Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Gần đây, phát triển kinh tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của người dân và chính phủ Việt Nam Chính phủ đã dành một phần lớn ngân sách để đầu tư xây dựng các công trình nhằm thúc đẩy tăng trưởng Kể từ năm 1997, tăng trưởng kinh tế chủ yếu đến từ yếu tố vốn, chiếm hơn 50%, nhưng tỷ lệ hiệu quả đầu tư lại thấp với hệ số ICOR cao, cho thấy sự đầu tư kém hiệu quả và tăng trưởng chủ yếu theo chiều ngang Đặc biệt, vốn đầu tư công luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, nhưng hiệu quả lại không cao, với ví dụ cụ thể là vốn đầu tư của khu vực nhà nước từ 316.285 tỷ đồng năm 2010 lên 1.091.136 tỷ đồng năm 2013 Vấn đề này xuất phát từ nhiều nguyên nhân phức tạp và đã trở thành một thách thức lớn cho xã hội.
Vĩnh Long nằm ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, hàng năm đóng góp vào nguồn thu NSNN cả nước khoảng 1%, là tỉnh nghèo nhưng trong giai đoạn 2010-
Năm 2014, tỉnh đã dành khoảng 30% nguồn chi cân đối ngân sách và 24,3% tổng chi ngân sách địa phương cho đầu tư phát triển Việc quản lý nhà nước kém có thể dẫn đến thất thoát vốn đầu tư từ ngân sách, ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính quyền trong mắt người dân.
Tác giả đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng ở tỉnh Vĩnh Long” nhằm đưa ra các kiến nghị khoa học và giải pháp cụ thể để cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng tại tỉnh Vĩnh Long.
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, với tỷ lệ vốn đầu tư chiếm lớn trong ngân sách hàng năm Sản phẩm xây dựng có đặc thù như thời gian thực hiện dài và sự tham gia của nhiều tổ chức trong quá trình quản lý Việc quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn đầu tư là cần thiết Để dự án thành công, cần quản lý đúng cách nhằm đảm bảo hiệu quả tài chính tương xứng với giá trị lợi ích đã đầu tư.
Vĩnh Long là một tỉnh nghèo tài nguyên, không có rừng, không giáp biển, biên giới hay hải đảo, với nguồn thu chỉ chiếm khoảng 1% ngân sách cả nước Do đó, tỉnh nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Trung ương và chính quyền địa phương trong việc đầu tư xây dựng cơ bản Vốn đầu tư cho xây dựng ngày càng tăng theo sự phát triển của nền kinh tế, trong đó vốn chi đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi ngân sách Tổng vốn đầu tư XDCB thuộc ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2010 đạt 1.642 tỷ đồng.
2011 đạt 1.658 tỷ đồng; năm 2012 đạt 1.889 tỷ đồng; năm 2013 đạt 2.192 tỷ đồng, năm 2014 đạt 2.296 tỷ đồng.
Đầu tư xây dựng các dự án tại Vĩnh Long đã góp phần quan trọng vào sự thành công của tỉnh, thể hiện nỗ lực của chính quyền và nhân dân Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục, như hiệu quả và chất lượng đầu tư chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, năng lực sản xuất và hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển Tình trạng đầu tư dàn trải, thời gian thi công kéo dài, và quản lý còn yếu kém dẫn đến thất thoát và lãng phí trong các dự án Giai đoạn 2010-2014, thất thoát vốn đầu tư trong xây dựng cơ bản chiếm 5,97% tổng chi ngân sách địa phương, tương đương khoảng 617,9 tỷ đồng Do đó, việc cải cách quản lý đầu tư là yêu cầu cấp bách để nâng cao hiệu quả đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1Mục tiêu chung Đề tài luận văn được nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng nói chung, từ đó để thấy rõ thực trạng, tồn tại và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng ở tỉnh.
Bài viết này phân tích thực trạng sử dụng vốn ngân sách trong đầu tư tại tỉnh Vĩnh Long, nhằm nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng của địa phương.
Câu hỏi nghiên cứu
1.4.1 Kết cấu vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng ở Vĩnh Long được phân bổ ra sao?
1.4.2 Đầu tư từ ngân sách ở Vĩnh Long có hiệu quả không?
Đối tượng nghiên cứu
Công tác đầu tư và quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) của các cơ quan nhà nước tại tỉnh Vĩnh Long đã được triển khai từ năm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo chất lượng công trình Các dự án này không chỉ góp phần phát triển hạ tầng mà còn thúc đẩy kinh tế địa phương, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại tỉnh Vĩnh Long.
Thời gian nghiên cứu sử dụng số liệu đầu tư xây dựng được thực hiện từ năm 2010 đến năm 2014, dựa trên dữ liệu do Cục Thống kê Vĩnh Long và Cục Tin học Thống kê cung cấp.
Phương pháp và số liệu nghiên cứu
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá thực trạng và phân tích thông qua ý kiến của các chuyên gia trong ngành Kích thước mẫu gồm 100 quan sát, đối tượng khảo sát bao gồm công chức từ Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Phòng Tài chính Kế hoạch các huyện, thành phố, Cục Thuế tỉnh, Sở Y tế và Sở Giao thông Vận tải.
Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Vĩnh Long, Kho bạc nhà nước tỉnh.
