1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

205 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đổi Mới Quản Lý Nhà Nước Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu Của Việt Nam Trong Điều Kiện Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Tác giả Nguyễn Duyên Cường
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Kinh Tế
Thể loại luận án tiến sỹ
Năm xuất bản 2010
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 205
Dung lượng 1,38 MB

Cấu trúc

  • 1.1.1. Xăng dầu (19)
  • 1.1.2. Kinh doanh xăng dầu (20)
  • 1.1.3. Xuất nhập khẩu và phân phối xăng dầu (21)
  • 1.1.4. Thị trường và phân loại thị trường xăng dầu (24)
  • 1.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu (28)
    • 1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu (28)
      • 1.2.1.1 Quản lý nhà nước về kinh tế (28)
      • 1.2.1.2 Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh (33)
    • 1.2.2 Các chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh xăng dầu (35)
    • 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu (36)
    • 1.2.4 Sự cần thiết đổi mới quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam (45)
  • 1.3. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam (47)
    • 1.3.1 Thực tiễn và kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh (47)
    • 2.1.1 Các giai đoạn phát triển của thị trường xăng dầu và quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam (61)
    • 2.1.2. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam (70)
    • 2.1.3 Ðánh giá về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam (0)
  • 2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam (91)
    • 2.2.1 Cơ chế, chính sách quản lý chung về hoạt động kinh doanh xăng dầu (91)
    • 2.2.2 Quản lý giá đối với các sản phẩm xăng dầu (109)
    • 2.2.3. Quản lý thuế và các khoản thu từ xăng dầu (123)
    • 2.2.4 Quản lý hạn ngạch nhập khẩu (130)
    • 2.2.5 Quản lý hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất (134)
  • 2.3. Ðánh giá chung về quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (0)
    • 2.3.1 Những thành tựu đạt được trong quản lý Nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu (135)
    • 2.3.2 Hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ... 128 CHƯƠNG 3: QUAN ÐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ðỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2020 ...... 138 3.1. Những thách thức đối với quản lý nhà nước về kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (137)
  • 3.2. Quan điểm đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu trong giai đoạn 2011-2020 (151)
    • 3.3.2 Hình thành Trung tâm nghiên cứu dự báo về xăng dầu (160)
    • 3.3.3. Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh (0)
    • 3.3.4 Đổi mới cơ chế, chính sách dự trữ quốc gia (0)
    • 3.3.5 Đổi mới công tác quy hoạch (0)
    • 3.3.6 Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu.......... 164 KẾT LUẬN (0)

Nội dung

Xăng dầu

Xăng dầu là sản phẩm của quá trình lọc dầu mỏ, bao gồm xăng động cơ, dầu Diezel, dầu hỏa, dầu mazut và nhiên liệu máy bay, với thành phần chính là cacbuahydro Chúng được phân loại theo công dụng như xăng, dầu hỏa thông dụng, nhiên liệu phản lực, và dầu bôi trơn Đặc điểm chung của xăng dầu là dễ cháy, đặc biệt khi nén ở áp suất cao, có khả năng phát sáng và sinh nhiệt khi cháy Xăng dầu được sử dụng rộng rãi trong đời sống và ngành công nghiệp, phục vụ cho việc thắp sáng, tạo nhiệt, và làm nhiên liệu cho động cơ đốt trong Ngoài ra, nhóm dầu nhờn còn giúp làm mát và bôi trơn các động cơ, tăng tuổi thọ thiết bị Xăng dầu cũng được dùng làm dung môi trong nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sơn nhờ khả năng hòa tan nhiều chất hữu cơ.

Xăng dầu là hàng hóa thiết yếu, đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và cung cấp năng lượng cho đời sống, quốc phòng và an ninh Do đó, các quốc gia đều triển khai chính sách và biện pháp quản lý để đảm bảo sản xuất, kinh doanh và dự trữ xăng dầu Với tầm quan trọng chiến lược, xăng dầu không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế mà còn đến sự ổn định xã hội Là nguồn năng lượng có hạn, không thể tái sinh và chưa có phương án thay thế, sự biến động giá xăng dầu trên thị trường thế giới có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia.

Kinh doanh xăng dầu

Khái niệm "kinh doanh" chính thức được Luật Việt Nam công nhận từ năm 1990 với sự ra đời của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân Đến năm 1999, khái niệm này được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp, định nghĩa kinh doanh là việc thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình đầu tư nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm các hoạt động mua bán, sản xuất, gia công và đầu tư Cách hiểu này tương đồng với khái niệm thương mại trong Luật Thương mại sửa đổi năm 2005, nơi thương mại được định nghĩa là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động khác Do đó, hiện nay, kinh doanh được hiểu rộng rãi như thương mại.

Thương mại quốc tế, một phần quan trọng của hoạt động thương mại bên cạnh thương mại nội địa, là quá trình trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia Hoạt động này diễn ra thông qua mua bán và sử dụng tiền làm phương tiện trung gian, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá để mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia Với nguồn gốc từ hàng ngàn năm trước, thương mại quốc tế không chỉ ra đời sớm mà còn giữ vai trò trung tâm trong các hoạt động kinh tế toàn cầu hiện nay.

Trong thương mại quốc tế, các hoạt động chính của một quốc gia bao gồm xuất và nhập khẩu hàng hóa, gia công, tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ Trong số đó, xuất và nhập khẩu hàng hóa là hoạt động phổ biến nhất.

Xuất nhập khẩu ngày nay không chỉ bao gồm hàng hóa hữu hình mà còn cả hàng hóa vô hình Theo giáo trình Kinh tế Quốc tế, xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình bao gồm nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị và hàng tiêu dùng, thực hiện qua hình thức trực tiếp hoặc ủy thác Trong khi đó, xuất nhập khẩu hàng hóa vô hình bao gồm các bí quyết công nghệ, phần mềm, dịch vụ lắp ráp và quyền sở hữu trí tuệ Tác giả John D Daniel trong cuốn sách "International Business Environments and Operations" phân chia xuất nhập khẩu thành hai loại: xuất khẩu hàng hóa và xuất khẩu dịch vụ, trong đó xuất khẩu hàng hóa là việc đưa hàng hóa hữu hình ra nước ngoài và nhập khẩu hàng hóa là việc mang hàng hóa hữu hình vào trong nước.

Theo nghị định 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam, kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động như xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu nguyên liệu, sản xuất và pha chế xăng dầu, phân phối xăng dầu trong nước, cùng với dịch vụ cho thuê kho, cảng, bảo quản và vận chuyển xăng dầu Nghiên cứu này sẽ tập trung vào hoạt động xuất nhập khẩu và phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước.

Xuất nhập khẩu và phân phối xăng dầu

Đầu tư trong nước và quốc tế trong ngành xăng dầu chỉ được coi là hoạt động kinh doanh khi nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận Quy trình sản xuất và chế biến xăng dầu bao gồm việc lọc dầu và chuyển hóa dầu thô cùng các nguyên liệu khác thành các sản phẩm xăng dầu Nguyên liệu chính để sản xuất xăng dầu bao gồm dầu thô, condensate, xăng có chỉ số octan cao, refomate, naphta và các phụ gia khác Nghiên cứu này tách biệt hai hoạt động cơ bản trong kinh doanh xăng dầu, đó là xuất nhập khẩu xăng dầu để đảm bảo nguồn cung và hoạt động thương mại nội địa trong phân phối xăng dầu.

Hoạt động xuất nhập khẩu xăng dầu gồm các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất.

Hoạt động phân phối hàng hoá là quá trình thương mại, trong đó nhà sản xuất chuyển giao hàng hoá đến tay người tiêu dùng, có thể thực hiện trực tiếp hoặc thông qua trung gian thương mại Trung gian này sẽ nhận được khoản lợi nhuận từ hoạt động phân phối Đặc biệt, phân phối xăng dầu bao gồm các hình thức kinh doanh như bán buôn, bán lẻ và thông qua hệ thống đại lý, tổng đại lý.

Hệ thống phân phối hàng hóa là một cấu trúc phức tạp, bao gồm các thành phần tham gia và quy trình phân phối, cùng với mối quan hệ giữa các yếu tố đó Nó được định nghĩa là mạng lưới kết nối giữa các doanh nghiệp và cá nhân, nhằm đưa hàng hóa từ nguồn cung hoặc nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng.

Có nhiều hình thức thiết lập hệ thống phân phối, và dựa vào số lượng thành viên tham gia, các kênh phân phối có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau.

Kênh phân phối trực tiếp là phương thức phân phối mà không có hoặc chỉ có một trung gian thương mại Trong mô hình này, nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu chuyển giao hàng hóa trực tiếp đến tay khách hàng, hoặc thông qua các đại lý bán lẻ để cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng.

Kênh phân phối gián tiếp là hình thức phân phối trong đó hàng hóa di chuyển qua ít nhất hai trung gian thương mại Cụ thể, sản phẩm từ nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu sẽ được chuyển đến nhà bán buôn, tiếp theo là nhà môi giới, trước khi đến tay nhà bán lẻ và cuối cùng là khách hàng.

Do tính chất dễ cháy nổ của xăng dầu, việc bảo quản, dự trữ và vận chuyển sản phẩm này cần tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ và điều kiện môi trường Chính vì vậy, xăng dầu được coi là mặt hàng kinh doanh có điều kiện ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam Theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP, hàng hóa kinh doanh có điều kiện chỉ được phép lưu thông khi có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền Giấy chứng nhận này yêu cầu các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, và đội ngũ quản lý, kỹ thuật phù hợp Các điều kiện cụ thể sẽ được cơ quan quản lý quy định cho từng loại hàng hóa.

Cơ sở kinh doanh xăng dầu là địa điểm thực hiện các hoạt động sản xuất, chế biến, giao nhận, tồn trữ và bán lẻ xăng dầu Bao gồm các thành phần như cảng chuyên dụng cho xuất nhập khẩu xăng dầu, nhà máy chế biến, kho xăng dầu, phương tiện vận tải và cửa hàng bán lẻ xăng dầu.

Hệ thống đại lý xăng dầu là một phần quan trọng trong hệ thống phân phối của doanh nghiệp xăng dầu đầu mối Nó bao gồm các đơn vị trực thuộc doanh nghiệp cung cấp xăng dầu cho hộ công nghiệp và các đại lý Hệ thống này không chỉ bao gồm các cửa hàng bán lẻ xăng dầu mà còn có các Tổng đại lý và đại lý bán lẻ phục vụ trực tiếp người tiêu dùng.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu nói chung được xác định là:

Nhóm yếu tố liên quan đến thị trường xăng dầu nội địa bao gồm cung và cầu các sản phẩm xăng dầu, với sự chú trọng vào nhu cầu tiêu dùng nội địa, nhu cầu dự trữ để đảm bảo an ninh năng lượng, và nhu cầu phát triển Bên cạnh đó, khả năng khai thác và chế biến các sản phẩm xăng dầu trong nước cũng là yếu tố quan trọng cần xem xét.

Nhóm yếu tố liên quan đến năng lực và vị thế của ngành xăng dầu bao gồm việc đánh giá các doanh nghiệp trong ngành và khả năng cạnh tranh của họ Đồng thời, cần xem xét vị thế tương quan của ngành xăng dầu so với các ngành kinh tế xã hội khác trong phạm vi quốc gia.

Nhà nước can thiệp vào hoạt động xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu thông qua các biện pháp và chính sách quản lý Chính phủ các nước sử dụng công cụ pháp luật, chính sách thuế và phi thuế quan, cũng như thực hiện chính sách bảo hộ ngành xăng dầu để điều chỉnh và tác động đến hoạt động kinh doanh này.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho doanh nghiệp Điều này không chỉ giúp đảm bảo thực hiện các mục tiêu phúc lợi chung mà còn góp phần vào an ninh, an toàn, cũng như bảo đảm an ninh năng lượng và giải quyết các vấn đề quan trọng khác.

Thị trường xăng dầu toàn cầu đang trải qua nhiều biến động, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, do đây là mặt hàng nhạy cảm và là đầu vào quan trọng cho nhiều ngành khác Giá xăng dầu bị tác động bởi nhiều yếu tố như chính trị, an ninh, chiến tranh và khủng hoảng tài chính Hiện nay, nhiều chính phủ có xu hướng "thả nổi" giá xăng dầu theo biến động của thị trường thế giới, điều này không chỉ ảnh hưởng đến cơ chế điều hành và can thiệp của chính phủ mà còn tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu của các doanh nghiệp.

Thị trường và phân loại thị trường xăng dầu

Thị trường được hình thành từ hai yếu tố chính là cung và cầu, trong đó người mua đại diện cho cầu và người bán đại diện cho cung Điểm giao nhau giữa cung và cầu tạo nên thị trường, với số lượng người mua và người bán phản ánh quy mô và trạng thái của thị trường Các yếu tố như khối lượng, giá cả, địa điểm và thời gian mua bán hàng hóa đều bị ảnh hưởng bởi quan hệ cung cầu Thị trường không chỉ là nơi giao dịch mà còn là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ.

Theo nhà kinh tế học David Begg, thị trường phản ánh quá trình ra quyết định của các gia đình về tiêu dùng, các công ty về sản xuất và người lao động về thời gian làm việc Những quyết định này được điều chỉnh thông qua sự biến động của giá cả.

Theo nhà kinh tế học Samuelson, thị trường được hiểu là một quá trình tương tác giữa người mua và người bán, trong đó họ tác động lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa.

Phân loại thị trường là một bước quan trọng giúp hiểu rõ hơn về nhu cầu và đặc điểm của thị trường Tùy thuộc vào các góc độ tiếp cận khác nhau, có nhiều phương pháp phân loại thị trường khác nhau Việc này không chỉ giúp xác định đúng nhu cầu của người tiêu dùng mà còn tạo điều kiện cho việc đưa ra các phương án kinh doanh hiệu quả Dưới đây là một số cách phân loại thị trường chủ yếu mà bạn cần biết.

- Căn cứ vào mục đích sử dụng của hàng hoá.

Theo cách phân loại này, thị trường được chia ra làm 2 loại: thị trường tư liệu sản xuất và thị trường sản phẩm tiêu dùng.

Thị trường sản phẩm tiêu dùng bao gồm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu cá nhân của người tiêu dùng, chủ yếu là cá nhân và hộ gia đình Đây là một thị trường đông đảo với nhiều người mua và bán, do đó, các doanh nghiệp đặc biệt chú trọng đến hình thức dịch vụ bán hàng và dịch vụ sau bán hàng để thu hút và giữ chân khách hàng.

Thị trường tư liệu sản xuất là nơi cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu cho doanh nghiệp, giúp họ đáp ứng nhu cầu đầu vào cho quá trình sản xuất Thị trường này thường có sự tham gia của các nhà kinh doanh lớn, với mức độ cạnh tranh cao và dung lượng thị trường lớn Tuy nhiên, nhu cầu trên thị trường tư liệu sản xuất không đa dạng và phong phú như thị trường sản phẩm tiêu dùng Chủ yếu, thị trường tư liệu sản xuất hoạt động theo hình thức bán buôn.

