1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tiểu luận lịch sử đảng thành tựu, khuyết điểm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc (1954 1975)

38 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tiểu Luận Lịch Sử Đảng Thành Tựu, Khuyết Điểm Trong Công Cuộc Xây Dựng Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Miền Bắc (1954 1975)
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Lịch Sử
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 1975
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 38
Dung lượng 168,73 KB

Cấu trúc

  • 1. HOÀN CẢNH (4)
  • 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC (5)
  • CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975) (11)
    • 1. BƯỚC ĐẦU KHÔI PHỤC KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH (1954 – 1957) (11)
    • 2. CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ Ở MIỀN BẮC (1958 – 1960) (13)
    • 3. KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 – 1965) (17)
    • 4. GIAI ĐOẠN 1965-1975 (22)
      • 4.1 Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng chuyển hướng xây dựng miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần thứ nhất (1965-1968)..20 4.2 Đảng lãnh đạo xây dựng miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969-1973) (22)
      • 4.3 Đảng lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển (28)
  • CHƯƠNG 3. THÀNH TỰU, KHUYẾT ĐIỂM TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975). TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY (31)
    • 1. THÀNH TỰU (31)
    • 2. KHUYẾT ĐIỂM (33)
    • 3. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY (34)
  • KẾT LUẬN (37)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (38)

Nội dung

HOÀN CẢNH

Miền Bắc đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi lớn từ cả bối cảnh quốc tế và nội địa, tuy nhiên cũng đối mặt với không ít thách thức.

Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang phát triển mạnh mẽ, định hình hướng đi của thời đại mới Sức mạnh này đến từ sự phát triển toàn diện của các nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm kinh tế, chính trị, quân sự và khoa học kỹ thuật, với Liên Xô là trung tâm và trụ cột Sự lớn mạnh của hệ thống này đã khơi dậy tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam, trong cuộc chiến chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới.

Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trên toàn thế giới Điều này đã tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến các phong trào cách mạng tại nhiều châu lục.

Chủ nghĩa đế quốc đang trải qua sự suy yếu nghiêm trọng, thể hiện qua sự tan rã của hệ thống thuộc địa và sự suy thoái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa Đồng thời, mâu thuẫn nội bộ gia tăng, đẩy chủ nghĩa đế quốc đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng toàn diện.

Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền với chế độ chính trị và xã hội khác nhau Nhân dân miền Nam phải sống dưới sự thống trị của đế quốc Mỹ và các thế lực tay sai, tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù tàn bạo này Tình hình khó khăn ở miền Nam đã đặt ra nhiều thách thức cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Sau ngày giải phóng, nhân dân miền Bắc tràn đầy phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực lao động sản xuất để xây dựng chế độ mới, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội Tuy nhiên, miền Bắc gặp nhiều khó khăn phức tạp, đặc biệt là việc chuyển từ sản xuất nhỏ và nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội mà không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Thêm vào đó, sự phá hoại của các thế lực thù địch trước và sau khi thực dân Pháp rút quân, cùng với hậu quả của chiến tranh, đã dẫn đến hàng chục vạn người thất nghiệp và những tàn dư của nền văn hóa nô dịch, gây cản trở lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC

Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa II diễn ra từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954 tại Việt Bắc, nhằm đánh giá tình hình mới và xác định sự chuyển hướng chiến lược của Đảng.

Tranh thủ và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất và hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước, đồng thời kiên quyết chống lại đế quốc Mỹ xâm lược Miền Bắc cần tiếp tục thực hiện chính sách "người cày có ruộng", phục hồi sản xuất và chuẩn bị điều kiện cho việc kiến thiết đất nước Ngày 5 tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết về "Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng", xác định tình hình đất nước tạm thời chia thành hai miền, chỉ ra kẻ thù chủ yếu của cách mạng là đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời đề ra nhiệm vụ chung cho cách mạng toàn quốc.

Về nhiệm vụ xây dựng miền Bắc, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9 năm

Năm 1954 đánh dấu một giai đoạn quan trọng với mục tiêu ổn định xã hội, giá cả và thị trường Đồng thời, cần hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân và sản xuất Việc mở rộng hoạt động quốc tế cũng được xem là cần thiết để tạo ra cơ sở thuận lợi cho việc chuẩn bị xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai.

Hội nghị lần thứ bảy và lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) vào năm 1955 đã nhấn mạnh nhiệm vụ củng cố miền Bắc và đồng thời thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Đặc biệt, Hội nghị lần thứ tám đã đề ra chủ trương tiến dần lên chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc, đồng thời khẳng định rằng việc củng cố miền Bắc cần luôn chú trọng đến miền Nam, vì hai nhiệm vụ này là không thể tách rời.

Xác định đường lối phát triển miền Bắc theo hướng tiến dần lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại quá độ Điều này không chỉ thích ứng với điểm xuất phát thấp của thực tiễn kinh tế – xã hội mà còn phù hợp với nguyện vọng và điều kiện của con người miền Bắc.

Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, tháng 1 năm 1956, khẳng định quyết tâm của Đảng trong việc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, bất chấp tình hình thực tế Miền Bắc đã được giải phóng, với sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân và sự giúp đỡ từ các nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà không cần trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa Để cụ thể hóa đường lối này, hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1957) đã bàn về nhiệm vụ khôi phục kinh tế miền Bắc và phát triển chủ nghĩa xã hội, thông qua cải cách chế độ tiền lương và kiện toàn bộ máy Nhà nước Hội nghị cũng đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa và củng cố hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong đời sống tinh thần của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Vào tháng 11 năm 1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ mười bốn, xác định nhiệm vụ trước mắt cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và đề ra kế hoạch ba năm (1958 – 1960) nhằm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tập trung vào phát triển kinh tế, văn hóa, và củng cố lực lượng xã hội chủ nghĩa Đến tháng 1 năm 1959, Hội nghị lần thứ mười lăm được tổ chức để tổng kết cách mạng hai miền từ năm 1954 đến 1958, đồng thời đề ra đường lối cách mạng cho cả nước, đặc biệt là cho miền Nam, trong khi đó miền Bắc sẽ được củng cố vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng một hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa toàn diện.

Vào tháng 4 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ mười sáu để cụ thể hóa Nghị quyết lần thứ mười lăm, thông qua hai nghị quyết quan trọng về cách mạng miền Bắc: hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh Sau hơn 5 năm lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, đến năm 1960, Đảng đã tích lũy nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong việc xác lập đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa Ngày 5 tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng khai mạc tại Hà Nội, với Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc, nhấn mạnh rằng Đại hội này nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất đất nước Nội dung cơ bản của đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã được thông qua tại Đại hội.

Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là tạo ra một đời sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời củng cố miền Bắc thành một cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh hòa bình thống nhất đất nước Điều này cũng nhằm tăng cường sức mạnh của phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình tại Đông Nam Á và trên toàn thế giới.

Để đạt được mục tiêu, cần sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân để thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, nhằm cải tạo xã hội chủ nghĩa trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh Đồng thời, cần phát triển thành phần kinh tế quốc doanh và thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với ưu tiên hợp lý cho phát triển công nghiệp nặng, đồng thời đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ Cuối cùng, cần tăng cường cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật.

Về nhịp độ, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc: Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nước ta cần phát triển thành một quốc gia có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, cùng với văn hóa và khoa học tiên tiến Để đạt được mục tiêu này, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố sự nhất trí chính trị và tinh thần trong nhân dân Đồng thời, cần tăng cường đoàn kết, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hữu nghị với các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, cũng như với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.

Đại hội đã xác định rõ đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhấn mạnh vai trò quyết định của cách mạng miền Bắc trong sự phát triển toàn bộ cách mạng nước ta và sự nghiệp thống nhất đất nước Đồng thời, Đại hội cũng cụ thể hóa đường lối này bằng cách đề ra nhiệm vụ và phương hướng cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).

1965), nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

Qua quá trình tìm kiếm và nghiên cứu, Đảng ta đã hình thành đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, với sự khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960) Đường lối này thể hiện bản lĩnh độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc vận dụng lý luận Mác – Lênin và tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội từ các nước anh em Đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã được điều chỉnh để phù hợp với lịch sử và con người Việt Nam Các nghị quyết Trung ương lần thứ 10 (1963), lần thứ 11, 12 (1965), và lần thứ 19 đã tiếp tục bổ sung và phát triển đường lối cơ bản này.

Nghị quyết Trung ương lần thứ 19 năm 1971 được coi là bước phát triển quan trọng trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhấn mạnh việc nắm vững chuyên chính vô sản và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động Nghị quyết đề xuất tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học và cách mạng tư tưởng, văn hóa Đồng thời, nó khẳng định rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ kéo dài, được chia thành nhiều bước nhỏ hơn, với miền Bắc đang ở giai đoạn ban đầu của quá trình này Cuối cùng, nghị quyết yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975)

BƯỚC ĐẦU KHÔI PHỤC KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH (1954 – 1957)

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hội nghị Giơnevơ được tổ chức nhằm thảo luận về việc lập lại hòa bình tại Việt Nam và Đông Dương Các bên tham dự hội nghị đã ký kết các thỏa thuận quan trọng để thiết lập nền hòa bình trong khu vực.

Sau khi miền Bắc được giải phóng vào năm 1954, tình hình chính trị - xã hội trở nên thuận lợi nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh Nông thôn chịu thiệt hại nặng nề với hàng vạn héc-ta ruộng đất bị bỏ hoang, thiếu hụt lao động, nông cụ và sức kéo Tại thành phố, nhiều nhà máy và cơ sở công nghiệp bị phá hoại, dẫn đến tình trạng thất nghiệp tràn lan; thương nghiệp và thủ công nghiệp cũng rơi vào tình trạng tê liệt Cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1953 chỉ thực hiện được ở một số địa phương, khiến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, với tình trạng thiếu ăn và đói kém nghiêm trọng xuất hiện ở nhiều vùng.

Đảng đã tổ chức các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương để nhận thức rõ về thuận lợi và khó khăn của miền Bắc, nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội tiến lên chủ nghĩa xã hội Trong giai đoạn mới, toàn Đảng và toàn dân cần tập trung mọi nỗ lực vào nhiệm vụ kinh tế, với nông nghiệp là trọng tâm Cải cách ruộng đất và thực hiện chính sách "người cày có ruộng" là những nhiệm vụ quan trọng Đồng thời, cần phát triển văn hóa, xã hội, củng cố Đảng và chính quyền dân chủ nhân dân, thực hiện sứ mệnh lịch sử của chuyên chính vô sản, cũng như tăng cường quốc phòng và xây dựng quân đội để đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trong quá trình khôi phục kinh tế miền Bắc sau chiến tranh, Đảng ta đã chỉ đạo toàn dân thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ nhằm đạt được hiệu quả tối ưu.

