1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam

98 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sử Dụng Phương Pháp Bao Dữ Liệu (DEA) Phân Tích Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Doanh Nghiệp Ngành Chế Biến Thực Phẩm Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Thuỷ
Trường học Khoa Toán kinh tế
Thể loại luận văn tốt nghiệp
Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 652,39 KB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1

  • NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

    • 1.1. Lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh

      • 1.1.1 Các quan niệm về cạnh tranh

      • 1.1.2. Phân loại cạnh tranh

      • 1.1.3. Quan niệm năng lực cạnh tranh (competitiveness)

        • Hình 1.1 Khung khổ đánh giá năng lực cạnh tranh ngành

    • 1.2. Một số chỉ tiêu chính đánh giá năng lực cạnh tranh ngành

    • 1.2.1. Thị phần, chất lượng, chủng loại và giá bán sản phẩm

      • 1.2.2. Hệ số tham gia thị trường quốc tế

      • 1.2.3. Tỉ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu

      • 1.2.4. Tỉ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế của ngành hàng

      • 1.3. Hiệu quả kỹ thuật

        • Hình 1.2. Hiệu quả kỹ thuật

        • Bảng 1.1: Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh ngành

  • CHƯƠNG 2

  • THỰC TRẠNG NGÀNH CHẾ BIẾN THỰC PHẨM

  • VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

    • 2.1. Đặc điểm, vai trò của ngành chế biến Thực phẩm

      • Bảng 2.2: Cơ cấu sản lượng công nghiệp Hàn Quốc

      • Đơn vị %

      • 2.2. Thực trạng chung của ngành chế biến Thực phẩm

        • Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng ngành chế biến Thực phẩm hàng năm

        • Đơn vị %

        • Hình 2.4: Giá trị của một số ngành công nghiệp chế biến

        • Đơn vị tỷ đồng

        • Hình 2.5: Cơ cấu sản lượng các ngành nhỏ trong ngành chế biến Thực phẩm

        • Đơn vị 1000 tấn

      • 2.3. Thực trạng các chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của ngành

      • 2.3.1. Thị phần, chất lượng và giá thành sản phẩm

        • Hình 2.6: Thị phần ngành chế biến Thực phẩm trên thị trường nội địa

      • 2.3.2. Hệ số tham gia thị trường quốc tế

        • Thực phẩm Việt Nam

        • Đơn vị %

        • Hình 2.8: Hệ số tham gia thị trường quốc tế ngành chế biến Thực phẩm Việt Nam và các nước

        • Đơn vị tỷ lệ %

      • 2.3.3 Tỷ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu

        • Hình 2.9: Tỷ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu

        • Đơn vị %

        • Hình 2.10: Tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu của ngành chế biến Thực phẩm

        • Đơn vị %

        • Nguồn: Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc-FAO và các tính toán của tác giả

      • 2.3.4 Tỷ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế của ngành

        • Hình 2.11: Tỷ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế của ngành

    • 2.4. Tóm tắt chương 2 và những thách thức ngành chế biến Thực phẩm trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

    • Chương 2 luận văn đã trình bày những thực trạng chung cũng như thực trạng các chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của ngành giai đoạn 1996-2003.

    • Nhìn chung trên thị trường trong nước cũng như quốc tế ngành chế biến Thực phẩm Việt Nam đang có vị thế đi lên tuy nhiên vị thế này đang ở mức thấp thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh ngành. Từ những thực trạng đó thì ngành sẽ phải đối đầu với rất nhiều thách thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

    • Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế có tính quy luật khách quan trong tiến trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Tại đại hội IX Đảng chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.

  • ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM VIỆT NAM

    • 3.1. Ước lượng hiệu quả kỹ thuật các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến Thực phẩm

    • 3.1.1 Mô tả biến số

      • Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm Việt Nam năm 2000

      • Đơn vị triệu đồng

      • Bảng 3.2: Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm năm 2001

      • Đơn vị người, triệu đồng

      • Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm năm 2002

      • Đơn vị người, triệu đồng

      • So sánh với tiêu chuẩn kiểm định thì các chuỗi lao động, vốn, doanh thu phân phối chuẩn.

      • Bảng 3.4: Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm năm 2003

      • Đơn vị người, triệu đồng

    • 3.1.2. Ước lượng hiệu quả kỹ thuật các doanh nghiệp ngành chế biến Thực phẩm

      • Hiệu quả kỹ thuật như đã trình bày ở trên bao gồm hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả theo quy mô (TE=PTE*SE). Với phương pháp tiếp cận phi tham số sử dụng phương pháp bao dữ liệu để ước lượng kết quả thu được cho các năm 2000-2003 được thể hiện cụ thể ở bảng phụ lục. Tuy nhiên, tình hình chung như sau:

      • Bảng 3.5: Hiệu quả kỹ thuật của ngành chế biến thực phẩm các năm 2000-2003 - phương pháp DEA

      • 3.2 Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kỹ thuật

        • Bảng 3.7: Kết quả các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật

  • KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH

Lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh ngành

1.1.1 Các quan niệm về cạnh tranh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hầu hết các tranh luận và nghiên cứu về hiệu quả kinh tế liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đều nhấn mạnh tầm quan trọng của thuật ngữ cạnh tranh.

Thuật ngữ "cạnh tranh" ngày càng được nhắc đến nhiều ở Việt Nam, đặc biệt sau khi quốc gia này đạt được những bước tiến quan trọng trong hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu Việt Nam đã mở cửa và cải cách hệ thống thương mại, cam kết tham gia CEPT/AFTA với tư cách là thành viên ASEAN, gia nhập APECT vào tháng 11/1998, ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ vào tháng 7/2000, và trở thành thành viên chính thức của WTO vào tháng 1/2007 Tuy nhiên, khái niệm về cạnh tranh vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau và các mức độ áp dụng cũng không đồng nhất.

Max cho rằng cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là cuộc ganh đua giữa các nhà tư bản nhằm giành lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để tối đa hóa lợi nhuận Cạnh tranh này xuất phát từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, phản ánh bản chất của xã hội tư bản Do đó, cạnh tranh được hiểu là sự lấn át và chèn ép lẫn nhau để tồn tại trong môi trường kinh doanh.

Theo nhà kinh tế học hiện đại P Samuelson, cạnh tranh được hiểu là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp nhằm thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần.

Cạnh tranh, theo giáo trình Kinh tế chính trị học Mác-Lê Nin (2002), được định nghĩa là cuộc ganh đua và đấu tranh kinh tế giữa các chủ thể sản xuất-kinh doanh Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi thế trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, nhằm đạt được lợi ích và lợi nhuận tối đa, đồng thời bảo đảm sự tồn tại và phát triển của các chủ thể tham gia.

Còn trong lĩnh vực kinh doanh, từ điển Bách Khoa Việt Nam cho rằng:

Cạnh tranh là hoạt động tranh đua giữa các nhà sản xuất, thương nhân và nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ cung-cầu Mục tiêu của các chủ thể kinh tế là giành được những điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường thuận lợi nhất.

Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của OECD chọn định nghĩa về cạnh tranh cố gắng kết hợp cả các doanh nghiệp, ngành và quốc gia:

“khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.

Cạnh tranh, theo Nguyễn Đức Dỵ (2000), là sự đối kháng giữa các doanh nghiệp trong cùng một thị trường nhằm thu hút khách hàng và tối đa hóa lợi nhuận Điều này thường được thực hiện bằng cách cung cấp giá bán thấp nhất hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm.

Bạch Thụ Cường (2002) nhấn mạnh rằng cạnh tranh không chỉ giúp tăng trưởng kinh tế mà còn mang lại lợi ích cho xã hội thông qua cơ chế thị trường và giá cả Cạnh tranh và thi đua thúc đẩy nỗ lực tối đa từ các bên tham gia, đồng thời tạo ra sự cân bằng về tiền lương và lợi nhuận giữa các ngành, dẫn đến phân phối tài nguyên xã hội hợp lý Hơn nữa, sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ ngành làm giảm khả năng cấu kết về giá, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm.

Theo Vũ Trọng Lâm (2006), cạnh tranh là mối quan hệ kinh tế trong đó các chủ thể kinh tế nỗ lực đạt được mục tiêu của mình thông qua việc chiếm lĩnh thị trường và thu hút khách hàng Mục tiêu cuối cùng của quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, với lợi nhuận là ưu tiên của nhà sản xuất và lợi ích tiêu dùng cùng sự tiện lợi là mong muốn của người tiêu dùng.