- Căn cứ vào các loại hàng hoá.

Theo phân loại này, hàng hóa được chia thành các thị trường theo loại sản phẩm cụ thể, bao gồm thị trường dầu khí, thị trường cà phê và thị trường tiền tệ.

Theo phân loại này, thị trường sản phẩm ngày càng phong phú, phản ánh nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng về cả số lượng và chủng loại sản phẩm.

Doanh nghiệp không thể sản xuất tất cả các loại sản phẩm trong một ngành cùng lúc, mà chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ yếu Do đó, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần chú trọng vào từng loại sản phẩm cụ thể để phát huy lợi thế cạnh tranh, nhằm tối đa hóa lợi nhuận.

- Căn cứ vào phương thức hình thành giá cả thị trường.

Theo cách phân loại này người ta chia thị trường thành 2 loại: thị trường độc quyền và thị trường cạnh tranh.

Thị trường độc quyền là loại thị trường mà giá cả và các mối quan hệ kinh tế chủ yếu bị chi phối bởi các nhà độc quyền Có hai hình thức chính của thị trường độc quyền: độc quyền bán và độc quyền mua Mặc dù vậy, vẫn tồn tại sự cạnh tranh tương đối giữa người mua và người bán, cho thấy cơ chế thị trường vẫn hoạt động trong bối cảnh này.

Thị trường cạnh tranh là loại thị trường với sự hiện diện của nhiều người mua và người bán, nơi không có cá nhân hay tổ chức nào có thể kiểm soát giá cả hoặc số lượng sản phẩm Trong môi trường này, các quan hệ kinh tế diễn ra một cách khách quan, đảm bảo tính công bằng và minh bạch cho tất cả các bên tham gia.

- Theo mức độ thông tin trên thị trường cạnh tranh.

Theo cách phân loại này, người ta chia thị trường thành 2 loại: thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.

Thị trường cạnh tranh hoàn hảo được tạo lập bởi các điều kiện:

• Sản phẩm hàng hoá đồng loạt.

• Phải có số lượng người bán và người mua lớn.

• Việc gia nhập và rời bỏ thị trường là hoàn toàn tự do đối với mọi người mua và người bán.

• Quy mô kinh doanh hàng hoá đối với mọi chủ thể không lớn so với quy mô

Không có sự thông đồng giữa những người mua, cũng như giữa những người bán, hay sự kết hợp giữa người mua và người bán.

• Người mua luôn tối đa tổng lợi ích và người bán luôn tối đa tổng lợi nhuận

Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo xảy ra khi một hoặc nhiều điều kiện cần thiết không được đáp ứng Mức độ không hoàn hảo của thị trường phụ thuộc vào số lượng điều kiện thiếu hụt.

- Căn cứ vào mức độ xã hội hoá của thị trường.

Dựa vào tiêu chí này người ta chia thị trường ra: thị trường địa phương, thị trường trong nước và thị trường quốc tế.

Mức sống và điều kiện kinh doanh của người tiêu dùng và nhà sản xuất khác nhau dẫn đến sự biến động về cung cầu và giá cả của một sản phẩm cụ thể ở từng thị trường địa phương, trong nước và quốc tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thị trường quốc tế ngày càng tác động mạnh mẽ đến thị trường nội địa Các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trên thị trường quốc tế, phải đối mặt với ảnh hưởng từ các biến động toàn cầu Do đó, việc nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định pháp luật quốc tế và nắm bắt những thay đổi từ thị trường quốc tế là vô cùng quan trọng để xây dựng các chính sách phù hợp.

- Căn cứ vào tỷ trọng hàng hoá tiêu thụ.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu

Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu

Quản lý Nhà nước về kinh tế là quá trình tổ chức và điều hành có pháp quyền của Nhà nước nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, từ đó đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia Để thực hiện quản lý hiệu quả, Nhà nước áp dụng nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động đến tất cả các chủ thể trong nền kinh tế Các công cụ quản lý kinh tế chủ yếu của Nhà nước bao gồm các chính sách, quy định và biện pháp can thiệp cần thiết.

Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự bắt buộc, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và xã hội, do Nhà nước thiết lập và bảo vệ nhằm phát triển xã hội Hiến pháp Việt Nam năm 1992 khẳng định rằng "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật" Trong quản lý kinh tế, có hai loại văn bản pháp luật chủ yếu: văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.

Kế hoạch, theo nghĩa hẹp, là phương án hành động trong tương lai, trong khi theo nghĩa rộng, nó là quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát các phương án hành động này Kế hoạch được xem như một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, bao gồm nhiều nội dung hoạt động, được chia thành các cấp độ như: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (đường lối tổng quát và giải pháp cho giai đoạn dài thường là 10 năm), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (cụ thể hóa bước đi của chiến lược), Kế hoạch chung hạn (kế hoạch 3 năm, 5 năm) và Kế hoạch hàng năm.

Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB đà Nẵng, Trung tâm từ điển học năm 1998)

Cơ chế được hiểu là cách thức thực hiện một quá trình Theo các tác giả của cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, cơ chế còn là cách thức tổ chức và sắp xếp để định hướng và làm cơ sở cho việc thực hiện các hoạt động.

Cơ chế, theo các nghiên cứu khoa học, được định nghĩa là phương thức và hệ thống các yếu tố tạo nền tảng cho sự vận động của sự vật hay hiện tượng Trong cuốn "Sổ tay về phát triển, thương mại và WTO", cơ chế không chỉ bao gồm cách tổ chức bên ngoài mà còn phản ánh sự tổ chức và hoạt động bên trong của sự vật Điều này cho thấy cơ chế là hệ thống các mối quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tồn tại, phát triển và hoạt động của sự vật, hiện tượng Tóm lại, cơ chế là một quá trình tổng thể, bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành sự hoạt động của sự vật.

Các quan điểm về cơ chế đều chỉ ra hai yếu tố chính: yếu tố tổ chức và yếu tố hoạt động Yếu tố tổ chức liên quan đến các thành viên tham gia, cách thức hình thành tổ chức và cấu trúc nội tại của nó Trong khi đó, yếu tố hoạt động thể hiện mối quan hệ tương tác giữa các thành viên, bao gồm sự phân công và hợp tác trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của tổ chức, cũng như nguyên tắc vận hành và nội dung hoạt động của cơ chế.

Chính sách là công cụ quan trọng mà Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế quốc dân Mỗi chính sách cụ thể bao gồm một tập hợp giải pháp nhằm đạt được các mục tiêu bộ phận, góp phần vào mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội Thông thường, mỗi chính sách bao gồm hai phần chính: các mục tiêu cần đạt và các giải pháp cần áp dụng để thực hiện các mục tiêu đó.

Các chính sách kinh tế chủ yếu bao gồm Chính sách cơ cấu kinh tế, Chính sách tài chính, Chính sách tiền tệ, Chính sách giá cả, Chính sách kinh tế đối ngoại, Chính sách thương nhân, chính sách mặt hàng và chính sách thị trường Những chính sách này đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh và phát triển nền kinh tế, nhằm đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng bền vững.

Chính sách, đặc biệt là chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau Thomas R Dye (1984) mô tả chính sách công là những lựa chọn mà chính phủ quyết định thực hiện hoặc không thực hiện Trong giáo trình hoạch định và phân tích chính sách công của Học viện Hành chính Quốc gia, chính sách công được hiểu là các quy định về hành vi của nhà nước đối với các hiện tượng trong cộng đồng, được thể hiện một cách ổn định nhằm đạt được mục tiêu định hướng Một chính sách bao gồm hai thành phần chính: (i) Mục tiêu chính sách, phản ánh những giá trị tương lai mà nhà nước hướng tới, và (ii) Thái độ ứng xử, thể hiện cách thức mà nhà nước phản ứng trước các mục tiêu đã đề ra.

Trong nghiên cứu về chính sách, khái niệm "Nội hàm chính sách" hay "Hàm ý chính sách" được đưa ra, trong đó hàm ý chính sách được hiểu là nội dung mà Nhà nước truyền tải qua các văn bản ban hành Một hàm ý chính sách có thể xuất hiện trong nhiều văn bản liên quan, và ngược lại, một văn bản ban hành có thể chứa đựng nhiều hàm ý chính sách khác nhau.

Chính sách là công cụ quan trọng của nhà nước trong việc quản lý hoạt động kinh tế - xã hội, với các chức năng chính như khuyến khích các hoạt động tích cực để mọi thành viên trong xã hội có thể đóng góp và hạn chế những tác động tiêu cực Đồng thời, chính sách cũng đảm bảo sự cân đối và ổn định trong mọi khía cạnh của xã hội.

Để phát huy những mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của kinh tế thị trường, cần tạo ra môi trường thuận lợi cho các yếu tố kinh tế xã hội phát triển Điều này bao gồm việc thực hiện chính sách mở cửa và tăng cường giao lưu, hợp tác kinh tế toàn cầu Đồng thời, cần dẫn dắt và hỗ trợ các bộ phận của nền kinh tế theo định hướng, cũng như phối hợp hoạt động giữa các ngành và cấp khác nhau.

Có nhiều phương pháp để phân loại chính sách, nhưng một cách phân loại dựa trên đối tượng tác động của chính sách cho thấy có thể chia thành các loại chính sách chung.

- Chính sách đối ngoại của Nhà nước: chủ trương, chính sách mang tính đối ngoại của quốc gia.

Chính sách xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các tầng lớp xã hội nhất định, bao gồm các chính sách ưu đãi cho giáo dục tại vùng cao và vùng sâu, cũng như các chính sách dành cho thương binh và gia đình liệt sĩ Những chính sách này không chỉ giúp cải thiện đời sống của những đối tượng yếu thế mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và phát triển bền vững.

Chính sách tiền tệ là các biện pháp của Nhà nước nhằm điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông, với mục tiêu chống lạm phát, kích thích sản xuất, giảm tỷ lệ thất nghiệp và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.

Các chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh xăng dầu

Hoạt động kinh doanh xăng dầu là lĩnh vực đặc thù, do xăng dầu được phân loại là hàng hóa kinh doanh có điều kiện và là nhiên liệu thiết yếu ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế Do đó, quản lý nhà nước đối với hoạt động này cần có những đặc điểm riêng biệt, trong đó có hai đặc điểm cơ bản quan trọng.

Quản lý Nhà nước đối với hàng hóa kinh doanh có điều kiện là rất quan trọng, vì vậy cần thiết phải xây dựng và điều chỉnh các tiêu chí phù hợp với yêu cầu phát triển và thực tiễn hiện tại.

Quản lý giá xăng dầu là yếu tố quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí và giá thành của nhiều ngành kinh tế Do đó, Nhà nước cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa giá xăng dầu và các yếu tố kinh tế khác để thực hiện các biện pháp điều chỉnh và can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo sự ổn định cho nền kinh tế.

Sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh xăng dầu thể hiện qua các chức năng sau:

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế tổng thể, đặc biệt là chiến lược phát triển ngành xăng dầu tại Việt Nam Dựa trên những định hướng này, các doanh nghiệp xăng dầu có thể xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh riêng, phù hợp với mục tiêu phát triển của ngành.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường kinh tế và khung pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của ngành xăng dầu Cụ thể, chính phủ thiết lập các quy định nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội và công nghệ để hỗ trợ hoạt động kinh doanh.

Nhà nước thực hiện các giải pháp nhằm phân bổ lại nguồn lực xã hội và khắc phục thất bại của thị trường Cụ thể, nhà nước áp dụng biện pháp điều tiết để duy trì công bằng xã hội và bảo vệ lợi ích của các bên liên quan.

Nhà nước thực hiện kiểm tra và giám sát các doanh nghiệp xăng dầu để đảm bảo hoạt động của họ diễn ra trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.

Quản lý nhà nước cần thực hiện đồng bộ các chức năng để can thiệp hiệu quả vào hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam.

Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu

Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu bao gồm các cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể Mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ chế và chính sách là yếu tố quan trọng trong việc nghiên cứu và làm rõ nội dung quản lý nhà nước Tác giả tập trung phân tích cơ chế quản lý nhà nước và chính sách quản lý liên quan đến hoạt động kinh doanh xăng dầu để hiểu rõ hơn về tác động của chúng.

1.2.3.1 Cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu.

Hai yếu tố cơ bản cấu thành cơ chế bao gồm yếu tố tổ chức và yếu tố hoạt động Yếu tố tổ chức liên quan đến các thành viên tham gia, cấu trúc hình thành tổ chức và cách tổ chức hệ thống nội tại Trong khi đó, yếu tố hoạt động thể hiện mối quan hệ tương tác giữa các thành viên, bao gồm sự phân công và hợp tác trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của tổ chức, cũng như nguyên tắc vận hành và nội dung hoạt động của cơ chế.

Trong hoạt động kinh doanh xăng dầu, những cơ chế chủ yếu được đề cập bao gồm:

• Cơ chế điều hành quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu.

Cơ chế điều hành quản lý kinh doanh xăng dầu bao gồm mô hình tổ chức quản lý Nhà nước, xác định chức năng và nhiệm vụ của các bộ/ngành liên quan Đồng thời, cần làm rõ mối quan hệ và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả trong quản lý thị trường xăng dầu.

• Cơ chế điều hành giá xăng dầu.

Cơ chế và chính sách điều hành giá xăng dầu đóng vai trò quan trọng trong quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu Hầu hết các quốc gia đều phát triển các cơ chế và chính sách riêng biệt để điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu, nhằm đảm bảo sự ổn định và hiệu quả trong thị trường này.

Giá xăng dầu là một biến số kinh tế có tác động rất lớn đến đời sống kinh tế.

Việc định giá và điều chỉnh giá xăng dầu tại Việt Nam là một hoạt động nhạy cảm, cần xem xét nhiều yếu tố Hiện nay, giá xăng dầu được quản lý bởi nhà nước, dựa trên chi phí doanh nghiệp và biến động giá thế giới Do đó, việc xây dựng cơ chế giá đơn giản, linh hoạt và nhạy cảm với thị trường là cần thiết để duy trì sự ổn định của thị trường xăng dầu Việt Nam.

• Cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu

Cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch của thị trường và bảo vệ lợi ích của các bên liên quan Việc thiết lập cơ chế giám sát hợp lý và hiệu quả giúp các doanh nghiệp tuân thủ quy định của nhà nước, ngăn chặn tiêu cực trong kinh doanh, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp trong ngành xăng dầu.

1.2.3.2 Chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu sách chủ yếu là: chính sách thuế và chính sách giá, chính sách quản lý chất lượng, quản lý đầu mối và hạn ngạch nhập khẩu, chính sách dự trữ lưu thông, quản lý chủ thể kinh doanh(bao gồm quản lý các thương nhân đầu mối và phân phối, bán lẻ) a Chính sách giá và thuế Xăng dầu là hàng hóa vật tư đặc biệt và có ý nghĩa chiến lược đối với mỗi quốc gia Xăng dầu được coi là một mặt hàng chủ yếu đem lại nguồn thu cho ngân sách thông qua các chính sách thuế và những cách thức quản lý giá bán xăng dầu.