Nhiệm vụ khôi phục sản xuất nông nghiệp và xây dựng kinh tế tập thể đã mang lại niềm phấn khởi cho nông dân, khi họ được giải phóng khỏi áp bức và được chia ruộng đất Từ đó, nông dân đã nỗ lực khai hoang, chống hạn và tăng cường sản xuất, với sản lượng lương thực miền Bắc đạt 4,2 triệu tấn vào năm 1957, vượt mức trước chiến tranh Đời sống của nhân dân, chủ yếu là nông dân, dần ổn định, giúp đẩy lùi nạn đói Đảng cũng chú trọng khôi phục sản xuất công nghiệp, với nhiều nhà máy quan trọng như Mỏ than Hồng Gai và nhà máy dệt Nam Định đi vào hoạt động hiệu quả từ 1955 đến 1957 Đến cuối năm 1957, miền Bắc có 97 nhà máy do Nhà nước quản lý, thương mại miền Bắc tăng trưởng 70,6%, doanh số gấp đôi so với năm trước.

Năm 1955, Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng khôi phục và phát triển hệ thống giao thông vận tải, bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy và hàng không quốc tế, cùng với việc cải tạo các bến cảng như Long Biên, Hải Phòng và Cẩm Phả Các ngành văn hóa, giáo dục và y tế phát triển mạnh mẽ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm và sự chú trọng vào giáo dục đại học Hệ thống y tế miễn phí được mở rộng khắp miền Bắc, trong khi hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được củng cố, góp phần vào việc lãnh đạo và chỉ đạo nhiệm vụ khôi phục kinh tế, đồng thời ngăn chặn các âm mưu của những lực lượng phản động chống đối chế độ mới.

Đảng đã chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất với mục tiêu giảm tô thuế lần thứ 6 và đợt 2 của cải cách, nhằm trả ruộng đất về cho nông dân Qua đó, từng bước hướng dẫn họ vào con đường sản xuất tập thể trong hơn 2 năm.

Từ năm 1954 đến 1956, cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã được tiến hành qua 4 đợt, với tổng cộng 3.314 xã tham gia Qua 5 đợt cải cách, khoảng 81 vạn ta ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ đã được phân chia từ tay giai cấp địa chủ cho hơn 2 triệu nông dân Giai cấp địa chủ bị xóa bỏ, đánh dấu sự hình thành của một quan hệ sản xuất mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình cải cách ruộng đất, một số sai lầm nghiêm trọng đã xảy ra, ảnh hưởng đến tư tưởng và nhiệt tình cách mạng của nhân dân Nhận thức được điều này, Đảng đã nhanh chóng sửa chữa những sai lầm và khuyết điểm, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội và củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Công cuộc khôi phục kinh tế và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ năm 1954 đến 1957, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực chất là quá trình xây dựng nền tảng và mở đường cho việc triển khai từng bước cách mạng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.

CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ Ở MIỀN BẮC (1958 – 1960)

Công cuộc khôi phục kinh tế thành công đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Vào tháng 4 năm 1958, Hội nghị lần thứ mười bốn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận về kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa trong 3 năm (1958 - 1960) đối với các thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và tư bản tư doanh Đảng đã chủ trương tập trung lãnh đạo cải tạo toàn diện nền kinh tế xã hội, đặc biệt chú trọng vào cải tạo nông nghiệp thông qua hợp tác hóa, nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác.

Mục đích cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thông qua hai hình thức chủ yếu là sở hữu nhà nước (toàn dân) và sở hữu tập thể Điều này nhằm hình thành quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng nhấn mạnh rằng việc cải tạo cần được đặt lên hàng đầu, đồng thời phải tiến hành xây dựng song song với cải tạo Điều này có nghĩa là quá trình xây dựng và cải tạo phải được kết hợp chặt chẽ, nhằm thúc đẩy nhanh chóng hoàn thành công tác cải tạo.

Đến năm 1960, nhân dân miền Bắc phấn đấu đạt được đủ lương thực, tăng cường sản xuất rau, thịt, cá và đường; tự cung cấp phần lớn hàng tiêu dùng, đặc biệt là các nhu cầu về ăn, mặc, học tập và đồ dùng gia đình Đồng thời, trình độ văn hóa và kỹ thuật sẽ được nâng cao, góp phần giải quyết căn bản nạn thất nghiệp do chế độ cũ để lại.

Để cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ mười bốn, Đảng ta đã ban hành các chỉ thị và nghị quyết từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách xã hội chủ nghĩa toàn diện trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần tạo ra phong trào sản xuất sôi nổi trên toàn miền Bắc Trong bối cảnh phát triển này, tháng 4 năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu (khóa II) đã diễn ra, tập trung thảo luận về vấn đề hợp tác hóa trong nông nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Hội nghị nhấn mạnh vai trò quan trọng của Đảng trong việc chuẩn bị toàn diện các mặt như đường lối, chính sách, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kế hoạch nhằm phát triển tích cực và bền vững các tổ đổi công và hợp tác xã nông nghiệp, hướng tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa tại nông thôn.