Nội dung quan niệm về cạnh tranh được hình thành từ sự tổng hợp ý kiến của nhiều tác giả, mỗi người đứng từ góc độ nghiên cứu riêng, dẫn đến sự khác biệt trong các nội hàm của khái niệm này.

Song trong tất cả các khái niệm đó đều có những nội hàm chủ yếu có sự tương đồng hoặc giống nhau, đó là:

Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh cùng một loạt sản phẩm hàng hoá, cùng tiêu thụ trên một thị trường

Mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là đạt được lợi nhuận để tồn tại và phát triển Để thực hiện điều này, doanh nghiệp cần nỗ lực giành lấy những điều kiện và cơ hội tốt nhất nhằm chiếm lĩnh và mở rộng thị trường Việc tăng thị phần phải dựa trên việc tối thiểu hóa chi phí sản xuất và tiêu thụ, đồng thời không ngừng cải thiện chất lượng sản phẩm hoặc cung cấp các sản phẩm khác biệt Những yếu tố này là tiêu chí quan trọng nhất phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Cạnh tranh là một yếu tố kinh tế quan trọng, phản ánh sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường Nó chịu ảnh hưởng từ mối quan hệ cung cầu của sản phẩm, tạo nên động lực cho sự phát triển và đổi mới trong kinh doanh.

Cạnh tranh trong ngành chế biến thực phẩm Việt Nam được xem là một phạm trù kinh tế, thể hiện sự ganh đua giữa các doanh nghiệp chế biến thực phẩm trong nước và quốc tế trên thị trường Cuộc cạnh tranh này diễn ra thông qua nhiều chiến lược và biện pháp khác nhau nhằm giành lợi thế, chiếm lĩnh thị phần Hai yếu tố quan trọng nhất trong cuộc cạnh tranh này là giá thành và chất lượng sản phẩm, nhằm tối đa hóa lợi nhuận đồng thời đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng.

Vai trò của cạnh tranh

Trước đây, ở Việt Nam, cạnh tranh thường bị nhìn nhận một cách tiêu cực, gắn liền với sự đổ vỡ và tiêu diệt lẫn nhau, thể hiện qua quan niệm "cá lớn nuốt cá bé" Nhận thức hạn chế về cạnh tranh đã dẫn đến việc không thừa nhận nó, từ đó hình thành và nuôi dưỡng tình trạng độc quyền trong nền kinh tế.

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, việc hiểu đúng về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia là rất quan trọng Cạnh tranh không chỉ thúc đẩy các doanh nghiệp cải thiện năng lực sản xuất và quản lý, mà còn nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lực Theo chuyên gia Michael Fairbanks, cạnh tranh tạo ra động lực tối đa hóa hiệu quả sử dụng tài nguyên trong nền kinh tế Hơn nữa, cạnh tranh mang lại lợi ích cho người tiêu dùng thông qua việc cung cấp hàng hóa với giá cả hợp lý hơn, đa dạng về mẫu mã, chất lượng cao hơn và dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt hơn.

Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh

Các chỉ số đo năng lực cạnh tranh

Các chỉ số phản ánh năng lực cạnh tranh

Lao động và chi phí cho R&D đang ở cấp độ thay đổi, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm Sự khác biệt về giá cả đầu vào và chi phí chủ yếu giữa các nguồn lực của 4 công ty lớn nhất trên thị trường tạo ra độ lớn thị trường đa dạng Vị thế người cung ứng và vị thế người mua cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự cạnh tranh và chiến lược phát triển bền vững.

Nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh

Quan điểm tổng hợp này cho phép trả lời ba câu hỏi sau:

(i) Ngành có năng lực cạnh tranh như thế nào?

(ii) Những nhân tố nào có tác động tích cực, tiêu cực tới năng lực cạnh tranh của ngành?

(iii) Những tiêu chí nào cần có để nâng cao năng lực cạnh tranh ngành?

Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành cần áp dụng quan điểm tổng hợp, bao gồm cả phân tích định tính và định lượng, cùng với quan sát tĩnh và động Mặc dù các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh thường sử dụng nhiều chỉ tiêu và nhân tố, nhưng do khó khăn trong việc thu thập dữ liệu và thông tin, nghiên cứu này chỉ trình bày một số chỉ tiêu và nhân tố đặc trưng, đủ để làm cơ sở cho việc phân tích năng lực cạnh tranh của ngành.

1.2 Một số chỉ tiêu chính đánh giá năng lực cạnh tranh ngành 1.2.1 Thị phần, chất lượng, chủng loại và giá bán sản phẩm

Thị phần của ngành trên thị trường trong nước

Lợi nhuận thị phần là chỉ số quan trọng để đánh giá tiềm năng tăng trưởng và phát triển của ngành Thị phần, cả trong nước lẫn quốc tế, phản ánh hiệu quả của các hoạt động thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, cũng như khả năng xúc tiến thương mại và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó thể hiện tính năng động của ngành.

Thị phần không chỉ phản ánh mức độ tập trung trong sản xuất và kinh doanh của ngành mà còn thể hiện mối liên kết giữa vị thế của ngành và người mua đối với sản phẩm cụ thể Điều này cho thấy uy tín của ngành và sự tin cậy của người mua về cung ứng, thanh toán, giá cả, chất lượng và dịch vụ sau bán hàng Thị phần của ngành được tính theo một công thức cụ thể.

MS : Thị phần của ngành trên thị trường trong nước (%)

Q : Sản lượng của ngành (1000 tấn)

M : Số lượng nhập khẩu mặt hàng đang xét (1000 tấn)

Chỉ tiêu về chất lượng và chủng loại sản phẩm

Chất lượng sản phẩm luôn là mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế phát triển Xu hướng hiện nay là chuyển từ số lượng sang chất lượng, khiến chất lượng sản phẩm trở thành yếu tố quan trọng trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh Trong cùng một loại sản phẩm với công dụng và giá cả tương đương, sản phẩm có chất lượng tốt hơn sẽ được thị trường ưa chuộng Mặc dù yếu tố chất lượng phụ thuộc vào kỹ thuật của từng ngành, khu vực và quốc gia, nâng cao chất lượng sản phẩm vẫn là mục tiêu chung của mọi ngành và quốc gia.

Để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng đa dạng của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa sản phẩm như một chiến lược cạnh tranh hiệu quả Theo giáo trình kinh tế chính trị, sự vật luôn biến đổi và xu hướng tiêu dùng cũng không ngừng thay đổi Do đó, việc cải tiến và giới thiệu các loại sản phẩm mới là cần thiết để duy trì và mở rộng thị phần, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành.

Chỉ tiêu về giá bán sản phẩm

Giá bán sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hàng của người tiêu dùng và là yếu tố cạnh tranh trực tiếp giữa các doanh nghiệp hay ngành hàng Khi chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách hàng tương đương, người mua thường ưu tiên lựa chọn doanh nghiệp hay ngành cung cấp giá bán thấp hơn Điều này có nghĩa rằng, nếu chi phí sản xuất tương đương, doanh nghiệp nào bán được nhiều hàng hóa hơn sẽ thu được lợi nhuận cao hơn, chiếm thị phần thị trường lớn hơn và có lợi thế cạnh tranh vượt trội.

1.2.2 Hệ số tham gia thị trường quốc tế

Hệ số tham gia thị trường quốc tế của một ngành được tính bằng tổng khối lượng xuất khẩu của ngành so với tổng khối lượng xuất khẩu toàn cầu của ngành đó Hệ số này không chỉ giúp xác định thị phần mà còn là công cụ quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành.

Trong đó : Hệ số tham gia thị trường quốc tế : Xuất khẩu ngành của một nước (1000 tấn) : Tổng xuất khẩu của ngành hàng đang xét trên thế giới (1000 tấn)

Khi phân tích hệ số cạnh tranh, một ngành có thể thấy sản lượng tăng nhưng vẫn giảm năng lực cạnh tranh do tốc độ tăng trưởng chậm hơn xuất khẩu toàn cầu, dẫn đến giảm thị phần Ngược lại, một ngành khác có thể giảm sản xuất nhưng vẫn cải thiện vị thế cạnh tranh nếu tốc độ giảm của nó chậm hơn so với thị trường xuất khẩu thế giới.