Nhà nước áp dụng chính sách thuế cho xuất nhập khẩu xăng dầu nhằm điều chỉnh giá bán trên thị trường, từ đó ổn định thị trường và bảo vệ lợi ích quốc gia, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nhà nước sẽ dần để giá xăng dầu được điều chỉnh theo cơ chế thị trường Điều này đồng nghĩa với việc nhà nước sẽ quản lý giá xăng dầu nhằm bù đắp chi phí, đồng thời chấm dứt hỗ trợ tài chính cho hoạt động kinh doanh xăng dầu Giá bán xăng dầu sẽ được điều chỉnh linh hoạt, phụ thuộc vào biến động giá trên thị trường thế giới.

Giá dầu thô và sản phẩm lọc hóa dầu là yếu tố nhạy cảm ảnh hưởng đến kinh tế quốc gia và toàn cầu Các chính phủ can thiệp vào cơ chế điều hành giá khác nhau tùy thuộc vào tình hình thực tế và mức độ phát triển kinh tế của từng quốc gia Trong các nước phát triển, giá xăng dầu thường được điều chỉnh theo cơ chế cung cầu thị trường, trong khi các quốc gia đang phát triển và kém phát triển thường có xu hướng kiểm soát giá chặt chẽ hơn Tại Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh cơ chế giá xăng dầu để tiếp cận gần hơn với thị trường.

Nhà nước cần tính toán thuế xăng dầu một cách khoa học để ổn định nguồn thu ngân sách, tránh phụ thuộc vào biến động giá thế giới Đồng thời, thuế cũng phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong việc xác định giá bán và nhập khẩu xăng dầu Qua đó, thuế trở thành công cụ giúp nhà nước cân bằng lợi ích quốc gia, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Xăng dầu như đã đề cập ở trên là sản phẩm được sản xuất từ việc lọc dầu thô.

Hiện nay, thị trường xăng dầu tại Việt Nam rất phong phú với nhiều loại sản phẩm như xăng, diesel, dầu hỏa, mazut, ZA1 và các loại dầu máy khác Mỗi loại xăng dầu đều có nhiều biến thể với chất lượng khác nhau, phụ thuộc vào các chỉ số kỹ thuật và thành phần hóa học Các chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng xăng dầu bao gồm hàm lượng chì, chỉ số Octan, tỷ lệ Benzen, Aromate và Sulfure trong diesel và FO Nhìn chung, chất lượng xăng dầu toàn cầu rất đa dạng, tùy thuộc vào công nghệ lọc dầu của từng nhà sản xuất.

Xăng dầu là nguyên liệu chính không thể thay thế, ảnh hưởng lớn đến độ bền máy, an toàn sử dụng và môi trường Việc quy định yêu cầu chất lượng cho sản phẩm xăng dầu là rất cần thiết Nhiều quốc gia đã áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng như Euro 2, Euro 3 – 2000, Euro 4 để đảm bảo an toàn và bảo vệ sức khỏe con người.

Từ năm 2005, các tiêu chuẩn về môi trường của Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác đã ngày càng trở nên nghiêm ngặt hơn Những thay đổi này nhằm mục đích giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe con người và thích ứng với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ.

Sản phẩm xăng dầu tại Việt Nam chủ yếu được nhập khẩu và một phần được sản xuất từ các nhà máy lọc dầu trong nước như Dung Quất Nhà nước rất chú trọng đến việc quản lý tiêu chuẩn xăng dầu, với Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành quy chuẩn quốc gia về chất lượng xăng dầu, quy định rõ ràng cho các hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu, sản xuất, chế biến và phân phối Tiêu chuẩn này được điều chỉnh theo xu hướng toàn cầu, nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường Chính sách quản lý hạn mức nhập khẩu xăng dầu của nhà nước nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, không giới hạn mức tối đa nhập khẩu nhưng đặt ra mức tối thiểu cho các đầu mối nhập khẩu, dựa trên nhu cầu tiêu dùng Điều này phản ánh tính đặc thù của xăng dầu, với nguồn cung phụ thuộc vào một số quốc gia và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố kinh tế, chính trị và tự nhiên.

Sự cần thiết đổi mới quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam

Đổi mới quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, nhằm đáp ứng các thách thức và nhu cầu phát triển kinh tế bền vững Việc cải cách này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý mà còn đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.

Xăng dầu là mặt hàng chiến lược quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội của Việt Nam Là yếu tố đầu vào thiết yếu cho sản xuất và nguồn năng lượng có hạn, xăng dầu không chỉ phục vụ cho các hoạt động kinh doanh mà còn đóng vai trò là mặt hàng dự trữ quốc gia Trong bối cảnh mới, việc đảm bảo hiệu quả kinh doanh và tự chủ của doanh nghiệp cần phải gắn liền với an ninh năng lượng.

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, buộc phải mở cửa thị trường xăng dầu theo các cam kết quốc tế, nhưng cần xác định thời điểm phù hợp Việc đảm bảo thị trường hoạt động tự do theo quy luật cung cầu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, và bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và quốc gia là thách thức lớn cho quản lý nhà nước Là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đang đối mặt với sức ép hội nhập và nhu cầu xăng dầu gia tăng, đặt ra nhiều thách thức mới trong quản lý xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu Nếu vượt qua được những thách thức này, Việt Nam sẽ có cơ hội hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.

Việt Nam đã chuyển mình từ một quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhập khẩu xăng dầu sang việc sản xuất các sản phẩm xăng dầu trong nước Để quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh xăng dầu, cần xây dựng định hướng phát triển và chiến lược kinh doanh phù hợp, đồng thời quy hoạch phát triển ngành dầu khí Điều này không chỉ tạo ra cơ hội mà còn đặt ra thách thức lớn đối với cả Nhà nước và các doanh nghiệp trong việc bình ổn thị trường xăng dầu nội địa.

Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập Dù đã có những cải cách trong nền kinh tế, nhưng quản lý thị trường xăng dầu vẫn đang trong quá trình hoàn thiện Nhà nước gặp khó khăn trong việc điều hành giá xăng dầu và ứng phó với biến động giá cả trên thị trường quốc tế Hơn nữa, tình trạng buôn bán lậu, gian lận thương mại và tạm nhập tái xuất vẫn diễn ra phức tạp, chưa được giải quyết triệt để.

Việt Nam cam kết mở cửa thị trường cho các hãng xăng dầu nước ngoài tham gia xuất nhập khẩu, mặc dù không cam kết trong khâu phân phối Chính phủ không cấm nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong doanh nghiệp phân phối xăng dầu và cho phép họ đầu tư vào các nhà máy lọc dầu Trong bối cảnh hội nhập, hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ giảm dần, đòi hỏi một cách quản lý mới Tuy nhiên, hệ thống chính sách liên quan đến kinh doanh xăng dầu vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và nhiều chính sách chưa phù hợp với cam kết và thực tế thị trường Do đó, Nhà nước cần đổi mới quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu để đạt được các mục tiêu phát triển và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự phát triển.

Để duy trì sự ổn định của thị trường xăng dầu Việt Nam và nâng cao hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược phù hợp và đổi mới linh hoạt trước sự biến động của môi trường kinh doanh Mục tiêu là không chỉ chiến thắng trên “sân nhà” mà còn vươn tới thành công trên thị trường khu vực.

Ngành xăng dầu Việt Nam hiện nay đang đối mặt với thách thức về năng lực cạnh tranh, khi mà hệ thống doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước, bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân và liên doanh, vẫn còn nhỏ và hạn chế về quy mô Mặc dù đã hình thành 11 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu với cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo, nhưng các doanh nghiệp này thiếu kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế, điều này ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường.

Sự biến động phức tạp và khó lường của giá xăng dầu trên thị trường quốc tế trong những năm gần đây đã tác động trực tiếp đến thị trường xăng dầu trong nước, gây khó khăn trong việc ổn định giá bán Các yếu tố như tình hình chính trị, khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, khó khăn trong khai thác dầu mỏ, công nghệ và hạn chế nguồn cung, cùng với nhu cầu xăng dầu toàn cầu đều góp phần vào sự biến động mạnh mẽ của giá cả mặt hàng này.

Nhà nước cần thực hiện các điều chỉnh và đổi mới phù hợp với sự biến động phức tạp của thị trường Điều này không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng mà còn đảm bảo dự trữ xăng dầu và an ninh năng lượng quốc gia.

Kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Thực tiễn và kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh

Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, đồng thời vẫn đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu từ các quốc gia khác để nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh trong ngành này.

Khi lựa chọn quốc gia tham khảo kinh nghiệm quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu, bài viết sẽ nghiên cứu kinh nghiệm của sáu quốc gia: Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ Trung Quốc và Hàn Quốc được chọn vì có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về cơ chế quản lý kinh tế và các thách thức trong quá trình hội nhập Indonesia, Thái Lan và Malaysia cũng có những nét tương đồng về trình độ phát triển và đặc điểm thị trường xăng dầu Trong khi đó, Hoa Kỳ đại diện cho một nền kinh tế phát triển với thị trường xăng dầu tự do và sự can thiệp của chính phủ ở mức độ thấp.

1.3.1.1 Trung Quốc 2 Trung Quốc là một trong những quốc gia có mức tiêu thụ các sản phẩm xăng dầu lớn trên thế giới Tại Trung Quốc, cho đến nay, chỉ có một số ít các công ty nhà nước được cấp giấy phép xuất khẩu và nhập khẩu dầu thô và các sản phẩm lọc dầu đó là SINOPEC và CNPC Hai tập đoàn này tham gia từ khâu khai thác dầu thô, đến chế biến, phân phối (bán buôn và bán lẻ) các sản phẩm xăng dầu ra thị trường Hai tập đoàn này chiếm 90% sản lượng khai thác dầu thô, 100% sản lượng lọc dầu và 97% thị trường bán buôn và bán lẻ trong nước.

Trước đây, giá xăng dầu tại Trung Quốc do chính phủ quy định và thường cao hơn giá thị trường toàn cầu, dẫn đến tình trạng nhập lậu Kể từ tháng 6 năm 1998, chính phủ đã áp dụng cơ chế giá chuẩn dựa trên giá nhập khẩu cộng với thuế và chi phí phân phối, cho phép hai tập đoàn CNPC và SINOPEC tự quyết định giá bán lẻ trong khoảng +/- 5% Giá bán buôn cũng do các công ty tự quyết định, ngoại trừ những khách hàng đặc biệt như quân đội, hàng không và đường sắt.

Giá bán xăng dầu cho các loại khách hàng này do chính phủ quy định và thường thấp hơn giá bán buôn của công ty.

2 www.chinadaily.com.cn/business/2007-01/15/content_783271.htm

Từ tháng 6 năm 1998 đến tháng 6 năm 2000, Chính phủ Trung Quốc đã điều chỉnh phương pháp tính giá chuẩn và công bố mức giá hàng tháng Tuy nhiên, cơ chế này đã bộc lộ một số nhược điểm trong quá trình thực hiện.

(i) Do giá trong nước thay đổi chậm hơn sự biến đổi của giá thế giới nên dẫn đến hiện tượng đầu cơ xăng dầu;

(ii) Nhu cầu trong nước biến động nhiều phụ thuộc vào mức giá ban hành nên các công ty phải tăng khối lượng dự trữ;

Sự biến động giá xăng dầu toàn cầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế, buộc Chính phủ Trung Quốc phải điều chỉnh cơ chế giá chuẩn vào tháng 10 năm 2001 Giá chuẩn được xác định dựa trên giá trung bình hàng tháng từ ba thị trường lớn: Singapore, New York và Rotterdam, và chỉ thay đổi khi vượt qua một ngưỡng nhất định Đồng thời, Chính phủ cho phép CNPC và SINOPEC linh hoạt hơn trong việc quy định giá bán lẻ với biên độ ±8% Nguyên tắc xác định giá bán lẻ các sản phẩm xăng dầu ở Trung Quốc là tương đương với giá quốc tế, mà không có chính sách bù lỗ cho các doanh nghiệp trong ngành.

Thuế nhập khẩu dầu thô ở mức thấp, trong khi thuế đối với các sản phẩm lọc dầu cũng thấp hơn so với mức thuế trung bình áp dụng cho hàng hóa công nghiệp từ Trung Quốc.

Ngành xăng dầu Trung Quốc vẫn được bảo hộ so với ngành công nghiệp khác.

Chính phủ vẫn duy trì việc cấp giấy phép và áp dụng hạn ngạch đối với sản phẩm lọc dầu Hệ thống đăng ký hạn chế định lượng được áp dụng cho dầu thô Sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ cũng bị giới hạn.

Trong quá trình gia nhập WTO, Trung Quốc đã cam kết mở cửa thị trường dầu khí bằng cách cắt giảm thuế nhập khẩu và xóa bỏ giấy phép, hạn ngạch và đấu thầu nhập khẩu vào năm 2004 Sự thay đổi này đã dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ trong nhập khẩu sản phẩm lọc dầu, chủ yếu do chênh lệch cung cầu và sức cạnh tranh yếu của sản phẩm nội địa Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc quy định rằng dầu thô và sản phẩm lọc dầu nhập khẩu phải được quản lý thông qua các doanh nghiệp nhà nước như SINOPEC và CNPC để vào thị trường.

1.3.1.2 Hàn Quốc 3 Cho đến hiện nay, chính sách xăng dầu của Chính phủ Hàn Quốc tập trung bảo đảm nguồn cung xăng dầu ổn định và ổn định giá xăng dầu trong nước ðể đạt được mục tiêu trên, Chính phủ đã áp dụng hình thức nhập khẩu dầu thô và lọc dầu trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu xăng dầu nội địa.

Với chính sách trên, nhiều nhà máy lọc dầu đã được thiết lập từ những năm 60.

Kể từ đó, nhu cầu xăng dầu tăng mạnh đã thúc đẩy việc mở rộng xây dựng các nhà máy lọc dầu và cơ sở chưng cất dầu thô Chính sách này là xương sống trong chiến lược của Chính phủ nhằm đảm bảo ổn định nguồn cung xăng dầu cho thị trường nội địa.

Vào năm 1995, trước sự gia tăng nhu cầu xăng dầu trong nước, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các chính sách linh hoạt nhằm khuyến khích doanh nghiệp khai thác dầu ở nước ngoài và ưu tiên ổn định giá cả xăng dầu trong nước Nhiều chính sách trước đó đã bị bãi bỏ để tạo điều kiện cho các chính sách mới được áp dụng.

Các mặt hàng thay thế xăng dầu phải chịu thuế tương đương với xăng dầu, và người sử dụng xăng dầu bất hợp pháp sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật, giống như các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xăng dầu Chính sách này được áp dụng nhằm ngăn chặn tình trạng quảng cáo tràn lan các loại dầu, xăng bất hợp pháp, như dầu diesel pha trộn với dầu lửa hoặc dung môi, cũng như các chất liệu sinh học, được bán với giá rẻ cho máy móc tự động.