Nguyên tắc xây dựng hợp tác xã bao gồm tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ Cải tạo hợp tác xã cần được thực hiện một cách tích cực và vững chắc, với quy hoạch toàn diện và phù hợp với đặc điểm từng vùng.

Đảng đã đề ra chủ trương cải tạo hòa bình đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, nhằm đảm bảo lợi ích cho cả hai bên Đồng thời, việc sắp xếp công ăn việc làm cho các nhà tư bản và giai cấp tư sản cũng được chú trọng.

Chủ trương của Đảng về cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo ra phong trào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mạnh mẽ tại miền Bắc Đến cuối năm 1960, hơn 85% hộ nông dân và 68% diện tích ruộng đất đã tham gia vào hợp tác xã nông nghiệp, thu được nhiều thành tựu lớn Về cải tạo công thương nghiệp, miền Bắc đã cải tạo hoàn toàn 783 hộ tư sản công nghiệp, 826 hộ tư sản thương nghiệp và 319 hộ tư sản vận tải cơ giới Hàng vạn công nhân được giải phóng khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, trong khi ngành thủ công nghiệp dần phục hồi thông qua các tổ chức hợp tác như hợp tác xã cung tiêu và hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp, với 87,9% thợ thủ công tham gia vào hoạt động tập thể.

Đảng đã tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, đặc biệt chú trọng vào việc phát triển thành phần kinh tế quốc doanh Đến năm 1960, miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực này.

Tính đến năm 1960, miền Bắc có 56 nông trường quốc doanh với diện tích trên 10 vạn héc ta canh tác Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu được Đảng, Nhà nước đầu tư phát triển mạnh mẽ, từ 97 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh năm 1957 đã tăng lên 172 xí nghiệp do Trung ương quản lý và trên 500 cơ sở do địa phương quản lý vào năm 1960 Nhiều khu công nghiệp lớn như Nhà máy gang thép Thái Nguyên và khu liên hiệp công nghiệp Việt Trì đã ra đời Ngành công nghiệp tiêu dùng cũng ghi nhận sự phát triển đáng kể, với tổng số hàng tiêu dùng sản xuất trong nước tăng 283,7% so với năm 1955, đáp ứng 90% nhu cầu hàng tiêu dùng của nhân dân Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, dù còn non trẻ, cũng có sự phát triển vượt bậc với 12 tổng công ty chuyên nghiệp và 1.400 cửa hàng vào năm 1959 Đồng thời, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục và y tế, giúp miền Bắc cơ bản xóa nạn mù chữ cho những người dưới 50 tuổi vào cuối năm 1960.

Hệ thống giáo dục phổ thông đã được hoàn thiện và mở rộng, với số lượng học sinh tăng 80% so với năm 1957 Sự phát triển của các trường đại học và trung học chuyên nghiệp cũng không ngừng gia tăng, đạt 9 trường đại học và 11,070 sinh viên vào năm 1960, gấp đôi so với năm 1957 Bên cạnh đó, hệ thống y tế cơ bản đã hình thành trên toàn miền Bắc, bao gồm các bệnh viện, bệnh xá và trạm y tế, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe miễn phí cho người dân.

Trong giai đoạn 1958-1960, Đảng đã chú trọng đến việc xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và phát triển các đoàn thể quần chúng, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo hiệu quả Các Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 và 15 đã được triển khai, tập trung vào việc chỉnh đốn tổ chức và tăng cường giáo dục lý luận Mác - Lênin, nhằm giữ gìn sự trong sạch và vững mạnh của Đảng Tháng 12 năm 1959, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Hiến pháp mới, và vào ngày 1 tháng 1 năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên Qua bầu cử dân chủ, Hội đồng Chính phủ và Hội đồng nhân dân các cấp đã được mở rộng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước Các tổ chức quần chúng như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên lao động Việt Nam, và Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã được củng cố và hoạt động tích cực, trong khi Quân đội nhân dân Việt Nam được đặc biệt quan tâm xây dựng, hướng tới hiện đại hóa và củng cố quốc phòng toàn dân.

Trong giai đoạn 1958 – 1960, miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa Những thành công này khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo trong lãnh đạo của Đảng, khi toàn dân đồng lòng tham gia vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Quá trình này diễn ra từng bước vững chắc, phù hợp với thực tiễn đất nước và trình độ nhận thức của nhân dân.

KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 – 1965)

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và thiết lập quan hệ sản xuất mới, miền Bắc đã bước vào giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật làm nhiệm vụ trung tâm Đồng thời, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa cũng tiếp tục được hoàn thiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã xác định phương hướng nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965).

Mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1961 – 1965) là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhằm đưa miền Bắc phát triển nhanh chóng và bền vững Kế hoạch này đặt ra các nhiệm vụ cơ bản để đạt được những mục tiêu trên.