Nghiên cứu này sẽ dựa vào số liệu thứ cấp từ Cục Thống kê Vĩnh Long, Cục Tin học và Thống kê, Sở Tài chính tỉnh Vĩnh Long, và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long.
Kết cấu luận văn
Bài viết được chia thành 5 chương chính, bắt đầu với chương 1 giới thiệu tổng quan về vấn đề nghiên cứu, nhấn mạnh tính cấp thiết, mục tiêu, câu hỏi, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu Chương 2 cung cấp cơ sở lý thuyết, giải thích các khái niệm liên quan đến đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) và vai trò của nó, cùng với quá trình đầu tư xây dựng, các nghiên cứu liên quan, và hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư từ ngân sách Chương 3 phân tích kết cấu vốn ngân sách trong chi đầu tư tại Vĩnh Long trong giai đoạn 2010-2014.
Chương 4 của bài viết tập trung vào việc đánh giá hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, trong khi Chương 5 nêu rõ nguyên nhân, giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư xây dựng công trình sử dụng vốn ngân sách tại tỉnh Vĩnh Long.
Giới thiệu
Chương này giới thiệu khái niệm về đầu tư, bao gồm đầu tư công, đầu tư phát triển, vốn đầu tư và ngân sách nhà nước Nó cũng đề cập đến thu chi ngân sách nhà nước ở cả trung ương và địa phương, cùng với các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước Ngoài ra, chương còn tổng hợp kinh nghiệm của các nước và các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam, nhằm xây dựng khung phân tích cho nghiên cứu này, từ đó đánh giá hiệu quả của đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
2.2Đầu tư, đầu tư phát triển và các đặc trưng cơ bản của đầu tư phát triển
2.2.1Khái niệm về đầu tư, đầu tư phát triển
Đầu tư là quá trình mà nhà đầu tư sử dụng tài sản hữu hình hoặc vô hình để tạo ra tài sản mới và thực hiện các hoạt động đầu tư theo quy định pháp luật (Luật Đầu tư số 59, 2005) Có hai hình thức đầu tư chính: đầu tư trực tiếp, trong đó nhà đầu tư không chỉ bỏ vốn mà còn tham gia quản lý hoạt động đầu tư, và đầu tư gián tiếp, nơi nhà đầu tư mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác thông qua các định chế tài chính mà không trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư (Luật Đầu tư số 59, 2005).
Đầu tư là quá trình sử dụng vốn để tạo ra và vận hành các tài sản kinh doanh như nhà xưởng, máy móc và vật tư, hay để mua cổ phiếu, trái phiếu và cho vay lấy lãi Các tài sản này có thể mang lại lợi nhuận hoặc đáp ứng nhu cầu cụ thể cho nhà đầu tư và xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, thường được gọi là vòng đời dự án đầu tư.
Đầu tư được định nghĩa là việc hy sinh nguồn lực hiện tại để đạt được kết quả lớn hơn trong tương lai Có ba loại hình đầu tư chính: đầu tư phát triển, đầu tư thương mại và đầu tư tài chính Đầu tư thương mại liên quan đến việc mua hàng hóa và bán lại với giá cao hơn để thu lợi nhuận, trong khi đầu tư tài chính chủ yếu thông qua giao dịch các công cụ tài chính như chứng khoán và trái phiếu Cả hai loại hình này không làm tăng tài sản của nền kinh tế mà chỉ gia tăng giá trị tài sản của nhà đầu tư.
Đầu tư phát triển là việc sử dụng vốn hiện tại để thực hiện các hoạt động nhằm gia tăng hoặc tạo ra tài sản vật chất như nhà xưởng, thiết bị và máy móc, cũng như tài sản trí tuệ như tri thức và kỹ năng Mục tiêu chính của đầu tư phát triển là nâng cao năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Đầu tư công là hoạt động mà nhà nước thực hiện để đầu tư vào các chương trình và dự án nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, cũng như các chương trình phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội, theo quy định của Luật đầu tư công số 49 năm 2014.
Nghiên cứu này tập trung vào đầu tư phát triển (ĐTPT), với vai trò của nhà nước trong việc thực hiện các hoạt động ĐTPT nhằm cung cấp hàng hóa công cho xã hội Điều này có nghĩa là đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) sẽ được hiểu là ĐTPT, thay vì đầu tư thương mại hay đầu tư tài chính.
2.2.2Các đặc trưng cơ bản của đầu tư phát triển (Từ Quang Phương 2007)
Quy mô đầu tư phát triển (ĐTPT) thường yêu cầu nguồn lực lớn về vốn, vật tư và lao động Thời gian thực hiện và vận hành các dự án ĐTPT kéo dài, trong khi đó, các yếu tố bên ngoài như tự nhiên, kinh tế và xã hội của khu vực đầu tư có thể ảnh hưởng đáng kể đến kết quả Do đó, ĐTPT tiềm ẩn nhiều rủi ro cao.
2.3Khái niệm vốn đầu tư và phân loại
Vốn đầu tư (VĐT) được định nghĩa là tiền và các tài sản hợp pháp khác được sử dụng để thực hiện các hoạt động đầu tư, bao gồm cả hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp, theo quy định tại Luật đầu tư số 59, 2005.
Vốn nhà nước bao gồm các nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng được nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và các nguồn vốn đầu tư khác từ nhà nước theo quy định của Luật đầu tư số 59 năm 2005.