Chính phủ đang nỗ lực duy trì sự ổn định của nguồn cung dầu thô bằng cách thuyết phục các nhà máy lọc dầu duy trì sản lượng nhập khẩu Điều này nhằm đảm bảo nguồn cung liên tục và ổn định cho thị trường.

Các giai đoạn phát triển của thị trường xăng dầu và quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam

Tại Việt Nam, Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực xuất nhập khẩu xăng dầu, thông qua việc cấp phép cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện hoạt động này.

Nhà nước quản lý và điều chỉnh hoạt động kinh doanh xăng dầu thông qua hai hình thức chính: trực tiếp và gián tiếp.

Hình thức quản lý trực tiếp trong lĩnh vực nhập khẩu xăng dầu bao gồm việc kiểm soát đầu vào thông qua hạn ngạch nhập khẩu dành cho các doanh nghiệp nhà nước Mỗi năm, Bộ Công thương điều chỉnh số lượng xăng dầu mà các doanh nghiệp này được phép nhập khẩu, với hạn ngạch tối đa và mức nhập khẩu tối thiểu được quy định rõ ràng Ngoài ra, nhà nước còn can thiệp vào thị trường bằng cách ấn định mức giá và thuế trực thu, nhằm kiểm soát hoạt động của thị trường một cách hiệu quả.

Quản lý gián tiếp trong ngành xăng dầu được thể hiện qua việc áp đặt phụ phí để điều chỉnh hành vi tiêu dùng, cùng với các quy định nghiêm ngặt cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nhỏ lẻ Chính phủ cũng thực hiện quản lý chặt chẽ kế hoạch dự trữ và hệ thống kho cảng, cũng như điều kiện kinh doanh xăng dầu, nhằm đảm bảo sự ổn định và hiệu quả trong hoạt động của ngành này.

Quá trình hình thành và phát triển thị trường xăng dầu tại Việt Nam được chia thành bốn giai đoạn chính, nhằm nghiên cứu sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.

Thị trường xăng dầu được phân chia thành các giai đoạn khác nhau dựa trên sự khác biệt về nguồn cung cấp, đối tượng kinh doanh và hình thức phân phối, bán xăng dầu.

2.1.1.1 Giai đoạn từ 1988 trở về trước Trong giai đoạn này chỉ có một nguồn cung cấp xăng dầu từ Liên Xô cũ ðồng thời, vai trò kinh doanh của Tổng công ty xăng dầu khá mờ nhạt chỉ dừng lại ở chức năng của cơ quan phân phối xăng dầu theo cơ chế bao cấp Thị trường thuần túy hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.

Trong thời kỳ này, xăng dầu được coi là mặt hàng chiến lược, do Nhà nước quản lý từ khâu phân phối đến quy định giá bán Cung cầu xăng dầu hàng năm cho nền kinh tế quốc dân được đảm bảo thông qua các Hiệp định đã ký kết với Liên Xô cũ.

Hoạt động cung ứng xăng dầu tại Việt Nam được tổ chức qua Tổng Công ty Xăng dầu, một doanh nghiệp đầu mối duy nhất thuộc Bộ Vật tư Phân phối xăng dầu dựa trên chỉ tiêu phân bổ hàng năm từ Nhà nước, trong đó dầu hoả đóng vai trò quan trọng như nguồn chất đốt chính cho người dân đô thị và nguyên liệu thắp sáng cho khu vực nông thôn Hệ thống phân phối và tiêu thụ được thực hiện thông qua các Công ty thương nghiệp từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo cung cấp hiệu quả cho nhu cầu của người dân.

Trong thời kỳ này, phương thức phân phối xăng dầu chủ yếu được thực hiện bằng cách phân chia khối lượng xăng dầu cho từng hộ sử dụng, dựa trên các chỉ tiêu cụ thể dành cho từng đối tượng.

Việc tổ chức tiếp nhận, vận tải và cung ứng xăng dầu được giao cho Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam tổ chức thực hiện.

Giá xăng dầu được Nhà nước quy định một mức thống nhất, áp dụng cho tất cả các loại xăng dầu và mọi đối tượng trên toàn quốc.

Uỷ ban Vật giá Nhà nước, hiện nay là Ban Vật giá Chính phủ, có trách nhiệm công bố giá và xác định chiết khấu cho các doanh nghiệp cung ứng và tiêu thụ, bao gồm Tổng Công ty Xăng dầu, Công ty Dầu lửa Trung ương và các Công ty Thương nghiệp địa phương trong việc bán dầu hoả.

HIỆP ðỊNH XD VỚI LIÊN XÔ CŨ

UB VẬT GIÁ NN UBKHNN

BỘ NỘI THƯƠNG BỘ VẬT TƯ BỘ NGOẠI THƯƠNG

CTY DẦU LỬA TW TCTY XĂNG DẦU TCTY KHOÁNG SẢN

CÁC CTY CẤP 2, CẤP 3 CÁC CTY XĂNG DẦU CÁC CTY VẬT TƯ TỈNH

CÁC KHÁCH HÀNG THEO CHỈ TIÊU

(Nguồn: Báo cáo tổng quan phát triển thị trường xăng dầu – Bộ Thương mại 2002)

Hình 2.1 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu đến tháng 11/1988 [6]

2.1.1.2 Giai đoạn từ 1988 - 1993 Ở giai đoạn này thị trường xăng dầu ngoài nguồn cung xăng dầu từ Nhà nước đã xuất hiện thêm nguồn cung xăng dầu từ các doanh nghiệp xuất khẩu Bên cạnh đó, vai trò kinh doanh của Tổng công ty xăng dầu dần được thể hiện trong việc điều phối nhu cầu xăng dầu trên thị trường ðây là giai đoạn tiền đề cho thị trường xăng dầu hoạt động theo cơ chế cung cầu.

Từ tháng 12/1988, bộ phận nhập khẩu xăng dầu của Tổng Công ty Khoáng sản đã được sát nhập về Tổng Công ty Xăng dầu theo quyết định của Chính phủ Việc này đã tạo ra một hệ thống nhập khẩu và phân phối xăng dầu thống nhất dưới sự quản lý của Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc tiếp cận giao dịch đối ngoại và tạo nền tảng cho quá trình đàm phán đổi dầu thô cũng như mua bán sản phẩm dầu trong tương lai.

HIỆP ðỊNH XD VỚI LIÊN XÔ CŨ

BỘ NỘI THƯƠNG BỘ VẬT TƯ BỘ NGOẠI THƯƠNG

CTY DẦU LỬA TW TCTY XĂNG DẦU

CÁC CTY CẤP 2, CẤP 3 CÁC CTY XĂNG DẦU CÁC CTY VẬT TƯ TỈNH

CÁC KHÁCH HÀNG THEO CHỈ TIÊU

(Nguồn: Báo cáo tổng quan phát triển thị trường xăng dầu – Bộ Thương mại 2002)

Hình 2.2 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu thời kỳ 1988-1993 [6]

Trong giai đoạn này, việc cung cấp xăng dầu theo Hiệp định với Liên Xô cũ gặp khó khăn do tiến độ giao hàng không đồng đều, gây ảnh hưởng đến hoạt động cung ứng xăng dầu cho các hộ tiêu thụ.

Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Để nâng cao hiệu quả can thiệp của nhà nước, cần tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý lĩnh vực này Các yếu tố chính bao gồm: (i) Tư duy nhận thức quản lý kinh doanh xăng dầu; (ii) Thị trường xăng dầu Việt Nam; (iii) Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xăng dầu; (iv) Biến động thị trường xăng dầu thế giới.

Nhóm các nhân tố liên quan đến các thể chế và các cam kết quốc tế.

2.1.2.1 Nhóm nhân tố về tư duy nhận thức quản lý và năng lực điều hành quản lý của Nhà nước

Tư duy nhận thức đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chính sách quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu Năng lực quản lý của Nhà nước là yếu tố quyết định trong việc phát triển và thực hiện các cơ chế chính sách hiệu quả.

Nhận thức đầy đủ về thị trường xăng dầu và tính cấp thiết chuyển dịch sang cơ chế thị trường là yếu tố quan trọng giúp cán bộ quản lý Nhà nước xây dựng các thể chế phù hợp Tuy nhiên, nhiều cán bộ trong các cơ quan quản lý vẫn chưa có tư duy hợp lý về cơ chế thị trường, dẫn đến việc can thiệp hành chính vào hoạt động kinh doanh xăng dầu Chính sách điều hành giá xăng dầu vẫn chưa tuân theo các quy luật thị trường, mặc dù thị trường xăng dầu Việt Nam đã dần bám sát thị trường thế giới nhưng vẫn còn tồn tại khoảng cách nhất định.

Tư duy nhận thức về quản lý thể hiện qua việc hiểu rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bao gồm xây dựng thị trường và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh Nhà nước cần phân bổ hợp lý nguồn lực cho ngành xăng dầu và đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp Đồng thời, Nhà nước cũng tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật, khuyến khích quyền chủ động và tự quyết trong kinh doanh xăng dầu.

Năng lực quản lý của các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và thực thi các chính sách quản lý kinh doanh xăng dầu Mặc dù nhiều cơ chế chính sách được đánh giá cao, nhưng việc triển khai thực tế thường gặp khó khăn do năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ công chức Một ví dụ điển hình là cơ chế chính sách định giá và các quy định về điều kiện kinh doanh xăng dầu, mặc dù được quy định chặt chẽ, nhưng do thiếu năng lực kiểm tra và kiểm soát, dẫn đến nhiều bất cập trong thực thi.

2.1.2.2 Nhóm nhân tố về thị trường xăng dầu Việt Nam Các nhân tố liên quan tới thị trường bao gồm những nhân tố về cung, cầu và sự quản lý của nhà nước đối với thị trường xăng dầu.

• Nhu cầu về xăng dầu:

Xăng dầu là nguồn nhiên liệu thiết yếu, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và đời sống người dân Việc đảm bảo cung cấp đủ xăng dầu cho sản xuất và tiêu dùng là rất quan trọng, vì nếu không, sẽ tác động tiêu cực đến lạm phát Nhà nước cần quản lý thống nhất và vận hành theo cơ chế thị trường để duy trì sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

Nhu cầu về sản phẩm xăng dầu tại Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ, bao gồm nhu cầu tiêu dùng trong nước, tái xuất, dự trữ quốc gia và phục vụ phát triển Đặc biệt, sự tăng trưởng này diễn ra nhanh chóng từ những năm 90 của thế kỷ trước.

Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các sản phẩm lọc dầu, với tổng lượng nhập khẩu trong năm 2004 đạt hơn 11 triệu tấn Trong đó, 92% phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa, 8% được tái xuất sang khu chế xuất, cung cấp nhiên liệu cho tàu biển và máy bay tại các cảng biển và sân bay Việt Nam, cũng như xuất khẩu sang Trung Quốc, Lào và Campuchia Nguồn hàng nhập khẩu đến từ nhiều quốc gia như Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc và Nhật Bản, chủ yếu thông qua hợp đồng dài hạn và một số chuyến hàng giao ngay Việc nhập khẩu xăng dầu diễn ra chủ yếu qua các cảng biển, với các cảng chính ở miền Bắc như Cảng dầu B12 – Quảng Ninh, Cảng Đình Vũ Hải Phòng; miền Trung có Cảng Đà Nẵng; và miền Nam qua cảng Nhà Bè và Vũng Tàu.

Việt Nam hiện đã sản xuất xăng dầu với sự hoạt động của nhà máy chế biến condensate Cát Lái, thuộc Công ty Sài Gòn Petro, từ năm 2004 Nhà máy này cung cấp cho thị trường khoảng 300.000 tấn xăng và 26.000 tấn diesel mỗi năm.

Nhà máy chế biến Condensate Phú Mỹ, thuộc Tổng Công ty Dầu Việt Nam, có công suất khoảng 400.000 tấn xăng mỗi năm Kể từ khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động vào năm 2009, dự kiến sẽ đáp ứng 30% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu nội địa Theo dự báo, tổng lượng tiêu thụ sản phẩm xăng dầu của Việt Nam sẽ đạt khoảng 15 triệu tấn vào năm 2010.

Trước năm 1990, Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) là đơn vị độc quyền trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối xăng dầu tại Việt Nam Tuy nhiên, từ năm 1990, sự độc quyền này đã bị phá bỏ, mở ra cơ hội cho nhiều doanh nghiệp nhà nước khác tham gia vào thị trường nhập khẩu xăng dầu.

Vào ngày 15 tháng 9 năm 2003, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 187/2003/QĐ-TTg và tiếp theo là Nghị định 55/2007/NĐ-CP vào ngày 6 tháng 4 năm 2007, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu Đặc biệt, Nghị định 84/2009/NĐ-CP ban hành vào ngày 15 tháng 10 năm 2009 đã cho phép tất cả doanh nghiệp Việt Nam có quyền tham gia kinh doanh nhập khẩu xăng dầu Đây là một bước đột phá quan trọng trong chính sách quản lý xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, góp phần tạo ra một thị trường cạnh tranh hơn.

Đến nay, Việt Nam đã có 11 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, phá vỡ thế độc quyền nhập khẩu và tạo ra một thị trường cạnh tranh Hệ thống phân phối xăng dầu hiện bao gồm khoảng 290 tổng đại lý và 10.000 cửa hàng bán lẻ, trong đó 20% thuộc sở hữu của các doanh nghiệp đầu mối, còn lại chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần Trong thời gian dài, khi các doanh nghiệp nhập khẩu và phân phối sản phẩm dầu khí có quyền tự do chọn địa điểm bán lẻ, Petrolimex vẫn phải duy trì một mạng lưới bán lẻ rộng khắp để đảm bảo cung cấp xăng dầu ổn định cho xã hội.

Mặc dù Nhà nước đã bỏ cơ chế giá xăng dầu và các doanh nghiệp đầu mối hoạt động theo cơ chế thị trường, Petrolimex vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của thị trường xăng dầu.

Ðánh giá về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam

3.208 tỷ đồng, tăng 196% so với năm 2008 đồng thời nộp ngân sách nhà nước:

28.800 tỷ đồng, tăng 68% so với năm 2008 Bên cạnh đó các nhà đầu mối lớn như

PV Oil, PETEC và nhiều doanh nghiệp khác đã ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng so với năm 2008 Hiện nay, hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam đã dần thoát khỏi sự bảo hộ của nhà nước, cho phép các doanh nghiệp chuyển đổi và thích nghi theo cơ chế thị trường, từ đó lợi nhuận từ ngành này đã bắt đầu thể hiện rõ ràng.

Thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam

Cơ chế, chính sách quản lý chung về hoạt động kinh doanh xăng dầu

Hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam là một lĩnh vực nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng lượng và sự phát triển kinh tế Ngành này được xếp vào nhóm ngành kinh doanh có điều kiện và chịu sự quản lý chặt chẽ từ nhà nước, bao gồm các khâu nhập khẩu, định giá và phân phối Để đảm bảo quản lý hiệu quả, nhà nước đã ban hành các cơ chế cụ thể, quy định rõ trách nhiệm và phương thức phối hợp giữa các đơn vị quản lý Sự phát triển của hoạt động quản lý nhà nước về kinh doanh xăng dầu gắn liền với sự biến động của thị trường, từ đó hình thành và xây dựng các cơ chế quản lý phù hợp với thực tiễn.

Trong những năm gần đây, cơ chế quản lý Nhà nước về kinh doanh xăng dầu chưa đáp ứng được yêu cầu linh hoạt của thị trường.

Các cơ chế ban đầu trong quản lý kinh doanh xăng dầu chỉ là giải pháp tạm thời nhằm giải quyết các tình huống cụ thể và khó khăn Theo thời gian, những cơ chế này đã được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của thị trường và áp lực xã hội Tuy nhiên, hệ thống quản lý nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập Dù vậy, Nhà nước đã phát triển một hệ thống công cụ để quản lý, điều hành và kiểm soát hoạt động kinh doanh xăng dầu một cách hiệu quả hơn.

Nghị định 55/2007/NĐ-CP, ban hành ngày 06 tháng 4 năm 2007 và được thay thế bởi Nghị định 84/2009/NĐ-CP, quy định về hoạt động kinh doanh xăng dầu và chức năng nhiệm vụ của các bộ, ban ngành liên quan Theo nghị định này, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) là cơ quan được Chính phủ giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý và giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu.

Bộ Tài chính, Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Giao thông Trong đó [51]:

• Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương)

Bộ Công Thương chịu trách nhiệm chính trong việc kiểm tra và giám sát các thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu, đảm bảo tuân thủ các quy định và điều kiện liên quan Bộ cũng cấp Giấy phép kinh doanh cho các hoạt động này và ban hành các quy chế liên quan đến kinh doanh xăng dầu, bao gồm cả đại lý kinh doanh Ngoài ra, Bộ thực hiện việc kiểm tra và giám sát các thương nhân về điều kiện hoạt động của tổng đại lý và đại lý bán lẻ xăng dầu, đồng thời cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho các cửa hàng và trạm bán lẻ xăng dầu.

Bộ Tài chính đóng vai trò chủ yếu trong việc ban hành các chính sách về giá và thuế, đồng thời thực hiện kiểm tra và giám sát các thương nhân kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu xăng dầu để đảm bảo tuân thủ các quy định liên quan đến thuế, phí và giá bán xăng dầu.

• Bộ Khoa học và Công nghệ

Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm chính trong các hoạt động: (i)

Kiểm tra và giám sát các thương nhân trong lĩnh vực sản xuất và chế biến xăng dầu là cần thiết để đảm bảo tuân thủ các điều kiện và quy định liên quan Đồng thời, việc sửa đổi và bổ sung tiêu chuẩn cho các cửa hàng và trạm xăng bán lẻ xăng dầu sẽ giúp thực hiện quy định một cách thống nhất trên toàn quốc.

• Bộ Giao thông Vận tải

Bộ Giao thông Vận tải chịu trách nhiệm kiểm tra và giám sát các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ xăng dầu để đảm bảo tuân thủ các điều kiện và quy định liên quan Điều này bao gồm việc kiểm tra các điều kiện kinh doanh dịch vụ cho thuê cảng, kho bãi, tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu và dịch vụ vận tải xăng dầu.

• Cục dự trữ quốc gia

Hệ thống xăng dầu dự trữ Quốc gia đóng vai trò quan trọng trong chính sách năng lượng của Việt Nam Trong thời gian qua, cơ chế quản lý của hệ thống này đã trải qua nhiều cải cách, nhằm nâng cao hiệu quả và tính hoàn thiện.

Trước năm 1993, Cục Dự trữ Quốc gia quản lý nguồn vốn và kinh phí xăng dầu dự trữ, ký hợp đồng với Tổng Công ty Xăng dầu để thanh toán chi phí bảo quản Từ ngày 01/01/1994, toàn bộ tài sản và vốn liên quan đến dự trữ xăng dầu đã được chuyển giao cho Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam Kinh phí bảo quản được cấp từ ngân sách Nhà nước thông qua Bộ Công thương, với định mức và kinh phí hàng năm dựa trên báo cáo kế hoạch của Cục Dự trữ Quốc gia và Bộ Công thương, được Nhà nước phê duyệt.

Trước năm 1995, hệ thống kho bể chứa xăng dầu chủ yếu thuộc về Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, và Nhà nước đã giao toàn bộ khối lượng hàng Quốc gia cho đơn vị này quản lý.

1996 trở lại đây, mặt hàng Za1 (nhiên liệu bay) Nhà nước giao Công ty

Xăng dầu Hàng không (Vinapco) chịu trách nhiệm dự trữ nhiên liệu, trong khi các loại nhiên liệu khác như xăng và diesel chủ yếu được Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam thực hiện Ngoài ra, PV Oil và Petec cũng tham gia vào việc này Số hàng được phân bổ trên 21 điểm dự trữ trên toàn quốc, tất cả các kho dự trữ đều đảm bảo yếu tố an toàn và thuận tiện cho việc huy động.

Trong những năm gần đây, khối lượng hàng dự trữ Quốc gia không có nhiều biến động do ngân sách Nhà nước còn hạn chế Ngoài ra, việc sử dụng nguồn xăng dầu dự trữ Quốc gia cho công tác phòng chống thiên tai và các mục đích khác cũng diễn ra rất ít.

BỘ TÀI CHÍNH BỘ CÔNG

THÀNH PHỐ BỘ QUỐC PHÒNG

CÁC CÔNG TY THÀNH VIÊN (B12, KV2, KV5, TÂY NAM BỘ, …)

TY THÀNH VIÊN (PDC, PETECHIM, PETRO MECONG)

CÁC HỘ TIÊU THỤ XĂNG DẦU QUY MÔ LỚN (NHÀ MÁY, CÔNG TY VẬN TẢI, SÂN BAY, CẢNG, …)

CÁC TỔNG ðẠI LÝ, ðẠI LÝ, CỦA HÀNG BÁN XĂNG DẦU

(Nguồn: ðề án quy hoach phát triển ngành dầu khí giai đoạn 2006 – 2015 ðịnh hướng đến

Hình 2.9 Mô hình quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu [6]

Nghiên cứu đánh giá tổ chức quản lý Nhà nước về kinh doanh xăng dầu, dựa trên ý kiến của các lãnh đạo và quản lý từ các công ty nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, cho thấy mặc dù có nhiều nỗ lực và đổi mới trong tổ chức quản lý, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập trong quản lý lĩnh vực này.

Bảng 2.3 Tổng hợp các chỉ tiêu điều tra, phỏng vấn ðơn vị : %

STT Chỉ tiêu được hỏi Ý kiến trả lời

Rất tốt Tốt Chưa tốt Còn hạn chế

1 Vai trò của Nhà nước trong tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu, đảm bảo bình ổn thị trường và giá cả trong thời gian qua

2 Cơ chế điều hành, phối hợp của các Bộ, ngành liên quan trong việc quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt Nam

3 Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, pháp luật về kinh doanh xăng dầu của Việt Nam

Năng lực của các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra và giám sát thực thi pháp luật là rất quan trọng để thiết lập trật tự và kỷ cương trong lĩnh vực xăng dầu Điều này không chỉ giúp duy trì môi trường kinh doanh lành mạnh mà còn đảm bảo sự minh bạch và công bằng cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành Việc nâng cao năng lực giám sát sẽ góp phần tạo dựng niềm tin cho người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường xăng dầu.

5 Công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh xăng dầu của Việt Nam thời gian qua 7,4 46,8 37,2 8,5

6 Về tình hình thực hiện quy hoạch và giám sát việc thực hiện quy hoạch mạng lưới kinh doanh xăng dầu 1,1 36,2 41,5 21,3

Nguồn: Số liệu tổng hợp kết quả điều tra, phỏng vấn.

Những hạn chế, bất cập chủ yếu như sau:

Quản lý giá đối với các sản phẩm xăng dầu

tỷ giá, chính sách khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng, chính sách phát triển kinh tế vùng, ngành.

Khi Việt Nam chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, xăng dầu là một trong những mặt hàng đầu tiên thay đổi cơ chế kinh doanh Từ năm 1991, nguồn cung xăng dầu cho nền kinh tế được cân đối từ ngoại tệ thu được từ xuất khẩu dầu thô, dẫn đến việc hình thành chính sách quản lý giá bán tối đa Xăng dầu ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực quan trọng khác, do đó cần có hệ thống quản lý đồng bộ từ nhập khẩu đến thuế và giá bán Quản lý kinh doanh xăng dầu không chỉ đảm bảo cân bằng cung cầu mà còn tối ưu hóa ngân sách nhà nước và được người tiêu dùng chấp nhận, trở thành công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước.

Nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và khuyến khích doanh nghiệp giảm chi phí, chính sách giá tối đa xăng dầu đã được ban hành từ năm 1993 Chính sách này đã góp phần ổn định giá xăng dầu trên thị trường nội địa và phát huy hiệu quả tích cực trong nhiều giai đoạn.

Cơ chế điều chỉnh giá là sự hợp tác giữa nhà nước và doanh nghiệp trong việc ra quyết định về giá cả trước những biến động của thị trường Qua các giai đoạn phát triển, vai trò của nhà nước đã giảm, trong khi vai trò của doanh nghiệp ngày càng tăng Hiện nay, cơ chế định giá được thể hiện rõ ràng hơn.

Theo Nghị định 84, các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu được Chính phủ trao quyền quyết định giá bán sản phẩm xăng dầu dựa trên các yếu tố hình thành giá cơ sở Quy trình này nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc xác định giá cả trên thị trường.

Khi các yếu tố đầu vào làm giá giảm, nếu giá cơ sở giảm trong phạm vi mười hai phần trăm (≤ 12%) so với giá bán lẻ hiện tại, thương nhân đầu mối phải giảm giá bán lẻ tương ứng Trong trường hợp giá cơ sở giảm trên mười hai phần trăm (>12%), sau khi cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp điều tiết tài chính theo quy định (như thuế nhập khẩu, quỹ bình ổn giá), thương nhân đầu mối vẫn tiếp tục giảm giá bán lẻ mà không bị hạn chế về thời gian và số lần giảm giá.

Khi các yếu tố đầu vào làm giá tăng, nếu giá cơ sở tăng tối đa bảy phần trăm (≤ 07%) so với giá bán lẻ hiện tại, thương nhân đầu mối có quyền điều chỉnh giá bán lẻ tương ứng Trong trường hợp giá cơ sở tăng vượt quá bảy phần trăm (> 07%) và không quá mười hai phần trăm (≤ 12%), thương nhân đầu mối có thể tăng giá theo quy định ở điểm a cộng thêm sáu mươi phần trăm (60%) của mức tăng giá cơ sở vượt bảy phần trăm.

Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, trong trường hợp giá cơ sở tăng trên 12% so với giá bán lẻ hiện hành, hoặc việc tăng giá ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp bình ổn giá Cụ thể, 40% Quỹ Bình ổn giá sẽ được sử dụng để bù đắp, nhằm đảm bảo ổn định giá cả và hỗ trợ người dân.

Bộ Tài chính cần theo dõi sát sao tình hình thị trường và nhanh chóng hỗ trợ doanh nghiệp khi có biến động giá Đồng thời, bộ cũng phải quản lý và sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu hiệu quả, điều chỉnh thuế nhập khẩu khi cần thiết để đảm bảo sự ổn định của thị trường.

Doanh ngiệp Khi thị trường ổn định

Khi thị trường Biến động

Biến động thị trường giảm

Biến động thị trường giảm

Giá bán sản phẩm xăng dầu

Hình 2.10 Sơ đồ cơ chế quản lý giá trước tác động của thị trường

Cơ chế quản lý giá của nhà nước đã trải qua nhiều giai đoạn, bắt đầu từ việc công bố hai loại giá bán tối đa (bán buôn và bán lẻ) và sau đó chuyển sang áp dụng một mức giá tối đa bán lẻ, trong đó mazut chỉ có giá tối đa bán buôn do không có bán lẻ Việc thống nhất giá tối đa trên toàn quốc là bước điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh doanh xăng dầu hiện nay Giá tối đa được điều chỉnh theo từng thời kỳ, với mức tăng trung bình từ 5 - 10%, đã góp phần ổn định sản xuất và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hàng năm.

Sự chuyển giao quyền quyết định giá xăng dầu từ Nhà nước sang doanh nghiệp đánh dấu một bước đột phá trong chính sách giá Giá xăng dầu hiện nay được xác định dựa trên giá vốn và các chi phí hợp lý, mang tính tự quyết và linh hoạt hơn, thay vì bị áp đặt theo chỉ tiêu như trước đây.

Trong thời gian qua, việc quản lý giá xăng dầu cho thấy cơ quan quản lý giá không hoàn toàn có quyền quyết định độc lập về giá Hơn nữa, ngay cả khi cơ quan thuế muốn điều chỉnh tăng hay giảm giá, họ thường phải thông qua một cơ quan cấp trên hoặc tham khảo ý kiến từ các bên liên quan khác.

Việc định giá tối đa trong các bộ ngành liên quan, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm, đã dần mất đi tính khách quan và chủ trương ban đầu Kết quả là phương án giá cuối cùng thường chỉ là sự dung hòa, không còn phản ánh đầy đủ tư tưởng chỉ đạo của cơ quan quản lý giá Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan này đề xuất những giải pháp chính với các luận cứ khoa học và phù hợp nhất.

Hiện nay, tâm lý lo ngại về việc điều chỉnh giá bán tối đa vẫn phổ biến trong các cơ quan quản lý giá, dẫn đến việc họ không dám thay đổi mặc dù nhận thấy sự bất hợp lý Thực tế, nhiều cơ quan vẫn trông chờ vào sự chấp thuận của cấp trên mà không đưa ra các đề xuất hợp lý dựa trên lý thuyết kinh tế, điều này có thể vi phạm các nguyên tắc cơ bản của quy luật giá trị và quy luật thị trường.

Việc điều chỉnh giá xăng dầu liên quan chặt chẽ đến chính sách tỷ giá và chỉ số lạm phát, do đó, lựa chọn thời điểm thay đổi giá tối đa là một nhiệm vụ phức tạp Cần cân nhắc đến các yếu tố kinh tế - xã hội và sự nhạy cảm của người quản lý giá, đặc biệt khi lạm phát còn thấp Nếu không xử lý giá một cách hợp lý, sẽ gây áp lực lên tỷ giá ngoại tệ, ảnh hưởng xấu đến quản lý của Nhà nước Trong tình huống này, giải pháp tối ưu là tránh tạo sức ép tăng giá đồng loạt cho các mặt hàng quan trọng, mà nên phân bổ giá cả một cách đồng đều theo từng thời điểm, nhằm bảo vệ tâm lý người tiêu dùng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh giá bán tối đa.