Hệ số này chỉ chính xác trong điều kiện không có hàng rào thương mại Khi tồn tại các rào cản thương mại, cần phải áp dụng các chỉ số bổ sung để có cái nhìn toàn diện hơn.

1.2.3 Tỉ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu

Tỉ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu phản ánh năng lực cạnh tranh trong ngành, cho thấy tầm quan trọng của cạnh tranh quốc tế đối với nhu cầu tiêu dùng nội địa Tỉ lệ này được tính bằng phần trăm giữa khối lượng hàng nhập khẩu và tổng tiêu dùng của ngành hàng tương ứng.

IPR : tỉ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu ngành hàng đang xét (%)

M : Khối lượng nhập khẩu ngành hàng đang xét (1000 tấn)

C : Tổng tiêu dùng của ngành hàng đang xét (1000 tấn)

1.2.4 Tỉ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế của ngành hàng

Chỉ số này được xác định dựa trên giả định rằng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và cạnh tranh với hàng nhập khẩu Chỉ số này được tính bằng tỉ lệ giữa sản lượng của ngành hàng một nước tham gia vào cạnh tranh toàn cầu và mức độ xâm nhập của hàng nhập khẩu.

EIC : Tỉ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế của ngành hàng : Tỉ lệ xuất khẩu trên sản lượng của ngành hàng đang xét

IPR : Tỉ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu ngành hàng đang xét

Hiệu quả kỹ thuật

Chất lượng sản phẩm tốt và giá thành hợp lý là hai yếu tố quan trọng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh Để đạt được mục tiêu này trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, cần cải thiện hiệu quả sản xuất.

Năm 1957, Farrell lần đầu tiên giới thiệu giải pháp đo lường hiệu quả sản xuất tương đối cho các doanh nghiệp trong cùng một ngành Mục tiêu chính của phương pháp này là xác định sự khác biệt về hiệu quả sản xuất giữa các doanh nghiệp và doanh nghiệp có hiệu quả tốt nhất trong ngành Farrell chia hiệu quả sản xuất thành hai thành phần: hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ.

Hiệu quả kỹ thuật phản ánh khả năng của doanh nghiệp thu được đầu ra cực đại từ một tập hợp đầu vào đã cho.

Hiệu quả phân bổ phản ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng các đầu vào tối ưu, khi cho giá cả tương ứng.

Nghiên cứu này sẽ tập trung vào hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp, bao gồm hai khía cạnh chính: hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả theo quy mô.

Hiệu quả kỹ thuật thuần (pure technical efficiency - PTE) Hiệu quả theo quy mô (Scale efficiency – SE)

Biểu thức tổng hợp của hiệu quả kỹ thuật đó là:

Công thức TE = PTE * SE mô tả mối quan hệ giữa tổng hiệu quả (TE) và các yếu tố đầu ra (PTE) cũng như đầu vào (SE) Hình 1.2 minh họa sự phân bố của sáu doanh nghiệp qua các điểm A, B, C, D, E và F, với đường biên hiệu quả được thể hiện qua đường gấp khúc ACD Các điểm A, C và D nằm trên đường biên hiệu quả, trong khi các điểm B, E và F nằm dưới mức hiệu quả này Đường thẳng tiếp xúc với đường biên sản xuất tại điểm gốc tọa độ, thể hiện rõ sự tối ưu trong sản xuất.

C Doanh nghiệp sản xuất tại điểm C đạt mức hiệu quả kỹ thuật tối đa, điều này cũng có nghĩa là doanh nghiệp này vừa đạt tính hiệu quả kỹ thuật thuần tối đa cũng như đảm bảo tính hiệu quả không đổi theo quy mô.

Một doanh nghiệp không đạt hiệu quả kỹ thuật tối đa có thể vẫn đạt hiệu quả kỹ thuật thuần tối đa hoặc hiệu quả theo quy mô tối đa Các điểm A và D, nằm trên đường biên sản xuất nhưng không trên đường đi qua gốc tọa độ, cho thấy rằng chúng không đạt hiệu quả theo quy mô nhưng vẫn đạt hiệu quả kỹ thuật thuần tối đa Trong khi đó, các điểm B và F đạt hiệu quả tối đa theo quy mô so với C và D, do đầu vào của chúng tại x2 và x4 trùng với đầu vào của các doanh nghiệp C và D Điểm E là một trường hợp không đạt được hiệu quả quy mô lẫn hiệu quả kỹ thuật tối đa, vì nó nằm dưới đường biên sản xuất và không có đầu vào trùng với bất kỳ doanh nghiệp nào đạt hiệu quả kỹ thuật thuần tối đa.

Hình 1.2 Hiệu quả kỹ thuật

Các nghiên cứu về hiệu quả tương đối kế thừa tư tưởng của Farrell chủ yếu tập trung vào ước lượng hàm sản xuất và xác định dạng công nghệ Đường biên sản xuất vẫn được sử dụng rộng rãi, với khoảng cách giữa sản xuất của doanh nghiệp và đường biên này phản ánh tính phi hiệu quả của doanh nghiệp Đường biên hiệu quả có thể là cố định hoặc ngẫu nhiên, và phương pháp ước lượng có thể là tham số hoặc phi tham số, liên quan đến mối quan hệ giữa đầu ra (Y) và đầu vào (X).

Phương pháp ước lượng phi tham số được áp dụng trong phân tích bao dữ liệu, không yêu cầu biết trước dạng hàm sản xuất và các thành phần từ phần dư không cần tuân theo phân phối thống kê (Seiford và Thrall, 1990) DEA có khả năng xử lý các doanh nghiệp với nhiều đầu ra và đầu vào, đồng thời tách biệt hiệu quả kỹ thuật thành hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả theo quy mô.

Phương pháp này, được phát triển từ tư tưởng của Farrell vào năm 1957 và mở rộng bởi Fare cùng một số tác giả khác vào năm 1985, đã được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu Tại Việt Nam, những tác giả tiêu biểu sử dụng phương pháp này bao gồm GS.TS Nguyễn Khắc Minh, Giang Thành Long và Vũ Quang Đông.

Phương pháp này là sự so sánh tương đối hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp so với doanh nghiệp có mức hiệu quả tốt nhất trong ngành.

Có hai hướng lựa chọn trong bài toán tối ưu hóa: định hướng đầu ra và định hướng đầu vào Bài toán định hướng đầu ra tập trung vào việc kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào để tối đa hóa đầu ra, trong khi bài toán định hướng đầu vào xác định sự kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào khi sản lượng đầu ra đã được xác định trước.

Với bộ số liệu có được, nghiên cứu lựa chọn hướng nghiên cứu thứ nhất: tối ưu sản lượng đầu ra.

Giả sử, có n loại đầu vào cấu thành một vectơ X, m loại đầu ra cấu thành vectơ Y và coi k là số doanh nghiệp trong ngành

X=(x1, x2,…,xn) véc tơ đầu vào Y=(y1, y2,…, ym) véc tơ đầu ra Với doanh nghiệp i, hiệu quả kỹ thuật thuần có thể được tính thông qua giải bài toán sau:

(1) Với đại diện cho mức độ phi hiệu quả và là sản lượng thực tế của doanh nghiệp i T là công nghệ.

Doanh nghiệp đạt hiệu quả tối đa khi tỷ số giữa sản lượng thực tế và sản lượng cực đại (sản lượng trên đường biên sản xuất) là cao nhất Một doanh nghiệp không đạt hiệu quả kỹ thuật thuần nếu không tối ưu hóa được sản lượng này Nghiệm của bài toán quy hoạch tuyến tính sẽ phản ánh mức độ hiệu quả kỹ thuật thuần của các doanh nghiệp trong mẫu quan sát.

Trong đó: zi là các trọng số phân bổ.

Hiệu quả kỹ thuật bao gồm hai thành phần chính: hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô, được thể hiện qua công thức TE = PTE * SE Do đó, tập hợp đầu ra mới với hiệu quả kỹ thuật chung có thể được mô tả thông qua tập hợp mới.

Trong đó: Y là ma trận đầu ra cấp m.k; X là ma trận đầu vào cấp n.k.