Khái niệm thứ hai vốn đầu tư là tiền và tài sản khác để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh (Luật đầu tư số 67, 2014).
Khái niệm về vốn đầu tư bao gồm tất cả các chỉ tiêu nhằm tăng cường hoặc duy trì tài sản vật chất trong một khoảng thời gian xác định Vốn đầu tư thường được thực hiện thông qua các dự án đầu tư và các chương trình mục tiêu quốc gia, với mục tiêu chính là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động.
Vốn đầu tư được phân thành bốn loại chính: Thứ nhất, vốn khu vực kinh tế nhà nước, bao gồm ngân sách nhà nước, vốn vay, vốn tự có của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác Thứ hai, vốn khu vực ngoài nhà nước Thứ ba, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài Cuối cùng, là các loại vốn khác.
Vốn đầu tư công theo quy định của Luật đầu tư công bao gồm nhiều nguồn tài chính quan trọng như vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương Ngoài ra, còn có vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, cũng như các nguồn thu để lại cho đầu tư chưa được cân đối trong ngân sách nhà nước và các khoản vay khác từ ngân sách địa phương phục vụ cho đầu tư (Luật đầu tư công số 49, 2014).
Từ hai khái niệm về đầu tư phát triển và vốn đầu tư, có thể thấy rằng việc thống kê vốn đầu tư chỉ tập trung vào việc tăng hoặc duy trì tài sản vật chất, mà bỏ qua tài sản trí tuệ Tuy nhiên, tài sản trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và ngày càng được coi trọng Do đó, việc chỉ sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước để phân tích và đánh giá là một thiếu sót lớn.
2.4Hoạt động đầu tư, đầu tư công
Hoạt động đầu tư bao gồm các giai đoạn chuẩn bị, thực hiện và quản lý dự án của nhà đầu tư, theo quy định tại Luật đầu tư số 59 năm 2005.
Khái n iệ m vốn đầu tư và phân loại
Vốn đầu tư (VĐT) được định nghĩa là tiền và các tài sản hợp pháp khác được sử dụng để thực hiện các hoạt động đầu tư, có thể thông qua hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp, theo quy định của Luật đầu tư số 59, năm 2005.
Vốn nhà nước bao gồm các nguồn lực tài chính được phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng được nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, cùng với các nguồn vốn đầu tư khác từ nhà nước, theo quy định tại Luật đầu tư số 59 năm 2005.
Khái niệm thứ hai vốn đầu tư là tiền và tài sản khác để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh (Luật đầu tư số 67, 2014).
Khái niệm về vốn đầu tư bao gồm tất cả các chỉ tiêu nhằm tăng cường hoặc duy trì tài sản vật chất trong một khoảng thời gian nhất định Vốn đầu tư thường được thực hiện thông qua các dự án đầu tư và các chương trình mục tiêu quốc gia, với mục tiêu chính là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động.
Vốn đầu tư được phân thành bốn loại chính: Thứ nhất, vốn từ khu vực kinh tế nhà nước, bao gồm ngân sách nhà nước, vốn vay, vốn tự có của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác; Thứ hai, vốn từ khu vực ngoài nhà nước; Thứ ba, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài; và Thứ tư, các loại vốn khác.
Vốn đầu tư công theo quy định của Luật đầu tư công bao gồm nhiều nguồn tài chính như ngân sách nhà nước, công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương Ngoài ra, còn có vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài, cùng với vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Bên cạnh đó, các nguồn thu để lại cho đầu tư chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước và các khoản vay khác từ ngân sách địa phương cũng được tính vào vốn đầu tư công (Luật đầu tư công số 49, 2014).
Việc thống kê vốn đầu tư chỉ tập trung vào việc gia tăng hoặc duy trì tài sản vật chất, trong khi tài sản trí tuệ, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, lại bị bỏ qua Do đó, việc phân tích và đánh giá chỉ dựa vào vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước sẽ dẫn đến những thiếu sót nghiêm trọng trong việc hiểu rõ toàn diện về sự phát triển.
2.4Hoạt động đầu tư, đầu tư công
Hoạt động đầu tư bao gồm các giai đoạn chuẩn bị, thực hiện và quản lý dự án của nhà đầu tư, theo quy định tại Luật đầu tư số 59 năm 2005.
Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư để duy trì và phát triển tiềm lực sản xuất, dịch vụ, phục vụ cho kinh tế - xã hội Đây là việc huy động các nguồn lực hiện có nhằm thực hiện các hoạt động cụ thể, với mục tiêu đạt được kết quả nhất định trong tương lai.
Hoạt động đầu tư công bao gồm nhiều bước quan trọng như lập, thẩm định và quyết định chủ trương đầu tư Quá trình này cũng bao gồm việc lập và phê duyệt chương trình, dự án đầu tư công, cũng như giao và triển khai kế hoạch đầu tư Ngoài ra, việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công, theo dõi, đánh giá và kiểm tra các kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công cũng là những nhiệm vụ thiết yếu theo quy định của Luật đầu tư công số 49, 2014.
2.5Đầu tư xây dựng, vai trò chức năng của đầu tư xây dựng
2.5.1Khái niệm về đầu tư xây dựng Đầu tư xây dựng là hoạt động bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm tài sản cố định (TSCĐ) trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc), trong lĩnh vực không sản xuất vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học) và trong lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng (cầu đường, bến cảng, sân bay…) bao gồm việc xây dựng các xí nghiệp, công trình mới, khôi phục, cải tạo, mở rộng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các chi phí sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn các TSCĐ) (Từ Quang Phương, 2007).