Chúng ta cần tập trung phát triển công nghiệp nặng và nông nghiệp một cách toàn diện, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ và giao thông vận tải Việc tăng cường thương mại quốc doanh và thương mại hợp tác xã cũng rất quan trọng, nhằm tạo nền tảng vững chắc để chuyển đổi đất nước thành một nước công nghiệp và nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hoàn thiện cải cách xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh là mục tiêu quan trọng Đồng thời, cần tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân và đào tạo cán bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và công nhân lành nghề, là những nhiệm vụ quan trọng nhằm cải thiện năng lực quản lý kinh tế Đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật và thăm dò tài nguyên thiên nhiên sẽ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hóa xã hội chủ nghĩa Mục tiêu là cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, đảm bảo mọi người đều được ăn no, mặc ấm, tăng cường sức khỏe, có nhà ở và cơ hội học tập, đồng thời phát triển sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới tại nông thôn và thành phố.

Để đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững, cần chú trọng củng cố quốc phòng và tăng cường trật tự an ninh, nhằm bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đặt ra các chỉ tiêu quan trọng cho kế hoạch 5 năm, trong đó giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp dự kiến tăng 148% so với năm 1960, với mức tăng trung bình hàng năm khoảng 20% Đối với nông nghiệp, giá trị tổng sản lượng dự kiến sẽ tăng 10% Ngoài ra, Nhà nước sẽ đầu tư 5,1 tỷ đồng vào xây dựng cơ bản, chiếm 48% ngân sách, nhằm nâng cao thu nhập thực tế bình quân đầu người đến năm 1965.

Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (1961 – 1965), Đảng ta đã tổ chức nhiều Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương để thảo luận về các vấn đề quan trọng liên quan đến phát triển kinh tế – xã hội, cụ thể hóa đường lối Đại hội III Hội nghị lần thứ năm (7-1961) tập trung vào phát triển nông nghiệp toàn diện, giải quyết vấn đề lương thực và chú trọng cây công nghiệp Tiếp đó, Hội nghị lần thứ bảy (6-1962) bàn về phát triển công nghiệp, và Hội nghị lần thứ mười (12-1964) xem xét công tác thương nghiệp và giá cả Qua các hội nghị này, Đảng đã phân tích mối quan hệ giữa ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, và cách mạng tư tưởng – văn hóa, đồng thời đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như tích lũy vốn, mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng, cũng như sự cân bằng giữa các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp.

Toàn thể nhân dân miền Bắc đã tích cực hưởng ứng chủ trương của Đảng, tạo ra phong trào thi đua mạnh mẽ nhằm đẩy lùi nghèo nàn lạc hậu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm.

Nông nghiệp tại xã Đại Phong đang phát triển mạnh mẽ thông qua phong trào thi đua học tập và cải tiến quản lý hợp tác xã Các công trình thủy lợi được xây dựng để hỗ trợ sản xuất, cùng với việc đầu tư vào các nông trường quốc doanh và trang trại cây trồng, chăn nuôi, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Tỷ lệ sử dụng cơ khí trong nông nghiệp đã tăng nhanh chóng, với số lượng máy kéo năm 1965 gấp hơn 3,3 lần so với năm 1960, dẫn đến năng suất lúa tăng đáng kể Đến cuối năm 1965, có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt hoặc vượt năng suất 5 tấn thóc trên 1 héc ta Đến đầu năm 1965, 90,1% tổng số hộ nông dân tham gia vào hợp tác xã, trong đó 60,1% là hợp tác xã bậc cao.

Trong bối cảnh công nghiệp, phong trào thi đua “Học tập Duyên Hải” và “thi đua với Duyên Hải” đã nổi lên mạnh mẽ Nhà nước đã đầu tư 48% vốn vào xây dựng cơ bản của nền kinh tế, trong đó công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng lớn nhất Kết hợp nội lực với sự hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, miền Bắc đã phát triển nhiều cơ sở công nghiệp Đến năm 1965, miền Bắc có 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, trong đó 205 xí nghiệp Trung ương và 927 xí nghiệp địa phương, với công nghiệp quốc doanh chiếm 93,1% giá trị sản lượng toàn miền Một số dự án tiêu biểu trong công nghiệp nặng bao gồm Khu gang thép Thái Nguyên, Nhà máy điện Uông Bí, Nhà máy thủy điện Thác Bà, phân đạm Bắc Giang và Supe phốt phát Lâm Thao.

Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp phát triển với gần 2.000 hợp tác xã, giải quyết được 80% hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân.

Thương nghiệp quốc doanh đã chiếm ưu thế trên thị trường, góp phần củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa Năm 1965, khối lượng hàng hóa bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh tăng 84,3% so với năm 1960 Đến thời điểm này, Việt Nam đã mở rộng hoạt động buôn bán và trao đổi với 35 quốc gia trên toàn thế giới.

Giao thông vận tải đã được cải thiện đáng kể với nhiều tuyến đường sắt, đường bộ, đường thủy, cùng các cầu cống và đê điều mới được xây dựng và nâng cấp, góp phần quan trọng vào sản xuất và bảo đảm an ninh quốc phòng.

Văn hóa, giáo dục và y tế đã có những bước phát triển vượt bậc Trong năm học 1960 – 1961, cả nước có 7.066 trường học với 1.899.000 học sinh, và đến năm học 1964 – 1965, số lượng trường học đã tăng lên 10.294 với 2.676.000 học sinh Sự phát triển của giáo dục đại học cũng diễn ra nhanh chóng.