Các biến thể trong doanh nghiệp i được sử dụng để phân bổ đầu vào và đầu ra phải tuân thủ ràng buộc rằng tổng các biến thể này phải bằng 1.

Với tập biểu diễn mới này, hiệu quả kỹ thuật thuần của doanh nghiệp i sẽ được tính thông qua giải bài toán sau:

Do vậy, sẽ được tính thông qua việc giải bài toán quy hoạch tuyến tính sau:

: doanh nghiệp i đạt mức hiệu quả kỹ thuật tối đa.

: doanh nghiệp i gây ra phi hiệu quả kỹ thuật và trong trường hợp đó mức độ phi hiệu qua được đo bằng

Sử dụng: có được trong các bất phương trình (3) và

(5) để tính hiệu quả kỹ thuật do tính hiệu quả của quy mô gây ra của doanh nghiệp i là:

=1: doanh nghiệp i đang hoạt động với tính hiệu quả không đổi theo quy mô.

Doanh nghiệp i đang hoạt động có thể có tính hiệu quả tăng hoặc giảm theo quy mô Để đánh giá tính hiệu quả này, cần phân tích mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp, được thể hiện qua tập hợp dữ liệu cụ thể.

Trong tập hợp biểu diễn, tổng mức độ tập trung và phân bổ đầu vào của các doanh nghiệp cần nhỏ hơn 1 Khi đó, hiệu quả kỹ thuật thuần của doanh nghiệp i sẽ được xác định thông qua việc giải quyết bài toán tương ứng.

(8) được tính dựa vào bài toán quy hoạch tuyến tính sau:

Với các điều kiện ràng buộc:

Nếu có hai khả năng xảy ra:

Khả năng thứ nhất: không bằng 1 và không bằng , tức là doanh nghiệp đang hoạt động với tính hiệu quả giảm theo quy mô.

Trường hợp còn lại là không bằng 1 nhưng bằng , tức là doanh nghiệp đang hoạt động với tính hiệu quả không đổi theo quy mô.

Bảng 1.1: Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh ngành

THỰC TRẠNG NGÀNH CHẾ BIẾN THỰC PHẨM VIỆT

Đặc điểm, vai trò của ngành chế biến Thực phẩm

Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu, với Đảng và Nhà nước xác định phát triển công nghiệp theo ba nhóm ngành chính: ngành có lợi thế cạnh tranh, ngành nền tảng và ngành tiềm năng Ngành chế biến thực phẩm, cùng với giày dép, may mặc, cơ khí chế tạo, thiết bị điện, điện tử, máy vi tính, phần mềm, công nghệ thông tin, sản phẩm nhựa và đồ gỗ, được xác định là ngành có lợi thế cạnh tranh Do đó, công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống là một trong những ngành chủ chốt được Nhà nước ưu tiên phát triển, nhằm tận dụng tiềm năng và lợi thế của ngành này trong bối cảnh hội nhập kinh tế.

Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm sử dụng nguyên liệu đầu vào chủ yếu từ nông nghiệp, bao gồm nông sản và thuỷ sản Sự đa dạng của ngành này được thể hiện qua các lĩnh vực chế biến như chế biến thịt, rau quả, dầu và mỡ; chế biến bơ, sữa; chế biến thuỷ sản; chế biến tinh bột và xay xát lương thực; chế biến các loại thực phẩm khác như bánh mì, đường, chocolate; chế biến đồ uống như rượu, bia, nước ngọt, nước khoáng; và sản xuất thuốc lá Với sự phát triển kinh tế, sản phẩm từ ngành chế biến thực phẩm ngày càng trở nên phổ biến và trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người.

Xu hướng tiêu dùng thực phẩm hiện nay đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm Người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng các sản phẩm sạch, bao gồm cả thực phẩm tươi sống, đồng thời cũng gia tăng việc sử dụng các loại thực phẩm đã qua chế biến công nghiệp.

Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm tại Việt Nam có tiềm năng phong phú và đa dạng về sản phẩm, tuy nhiên vẫn gặp nhiều thách thức Sự phong phú này phụ thuộc vào khả năng cung cấp nguyên liệu, trình độ công nghệ và nhu cầu thị trường Việt Nam có lợi thế về nguyên liệu nông sản và thủy sản nhưng hiệu quả khai thác còn thấp Trình độ công nghệ hạn chế khiến sản phẩm chưa khẳng định được thương hiệu Thị trường nội địa, mặc dù có tiềm năng, vẫn bị thu hẹp do yếu tố phân tán và yêu cầu đa dạng về chất lượng Nhà nước đang nỗ lực đổi mới công nghệ để sản phẩm tiếp cận thị trường quốc tế Ngành chế biến thực phẩm có ưu thế về tỷ suất vốn đầu tư thấp và thời gian thu hồi vốn nhanh, giúp thu hút đầu tư trong và ngoài nước, từ đó góp phần phát triển toàn ngành công nghiệp.

Với các đặc điểm trên, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm có một số vai trò chính trong hội nhập kinh tế quốc tế:

Ngành chế biến thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện rõ qua tỷ trọng của nó trong tổng thể ngành công nghiệp.

Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người về thực phẩm và nước uống Khi xã hội phát triển, nhu cầu tiêu dùng cũng chuyển từ số lượng sang chất lượng, khiến cho ngành này trở thành một phần không thể thiếu trong nền kinh tế và trong cấu trúc của ngành công nghiệp.

Vị trí của ngành được xác định thông qua bảng 2.1 sau:

Hình 2.1: Tỷ trọng của ngành chế biến Thực phẩm trong ngành công nghiệp chế biến năm 2005 Đơn vị %

Nguồn:Niên giámThống kê và các tính toán

Theo hình 2.1, năm 2005, ngành chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong công nghiệp chế biến với 26.71%, gấp 4.1 lần ngành điện – điện tử, 1.8 lần ngành dệt may và 1.5 lần ngành cơ khí, sản xuất giường, cũng như các sản phẩm tái chế Sự ưu thế của ngành chế biến thực phẩm đã được duy trì từ trước đến nay, như thể hiện trong bảng tính.

Bảng 2.1: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến Đơn vị %

Dệt may Kim cơ khí Điện điện tử

Nguồn: Niên giám Thống kê và các tính toán

Ngành chế biến thực phẩm luôn chiếm ưu thế trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, với tỉ trọng trung bình đạt 30.56%.

Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Những tiến bộ trong lĩnh vực này không chỉ cải thiện chất lượng sản phẩm mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm, góp phần nâng cao đời sống người dân và tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và hiện đại hóa Không chỉ tạo áp lực để nông nghiệp phát triển, ngành chế biến thực phẩm còn giúp nông nghiệp tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm, từ đó thúc đẩy quá trình hiện đại hóa và tích lũy vốn Bên cạnh đó, sự phát triển của nông nghiệp cũng góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động.

Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao lợi thế cạnh tranh của đất nước và tăng cường nguồn thu ngoại tệ, từ đó cải thiện khả năng tích lũy để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng mà còn đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bước phát triển tất yếu mà bất kỳ một nền kinh tế phải trải qua.

Theo kinh nghiệm từ các quốc gia thành công trong công nghiệp hóa như Tây Âu, Nhật Bản, và các nước Đông Nam Á, quá trình này thường bắt đầu từ phát triển công nghiệp nhẹ và chế biến nông sản Sau đó, các ngành công nghiệp nặng được phát triển, tiếp theo là các lĩnh vực có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao và yêu cầu vốn lớn Một ví dụ điển hình là Hàn Quốc, nơi mà trong giai đoạn đầu, ngành chế biến thực phẩm đã chiếm hơn một phần ba tổng sản lượng công nghiệp của nền kinh tế.

Bảng 2.2 trình bày cơ cấu sản lượng công nghiệp Hàn Quốc với tỷ lệ phần trăm Dữ liệu này được trích dẫn từ PTS Đỗ Đức Chính trong cuốn sách "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát huy lợi thế so sánh - kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á", trang 72.

Singapore đã trải qua sự thay đổi đáng kể trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, với tỷ trọng chiếm 14,2% vào năm 1957 Tuy nhiên, đến năm 1970, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 10%.