Trong bối cảnh Việt Nam vẫn phải nhập khẩu xăng dầu trong những năm tới, việc xác định giá bán xăng dầu cần dựa trên giá nhập khẩu Nếu không đảm bảo yếu tố này, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, dẫn đến nguy cơ thiếu nguồn cung và có thể xảy ra sốt xăng dầu Gần đây, sự chậm trễ trong việc xem xét yếu tố này từ các cơ quan quản lý Nhà nước đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đóng vai trò điều tiết thị trường xăng dầu cho Nhà nước.

Quản lý thuế và các khoản thu từ xăng dầu

Thuế xăng dầu là công cụ chính sách quan trọng trong việc điều hành thị trường xăng dầu nội địa Thuế nhập khẩu xăng dầu được áp dụng từ khi có nguồn xăng dầu theo Hiệp định với Liên Xô, nhưng mức thuế này có sự khác biệt so với mức thu đối với xăng dầu nhập khẩu bằng ngoại tệ Mức thu ban đầu rất thấp và mang tính tượng trưng, không đủ để xác định giá vốn kinh doanh của doanh nghiệp Hiện tại, các doanh nghiệp chỉ nhận được một khoản chiết khấu từ Nhà nước sau khi bán xăng dầu theo giá quy định và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

Khi doanh nghiệp chuyển sang cơ chế tự định giá bán, việc mua ngoại tệ theo tỷ giá Ngân hàng công bố và nộp thuế theo luật định khiến thuế nhập khẩu trở thành công cụ quan trọng trong việc điều hành thị trường Thuế nhập khẩu không chỉ xác định nguồn thu ngân sách mà còn điều tiết giá bán thực tế trong phạm vi giá bán tối đa Tỷ lệ thuế nhập khẩu được quy định theo khung thuế do Quốc hội quy định, tạo ra sự minh bạch và ổn định cho doanh nghiệp.

Bộ Tài chính đại diện Chính phủ quyết định mức thuế nhập khẩu dựa trên giá CIF, tỷ giá đồng Việt Nam/USD và giá bán tối đa theo từng thời kỳ Kể từ khi Luật thuế xuất nhập khẩu có hiệu lực, khung thuế đã được mở rộng để linh hoạt điều chỉnh trước những biến động phức tạp và đa dạng của giá xăng dầu trên thị trường thế giới.

Trong giai đoạn đầu thực hiện Luật thuế xuất nhập khẩu, mức thuế nhập khẩu tối đa được quy định là 30% Khi giá xăng dầu trên thị trường thế giới giảm, Nhà nước chỉ có thể thu tối đa 30% cho ngân sách, dẫn đến việc các Bộ ngành liên quan đề xuất Chính phủ cho phép thực hiện phương án tối ưu hóa thu ngân sách.

“phụ thu” xăng dầu, nhằm tận thu hết phần chênh lệch ngoài thuế nhập khẩu do đã hết khung thuế.

Phụ thu xăng dầu là hình thức thu ngân sách Nhà nước, tập trung vào Quỹ bình ổn giá do Ban Vật giá Chính phủ quản lý Việc thu này được thực hiện thông qua thuế nhập khẩu và đã có sự điều chỉnh khi Quốc hội mở rộng khung thuế suất lên 150% Sau một thời gian, Chính phủ quyết định bãi bỏ Quỹ Bình ổn giá, chuyển nguồn thu vào quỹ khuyến khích xuất khẩu xăng dầu Ngày 23 tháng 3 năm 2009, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 56/2009-TT-BTC hướng dẫn cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu Theo đó, giá vốn bán ra được xác định bằng giá Platt’s Singapore bình quân cộng với các chi phí phát sinh ngoài nước và các loại thuế, phí theo quy định của Nhà nước, cùng với chi phí kinh doanh và lợi nhuận tối đa, trong đó có quy định cụ thể về mức trích lập quỹ bình ổn giá và giới hạn tăng giá mỗi lần điều chỉnh.

Nhà nước đã quyết định thu phí giao thông thông qua giá xăng dầu, thay vì thu trực tiếp từ người tham gia giao thông Điều này dẫn đến việc xăng dầu phải chịu thêm một khoản thu ngân sách tương tự như thuế nhập khẩu và thu ở khâu bán ra.

Phương thức thu phí xăng dầu được thực hiện theo số tuyệt đối (đ/lít) thay vì theo tỷ lệ phần trăm như thuế nhập khẩu Kể từ ngày 01/01/2000, Nhà nước đã chính thức đổi tên lệ phí giao thông thành phí xăng dầu.

Kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN, việc giảm thuế nhập khẩu trở nên cấp thiết, nhưng điều này lại mâu thuẫn với mục tiêu thu ngân sách Nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này, nguồn thu hàng nghìn tỷ đồng có thể bị giảm hàng năm mà không thể bù đắp từ các nguồn thu khác Do đó, thuế tiêu thụ đặc biệt đã được áp dụng để khắc phục tình hình.

Thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ áp dụng cho mặt hàng xăng ô tô, không áp dụng cho các mặt hàng khác Phương thức thu thuế được thực hiện theo tỷ lệ % trên giá CIF cộng với thuế nhập khẩu Đây được xem là giải pháp hợp lý, vì đến thời điểm áp dụng thuế này, chỉ có mặt hàng xăng đạt và vượt khung thuế suất.

Mặt khác, xăng ô tô cũng là một mặt hàng cần phải khuyến khích tiết kiệm tiêu dùng mặt hàng được áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt.

Từ ngày 01/ 01/1999, Việt Nam áp dụng đồng bộ Luật thuế giá trị gia tăng.

Xăng dầu là mặt hàng nhập khẩu và chịu thuế giá trị gia tăng (VAT) tại khâu nhập khẩu Mức thuế VAT áp dụng cho xăng dầu tương tự như thuế nhập khẩu, với tỷ lệ thống nhất cho tất cả các loại xăng dầu, ngoại trừ xăng ô tô, vì đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt Tóm lại, người tiêu dùng sẽ phải chi trả cho Nhà nước qua các khoản thu từ xăng dầu.

1 Thuế nhập khẩu: thu %/giá CIF.

2 Phụ thu: thu %/giá CIF.

3 Thuế tiêu thụ đặc biệt: thu %/(giá CIF + Thuế nhập khẩu).

4 Thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu: thu %/(giá CIF + Thuế nhập khẩu).

5 Phí xăng dầu: thu đồng/lít bán ra.

Với 5 khoản thu nói trên, phần bổ sung vào giá bán xăng dầu chiếm tỷ lệ rất cao, có thời kỳ xấp xỉ khoảng 50%/trên giá bán xăng dầu trong nước.

Mức thu từ xăng dầu nhập khẩu qua các năm từ 1996 đến 2001 và 2008 (tính trên đ/lít), cụ thể xem Bảng 2.6.

Bảng 2.6 Mức thu từ xăng dầu nhập khẩu qua các năm từ

Thuế VAT Xăng dầu nhập khẩu

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của Bộ Công Thương

Thuế nhập khẩu và thu từ xăng dầu nhập khẩu là công cụ quan trọng để quản lý thị trường Để đảm bảo hiệu quả, cần phân tích và đánh giá kỹ lưỡng về liều lượng và phương thức thu, dựa trên thực tiễn trong những năm qua.

Tên gọi và bản chất kinh tế của các khoản thu ngân sách vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao, với sự không phù hợp giữa hình thức và nội dung Các phương thức thu và cách thức thu ở từng khâu không tương xứng với tên gọi của từng khoản thu, mặc dù tất cả đều là nguồn thu cho ngân sách.

- Về thuế tiêu thụ đặc biệt: Cần phải phải thu ở giai đoạn tiêu thụ sản phẩm thì lại thu ngay ở giai đoạn nhập khẩu.

Thuế giá trị gia tăng (VAT) là thuế đánh trên trị giá gia tăng, theo nguyên tắc phải thu ở giai đoạn bán hàng hóa Tuy nhiên, hiện nay thuế này lại được thu ngay ở giai đoạn nhập khẩu, điều này không phù hợp với nguyên tắc thu thuế vì giá trị gia tăng chưa xuất hiện tại thời điểm nhập khẩu Đặc biệt trong trường hợp nhập khẩu xăng dầu để bán lỗ do giá tối đa bị khống chế, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế giá trị gia tăng mặc dù giá trị gia tăng có thể không tồn tại hoặc âm Hệ quả là việc hoàn thuế trở nên phức tạp.

Phí xăng dầu, trước đây được gọi là Lệ phí giao thông, không phản ánh đúng bản chất của khoản thu này Hiện tại, chỉ có 2 trong 4 mặt hàng được thu phí xăng dầu, với mức thu khác nhau: xăng là 500 đồng/lít và diesel.

Quản lý hạn ngạch nhập khẩu

Cơ chế quản lý hạn ngạch nhập khẩu là cơ chế phối hợp giữa Bộ Công thương,

Bộ Kế hoạch Đầu tư và Doanh nghiệp chịu trách nhiệm xác định và thực hiện các hạn ngạch, trong khi Bộ Công Thương đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các hạn ngạch này Các doanh nghiệp cần tuân thủ và thực hiện theo các hạn ngạch đã được đề ra.

Việc giao chỉ tiêu hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu hàng năm được thực hiện dựa trên nhu cầu của nền kinh tế và nguồn sản xuất trong nước Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Công thương xác định nhu cầu định hướng cho năm tiếp theo Dựa trên nhu cầu này, Bộ Công thương sẽ giao tổng mức hạn ngạch nhập khẩu tối thiểu cho các thương nhân có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu Mức hạn ngạch được xác định dựa vào mức tăng trưởng, nhu cầu xăng dầu của nền kinh tế trong năm kế hoạch, cũng như khả năng thực hiện của từng doanh nghiệp.

Việc giao chỉ tiêu hạn ngạch xăng dầu nhập khẩu hàng năm chỉ mang tính chất định hướng, giúp doanh nghiệp không nhập vượt quá chỉ tiêu và hỗ trợ cơ quan Hải quan trong thủ tục nhập khẩu Tuy nhiên, cơ chế này thiếu chế tài xử lý đối với các doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chỉ tiêu, dẫn đến tình trạng thiếu kiểm tra, kiểm soát Điều này làm giảm tính tích cực và ý nghĩa kinh tế của chỉ tiêu, khiến một số doanh nghiệp tùy tiện trong việc thực hiện tiến độ nhập khẩu, đặc biệt khi giá xăng dầu thế giới tăng cao.

Việc giao chỉ tiêu hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu luôn liên quan chặt chẽ đến các chính sách quản lý vĩ mô về xăng dầu, dẫn đến một số khả năng có thể xảy ra trong quá trình điều hành và quản lý nguồn cung này.

Việc xoá bỏ chỉ tiêu hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu mà không điều chỉnh chính sách thuế và giá có thể dẫn đến tình trạng cung ứng không ổn định Khi giá thị trường thế giới biến động bất lợi, sẽ có lúc chỉ một vài doanh nghiệp tham gia kinh doanh do không có lợi nhuận, hoặc ngược lại, quá nhiều doanh nghiệp tham gia khi có lợi nhuận cao.

Hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu không chỉ là một chỉ số tổng thể về cung cầu, mà còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường Nếu tách rời hạn ngạch này khỏi tổng cân đối cung cầu hàng năm, việc xác định khối lượng hạn ngạch sẽ mất đi ý nghĩa tích cực, đặc biệt trong bối cảnh thị trường thế giới đang phải đối mặt với nhiều biến động giá bất lợi.

Nếu hạn ngạch xăng dầu thấp hơn nhu cầu thực tế, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt sản phẩm và phát sinh “xin cho” hạn ngạch không cần thiết Ngược lại, khi hạn ngạch vượt quá nhu cầu mà không kiểm soát nhập khẩu, các doanh nghiệp dễ dàng chọn thời điểm kinh doanh có lợi, dẫn đến việc không nhập khẩu đủ số lượng được giao và chỉ tập trung vào các thời kỳ có lãi Điều này gây bất lợi cho nền kinh tế, mất an toàn và lãng phí xã hội.

Trong bối cảnh kinh doanh có lợi nhuận, các doanh nghiệp thường cạnh tranh khốc liệt bằng cách áp dụng các biện pháp như giảm giá bán Hệ quả là, Nhà nước thu được thuế giá trị gia tăng thấp hơn do giá bán giảm, dẫn đến giá trị gia tăng giảm và nguồn thu ngân sách từ thuế giá trị gia tăng cũng bị ảnh hưởng Trong khi đó, người tiêu dùng không nhận được nhiều lợi ích từ sự cạnh tranh này.

Khi lượng xăng dầu nhập khẩu vượt quá nhu cầu và không sử dụng hết hạn ngạch, tình trạng tồn chứa lâu dài sẽ dẫn đến hao hụt lớn và gia tăng chi phí phạt cho tàu ngoại do giới hạn sức chứa của kho tại cảng Hơn nữa, việc sử dụng phương tiện vận tải tư nhân với trang bị thiếu an toàn, đặc biệt là các kho nổi trên sông, tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ và gây mất an toàn cho cộng đồng cũng như các dịch vụ khác trên sông và biển.

Khi hạn ngạch nhập khẩu được giao vượt quá khả năng tiêu thụ thực tế của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ phải tìm mọi cách để tiêu thụ hết lượng xăng dầu đã nhập Điều này có thể dẫn đến việc bán hàng dưới dạng nhập khẩu ủy thác, thực chất là chuyển nhượng hạn ngạch nhập khẩu hợp pháp cho các doanh nghiệp khác, kể cả những doanh nghiệp không đủ điều kiện làm đầu mối nhập khẩu Việc này nhằm đảm bảo doanh nghiệp có đủ số lượng để đáp ứng chỉ tiêu hạn ngạch, từ đó tạo cơ sở để tiếp tục được cấp hạn ngạch trong năm sau.

Trong bối cảnh kinh doanh khó khăn, Nhà nước đã phải hỗ trợ doanh nghiệp, như trong các năm 2000, 2007 và đầu năm 2008, đặc biệt là với các doanh nghiệp chủ đạo như Petrolimex trong lĩnh vực nhập khẩu xăng dầu Để tăng cường nguồn lực cho Petrolimex, Nhà nước cần điều chuyển một phần hạn ngạch từ các doanh nghiệp khác không thực hiện kịp tiến độ nhập khẩu, nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chủ đạo diễn ra ổn định ngay cả trong những điều kiện bất lợi.

Quản lý hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu hiện tại có thể gây bất lợi cho ngân sách Nhà nước Do đó, việc sử dụng hạn ngạch một cách tích cực không chỉ giúp tạo ra môi trường kinh doanh công bằng mà còn duy trì sự cân đối cho thị trường xăng dầu, tránh tình trạng thừa hoặc thiếu.