GIAI ĐOẠN 1965-1975

4.1 Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng chuyển hướng xây dựng miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần thứ nhất (1965-1968) Tính đến năm 1965, miền Bắc đã có 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có hòa bình, thu được nhiều thành tựu to lớn Ở miền Nam, nhân dân ta đã đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ

Thắng lợi trong cuộc chiến đã khiến đế quốc Mỹ nhận ra tầm quan trọng của miền Bắc xã hội chủ nghĩa Từ tháng 2 năm 1965, Mỹ đã triển khai quân đội vào miền Nam và thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", đồng thời sử dụng không quân và hải quân để tấn công miền Bắc nhằm ngăn chặn sự hỗ trợ cho cách mạng miền Nam Để đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức hai Hội nghị toàn thể, lần thứ mười một vào tháng 3 và lần thứ mười hai vào tháng 12 năm 1965, nhấn mạnh quyết tâm đánh bại Mỹ cho nhân dân cả nước Đảng cũng xác định rằng miền Bắc cần phải đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc.

Mỹ đặt nhiệm vụ bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội lên hàng đầu, đồng thời mobilize tối đa nguồn lực con người và vật chất để hỗ trợ cách mạng miền Nam, thực hiện nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào và các phong trào cách mạng khác.

Về nghiệm vụ của quân và dân miền Bắc, hội nghị xác định là:

Xây dựng miền Bắc thành một hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam, đồng thời đảm bảo đời sống cho người dân và đáp ứng nhu cầu hậu cần tại chỗ là một nhiệm vụ quan trọng.

Để đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, miền Bắc cần tăng cường viện trợ cho tiền tuyến miền Nam cũng như hỗ trợ cách mạng Lào và Campuchia Đồng thời, việc chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời chiến, điều chỉnh tư tưởng và tổ chức, và tăng cường lực lượng quốc phòng là những nhiệm vụ cấp bách trong bối cảnh hiện tại.

Mục tiêu chuyển hướng kinh tế là để xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình hình chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, đồng thời đảm bảo yêu cầu chiến đấu và tăng cường lực lượng cho miền Nam Điều này cần được thực hiện trong bối cảnh vẫn giữ vững phương hướng lâu dài cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Để nâng cao khả năng quốc phòng, cần tăng cường lực lượng bộ đội thường trực, gọi nhập ngũ một số cán bộ và quân nhân phục viên, đồng thời tuyển thêm thanh niên vào quân đội Cần xem xét tăng thời hạn nghĩa vụ quân sự và số lượng người phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, phát triển và củng cố lực lượng dân quân Ngoài ra, cần phát động phong trào toàn dân tham gia bắn máy bay địch và tranh thủ sự hỗ trợ về vũ khí cũng như phương tiện chiến tranh từ các nước bạn.

Toàn Đảng và toàn dân cần nhận thức rõ âm mưu của địch trong bối cảnh miền Bắc đang trong thời chiến Cần điều chỉnh cán bộ, công nhân và viên chức giữa các ngành và địa phương để phù hợp với chuyển hướng kinh tế, đồng thời tăng cường lực lượng quốc phòng Việc cải tiến bộ máy và sửa đổi lề lối làm việc ở tất cả các cấp cũng cần được thực hiện để đáp ứng yêu cầu của thời chiến.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân miền Bắc đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc đánh bại giặc Mỹ xâm lược.

Trong khoảng thời gian từ 5-8-1964 đến 1-11-1968, nhân dân và lực lượng vũ trang miền Bắc đã xuất sắc bắn rơi 3.234 máy bay Mỹ, tiêu diệt và bắt sống hàng nghìn phi công Đồng thời, họ cũng đã bắn chìm và phá hủy 143 tàu chiến và tàu biệt kích của Mỹ Trước những thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam và Bắc, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố chiến dịch ném bom hạn chế miền Bắc từ ngày 31 tháng 3 năm 1968 và ngừng hoàn toàn ném bom miền Bắc kể từ ngày 1 tháng 11 năm 1968.

Trong bối cảnh chiến đấu gian khổ ở miền Bắc, nhân dân đã kiên cường thực hiện chủ trương của Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần "Mỗi người làm việc bằng hai" và "làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm" Nông nghiệp duy trì sản xuất theo thời vụ, với sự gia tăng hợp tác xã và nhiều địa phương đạt "3 mục tiêu" Năng suất thóc từ 7 huyện đạt 5 tấn/héc ta năm 1965 đã tăng lên 30 huyện vào năm 1967 Trong công nghiệp, mặc dù bị máy bay địch tấn công, công nhân vẫn duy trì sản xuất, đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng và đời sống Ngành giao thông vận tải cũng nỗ lực lớn, với hệ thống đường bộ và đường thủy hoạt động liên tục, đưa vào miền Nam hơn 300.000 cán bộ, bộ đội và hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, cùng nhiều hàng hóa thiết yếu khác trong giai đoạn 1965-1968.

Dưới sự chỉ đạo kiên quyết của Đảng, toàn dân và toàn quân đã chiến thắng trong cuộc chiến chống lại sự phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời chuyển hướng xây dựng kinh tế miền Bắc trong bối cảnh chiến tranh Điều này đã thể hiện sự trưởng thành và năng lực lãnh đạo ngày càng cao của Đảng Nhờ đó, sức mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa không ngừng được củng cố, góp phần hiệu quả vào sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.