Thực trạng chung của ngành chế biến Thực phẩm

Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm được đánh giá là có tiềm năng phát triển lớn, cần sự quan tâm từ Đảng và Nhà nước Trong bối cảnh phát triển chung của ngành công nghiệp, lĩnh vực chế biến thực phẩm đã có những đóng góp đáng kể.

Phát triển các ngành cung cấp nguyên liệu đầu vào là rất quan trọng, với sự hình thành một số vùng cây công nghiệp và ăn quả tập trung đạt sản lượng lớn và hiệu quả kinh tế cao Nhiều xí nghiệp chế biến thực phẩm đã được đầu tư nâng cao công nghệ, cải tiến chất lượng sản phẩm Ngành chăn nuôi cũng phát triển theo hình thức kinh tế trang trại, đặc biệt ngành thủy sản với nhiều mô hình nuôi trồng và đánh bắt quy mô lớn, mang lại giá trị xuất khẩu cao.

Sự hình thành các trung tâm chế biến thực phẩm gắn liền với vùng nguyên liệu không chỉ tạo ra việc làm mà còn tăng thu nhập cho người dân địa phương, đồng thời thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Bảng 2.2 minh họa rõ ràng sự chuyển dịch giá trị và tỷ trọng của ngành chế biến thực phẩm trong tổng thể ngành công nghiệp.

Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu chính của ngành công nghiệp chế biến Thực phẩm

Tỷ trọng trong ngành công 33,50 31,37 28,62 27,10 25,83 26,71

Nguồn niên giám thống kê 2006

Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đóng góp giá trị cao, trung bình đạt 30.05% Tỷ trọng của ngành đã giảm từ năm 2000 đến 2004, nhưng tăng trở lại vào năm 2005 Năm 2000, ngành này chiếm tỷ trọng cao nhất, trong khi năm 2004 là thấp nhất Nguyên nhân sụt giảm tỷ trọng năm 2004 là do Việt Nam bị khởi kiện liên quan đến vụ cá Basa và tôm sú tại thị trường Hoa Kỳ do không đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế Sự thay đổi này được thể hiện rõ qua đồ thị.

Hình 2.2: Tỷ trọng của ngành trong ngành công nghiệp Đơn vị %

Nguồn: Tổng cục Thống kê và các tính toán

Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp chế biến như giày dép, may mặc, hóa chất, điện, điện tử và máy vi tính đã góp phần quan trọng vào nền kinh tế Tuy nhiên, ngành chế biến thực phẩm vẫn đang đối mặt với một số hạn chế nhất định cần được khắc phục.

Sử dụng máy móc và thiết bị công nghệ nước ngoài đã qua sử dụng đang là một vấn đề nghiêm trọng, cùng với đó là cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất Điều này dẫn đến năng suất thấp, sản lượng công nghiệp tăng trưởng chậm và chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do:

Việc xây dựng và lắp đặt thiết bị công nghệ chưa được đồng bộ và lựa chọn thiết bị không phù hợp với yêu cầu khoa học công nghệ đã dẫn đến hiệu suất sử dụng không đạt tối đa.

Các doanh nghiệp nhỏ thường gặp khó khăn do thiếu vốn đầu tư, dẫn đến sản lượng và mẫu mã sản phẩm hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường Điều này tạo ra bất lợi khi yêu cầu về chất lượng thực phẩm chế biến trong và ngoài nước ngày càng tăng cao.

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân sản xuất hiện nay còn thấp, với tỷ lệ công nhân chưa qua đào tạo cao Mặc dù một số công nhân đã tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn, nhưng điều này vẫn gây khó khăn cho việc tiếp nhận công nghệ mới tại các doanh nghiệp.

Thị trường tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa phát triển và mở rộng, ngoại trừ ngành chế biến thủy sản Hiện tại, thị trường chủ yếu tập trung vào nội địa, với một số ít sản phẩm được xuất khẩu sang các khu vực như Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Việc tham gia vào thị trường châu Âu và châu Mỹ của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do sản phẩm chế biến chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm Vụ kiện cá ba sa và tôm sú của Hoa Kỳ vào năm 2004 đã gây thiệt hại lớn cho Việt Nam, cho thấy tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm trong xuất khẩu Sự kiện này là một bài học quý giá cho Việt Nam trong việc cải thiện quy trình chế biến thực phẩm.

Ngành chế biến thực phẩm Việt Nam có lợi thế từ nguồn nguyên liệu phong phú và dồi dào Tuy nhiên, một thách thức lớn là chi phí đầu vào cao do nhiều nhà máy và xí nghiệp thường được xây dựng xa nguồn nguyên liệu, dẫn đến gánh nặng chi phí cho ngành.

Thứ năm, khâu phân phối và marketing chưa đủ sức thu hút người tiêu dùng nên giá bán thường thấp hơn so với các quốc gia khác.

Đến năm 2005, tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đã tăng từ 25.83% lên 26.71%, phản ánh xu hướng phát triển của xã hội Sự tiến bộ trong đời sống dẫn đến nhu cầu ngày càng cao của con người Xu hướng công nghiệp hóa đã rút ngắn thời gian nhàn rỗi, khiến cho việc tự chế biến thực phẩm và đồ uống tại nhà trở nên khó khăn hơn Do đó, người tiêu dùng ngày càng chuyển sang sử dụng hàng hóa chế biến sẵn, điều này thể hiện rõ qua tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành.

Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng ngành chế biến Thực phẩm hàng năm Đơn vị %

Nguồn: Tổng cục Thống kê và các tính toán

Ngành chế biến thực phẩm đang cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt bình quân 20.19% So với các ngành công nghiệp chế biến chính như dệt may, giày da, cơ kim khí và điện – điện tử, ngành chế biến thực phẩm nổi bật với những kết quả tích cực và xu hướng phát triển ổn định.

Hình 2.4: Giá trị của một số ngành công nghiệp chế biến Đơn vị tỷ đồng

Nguồn: Tổng cục thống kê và các tính toán

Từ năm 1996 đến 2005, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đã đạt sản lượng cao và liên tục phát triển, cho thấy sự chú trọng vào hoạt động của ngành Sự khác biệt về sản lượng giữa ngành này và các ngành khác hầu như không thay đổi qua các năm, phản ánh những chuyển biến tích cực trong nội bộ ngành.

Thực trạng các chỉ tiêu năng lực cạnh tranh ngành chế biến Thực phẩm Việt Nam sử dụng số liệu FAO

2.3.1 Thị phần, chất lượng và giá thành sản phẩm Chỉ tiêu về thị phần

Sản lượng ngành công nghiệp chế biến thực phẩm qua các năm từ 1996-2003

Bảng 2.5: Tổng sản lượng ngành công nghiệp chế biến Thực phẩm

Bảng 2.4 cho thấy sản lượng của ngành trong những năm qua đã tăng đáng kể Năm 1996 sản lượng của ngành là 50356,07 (nghìn tấn), năm 2003 là 73484,64 tăng gần 1,5 lần.

Trong khi đó kết quả nhập khẩu của ngành những năm qua

Bảng 2.6: Tổng sản lượng nhập khẩu của ngành công nghiệp chế biến

Trong những năm qua, sản lượng nhập khẩu của ngành chế biến thực phẩm đã tăng đáng kể, từ 831,99 triệu USD năm 1996 lên 1.951,64 triệu USD vào năm 2003, tương đương với mức tăng gấp 2,3 lần Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng nội địa lại thấp hơn so với tốc độ tăng sản lượng nhập khẩu Để đánh giá thị phần của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trên thị trường nội địa, chúng ta sử dụng chỉ tiêu thị phần (MS), được tính bằng tỷ lệ giữa sản lượng nội địa và tổng sản lượng tiêu thụ.

MS : Thị phần của ngành chế biến thực phẩm trên thị trường nội địa

Q : Sản lượng của ngành giấy Việt Nam

Hình 2.6: Thị phần ngành chế biến Thực phẩm trên thị trường nội địa

Nguồn tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc 1996-2003 và các tính toán của tác giả

Qua hình 2.4 ta thấy thị phần trong nước của ngành chế biến thực phẩm có giảm xuống, nhưng sự giảm xuống là không đáng kể Năm 1996 là 98.37

Thị phần nội địa của ngành đã giảm xuống 97.41% vào năm 2003, cho thấy xu hướng hội nhập ngày càng cao và sự tiếp xúc với hàng ngoại ngày càng dễ dàng Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng về chất lượng sản phẩm, trong khi sản lượng trong nước chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu này.