Trong những năm qua, việc kiểm tra và kiểm soát tiến độ cũng như cơ cấu nhập khẩu xăng dầu của các doanh nghiệp chưa được thực hiện một cách triệt để, đặc biệt bộc lộ rõ nhược điểm của quản lý hạn ngạch vào các năm 2000 và 2007 Mặc dù đã có yêu cầu kiểm điểm thực hiện hạn ngạch nhập khẩu, nhưng do thiếu chế tài xử lý cụ thể, nên không tạo ra tác động tích cực đối với doanh nghiệp Thậm chí, việc xử lý còn có lợi cho những doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ chỉ tiêu hạn ngạch, như việc cắt giảm hạn ngạch đối với các mặt hàng thua lỗ, đặc biệt là mazut, thực chất là giảm bớt trách nhiệm của doanh nghiệp trước thị trường và Nhà nước Trong một số trường hợp, cơ quan quản lý còn bổ sung chỉ tiêu nhập khẩu cho những doanh nghiệp không thực hiện nhập khẩu trong thời kỳ kinh doanh xăng dầu thua lỗ.

Hạn ngạch nhập khẩu sẽ không còn tồn tại lâu dài do tiến trình hội nhập và loại bỏ hàng rào phi thuế quan từ năm 2006 Tuy nhiên, với nhà máy lọc dầu Dung Quất mới chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu hiện tại và sản phẩm chưa ổn định, việc duy trì hạn ngạch nhập khẩu vẫn cần thiết Cần có cải cách để phát huy tích cực của hạn ngạch này, đồng thời đảm bảo sự đồng bộ với các yếu tố quản lý khác.

Trong những năm gần đây, nguồn xăng pha chế từ nguyên liệu condensate nội địa đang gia tăng đáng kể Sự phát triển trong khai thác và chế biến đã giúp sản lượng condensate ổn định và tăng cao, với chất lượng tốt, có khả năng pha chế thành xăng thông dụng (mogas 83) Do đó, nguồn xăng pha chế trong nước cần được xem như một phần quan trọng trong tổng cung cầu và cần được quản lý như một “hạn ngạch nội địa”.

Hiện nay, việc quản lý chất lượng sản phẩm pha chế (xăng 83) đang bị buông lỏng.

Quản lý hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất

Nhà nước không hạn chế cấp chỉ tiêu cho hoạt động tạm nhập tái xuất, nhưng việc quy định điều kiện cho doanh nghiệp tham gia là cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh Điều này tương tự như các quy định áp dụng cho doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu nội địa.

Hiện tại, nhà nước chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể cho hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất Một số quy định liên quan đến thủ tục hải quan đã được nêu trong thông tư số 70/2009/TT-BTC, nhưng các quy định về hoạt động này chỉ được đề cập trong khái niệm kinh doanh xăng dầu tại nghị định 84/2009/Nð-CP Do đó, việc hoàn thiện các quy định về cơ chế hỗ trợ và kiểm tra hoạt động này là yêu cầu cấp thiết.

Hiện nay, việc kiểm tra và kiểm soát hoạt động liên quan đến thị trường xăng dầu nội địa chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến nhiều hạn chế và tiêu cực trong hoạt động này.

1 Trong trường hợp thị trường tái xuất khó phát triển tăng thêm, việc cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia tái xuất cùng một thị trường có thể gây thiệt hại thêm cho Nhà nước do cạnh tranh giảm giá bán.

2 ðối với mặt hàng xăng dầu có thuế nhập khẩu cao, sự kiểm soát của các cơ quan Nhà nước không đầy đủ, kịp thời và sự phối hợp không đồng bộ giữa các ngành hữu quan đã xảy ra tình trạng hàng tái xuất quay trở lại Việt Nam Mặc dù số lượng không nhiều, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến thị trường nội địa, nhất là các khu vực có vùng biển thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xăng dầu trốn lậu thuế.

3 Kết quả hoạt động tái xuất của doanh nghiệp được cấp giấy phép tái xuất cũng như việc chấp hành các quy định quản lý hoạt động tái xuất không phải là tiêu chí để các cơ quan Nhà nước thường xuyên đánh giá cho phép tiếp tục hoặc hạn chế/chấm dứt kinh doanh tái xuất của doanh nghiệp Việc điều tra phát hiện những đối tượng có hành vi gian lận trong hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất chưa

Ðánh giá chung về quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Những thành tựu đạt được trong quản lý Nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu

Đánh giá về cơ chế quản lý Nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu cho thấy, sau hơn 10 năm hoạt động trong cơ chế thị trường, quản lý kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực nhờ vào việc áp dụng các chính sách hợp lý, từ thực tiễn đến chính sách Nhà nước đã hình thành hệ thống các chính sách quản lý, qua đó tạo ra những tác động tích cực, góp phần thay đổi diện mạo thị trường xăng dầu nội địa Những thành tựu này chứng tỏ rằng các chính sách đã phát huy hiệu quả sau thời gian thử nghiệm.

Hệ thống cơ chế chính sách quản lý Nhà nước về kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam đã xóa bỏ độc quyền, tạo ra một môi trường cạnh tranh với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu Sự cạnh tranh này không chỉ giúp giảm lợi nhuận siêu ngạch mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp tiết giảm chi phí, từ đó tăng cường khả năng cạnh tranh Kết quả là, dòng chảy xăng dầu được điều chỉnh một cách tự nhiên từ các cảng đầu mối đến nơi tiêu thụ bằng con đường ngắn nhất và với chi phí thấp nhất, mang lại lợi ích chung cho xã hội và hình thành mức chi phí tối ưu.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vào hoạt động kinh doanh xăng dầu nội địa, tạo ra một hệ thống phân phối rộng khắp trên toàn quốc Kinh doanh xăng dầu, ngoại trừ khâu nhập khẩu, hiện có sự tham gia đa dạng nhất từ các thành phần kinh tế Đặc biệt, khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng lớn trong khâu bán lẻ đến tay người tiêu dùng, đặc biệt ở những thị trường cạnh tranh cao, nơi mà tỷ lệ tham gia của doanh nghiệp tư nhân vượt trội hơn so với doanh nghiệp nhà nước Ngoài ra, trong các lĩnh vực phụ trợ như vận tải và kinh doanh bồn bể chứa, trong những năm đầu của cơ chế thị trường chủ yếu thuộc về doanh nghiệp nhà nước, nhưng giờ đây, doanh nghiệp tư nhân đã dần thâm nhập và đầu tư mạnh mẽ vào các lĩnh vực này.

Cơ chế quản lý giá xăng dầu đã có những thay đổi tích cực, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời ổn định tình hình chính trị và xã hội Mặc dù còn nhiều bất cập, nhưng cơ chế này đã hỗ trợ quá trình chuyển đổi từ bao cấp sang thị trường có sự quản lý của Nhà nước Các chính sách như bù giá, giữ giá, kiểm soát giá, điều chỉnh thuế nhập khẩu và phí linh hoạt đã đóng vai trò quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.

Người tiêu dùng được bảo hộ qua chính sách điều chỉnh giá, tạo sự ổn định giá trong thời gian dài, ngay cả khi giá xăng dầu thế giới biến động, từ đó góp phần vào sự ổn định chính trị - kinh tế xã hội trong nước Sự cạnh tranh trên thị trường xăng dầu mang lại quyền lựa chọn cho người tiêu dùng, cho phép họ tìm kiếm sản phẩm tốt nhất với giá cả hợp lý, điều mà thời kỳ bao cấp không thể đạt được.

Trong thời gian qua, quản lý Nhà nước về kinh doanh xăng dầu đã tạo ra nguồn thu lớn từ thuế tính trên mỗi lít xăng dầu tiêu thụ hàng năm, góp phần quan trọng vào việc cân đối thu chi ngân sách quốc gia.

Vào thứ sáu, các cơ chế và chính sách quản lý Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển ngành xăng dầu Việt Nam, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

Hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu 128 CHƯƠNG 3: QUAN ÐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ðỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2020 138 3.1 Những thách thức đối với quản lý nhà nước về kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay còn chậm và chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển, chưa hoạt động theo đúng cơ chế thị trường Mặc dù kinh doanh xăng dầu đã được vận hành theo cơ chế thị trường, nhưng Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc quản lý, với Chính phủ kiểm soát toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu và một phần hoạt động phân phối xăng dầu.

Hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam vẫn chưa thực sự vận hành theo cơ chế thị trường, điều này thể hiện qua việc điều chỉnh giá xăng dầu trong nước không phù hợp với xu hướng biến động của thị trường thế giới Theo Nghị định 84/2009/Nð-CP, mặc dù có sự quản lý của Nhà nước, nhưng 87,3% người được hỏi cho rằng cơ chế kinh doanh xăng dầu hiện nay chưa tuân thủ đúng nguyên tắc của cơ chế thị trường.

Nghiên cứu chỉ ra rằng cải cách chính sách trong quản lý kinh doanh xăng dầu là cần thiết để ổn định thị trường Các cơ quan quản lý nhà nước cần triển khai giải pháp và mô hình quản lý phù hợp nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường xăng dầu, từ đó hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế xã hội.

Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, khởi động quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu Sự gia tăng nhu cầu xăng dầu cùng với áp lực từ hội nhập đã tạo ra những thách thức mới cho công tác quản lý xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu.

Các hạn chế cụ thể trong quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu như sau:

Quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu của các cơ quan hành chính Nhà nước hiện đang gặp nhiều bất cập, không đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường Đầu tiên, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật diễn ra chậm, thường chỉ được thực hiện sau khi có biến động trên thị trường Thứ hai, cơ chế phối hợp giữa các Bộ/ngành trong quản lý kinh doanh xăng dầu còn yếu kém, dẫn đến tình trạng chồng chéo và phản ứng chậm trước các diễn biến thị trường Cuối cùng, công tác kiểm tra giám sát nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và chống gian lận thương mại vẫn còn nhiều hạn chế do thiếu hụt nhân lực và năng lực cán bộ, cũng như sự phối hợp chưa hiệu quả giữa các ban/ngành.

• Hai là, công tác quy hoạch, lập kế hoạch về kinh doanh xăng dầu còn nhiều bất cập, thiếu căn cứ khoa học.

Kết quả phân tích ở trên cho thấy, công tác quy hoạch kho cảng, cửa hàng kinh doanh xăng dầu còn nhiều bất cập, thiếu căn cứ khoa học.

Hiện nay, Việt Nam có 22 kho cảng đầu mối và trung chuyển xăng dầu, nhưng quy mô còn nhỏ và phân bố không hợp lý Chỉ có 2 kho cảng đầu mối có khả năng tiếp nhận tàu trên 30.000 DWT và 2 cảng tiếp nhận tàu 25.000 DWT, trong khi phần lớn còn lại rất nhỏ và hạn chế khả năng mở rộng Nhiều kho xăng dầu cần phải di dời do không phù hợp với quy hoạch tổng thể, với 10 kho đã được xác định phải di dời, tổng sức chứa lên tới 240.262 m3 Hệ thống cửa hàng xăng dầu khoảng 10.000 nhưng nhiều trong số đó được xây dựng thiếu quản lý chặt chẽ và không tuân thủ quy hoạch.

Tình trạng phân bố lộn xộn và không đáp ứng tiêu chuẩn trong hệ thống cửa hàng xăng dầu đang gây lãng phí nguồn lực xã hội và khó khăn trong việc bình ổn thị trường, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu rõ ràng trong quy hoạch và quản lý hạ tầng kinh doanh xăng dầu, dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền và trách nhiệm giữa các bộ, ngành và cơ quan địa phương.

Chính sách quản lý xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu của Việt Nam đang trở nên lạc hậu trong bối cảnh hội nhập quốc tế nhanh chóng, dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa phương pháp lập kế hoạch truyền thống và thực tế cạnh tranh toàn cầu Để giải quyết những thách thức từ WTO, khu vực mậu dịch tự do, cũng như sự cạnh tranh từ Trung Quốc và các nước ASEAN, cần phải xóa bỏ khoảng cách này Nếu không, chính sách hiện tại sẽ tiếp tục thiếu tính nhất quán và thực tiễn Do đó, việc cải cách mạnh mẽ là cần thiết để đạt được mục tiêu của Kế hoạch 5 năm và Chiến lược 10 năm cho ngành dầu khí Việt Nam.

Phương pháp lập kế hoạch cũ trong quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu chủ yếu dựa vào mong muốn của lãnh đạo, thiếu sự phân tích khoa học và không phản ánh nhu cầu thực tế của thị trường Mặc dù khung pháp lý còn nhiều bất cập, các cơ quan vẫn phải đạt được các mục tiêu đã đề ra, với tiến độ được giám sát và báo cáo thường xuyên Nếu không hoàn thành mục tiêu, cán bộ sẽ phải chịu trách nhiệm chính trị Phương pháp này từng phù hợp khi Việt Nam là nền kinh tế kế hoạch hóa tách biệt, nhưng hiện tại đã trở nên lạc hậu Những lý do này dẫn đến sự bất cập trong phương pháp lập kế hoạch hiện nay.

Chiến lược quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu cần được xây dựng dựa trên việc phân tích tình hình thế giới hiện tại, đồng thời xem xét vị trí hiện tại và tiềm năng tương lai của Việt Nam trong bối cảnh thực tế.

Xu hướng phát triển tại Đông Á và ASEAN đang ngày càng trở nên quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng chính sách không chỉ dựa vào nhu cầu và mong muốn nội địa mà còn phải xem xét bối cảnh khu vực và toàn cầu.

Chính sách quản lý kinh doanh xăng dầu cần mang tính gián tiếp và hướng dẫn, thay vì trực tiếp và bắt buộc Chính phủ nên phát triển các công cụ và kênh chính sách để khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài trong tất cả các giai đoạn của thị trường xăng dầu, phù hợp với các cam kết quốc tế Sự tham gia của các thành phần kinh tế này ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của ngành xăng dầu tại Việt Nam.

Cơ chế định giá và điều hành giá xăng dầu hiện nay còn nhiều hạn chế, không thể phản ánh kịp thời những biến động của thị trường trong nước và quốc tế.

Theo quy định trước đây, Ban Vật giá Chính phủ quy định giá bán lẻ tối đa cho xăng, dầu hoả và diesel Cơ chế giá trần này dựa trên các chỉ số giá nhập khẩu theo giá CIF, đồng thời xem xét lạm phát, biến động tỷ giá và chi phí lưu thông từ năm trước Ngoài ra, các loại thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và lệ phí giao thông cũng được tính vào giá bán của nhiều sản phẩm dầu khí.

Hệ thống giá trần được đề xuất cho Chính phủ để xác định mức giá bán buôn và bán lẻ Gần đây, giá dầu thô giảm mạnh đã kéo theo sự giảm giá xăng dầu trên toàn cầu Trong các năm 2006 và 2007, giá xăng dầu tăng cao khiến Chính phủ không thể tiếp tục hỗ trợ bù lỗ Do đó, sau đợt giảm giá mạnh vào nửa cuối năm 2008, Chính phủ đã có xu hướng thả nổi giá xăng dầu, cho phép giá cả vận hành theo cơ chế thị trường Qua quá trình điều hành giá xăng dầu, có thể rút ra một số nhận xét quan trọng.