Đầu tư xây dựng (ĐTXD) là hoạt động đầu tư nhằm phát triển các công trình xây dựng theo nhu cầu của nhà đầu tư Đây là lĩnh vực sản xuất vật chất, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra tài sản cố định (TSCĐ) và thiết lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội.
2.5.2Vai trò của đầu tư xây dựng Đầu tư xây dựng có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân mỗi nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước, nếu không có đầu tư thì không có phát triển Tất cả các ngành kinh tế chỉ tăng nhanh khi có ĐTXD, đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. ĐTXD nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH (Từ Quang Phương, 2007). Đầu tư xây dựng từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để nhà nước trực tiếp tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước Bằng việc cung cấp các dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng mà các thành phần kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không đầu tư; các dự án đầu tư (DAĐT) từ NSNN được triển khai ở các lĩnh vực quan trọng, then chốt nhất, đảm bảo cho nền KT - XH phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư xây dựng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò quan trọng, bởi vì vốn dành cho ĐTXD của nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng vốn ĐTXD của toàn xã hội Mặt khác, ĐTXD của nhà nước được tập trung vào những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống KT - XH Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng ĐTXD của nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn là ĐTXD từ các nguồn vốn khác.
2.5.3Chức năng của đầu tư xây dựng Đầu tư xây dựng với mục tiêu làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ,thực hiện một loạt chức năng, trong đó có các chức năng quan trọng là chức năng tạo năng lực mới, chức năng thay thế, chức năng thu nhập và sinh lời.
2.6 Dự án đầu tư xây dựng
2.6.1Khái niệm dự án đầu tư công, dự án đầu tư
Dự án đầu tư công là dự án đầu tư sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư công (Luật đầu tư công số 49, 2014).
Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất đầu tư vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các hoạt động đầu tư tại một khu vực cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, theo quy định của Luật đầu tư số 59 năm 2005.
Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất nhằm huy động vốn trung hạn hoặc dài hạn để thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh tại một khu vực cụ thể trong khoảng thời gian nhất định, theo quy định của Luật đầu tư số 67 năm 2014.
Đầu tư xây dựng, vai trò chức năng của đầu tư xây dựng
2.5.1Khái niệm về đầu tư xây dựng Đầu tư xây dựng là hoạt động bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm tài sản cố định (TSCĐ) trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc), trong lĩnh vực không sản xuất vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học) và trong lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng (cầu đường, bến cảng, sân bay…) bao gồm việc xây dựng các xí nghiệp, công trình mới, khôi phục, cải tạo, mở rộng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các chi phí sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn các TSCĐ) (Từ Quang Phương, 2007).
ĐTXD là hoạt động đầu tư nhằm xây dựng các công trình phục vụ nhu cầu của nhà đầu tư, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong sản xuất vật chất, tạo ra tài sản cố định và cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho xã hội.
2.5.2Vai trò của đầu tư xây dựng Đầu tư xây dựng có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân mỗi nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước, nếu không có đầu tư thì không có phát triển Tất cả các ngành kinh tế chỉ tăng nhanh khi có ĐTXD, đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. ĐTXD nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH (Từ Quang Phương, 2007). Đầu tư xây dựng từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để nhà nước trực tiếp tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước Bằng việc cung cấp các dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng mà các thành phần kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không đầu tư; các dự án đầu tư (DAĐT) từ NSNN được triển khai ở các lĩnh vực quan trọng, then chốt nhất, đảm bảo cho nền KT - XH phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư xây dựng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò quan trọng, bởi vì vốn dành cho ĐTXD của nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng vốn ĐTXD của toàn xã hội Mặt khác, ĐTXD của nhà nước được tập trung vào những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống KT - XH Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng ĐTXD của nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn là ĐTXD từ các nguồn vốn khác.
2.5.3Chức năng của đầu tư xây dựng Đầu tư xây dựng với mục tiêu làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ,thực hiện một loạt chức năng, trong đó có các chức năng quan trọng là chức năng tạo năng lực mới, chức năng thay thế, chức năng thu nhập và sinh lời.
Dự án đầu tư xây dựng công trình
2.6.1Khái niệm dự án đầu tư công, dự án đầu tư
Dự án đầu tư công là dự án đầu tư sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư công (Luật đầu tư công số 49, 2014).
Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất đầu tư trung và dài hạn nhằm thực hiện các hoạt động đầu tư tại một địa bàn cụ thể trong một khoảng thời gian xác định, theo quy định của Luật đầu tư số 59 năm 2005.
Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất nhằm đầu tư vốn trung hạn hoặc dài hạn để thực hiện các hoạt động kinh doanh tại một địa bàn cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, theo quy định của Luật đầu tư số 67 năm 2014.
Dự án đầu tư mở rộng là hình thức đầu tư nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả của các dự án kinh doanh hiện tại Điều này bao gồm việc mở rộng quy mô, tăng cường công suất, đổi mới công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm và cải thiện môi trường, theo quy định của Luật đầu tư số 67 năm 2014.