Chỉ tiêu về chất lượng và chủng loại sản phẩm

Có thể thấy rằng các sản phẩm của ngành chế biến thực phẩm Việt Nam trên thị trường khá là đa dạng, nhiều mặt hàng

Thị trường gạo thì có gạo Tám thơm, gạo Bắc hương, gạo Tạp giao, gạo Khang dân…

Thị trường dầu ăn có dầu Mavila, dầu Meizan, dầu Neptune, dầu Vạn thọ Trường An…

Thị trường rau sạch Thị trường gia vị, nước chấm có hãng Chin-su, Trung Thành, Know…

Thị trường mỳ ăn liền có các hãng như là Hảo hảo, Unit, Đệ nhất, Số đỏ, Kim chi…

Thị trường nước uống có bia (Hà Nội, Sài Gòn, Haniken…), nước giải khát (nước cam ép, nước táo ép…)

Thị trường sữa tại Việt Nam rất đa dạng, cung cấp nhiều loại sữa phù hợp với từng độ tuổi và nhu cầu khác nhau Các sản phẩm nổi bật bao gồm sữa đặc ông Thọ, sữa cô gái Hà Lan, và sữa dành cho người gầy, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của người tiêu dùng.

Một trong những công ty chế biến lớn ở Việt Nam hiện nay đó là Charoen Pokphand – công ty do những nhà đầu tư Thái Lan đảm nhiệm.

Công ty chuyên cung cấp hai loại nguyên liệu chính là thịt gà và thịt lợn, đóng vai trò kết nối giữa các nhà kinh doanh và những người nuôi gà, lợn Chúng tôi sản xuất nhiều sản phẩm chất lượng cao như xúc xích và thịt hộp, mang đến sự đa dạng cho thị trường thực phẩm.

Bên cạnh sự đa dạng sản phẩm, chất lượng cũng cần được chú trọng hơn, đặc biệt là sau vụ kiện của Mỹ liên quan đến chất lượng cá Basa và tôm sú Việt Nam Ngành chế biến thực phẩm cần nhấn mạnh cho các doanh nghiệp về tiêu chuẩn chất lượng để đảm bảo sản phẩm đạt yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm Các doanh nghiệp cần cam kết thực hiện nghiêm túc các biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Chỉ tiêu về giá bán sản phẩm

Chỉ số giá chung của ngành chế biến thực phẩm giai đoạn 2002-2006 có sự biến động rõ rệt Năm 2003, chỉ số giá giảm so với năm 2002, sau đó tăng lên vào năm 2004 và tiếp tục giảm trong hai năm 2005 và 2006 Như vậy, năm 2004 ghi nhận chỉ số giá cao nhất trong giai đoạn này Nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm giá bán sản phẩm trong ngành chế biến thực phẩm là do sự gia nhập của hàng hóa ngoại nhập vào thị trường nội địa, trong khi hàng nội địa lại gặp hạn chế về mặt kỹ thuật, dẫn đến chất lượng không cạnh tranh được.

Hình 2.7: Chỉ số giá ngành chế biến Thực phẩm theo tháng của các năm (2002-2006)

Nguồn: Tổng cục thống kê 2.3.2 Hệ số tham gia thị trường quốc tế

Như đã trình bày ở chương 1, hệ số tham gia thị trường quốc tế PIM được tính theo công thức sau:

Trong đó PIMi,c : Hệ số tham gia thị trường quốc tế

Xi,c : Xuất khẩu (sản lượng) của ngành i của nước c

Xw,c : Tổng xuất khẩu của ngành hàng i đang xét trên thế giới

Hệ số tham gia thị trường quốc tế của ngành chế biến thực phẩm Việt Nam những năm qua

Hình 2.7: Hệ số tham gia thị trường quốc tế của ngành chế biến

Thực phẩm Việt Nam Đơn vị %

Nguồn: Tổ chức Nông lượng quốc tế - FAO

Hệ số tham gia thị trường quốc tế của ngành mặc dù còn thấp, dưới 1%, nhưng đã có sự gia tăng qua các năm, cho thấy triển vọng tích cực của ngành Sự phát triển này là tất yếu trong bối cảnh xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu.

Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng trì trệ do chính sách đóng cửa Nhằm khắc phục tình hình này, tại đại hội VI năm 1986, Đảng đã quyết định đổi mới, chuyển sang nền kinh tế mở và thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này bao gồm việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thúc đẩy hợp tác kinh tế với các quốc gia trên thế giới, dựa trên nguyên tắc cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền lẫn nhau.

Năm 1986 đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam, khi các doanh nghiệp và ngành nghề bắt đầu điều chỉnh để khẳng định thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế Hệ số tham gia thị trường quốc tế là yếu tố quyết định vị thế của ngành chế biến thực phẩm Việt Nam, cho thấy cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải thiện Nghiên cứu này sẽ so sánh hệ số tham gia thị trường của ngành chế biến thực phẩm Việt Nam với một số quốc gia khác trong khu vực để làm rõ hơn về tình hình hiện tại.

Bảng 2.7: Hệ số tham gia thị trường quốc tế của ngành chế biến Thực phẩm Việt Nam và các nước

Nguồn: Tổ chức Nông lương quốc tế - FAO và các tính toán

Qua bảng trên ta thấy nước có tổng xuất khẩu ngành chế biến thực phẩm cao nhất trong khu vực là Trung Quốc, thấp nhất là Việt Nam Năm

2000 tổng xuất khẩu ngành Trung Quốc gấp gần 5.8 lần, đến năm 2003 tỷ lệ này có giảm đi nhưng không đáng kể xuống 5.6 lần

Khoảng cách này được thể hiện rõ ở đồ thị sau:

Hình 2.8: Hệ số tham gia thị trường quốc tế ngành chế biến Thực phẩm

Việt Nam và các nước Đơn vị tỷ lệ %

Nguồn: Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc 1996-2003 và các tính toán của tác giả

So sánh với ngành chế biến thực phẩm trong khu vực, Trung Quốc và Thái Lan có hệ số tham gia thị trường quốc tế cao hơn Việt Nam Cụ thể, năm 2000, hệ số tham gia của Trung Quốc đạt 4.21%, tăng lên 5.7% vào năm 2003, trong khi Việt Nam chỉ đạt 0.7% vào năm 2000.

Năm 2003, tỷ lệ tham gia thị trường quốc tế của Trung Quốc đạt 1%, với mức tăng 1.49%, trong khi Việt Nam chỉ ghi nhận mức tăng khiêm tốn 0.3%.

Sự chênh lệch trong thị trường chế biến thực phẩm quốc tế của Việt Nam ngày càng rõ ràng, cho thấy mức độ tham gia của ngành này còn thấp.

2.3.3 Tỷ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu

Tỷ lệ này được đo bằng công thức:

IRR : Tỷ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu nước i

M : Khối lượng hàng nhập khẩu của nước i (1000 tấn)

Tổng tiêu dùng của nước i đạt 1000 tấn, từ đó cho thấy kết quả nhập khẩu các mặt hàng trong ngành chế biến thực phẩm Tỉ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu vào thị trường Việt Nam được thể hiện rõ qua biểu đồ minh họa.

Hình 2.9: Tỷ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu Đơn vị %

Nguồn Nông lương của Liên hợp quốc-FAO và các tính toán của tác giả

Kết quả nghiên cứu cho thấy từ năm 1996 đến năm 2003, tỷ lệ xâm nhập hàng nhập khẩu có xu hướng tăng, với mức tăng chậm và đều từ năm 2000 đến 2003 Tỷ lệ xâm nhập trung bình của hàng nhập khẩu trong ngành đạt 0.03 (3%) Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu chế biến tại Việt Nam cần được xem xét kỹ lưỡng.