4.2 Đảng lãnh đạo xây dựng miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969-1973)

Sau khi Giônxơn tuyên bố chấm dứt việc ném bom miền Bắc vào ngày 1-11-1968, tình hình vẫn căng thẳng khi cả nước vẫn trong chiến tranh ác liệt Hòa bình chỉ mang tính tương đối, vì Mỹ tiếp tục vi phạm lệnh ngừng bắn Chúng thực hiện các cuộc không kích và bắn phá tại khu vực Vĩ tuyến 17, đặc biệt là ở các tỉnh Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An.

Trong bối cảnh khó khăn, Đảng đã đề ra chủ trương tận dụng thời gian ngừng bắn để khôi phục kinh tế và chuẩn bị cho kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội lâu dài Đồng thời, cần tập trung chi viện cho miền Nam, nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, sẵn sàng đối phó với các hành động gây chiến trở lại miền Bắc của đế quốc Mỹ, nhằm đảm bảo đời sống cho nhân dân lao động Đây là những nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt trong giai đoạn hòa bình ngắn ngủi ở miền Bắc từ năm 1969 đến 1972.

Trong bối cảnh lãnh đạo nhân dân nỗ lực khôi phục và phát triển kinh tế, Đảng tiếp tục cụ thể hóa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ mười chín vào tháng 3 năm 1971, các đại biểu đã đánh giá tình hình cuộc kháng chiến và đưa ra phương hướng, giải pháp để đẩy mạnh cuộc kháng chiến Đồng thời, hội nghị cũng tập trung vào phát triển kinh tế miền Bắc, với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển nông nghiệp, xác định các bước đi ban đầu và mục tiêu trong phát triển kinh tế xã hội Tiếp theo, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai mươi khóa III đã thảo luận về cải tiến công tác quản lý kinh tế xã hội ở miền Bắc.

THÀNH TỰU, KHUYẾT ĐIỂM TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975) TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

THÀNH TỰU

Từ năm 1954 đến 1975, miền Bắc Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, đối mặt với nhiều khó khăn Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã đạt được những thành tựu lớn, bao gồm việc từng bước xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa Ngoài ra, một số cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cũng đã được xây dựng, góp phần phát huy tác dụng của chủ nghĩa xã hội trên nhiều lĩnh vực.

Mặc dù bị chiến tranh tàn phá, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vẫn phát triển mạnh mẽ Đến năm 1975, 99,7% tài sản cố định trong khu vực sản xuất vật chất thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng 5,1 lần so với năm 1955 Ngành công nghiệp đã có những cơ sở quan trọng trong các lĩnh vực như điện, than, cơ khí, hóa chất và luyện kim, đặc biệt là công nghiệp địa phương, đáp ứng nhu cầu kinh tế và quốc phòng Trong nông nghiệp, nhiều công trình thủy lợi được xây dựng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, đảm bảo sản xuất lương thực đủ cung cấp cho nhân dân và bộ đội Đáng tự hào, trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt, nhiều tỉnh, huyện và hàng ngàn hợp tác xã nông nghiệp đạt năng suất từ 5 đến 10 tấn thóc trên một héc ta mỗi năm, đồng thời nông thôn miền Bắc cũng tích cực chi viện cho miền Nam.

Trong bối cảnh giao thông vận tải đầy thử thách, miền Bắc đã phải đối mặt với 60% tổng số bom đạn tấn công vào hệ thống giao thông Tuy nhiên, với tinh thần kiên cường, nhân dân miền Bắc đã nỗ lực xây dựng và phát triển nhiều hệ thống đường giao thông quan trọng Mạng lưới giao thông liên tỉnh, liên huyện, liên xã đã được hình thành, cùng với nhiều loại cầu, phà phục vụ cho thời chiến Đặc biệt, tuyến đường 559 và đường ống dẫn dầu từ Bắc vào Nam đã được xây dựng thành công, đảm bảo giao thông thông suốt và kết nối miền Bắc với ba nước trên bán đảo Đông Dương.

Sự nghiệp văn hóa và giáo dục đã có những bước phát triển vượt bậc, nâng cao trình độ văn hóa chung của xã hội Đến đầu năm 1975, tỷ lệ người đi học đạt 1/3 dân số Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế – xã hội có trình độ đại học, trên đại học và trung học chuyên nghiệp đã tăng lên hơn 430.000 người, gấp 19 lần so với năm 1960 Mạng lưới y tế cũng được mở rộng, với số lượng bác sĩ và y sĩ tăng 13,4 lần so với năm 1960, đồng thời thực hiện việc chữa bệnh miễn phí cho nhân dân.

Sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân không ngừng phát triển và phát huy tác dụng to lớn trong chiến tranh

Trật tự kỷ cương xã hội được duy trì, tạo nên mối quan hệ gắn bó giữa con người với nhau, thể hiện tình đoàn kết và yêu thương Tấm lòng hướng về hậu phương và tiền tuyến, cùng với tinh thần hy sinh vì Tổ quốc, đã trở thành những truyền thống tốt đẹp của nhân dân miền Bắc.

Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã kiên cường đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, không chỉ bảo vệ vững chắc lãnh thổ mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò hậu phương cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Với tinh thần "không có gì quý hơn độc lập tự do", quân và dân miền Bắc đã kiên cường vừa sản xuất vừa chiến đấu, đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bằng không quân và hải quân Họ đã bắn rơi 4.181 máy bay, trong đó có 68 B52 và 13 F111, tiêu diệt và bắt sống hàng ngàn phi công, đồng thời tiêu diệt 271 tàu chiến của Mỹ Thành công này đã buộc Mỹ phải cam kết rút quân, thừa nhận độc lập và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, đồng thời ngừng ném bom miền Bắc, tạo điều kiện cho nhân dân miền Nam tiếp tục đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn.