Dự án đầu tư mới được định nghĩa là một dự án được thực hiện lần đầu hoặc là dự án hoạt động độc lập, không liên quan đến các dự án đang thực hiện đầu tư kinh doanh khác, theo quy định của Luật đầu tư số 67 năm 2014.
2.6.2Đặc điểm dự án đầu tư xây dựng Đặc điểm của xây dựng, đó là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có những đặc điểm riêng, khác với những ngành sản xuất vật chất khác như: có tính chất cố định, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện, địa chất, thuỷ văn, khí hậu của từng địa phương, có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác.
2.6.3Phân loại dự án đầu tư
Trên thực tế, các DAĐT rất đa dạng về cấp độ loại hình, quy mô và thời hạn.
Dựa vào mục đích nghiên cứu và quản lý, các dự án đầu tư (DAĐT) có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau Theo Luật Xây dựng số 50, được Quốc hội khóa 13 ban hành năm 2014, DAĐT được phân loại dựa trên chủ đầu tư, nguồn vốn, cơ cấu đầu tư, tính chất và quy mô đầu tư, cũng như loại hình công trình.
Nghiên cứu cơ hội đầu tưNghiên cứu tiền khả thiNghiên cứu khả thiThẩm định dự án và quyết định đầu tư
Khảo sát và thiết kế là bước đầu tiên trong quy trình, tiếp theo là lập dự toán và thực hiện đấu thầu Sau khi thương lượng và ký kết hợp đồng, công việc thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị sẽ được tiến hành Để đảm bảo hiệu quả, cần thực hiện đào tạo và chuyển giao công nghệ Cuối cùng, chạy thử, nghiệm thu và quyết toán là những bước quan trọng để hoàn tất dự án.
Kết thúc, bàn giao đưa dự án vào vận hành, khai thác
2.6.4Quá trình đầu tư của dự án đầu tư xây dựng
Dự án đầu tư được phát triển qua nhiều giai đoạn riêng biệt nhưng lại liên kết chặt chẽ với nhau theo một tiến trình logic Mặc dù vậy, chúng có thể được nghiên cứu độc lập từ các góc độ khác nhau, giúp hiểu rõ hơn về tính hệ thống và toàn diện của dự án.
Hình 2.1 Các giai đoạn của dự án đầu tư xây dựng(Nguồn: Luật Xây dựng số 50 do Quốc hội khóa 13 ban hành năm 2014)
Quyết toán vốn đầu tư
Một dự án đầu tư (DAĐT) bao gồm ba giai đoạn chính: giai đoạn chuẩn bị dự án, giai đoạn thực hiện dự án và giai đoạn kết thúc, bàn giao và đưa dự án vào vận hành khai thác Quá trình này bắt đầu từ ý tưởng ban đầu cho đến khi công trình được nghiệm thu và chính thức hoạt động.
Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện dự án thường kéo dài nhưng không tạo ra sản phẩm, dẫn đến mâu thuẫn giữa đầu tư và tiêu dùng Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư xây dựng, cần tập trung vào các điều kiện đầu tư quan trọng, nhằm thúc đẩy nhanh chóng việc đưa các dự án đầu tư vào khai thác và sử dụng.
Khi đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng (ĐTXD), cần xem xét cả ba giai đoạn của quá trình đầu tư để tránh tình trạng chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện mà bỏ qua thời gian khai thác dự án Việc chú trọng vào hiệu quả kinh tế từ ĐTXD là rất quan trọng, do đó cần có phương án lựa chọn tối ưu và đảm bảo trình tự xây dựng hợp lý.
2.6.4 Chi phí đầu tư xây dựng công trình
Lập kế hoạch ngân sách
Hình 2.2 Các hoạt động của quản lý chi phí dự án
(Nguồn: Nghị định số 32/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình)
Chi phí là một trong ba yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của dự án, bên cạnh tiến độ và kết quả Quản lý chi phí dự án bao gồm việc lập ngân sách và kiểm soát chi tiêu để đảm bảo thực hiện trong giới hạn ngân sách đã được phê duyệt.
2.7.Vốn ngân sách nhà nước và hiệu quả sử dụng vốn NSNN để đầu tư xây dựng
2.7.1Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước (NSNN) là tổng hợp các khoản thu, chi của nhà nước được cơ quan có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm, nhằm đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước (Luật ngân sách, 2002) NSNN là một bộ luật tài chính đặc biệt, được Quốc hội thông qua hàng năm, có tính chất áp đặt và bắt buộc đối với các chủ thể kinh tế - xã hội liên quan Đây là bản dự toán về thu chi của chính phủ cho năm tài khóa tiếp theo, đồng thời là công cụ để Quốc hội quản lý và kiểm soát các khoản thu, chi của chính phủ trong từng năm tài khóa (Sử Đình Thành, 2005).
Nguyên tắc của NSNN là theo niên hạn, đơn nhất và toàn diện (Sử Đình Thành 2005).
2.7.2Hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách nhà nước (NSNN) được cấu thành từ ngân sách trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP) Trong đó, NSĐP bao gồm ngân sách của các đơn vị hành chính ở các cấp có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, theo quy định của Luật Ngân sách năm 2002.
NSTW bao gồm ngân sách của các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp, bao gồm quốc hội, tòa án, viện kiểm sát, văn phòng chính phủ, các bộ ngành và các đoàn thể chính trị xã hội Trong khi đó, NSĐP bao gồm ngân sách của cơ quan nhà nước, cơ quan đảng và các tổ chức chính trị xã hội ở cấp tỉnh, huyện, xã, phường, thị trấn và các đơn vị hành chính tương đương.