Bảng 2.8: Sản lượng nhập khẩu của các nhóm ngành trong ngành công nghiệp chế biến Thực phẩm (1997-2003) Đơn vị 1000 tấn

CNCB tinh bột xay xát lương thực

CNCB bánh mì, đường thức ăn khác 79.85 136.23 50.71 49.85 92.33 7.71 5.89 CNCB thịt cá, rau quả mỡ, dầu 198.14 463.04 264.29 363.91 449.08 464.84 493.84 CNCB đồ uống 47.91 0.05 67.56 149.27 31.05 95.32 136.91

Nguồn: Tổ chức Nông lương liên hợp quốc – FAO và các tính toán

Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy nhóm ngành nhập khẩu cao nhất là CNCB tinh bột, xay xát lương thực Năm 1997 ngành này nhập khẩu 591.51

(1000 tấn) đến năm 2003 là 1302.72 (1000 tấn) gấp 2.2 lần Một sự khác biệt ở đây đó là ngành CNCB bánh mì, đường, thức ăn khác lại giảm mạnh Năm

Ngành chế biến đường (CNCB) tại Việt Nam đã trải qua sự giảm sút mạnh mẽ từ 79.85 nghìn tấn vào năm 1997 xuống chỉ còn 5.89 nghìn tấn vào năm 2003, giảm gần 14 lần Tuy nhiên, đây lại là một kết quả đáng mừng, cho thấy sự chuyển mình của ngành Ngành CNCB đường tận dụng nguồn nguyên liệu mía dồi dào, giúp giảm chi phí đầu vào Điều này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp như đường Lam Sơn – Thanh Hóa, đường Biên Hòa và đường Glucozơ cung cấp ra thị trường một khối lượng đường đáng kể.

Cơ cấu tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm được mô tả bằng hình vẽ sau:

Hình 2.10: Tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu của ngành chế biến Thực phẩm Đơn vị %

T ỷ tr ọ n g ( % ) Ngành CB sữa bơ

Ngành CB thịt, cá, rau quả, dầu mỡ

Ngành CB bánh mì, đường, bánh kẹo

Ngành CB tinh bột, xay xát lương thực

Nguồn: Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc-FAO và các tính toán của tác giả

Tóm tắt chương 2 và những thách thức của ngành

CHẾ BIẾN THỰC PHẨM VIỆT NAM

Chương 2 của luận văn tập trung phân tích năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam trong giai đoạn 1996-2003, sử dụng dữ liệu từ FAO Nghiên cứu đã tính toán bốn chỉ tiêu quan trọng: thị phần, chủng loại và giá bán sản phẩm, hệ số tham gia thị trường quốc tế, tỉ lệ xâm nhập của hàng nhập khẩu, và tỉ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế.

Chương 3 của luận văn sẽ phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành chế biến thực phẩm thông qua việc đánh giá hiệu quả kỹ thuật Luận văn áp dụng mô hình kinh tế lượng Tobit để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp Cuối cùng, phần kết luận sẽ đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp.

3.1 Ước lượng hiệu quả kỹ thuật các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến Thực phẩm

3.1.1 Mô tả biến số Đầu ra là doanh thu (R) của doanh nghiệp (đơn vị: triệu đồng), đầu vào sản xuất bao gồm vốn ròng (K) (đơn vị: triệu đồng) được đo bằng trung bình vốn đầu năm và vốn cuối năm, tổng số lao động (L) đo bằng số lao động bình quân trong năm.

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM VIỆT NAM

Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kỹ thuật sử dụng mô hình Tobit

Sau sự đánh giá hiệu quả kỹ thuật ở trên nghiên cứu tiếp theo sẽ trình bày về sự ảnh hưởng của các nhân tố tới hiệu quả kỹ thuật.

Mô hình TÔBIT được áp dụng để phân tích hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp, với biến phụ thuộc nằm trong khoảng giới hạn nhất định Việc sử dụng mô hình này giúp nắm bắt rõ hơn sự ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu suất làm việc của doanh nghiệp.

TEi là hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp i, trong đó D1i là biến giả nhận giá trị 1 nếu doanh nghiệp i là doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và giá trị 0 nếu không phải Tương tự, D2i là biến giả nhận giá trị 1 nếu doanh nghiệp i là doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và giá trị 0 nếu không Ki thể hiện tỷ lệ trang bị vốn trên lao động của doanh nghiệp i, trong khi Tuoii là biến tuổi của doanh nghiệp i tính đến thời kỳ nghiên cứu, và Tuoii^2 là bình phương của biến tuổi này.

Wi : tiền lương trung bình doanh nghiệp i trả cho công nhân

Biến tuổi^2 được đưa vào mô hình để đánh giá ảnh hưởng của tuổi tác đến hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp Nghiên cứu này nhằm xem xét mối quan hệ giữa thời gian hoạt động của doanh nghiệp và hiệu quả kỹ thuật, cho thấy doanh nghiệp có tuổi đời lâu hơn có thể có hiệu suất kỹ thuật khác biệt.

Bảng 3.7: Kết quả các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật

Phương trình ước lượng là:

Căn cứ vào giá trị xác suất P-value (với mức ý nghĩa 5%) ta có các kết luận sau:

Hệ số biến giả D1 bằng -0,1663 cho thấy doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động kém hiệu quả hơn so với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Điều này phản ánh rằng DNNN thường nhận được sự bảo trợ từ Nhà nước, nhưng nguồn vốn có hạn và trình độ khoa học kỹ thuật chậm đổi mới.

DNNN, loại hình doanh nghiệp ra đời sớm nhất, thường sử dụng máy móc và thiết bị cũ, dẫn đến khấu hao cao Với quy mô vốn chủ yếu từ Nhà nước, khả năng đổi mới công nghệ của DNNN còn chậm, ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật và hạn chế sự phát triển.

Hệ số biến giả D2 bằng -0.1176 < 0 có nghĩa là khi lấy doanh nghiệp DTNN làm biến cơ sở để so sánh thì DNTN hoạt động kém hiệu quả hơn.

Cũng giống như doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có nguồn vốn hạn hẹp, dẫn đến việc trang bị khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế so với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (DTNN) DNTN, mặc dù được thành lập cùng thời điểm với DTNN, thường có quy mô vốn nhỏ hơn, điều này ảnh hưởng đến khả năng đầu tư vào công nghệ cũng như chi phí đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động.

DNNN và DNTN đều có hiệu quả hoạt động thấp hơn so với doanh nghiệp DTNN Để xác định hiệu quả kỹ thuật giữa DNNN và DNTN, luận văn sẽ tiến hành kiểm định nhằm làm rõ loại hình doanh nghiệp nào đạt hiệu quả cao hơn.

Kiểm định sự hoạt động có hiệu quả hơn của DNTN so với DNNN

H1: Tiêu chuẩn kiềm định: tqs Ta có: tqs = 1.2

Chấp nhận giả thiết H0 cho thấy hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) cao hơn doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Điều này khẳng định những nhận định đã được ước lượng trước đó là chính xác Mặc dù DNTN được thành lập sau DNNN, nhưng với lợi thế phát triển trong thời đại công nghệ tiên tiến, DNTN có khả năng tiếp thu và áp dụng công nghệ tốt hơn.

Hệ số trang bị vốn cho lao động k = 0.0002 có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kỹ thuật, mặc dù mức độ ảnh hưởng không lớn Doanh nghiệp với mức trang bị vốn cao trên mỗi lao động thường đạt hiệu quả kỹ thuật tốt hơn Trang bị vốn trên mỗi đơn vị lao động phản ánh tình hình đầu tư của doanh nghiệp; khi k cao, doanh nghiệp có khả năng đầu tư vào kỹ thuật và nâng cao tay nghề cho người lao động Thực tế cho thấy, doanh nghiệp có mức trang bị vốn cao cho lao động thường đạt hiệu quả kỹ thuật cao (bảng 3.8).

Hệ số tuổi -0.07 cho thấy rằng doanh nghiệp được thành lập lâu năm có hiệu quả kỹ thuật giảm sút Khi doanh nghiệp có "tuổi" cao, máy móc và thiết bị thường cũ kỹ, dẫn đến tỷ lệ khấu hao cao Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp lâu đời thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước (DNNN), điều này cũng góp phần làm giảm hiệu quả kỹ thuật.

Hệ số tuổi bình quân âm -0.000156 cho thấy rõ ràng sự ảnh hưởng của tuổi tác đến hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp Những doanh nghiệp được thành lập từ lâu thường gặp khó khăn trong việc đổi mới do hệ thống máy móc, thiết bị và trình độ lao động không còn phù hợp với yêu cầu thị trường hiện đại Để thực hiện đổi mới, các doanh nghiệp này cần một lượng vốn lớn và thời gian đáng kể, trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước lại có nguồn vốn hạn chế và khả năng linh động chậm.