Nhân dân miền Bắc không chỉ chiến đấu bảo vệ chủ nghĩa xã hội mà còn đóng vai trò hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam, Lào và Campuchia Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đã ghi nhận miền Bắc đã dốc toàn lực vào cuộc chiến cứu nước, trở thành pháo đài vững chắc của chủ nghĩa xã hội Hàng triệu tấn vũ khí, trang thiết bị và nhu yếu phẩm đã được chuyển vào các chiến trường phía Nam, với tổng khối lượng vận chuyển đạt 1.400.000 tấn hàng hóa và 5.500.000 tấn dầu vào năm 1975, trong đó có hơn 583.000 tấn hàng hóa cho cách mạng Lào và Campuchia Đặc biệt, năm 1974, khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng gấp 22 lần so với năm 1960, và đến mùa Xuân năm 1975, con số này đã đạt 413.450 tấn, gấp đôi so với năm trước đó Từ 1960 đến đầu 1975, Đoàn 559 đã vận chuyển hơn hai triệu cán bộ, chiến sỹ và nhân viên kỹ thuật qua tuyến đường Trường Sơn.

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, công cuộc xây dựng chủ yếu xã hội ở miền Bắc vẫn còn một số khuyết điểm yếu kém.

KHUYẾT ĐIỂM

Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng được đánh giá là đúng đắn và sáng tạo, nhưng việc chỉ đạo thực tiễn chưa kịp thời và chưa áp dụng hiệu quả vào các kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội Những quy luật trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chưa được nhận thức đầy đủ, dẫn đến chậm trễ trong việc đề ra hướng đi cho hợp tác xã nông nghiệp và đặt ra mục tiêu không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất Quan điểm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chưa được cụ thể hóa, gây ra tình trạng phát triển không đồng bộ, chưa phục vụ tốt cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ Mối quan hệ giữa kinh tế trung ương và địa phương chưa được giải quyết hợp lý, khiến kinh tế địa phương không được chú trọng Hệ thống quản lý và tổ chức sản xuất chưa phát huy hiệu quả, chưa kết hợp tốt giữa quản lý theo ngành và theo địa phương Công tác kế hoạch hóa còn yếu kém, mang tính quan liêu, hành chính, làm giảm hiệu quả và chất lượng quản lý Ngoài ra, những nhận thức sai lầm trong các vấn đề lưu thông, phân phối, tài chính, ngân hàng, giá cả và tiền lương đã cản trở sự phát triển sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.

TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

Đảng và nhà nước ta đã từ lâu nhận thức rõ vai trò quan trọng của thế hệ trẻ trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước Nhận thức này ngày càng được củng cố qua các năm, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thay đổi và quá trình hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp, ngành và tổ chức chính trị.

Xã hội đã triển khai nhiều chính sách và biện pháp để tăng cường vai trò của thanh niên trong các lĩnh vực đời sống Tuy nhiên, để đạt hiệu quả cao, cần có sự thay đổi trong nhận thức của thế hệ trẻ, bên cạnh những nỗ lực từ các cấp, ngành và tổ chức.

Trước tiên đối với công cuộc xây dựng tổ quốc sinh viên cần phải:

Chăm chỉ và sáng tạo trong học tập và lao động là yếu tố quan trọng để xây dựng đất nước Có mục đích và động cơ học tập đúng đắn không chỉ giúp cá nhân phát triển mà còn thể hiện lòng yêu nước, bởi học tập tốt chính là cách góp phần xây dựng tương lai tươi sáng cho đất nước.

Chúng ta cần chú trọng đến đời sống chính trị và xã hội của địa phương cũng như đất nước, đồng thời thực hiện đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Hơn nữa, việc vận động mọi người xung quanh cùng tuân thủ các quy định pháp luật cũng rất quan trọng.

Rèn luyện đạo đức và tác phong tích cực, sống trong sáng và lành mạnh, là điều cần thiết để tránh xa các tệ nạn xã hội Cần phải đấu tranh chống lại lối sống lai căng, thực dụng và bảo vệ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc.

Tham gia tích cực vào việc xây dựng quê hương là điều cần thiết, thông qua những hành động thiết thực phù hợp với khả năng của mỗi người Các hoạt động như bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo, và chống tiêu cực, tham nhũng đều đóng góp vào sự phát triển bền vững Ngoài ra, tham gia các hoạt động xã hội như hiến máu tình nguyện và làm tình nguyện viên cũng là những cách thể hiện tinh thần trách nhiệm với cộng đồng.

- Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Còn trong công cuộc bảo vệ tổ quốc, sinh viên cần phải:

- Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ.

Trung thành với Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng, đồng thời cần cảnh giác trước âm mưu chia rẽ và xuyên tạc của các thế lực thù địch Việc phê phán và đấu tranh với những hành động gây hại cho an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là cần thiết để bảo vệ sự ổn định và phát triển đất nước.

- Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa…

- Tham gia đăng kí tham gia huấn luyện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi; sẵn sàng lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.

- Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.

Ngày đăng: 18/10/2022, 13:59

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w