2.7.3Chu trình ngân sách nhà nước
Chu trình ngân sách nhà nước gồm ba giai đoạn liên kết chặt chẽ với nhau:lập dự toán NSNN, chấp hành dự toán NSNN và quyết toán NSNN.
Chấp hành dự toán NSNN
Hình 2.3 Chu trình ngân sách nhà nước 2.7.4Thu, chi ngân sách nhà nước
- Thu, chi ngân sách trung ương:
Kinh nghiệm của các nước
2.8.1Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan
Nhật Bản xác định hiệu quả phát triển thể hiện qua 6 kết quả chính: tăng trưởng GDP và GNI, tăng GDP và GNI bình quân đầu người, phân phối thu nhập công bằng, bảo hiểm an toàn để duy trì mức sống, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, cùng với việc đảm bảo quyền tự do cho người lao động.
Hàn Quốc đã chứng minh rằng, mặc dù có tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn và nền kinh tế khởi đầu thấp, nhưng nếu thực hiện đầu tư phát triển (ĐTPT) hiệu quả, quốc gia có thể đạt được sự phát triển kinh tế vượt bậc Điều quan trọng là xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội linh hoạt và đúng đắn, chú trọng vào phát triển nguồn nhân lực, đa dạng hóa hệ thống tài chính để thu hút vốn ĐTPT, và xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn từ cả khu vực nhà nước và tư nhân Tương tự, Đài Loan đã chọn con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa với định hướng ĐTPT công nghiệp kỹ thuật cao, tập trung vào nghiên cứu, đầu tư công nghệ mới cho các ngành công nghiệp tiềm năng như vi điện tử, máy tính và bán dẫn Đài Loan cũng chú trọng vào ĐTPT chiều sâu, lựa chọn ngành nghề chủ lực hợp lý, từ đó nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển các ngành công nghiệp cơ bản có hàm lượng kỹ thuật cao.
2.8.2Đầu tư phát triển ở Trung Quốc Đầu tư phát triển ở Trung Quốc có những đổi mới căn bản trong thời kỳ cải cách, mở cửa Đây là những bài học về đổi mới ĐTPT cho Việt Nam Trước hết là đổi mới tư duy trong ĐTPT Đổi mới quan hệ sở hữu, quan trọng là sở hữu tư liệu sản xuất tạo điều kiện cho ĐTPT tăng trưởng Cải cách công tác kế hoạch, từ đó ĐTPT từ NSNN được đổi mới căn bản ĐTPT từ NSNN mạnh vào nông thôn để thực hiện cải cách nông thôn Đổi mới lưu thông phân phối đảm bảo cho sản phẩm ĐTPT lưu thông nhanh chóng, thuận lợi Đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ, tạo điều kiện cho ĐTPT thuận lợi Đổi mới quan niệm về thị trường tạo điều kiện cho ĐTPT. Đổi mới chính sách giá cả, trong đó có các loại giá cả liên quan đến ĐTPT Sửa chữa uốn nắn thất bại kịp thời trong ĐTPT.
2.8.3Đầu tư phát triển ở một số nước ASEAN
Từ năm 1998, Thái Lan đã chuyển sang mô hình công nghiệp hóa bền vững, hội nhập nhằm đối phó với toàn cầu hóa và những biến động kinh tế Sự thay đổi về lợi thế so sánh và tác động xã hội, môi trường đã thúc đẩy nhu cầu tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững Mục tiêu chính là phát huy lợi thế so sánh, tối ưu hóa nguồn lực trong và ngoài nước để đạt được tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời gắn kết tăng trưởng với sự bền vững, bảo vệ môi trường và phúc lợi xã hội Thái Lan không chỉ chú trọng vào xuất khẩu mà còn tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế thông qua việc tham gia sâu rộng vào các tổ chức kinh tế như APEC, WTO, AFTA và NAFTA.
Malaysia đã sớm tập trung vào đầu tư phát triển (ĐTPT) nhằm phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) Kinh nghiệm của Malaysia là bài học quý giá cho Việt Nam trong việc lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện của một nước nông nghiệp có trình độ phát triển thấp Sau khi phát triển nông nghiệp và giải quyết vấn đề lương thực, cần tiếp tục phát triển công nghiệp theo hướng đa dạng và mở rộng ĐTPT nên tập trung vào ngành công nghiệp chủ lực, đặc biệt là khai thác và chế biến dầu mỏ Khi đã xác định được ngành công nghiệp chủ lực, cần tiếp tục đầu tư theo chiều sâu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khuyến khích nghiên cứu ngay tại doanh nghiệp để rút ngắn thời gian từ nghiên cứu đến áp dụng Đồng thời, cần nâng cao dân trí và trình độ khoa học kỹ thuật thông qua giáo dục đào tạo, phát huy tối đa lợi thế của đất nước Đặc biệt, trong lĩnh vực công nghiệp, cần chú trọng phát triển khu vực tư nhân, xem đây là động lực chính của nền kinh tế.