Hệ số tiền lương trung bình là 0.00161, cho thấy lương trung bình của công nhân có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kỹ thuật trong ngành Mặc dù tiền lương là chi phí của doanh nghiệp, nhưng nó cũng là nguồn thu nhập quan trọng cho người lao động Khi lương công nhân được tăng lên, điều này không chỉ khuyến khích tinh thần làm việc mà còn nâng cao khả năng sáng tạo, từ đó góp phần cải thiện hiệu quả kỹ thuật trong ngành.

Mô hình Tobit được xây dựng nhằm phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật trong ngành chế biến thực phẩm Mục tiêu là xác định các yếu tố tác động tích cực và tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, từ đó đề xuất các chiến lược phát triển phù hợp cho cả doanh nghiệp và toàn ngành.

Các yếu tố quyết định đến hiệu quả kỹ thuật của ngành bao gồm loại hình doanh nghiệp, khả năng đầu tư vốn cho lao động, tuổi thọ của doanh nghiệp và mức lương trung bình mà doanh nghiệp chi trả.

Doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động cao nhất là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DTNN), tiếp theo là doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và cuối cùng là doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Mối liên hệ giữa vốn đầu tư cho lao động và tiền lương trung bình cho thấy rằng hiệu quả kỹ thuật tăng lên khi các yếu tố này cao Những doanh nghiệp được thành lập từ lâu thường có hiệu quả kỹ thuật thấp hơn Do đó, cần có các chính sách từ doanh nghiệp, ngành và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kỹ thuật và sản xuất Bài nghiên cứu sẽ trình bày một số khuyến nghị cụ thể ở phần tiếp theo.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Ngày đăng: 19/10/2022, 08:29

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. GS.TS Nguyễn Khắc Minh (2006), “phân tích định lượng ảnh hưởng của tiến bộ công nghệ đến tăng trưởng một số ngành công nghiệp của thành phố Hà Nội”, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: phân tích định lượng ảnh hưởngcủa tiến bộ công nghệ đến tăng trưởng một số ngành công nghiệp của thànhphố Hà Nội
Tác giả: GS.TS Nguyễn Khắc Minh
Nhà XB: Nxb khoa học và kỹ thuật
Năm: 2006
7. Nguyễn Văn Thanh (2003), “Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh quốc gia”, Nghiên cứu kinh tế 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về năng lực cạnh tranhvà năng lực cạnh tranh quốc gia
Tác giả: Nguyễn Văn Thanh
Năm: 2003
8. Bùi Thị Ngọc Thuỷ (2006), “Phân tích hiệu quả kỹ thuật của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm-tiếp cận tham số”, luận văn tốt ngiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích hiệu quả kỹ thuật của ngànhcông nghiệp chế biến thực phẩm-tiếp cận tham số
Tác giả: Bùi Thị Ngọc Thuỷ
Năm: 2006
9. Đào Duy Hân (2007) , “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình thực hiện cam kết WTO”, tạp chí Phát triển kinh tế, tháng2, 2007, tr.2-11) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanhnghiệp Việt Nam trong tiến trình thực hiện cam kết WTO
11. Vũ Hùng Phương (2008), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ (chưa bảo vệ) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngànhgiấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Tác giả: Vũ Hùng Phương
Năm: 2008
1. Nguyễn Đức Dy. (2000), từ điển Kinh tế kinh doanh Anh-Việt, Nxb khoa học kỹ thuật, Hà Nội Khác
3. PGS.TS Nguyễn Quang Dong (2006), giáo trình Kinh tế lượng, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội Khác
4. PGS.TS Hoàng Đình Tuấn (2003), giáo trình Lý thuyết mô hình toán kinh tế, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội Khác
5. TS Ngô Văn Thứ (2006), giáo trình Thống kê thực hành, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội Khác
6. Vũ Trọng Lâm, Nguyễn Kế Tuấn, Nguyễn Xuân Thắng (2006), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Khác
10. PGS.TS Phạm Văn Minh (2007), giáo trình Kinh tế vi mô, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội Khác
1. The fist report to the president and Congress (1992); Request by Mr.Fred Bergsten, Chairman of the Competitiveness Policy in the US house of Repressentatives, 15 March 1995 Khác
2. Van Duren, E. Martin and Westgren (1991); Assessing the competitiveness of Canada’s Agrifood industry, Canada Journal of agricultural Economic Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1 Khung khổ đánh giá năng lực cạnh tranh ngành - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 1.1 Khung khổ đánh giá năng lực cạnh tranh ngành (Trang 24)
Hình 1.2. Hiệu quả kỹ thuật - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 1.2. Hiệu quả kỹ thuật (Trang 30)
Bảng 2.1: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Bảng 2.1 Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến (Trang 39)
Bên cạnh sự hình thành các vùng nguyên liệu là sự hình thành các trung tâm chế biến. Các khu chế biến gắn liền với nguyên liệu sẵn có, giúp giải quyết việc làm trong vùng, tăng thu nhập và đẩy nhanh sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành kinh tế - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
n cạnh sự hình thành các vùng nguyên liệu là sự hình thành các trung tâm chế biến. Các khu chế biến gắn liền với nguyên liệu sẵn có, giúp giải quyết việc làm trong vùng, tăng thu nhập và đẩy nhanh sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành kinh tế (Trang 42)
Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng ngành chế biến Thực phẩm hàng năm - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 2.3 Tốc độ tăng trưởng ngành chế biến Thực phẩm hàng năm (Trang 45)
Hình 2.4 cho thấy: từ năm 1996 – 2005, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đang là ngành có sản lượng cao so với một số ngành cịn lại - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 2.4 cho thấy: từ năm 1996 – 2005, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đang là ngành có sản lượng cao so với một số ngành cịn lại (Trang 46)
Bảng 2.4 cho thấy ngành tập trung nhiều lao động nhất là ngành chế biến các loại thức ăn khác, tiếp đến là ngành chế biến đồ uống, ngành chế biến thịt, cá, rau quả, dầu và mỡ; sử dụng  ít lao động nhất là ngành sản xuất bơ - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Bảng 2.4 cho thấy ngành tập trung nhiều lao động nhất là ngành chế biến các loại thức ăn khác, tiếp đến là ngành chế biến đồ uống, ngành chế biến thịt, cá, rau quả, dầu và mỡ; sử dụng ít lao động nhất là ngành sản xuất bơ (Trang 47)
Hình 2.5: Cơ cấu sản lượng các ngành nhỏ trong ngành chế biến Thực phẩm - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 2.5 Cơ cấu sản lượng các ngành nhỏ trong ngành chế biến Thực phẩm (Trang 48)
Hình 2.7: Chỉ số giá ngành chế biến Thực phẩm theo tháng của các năm (2002-2006) - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 2.7 Chỉ số giá ngành chế biến Thực phẩm theo tháng của các năm (2002-2006) (Trang 53)
Hình 2.8: Hệ số tham gia thị trường quốc tế ngành chế biến Thực phẩm Việt Nam và các nước - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 2.8 Hệ số tham gia thị trường quốc tế ngành chế biến Thực phẩm Việt Nam và các nước (Trang 56)
Từ hình vẽ 2.10 thì nhập khẩu hàng chế biến lương thực, xay xát, sản xuất mỳ ăn liền, tinh bột vẫn chiếm tỷ trọng cao, trên 60 % và có xu hướng tăng - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
h ình vẽ 2.10 thì nhập khẩu hàng chế biến lương thực, xay xát, sản xuất mỳ ăn liền, tinh bột vẫn chiếm tỷ trọng cao, trên 60 % và có xu hướng tăng (Trang 59)
Hình 2.11: Tỷ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế của ngành - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Hình 2.11 Tỷ lệ định hướng cạnh tranh quốc tế của ngành (Trang 60)
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm Việt Nam năm 2000 - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm Việt Nam năm 2000 (Trang 66)
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm năm 2002 - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Bảng 3.3 Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm năm 2002 (Trang 68)
Bảng 3.4: Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm năm 2003 - Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm việt nam
Bảng 3.4 Một số chỉ tiêu thống kê của các biến số ngành chế biến thực phẩm năm 2003 (Trang 68)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w