tiếp cận thông tin.
Các hiệp hội ngành nghề đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp làng nghề, bao gồm việc thu thập thông tin thị trường, cải tiến chất lượng sản phẩm và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên Họ cũng cung cấp tư vấn và giúp đỡ doanh nghiệp trong các hoạt động đầu tư, huy động vốn và đổi mới công nghệ.
Trên thực tế trước yêu cầu chấn hưng và phát triển của làng nghề vào năm
Hiệp hội làng nghề Việt Nam được thành lập vào năm 2005, hiện có hơn 600 hội viên cùng 12 thành viên tập thể và các đơn vị trực thuộc Hiệp hội đã triển khai 6 chương trình hoạt động nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển doanh nghiệp làng nghề, bảo vệ thương hiệu, mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu Đến nay, vai trò của Hiệp hội ngày càng được khẳng định và trở thành mô hình tiêu biểu cho các hiệp hội ngành nghề khác học tập.
1.7 Cần thống nhất các quy định và chính sách công nhận làng nghề truyền thống, công nhận nghệ nhân làng nghề