Từ kinh nghiệm phát triển kinh tế ở Singapore, có thể rút ra rằng việc tận dụng cơ hội và lợi thế địa lý, cùng với phát huy tiềm năng con người là rất quan trọng Cần lựa chọn và phát triển hệ thống pháp luật từ nước ngoài để rút ngắn thời gian xây dựng luật lệ, đồng thời tạo ra môi trường trong sạch cho phát triển Nhà nước cần xây dựng hệ thống hành chính chuẩn mực, tinh giản bộ máy, thiết lập hệ thống pháp lý toàn diện và kiên quyết chống tham nhũng Bên cạnh đó, phát triển môi trường tự nhiên bền vững và tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn là cần thiết Đầu tư ra ngoài và hợp tác với các công ty lớn như STRAITS, STEAMSHIP LAND sẽ tăng cường phát triển hướng ngoại Quy hoạch đô thị và quản lý đất đai hợp lý giúp tránh lãng phí, đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục và nhà ở giá rẻ là ưu tiên hàng đầu Nhà nước cần tạo ra sự công bằng trong mức sống, giáo dục và y tế, đồng thời xây dựng một hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội vững chắc Cuối cùng, phát triển từ ngân sách nhà nước là một chiến lược hiệu quả để đảm bảo dịch vụ hạ tầng và cơ sở pháp lý cho nền kinh tế tự do phát triển.
Từ kinh nghiệm của các nước nêu trên ta có thể rút ra kết luận như bảng sau:
Nhật Bản xác định hiệu quả phát triển thông qua các chỉ số như GDP và GNI, đồng thời chú trọng đến việc phân phối thu nhập công bằng Quốc gia này cũng đảm bảo các chính sách bảo hiểm an toàn nhằm duy trì mức sống cho người dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, cũng như cải thiện sức khỏe Hơn nữa, Nhật Bản cam kết bảo vệ quyền tự do của người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững.
Hàn Quốc đang đa dạng hóa hệ thống tài chính và tập trung vào phát triển các tập đoàn kinh tế lớn Đồng thời, nước này củng cố và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân, đặc biệt là từ Đài Loan Hàn Quốc cũng chú trọng phát triển công nghiệp theo hướng kỹ thuật cao, lựa chọn các ngành nghề và sản phẩm chủ lực như vi điện tử, máy tính và bán dẫn.
Trung Quốc đã thực hiện đổi mới trong phát triển kinh tế thông qua việc cải cách tư duy và quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất Những thay đổi này bao gồm việc cải cách lưu thông phân phối, hệ thống tài chính tiền tệ, thị trường và chính sách giá cả, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Thái Lan Thực hiện mô hình công nghiệp hóa bền vững theo hướng bền vững, hội nhập
Malaysia Lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp tối ưu với điều kiện CNH,
Khi một quốc gia nông nghiệp phát triển nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực, xã hội sẽ ổn định hơn Từ đó, cần tiếp tục đa dạng hóa ngành công nghiệp để mở rộng phát triển Cuối cùng, hướng tới phát triển công nghiệp theo chiều sâu để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất.
Singapore đã tận dụng lợi thế địa lý và phát huy tiềm năng con người để tinh giản bộ máy hành chính, thiết lập hệ thống pháp lý toàn diện, và lấy luật pháp làm nền tảng cho mọi hoạt động Quốc gia này kiên quyết chống tham nhũng, chú trọng phát triển môi trường tự nhiên và đảm bảo sự phát triển bền vững Đồng thời, Singapore cũng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tăng cường đầu tư vốn ra ngoài.
Các nghiên cứu của Việt Nam
Gần đây, nhiều tác giả trong nước đã tiến hành nghiên cứu về hiệu quả đầu tư tại Việt Nam, đặc biệt là một số bài viết tập trung vào thực trạng và đánh giá hiệu quả đầu tư công Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam hiện vẫn còn thấp.
Nguyễn Anh Tuấn (2010) đã chỉ ra rằng trong giai đoạn 2006-2010, các dự án đầu tư công ở Việt Nam đã đạt được hiệu quả kinh tế và xã hội, nâng cao mức sống cho người dân, đặc biệt là ở các vùng khó khăn Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều hạn chế trong đầu tư công như quy hoạch và dự báo yếu kém, dẫn đến lãng phí; chất lượng lập và thẩm định dự án chưa cao; khảo sát thiết kế không được thực hiện tốt; quá trình phê duyệt dự án chậm trễ; đền bù không đúng quy định; bố trí vốn đầu tư dàn trải; lựa chọn nhà thầu thiếu hiệu quả, dẫn đến việc nhiều nhà thầu không đủ tiêu chuẩn vẫn được chọn; và thi công không đúng thiết kế, nghiệm thu sai quy định.
Nghiên cứu của Viện chiến lược và chính sách tài chính (2012) chỉ ra rằng trong giai đoạn 2001-2010, đầu tư công ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô Tuy nhiên, đầu tư công vẫn còn nhiều hạn chế, như chưa thu hút được đầu tư từ các thành phần kinh tế khác, tập trung vào những ngành mà khu vực tư nhân có khả năng đầu tư, thiếu tiêu chí cụ thể để xác định tính ưu tiên của các dự án, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải gây thất thoát và lãng phí Hơn nữa, chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch ở nhiều lĩnh vực còn thấp, mặc dù đầu tư công ở mức cao nhưng không tập trung nguồn lực cho các dự án hạ tầng quan trọng có tác dụng lan tỏa trong phát triển kinh tế - xã hội.
Một số tác giả đã tiến hành phân tích sâu sắc về tình hình và đánh giá hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN), nhằm làm rõ hơn vấn đề đầu tư công nói chung.
Nguyễn Quang A (2010) đã phân tích đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) trong giai đoạn 1995-2009, nhấn mạnh mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển (ĐTPT) và vốn đầu tư từ NSNN Bài viết chỉ ra rằng đầu tư từ NSNN chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực tạo ra giá trị vật chất, trong khi đầu tư cho con người, như y tế và giáo dục, vẫn chưa được chú trọng Điều này dẫn đến hiệu quả xã hội thấp hơn so với các nước trong khu vực, do thiếu sự tập trung vào an sinh xã hội Tác giả kết luận rằng đầu tư từ NSNN chưa đạt hiệu quả mong muốn chủ yếu vì chưa được phân bổ đúng chỗ.
Bùi Mạnh Cường (2012) đã nghiên cứu nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển (ĐTPT) từ nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) ở Việt Nam bằng cách áp dụng phương pháp lập luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cùng với phân tích định tính và thống kê Ông đã sử dụng hệ thống chỉ tiêu kinh tế, xã hội và môi trường để đánh giá hiệu quả đầu tư từ NSNN trong giai đoạn 2005-2006, phản ánh tổng quát nhiều khía cạnh đóng góp của nguồn vốn này vào phát triển kinh tế xã hội Kết quả cho thấy từ năm 2005 đến 2010, đầu tư từ NSNN chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng vốn ĐTPT toàn xã hội, tuy nhiên có xu hướng giảm, với cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, dàn trải và thiếu chiến lược dài hạn.
Việc không phát triển các ngành kinh tế và sản phẩm mũi nhọn chất lượng cao đã ảnh hưởng đến khả năng tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu Hiệu quả kinh tế của đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) thể hiện qua chỉ số ICOR tăng nhanh, cho thấy sự kém hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn này Mặc dù đầu tư từ ngân sách có hiệu quả giảm trong việc nâng cao mức sống của người dân, nhưng lại cho thấy hiệu quả tăng trong việc giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
Ngoài các nghiên cứu về hiệu quả đầu tư công trên toàn quốc, một số tác giả đã tập trung nghiên cứu ở quy mô hẹp hơn, cụ thể là tại TP HCM.
Nguyễn Hoàng Anh (2008) đã đánh giá hiệu quả quản lý đầu tư công tại TP HCM trong giai đoạn 2001-2007 bằng cách sử dụng các chỉ tiêu vĩ mô như ICOR và tỷ lệ GDP/VĐT, kết hợp với phân tích các dự án thực tế thông qua chỉ tiêu vi mô NPV Nghiên cứu còn đi sâu vào các hạn chế trong quản lý đầu tư công, bao gồm năng lực của cơ quan nhà nước, thủ tục hành chính và quy định pháp luật Kết quả cho thấy hiệu quả quản lý đầu tư công tại TP HCM chưa cao, với nhiều dự án bị kéo dài tiến độ, chất lượng thấp, lãng phí và tình trạng tham nhũng Các hạn chế được chỉ ra bao gồm năng lực quản lý yếu kém, bộ máy hành chính không hiệu quả, quy định đầu tư xây dựng không rõ ràng, và tỷ lệ phân chia ngân sách chưa khuyến khích, dẫn đến thiếu hụt vốn cho nhu cầu đầu tư của thành phố.
Các nghiên cứu về hiệu quả đầu tư công và đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) tại Việt Nam cho thấy hiệu quả còn thấp Phần lớn nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính và thống kê mô tả, với một số nghiên cứu như của Bùi Mạnh Cường (2012) đã áp dụng hệ thống chỉ tiêu đầy đủ để đánh giá cả về kinh tế lẫn xã hội Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Anh (2008) phân tích chi tiết các dự án đầu tư công và các vấn đề liên quan đến năng lực quản lý, quy định pháp luật và kinh phí, từ đó tìm ra nguyên nhân của hiệu quả kém và đề xuất giải pháp khắc phục Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác chỉ đưa ra các giải pháp tổng quát, thiếu tính cụ thể và thực tiễn Nghiên cứu này sẽ dựa vào phương pháp của hai nghiên cứu trên để đánh giá và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng quản lý dự án sử dụng vốn NSNN tại tỉnh Vĩnh Long.
Tổng kết chương 2
Tác giả đã trình bày các lý thuyết và khái niệm liên quan đến đầu tư, bao gồm đầu tư công, đầu tư phát triển, vốn đầu tư, và ngân sách nhà nước ở cả trung ương và địa phương Để đánh giá hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước tại Vĩnh Long, tác giả sử dụng hai chỉ tiêu chính: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội Chỉ tiêu kinh tế được đánh giá qua hệ số ICOR, chỉ số GDP/VĐT, và sự đóng góp của đầu tư từ nguồn vốn NSNN vào GDP quốc gia và tỉnh Đối với hiệu quả xã hội, tác giả xem xét sự đóng góp của đầu tư từ NSNN trong việc nâng cao mức sống, phát triển giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường Bằng cách tham khảo kinh nghiệm từ các nước Đông Nam Á và các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam, tác giả đã xây dựng khung phân tích để đánh giá cấu trúc thu chi ngân sách nhà nước và hiệu quả đầu tư tại Vĩnh Long trong các chương tiếp theo.