• Giá thống nhất trên toàn quốc, không phản ánh những chi phí trong quá trình phân phối;

• Sự chênh lệch giữa thuế suất dầu diesel và xăng cao dẫn đến sử dụng thái quá dầu diesel, không có hiệu quả kinh tế;

• Giá được điều chỉnh chậm có thể gây ra những vấn đề trong giai đoạn giá biến động lớn và nhanh;

• Giá không phản ánh đúng những chi phí về cung ứng, gửi những thông điệp sai đến người tiêu dùng và nhà cung cấp.

Quan điểm đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu trong giai đoạn 2011-2020

Hình thành Trung tâm nghiên cứu dự báo về xăng dầu

Việt Nam có thể dễ dàng vượt qua các thách thức và thu hẹp khoảng cách với những quốc gia phát triển hơn nhờ vào những kinh nghiệm quý báu đã tích lũy được.

Trong nhiều năm qua, nghiên cứu và dự báo về cung cầu xăng dầu cùng với biến động giá cả trong nước và quốc tế chưa được chú trọng đúng mức Điều này dẫn đến việc thiếu luận cứ khoa học cần thiết cho việc xây dựng các cơ chế và chính sách quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu Hơn nữa, các doanh nghiệp nhập khẩu và phân phối xăng dầu cũng gặp khó khăn do thiếu thông tin hỗ trợ cần thiết.

Dựa trên thực tiễn quản lý Nhà nước về kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, tác giả đề xuất thành lập Trung tâm nghiên cứu và dự báo về xăng dầu Trung tâm này sẽ hoạt động dưới sự quản lý của Bộ Công thương, nhằm nâng cao hiệu quả trong việc quản lý và phát triển ngành xăng dầu.

Trung tâm nghiên cứu dự báo về xăng dầu có nhiệm vụ nghiên cứu và dự báo cung cầu cũng như biến động giá xăng dầu cả trong nước và quốc tế Bên cạnh đó, trung tâm còn thực hiện nghiên cứu về các cơ chế và chính sách quản lý Nhà nước liên quan đến kinh doanh xăng dầu, đồng thời đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu trong lĩnh vực này.

Trung tâm nghiên cứu dự báo về xăng dầu có các nhiệm vụ chính sau đây:

Nghiên cứu và dự báo về cung cầu cũng như biến động giá xăng dầu trên thế giới và trong nước là rất quan trọng Việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá xăng dầu giúp hiểu rõ hơn về thị trường toàn cầu và nội địa Thông qua các dự báo này, có thể đưa ra các chiến lược phù hợp nhằm ứng phó với sự biến động giá cả, từ đó đảm bảo nguồn cung ổn định và giá cả hợp lý cho người tiêu dùng.

(iii) Nghiên cứu đánh giá cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước về kinh doanh xăng dầu.

(iv) Nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách quản lý Nhà nước về phát triển ngành xăng dầu và về kinh doanh xăng dầu;

Hợp tác trong nước và quốc tế là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu và dự báo về xăng dầu, đồng thời cũng cần thiết cho việc đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu trong lĩnh vực này Việc xây dựng mối quan hệ hợp tác sẽ giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu và dự báo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường xăng dầu.

3.3.3 ðổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu

Cơ chế và chính sách quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt Nam đang có nguy cơ lỗi thời do sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ và cạnh tranh toàn cầu theo WTO, cũng như những thách thức từ Trung Quốc và các nước ASEAN Nếu không xóa bỏ khoảng cách giữa phương pháp lập kế hoạch cũ và thực tế hiện tại, chính sách sẽ tiếp tục thiếu tính nhất quán và thực tiễn Do đó, cần thiết phải thực hiện cải cách mạnh mẽ để đạt được mục tiêu phát triển bền vững cho ngành dầu khí Việt Nam.

3.3.3.1 ðổi mới chính sách đối với thương nhân.

Chính sách đối với thương nhân phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu rộng vào thị trường xăng dầu, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp này.

Chuẩn hóa các điều kiện kinh doanh xăng dầu là yếu tố quan trọng để tạo ra môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia thị trường Điều này giúp các tổ chức và cá nhân có thể chủ động hơn trong quá trình gia nhập ngành xăng dầu.

Chuẩn hóa điều kiện kinh doanh xăng dầu giúp doanh nghiệp dễ dàng chuyển đổi giữa các công ty khi hoạt động không hiệu quả, từ đó nâng cao tính linh hoạt trong kinh doanh Việc tiêu chuẩn hóa, đặc biệt tại các cây xăng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển nhượng sở hữu, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập và rút lui khỏi thị trường một cách hiệu quả Hơn nữa, trong bối cảnh đấu thầu cung cấp xăng dầu cho các vùng khó khăn, việc chuyển đổi dễ dàng sẽ giảm thiểu chi phí kinh doanh và nâng cao hiệu quả đấu thầu.

Nhà nước đã thiết lập các tiêu chuẩn và điều kiện cho thương nhân kinh doanh xăng dầu, bao gồm doanh nghiệp nhập khẩu, đại lý phân phối và cửa hàng bán lẻ Mỗi loại đối tượng đều có bộ điều kiện riêng, bao gồm cấp giấy phép kinh doanh, cơ sở hạ tầng và an toàn Mặc dù các điều kiện hiện tại đã tương đối đầy đủ, nhưng cần điều chỉnh để phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng nhu cầu xăng dầu ngày càng tăng tại Việt Nam trong tương lai.

3.3.3.2 ðổi mới cơ chế, chính sách giá Một trong những nguyên tắc quan trọng đối với chính sách định giá đó là:

Cần kiên quyết đổi mới cơ chế quản lý và điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường, cho phép doanh nghiệp tự chủ về giá, cạnh tranh và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh Tuy nhiên, việc vận hành giá theo cơ chế thị trường không đồng nghĩa với việc thả nổi giá, mà Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý và can thiệp khi cần thiết Cần xem xét mối tương quan giữa các loại nhiên liệu thay thế để định hướng tiêu dùng, tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững Đồng thời, chính sách giá cần hội nhập quốc tế, phản ánh đúng biến động giá xăng dầu thế giới và tạo mặt bằng giá tương đương với các nước láng giềng để hạn chế buôn lậu xăng dầu.

Chính sách giá trần trước đây không hiệu quả trong việc điều tiết thị trường, khi giá thế giới tăng, giá trong nước cũng tăng nhưng không đồng đều do sự hỗ trợ của nhà nước Ngược lại, khi giá thế giới giảm, giá trong nước không giảm hoặc chỉ giảm rất ít, dẫn đến tâm lý tiêu dùng không ổn định và nghi ngờ về tính minh bạch của các doanh nghiệp Do đó, cần điều chỉnh chính sách giá trần để cải thiện tình hình.

Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy rằng cơ chế giá do nhà nước quy định có thể dẫn đến gian lận thương mại khó kiểm soát, đặc biệt khi giá xăng dầu thế giới biến động Khi giá thế giới giảm, nhà nước không hạ giá trần bán lẻ mà tăng thuế nhập khẩu, từ đó tạo động lực cho nhập lậu xăng dầu Ngược lại, khi giá thế giới tăng cao, nhà nước giảm thuế nhập khẩu để bảo vệ lợi ích của nhà phân phối, nhưng có thể dẫn đến lỗ cho doanh nghiệp nếu không điều chỉnh giá bán lẻ Điều này cho thấy cần có một chính sách giá định hướng, trong đó nhà nước chỉ định hướng và tham gia điều tiết giá cùng doanh nghiệp, nhằm đảm bảo giá xăng dầu trong nước phù hợp với giá quốc tế và lợi ích của người tiêu dùng.

Giải pháp cơ bản trong định giá xăng dầu là để các doanh nghiệp tự xác định giá, đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả Việc xác định giá dựa trên chi phí đầu vào, cung cầu thị trường, cũng như chiến lược kinh doanh và thực tế cạnh tranh Áp dụng mức giá bán theo chi phí cộng sẽ thu hút doanh nghiệp nhập khẩu, đặc biệt ở các vùng xa có chi phí cao, giúp giảm thiểu tình trạng lỗ.

Ngày đăng: 14/10/2022, 09:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban chấp hành Trung ương ðảng cộng sản Việt Nam(2001), Văn kiện ðại hội ðảng toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện ðại hội ðảng toàn quốc lần thứ IX
Tác giả: Ban chấp hành Trung ương ðảng cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Năm: 2001
2. Ban chấp hành Trung ương ðảng cộng sản Việt nam (2001), Văn kiện ðại hội đảng toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện ðại hội đảng toàn quốc lần thứ IX
Tác giả: Ban chấp hành Trung ương ðảng cộng sản Việt nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Năm: 2001
3. Bộ Công nghiệp (2005), ðề án quy hoach phát triển ngành dầu khí giai đoạn 2006 – 2015, ðịnh hướng đến 2025, Hà nội, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ðề án quy hoach phát triển ngành dầu khí giai đoạn 2006 – 2015, ðịnh hướng đến 2025
Tác giả: Bộ Công nghiệp
Nhà XB: Hà nội
Năm: 2005
5. Bộ Công thương – Học viện chính trị-hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Tài liệu hội thảo ỘHai năm Việt Nam gia nhập WTO Ờ đánh giá tác động và hội nhập kinh tế quốc tế”, Hà Nội, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu hội thảo ỘHai năm Việt Nam gia nhập WTO Ờ đánh giá tác động và hội nhập kinh tế quốc tế
Tác giả: Bộ Công thương, Học viện chính trị-hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Năm: 2009
8. Bộ Thương mại(2001), Phương hướng phát triển ngành thương mại trong thập kỷ tới 2001-2010, Hà Nội, 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương hướng phát triển ngành thương mại trong thập kỷ tới 2001-2010
Tác giả: Bộ Thương mại
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2001
12. Bộ Thương mại (2004),Quyết định số 1925/2004/Qð-BTM, Bổ sung Quy chế đại lý kinh doanh xăng, dầu ban hành kèm theo Quyết định số 1505/2003/Qð- BTM, ngày 23/12/2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 1925/2004/Qð-BTM, Bổ sung Quy chế đại lý kinh doanh xăng, dầu
Tác giả: Bộ Thương mại
Năm: 2004
19. Bộ Tài chính (2008), Quyết định số 12/2008/Qð-BTC, Về giá bán xăng và các loại dầu, ngày 25/2/2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 12/2008/Qð-BTC, Về giá bán xăng và các loại dầu
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2008
22. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 36/2009/TT-BTC, quy định quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu,2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 36/2009/TT-BTC, quy định quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2009
24. Bùi Ngọc Bảo (2008), “Ổn định thị trường xăng, dầu nội địa”, Báo Nhân dân, ngày 26 tháng 5 năm 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ổn định thị trường xăng, dầu nội địa
Tác giả: Bùi Ngọc Bảo
Nhà XB: Báo Nhân dân
Năm: 2008
25. Bùi Anh Tuấn và Phạm Thái Hưng (2005), “Những giải pháp vượt qua thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”, Báo Nhân dân số 18216, 20-6-2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những giải pháp vượt qua thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO
Tác giả: Bùi Anh Tuấn, Phạm Thái Hưng
Nhà XB: Báo Nhân dân
Năm: 2005
26. CIEM-SIDA (2003), Hội nhập kinh tế, áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, Hà Nội, 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội nhập kinh tế, áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước
Tác giả: CIEM-SIDA
Nhà XB: Nhà xuất bản Giao thông Vận tải
Năm: 2003
27. Chu Văn Cấp(2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
Tác giả: Chu Văn Cấp
Năm: 2003
28. ðỗ ðức Bình và Nguyễn Thường Lạng(2004), Giáo trình Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà Nội, 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Kinh tế quốc tế
Tác giả: ðỗ ðức Bình, Nguyễn Thường Lạng
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động Xã hội
Năm: 2004
29. ðỗ ðức Bình và Bùi Anh Tuấn (2003), Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế quốc tế
Tác giả: ðỗ ðức Bình, Bùi Anh Tuấn
Nhà XB: Nhà xuất bản thống kê
Năm: 2003
30. ðỗ Hoàng Toàn và Mai Văn Lưu (2005), Giáo trình quản lý nhà nước về Kinh tế, Nhà xuất bản Lao ðộng – Xã hội, Hà nội, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình quản lý nhà nước về Kinh tế
Tác giả: ðỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Lưu
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao ðộng – Xã hội
Năm: 2005
31. ðinh Văn Thành (1998), ðịnh hướng chuyển dịch cơ cấu thương mại Việt Nam trong quá trình CNH-HðH và hội nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu đến năm 2010, ðề tài cấp Bộ mã số 96-78-103, Bộ Thương mại, Hà Nội,1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ðịnh hướng chuyển dịch cơ cấu thương mại Việt Nam trong quá trình CNH-HðH và hội nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu đến năm 2010
Tác giả: ðinh Văn Thành
Nhà XB: Bộ Thương mại
Năm: 1998
32. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa kinh tế phát triển (2000), ðổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Lao động, Hà Nội, 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ðổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở nước ta hiện nay
Tác giả: Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa kinh tế phát triển
Nhà XB: NXB Lao động
Năm: 2000
35. Lê Minh Châu (2000), Hoàn thiện quản lý chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại, ðề tài cấp Bộ mã số 99-78-158, Bộ Thương mại Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện quản lý chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại
Tác giả: Lê Minh Châu
Nhà XB: Bộ Thương mại
Năm: 2000
36. Lê Nguyễn Hương Trinh (2006), “Về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, 25-11-2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Tác giả: Lê Nguyễn Hương Trinh
Nhà XB: Tạp chí Triết học
Năm: 2006
37. Mạnh Vũ (2008), “Kinh doanh xăng, dầu theo cơ chế thị trường”, Báo Nhân dân, Hà nội, 18-09-2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh doanh xăng, dầu theo cơ chế thị trường
Tác giả: Mạnh Vũ
Nhà XB: Báo Nhân dân
Năm: 2008

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 2.1 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu đến tháng 11/1988 [6] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.1 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu đến tháng 11/1988 [6] (Trang 63)
Hình 2.2 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu thời kỳ 1988-1993 [6] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.2 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu thời kỳ 1988-1993 [6] (Trang 64)
Hình 2.3 Biến động giá dầu và những sự kiện chính trị, kinh tế 1970-2007 [67] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.3 Biến động giá dầu và những sự kiện chính trị, kinh tế 1970-2007 [67] (Trang 78)
Hình 2.5 Biến động giá dầu giai đoạn 2001-2005 và các sự kiện [67] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.5 Biến động giá dầu giai đoạn 2001-2005 và các sự kiện [67] (Trang 80)
Hình 2.6 Biến động giá dầu quí 2-2008 đến quí 1-2009 [69] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.6 Biến động giá dầu quí 2-2008 đến quí 1-2009 [69] (Trang 81)
Hình 2.7 Biến động giá dầu giai đoạn 1978-2009 [69] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.7 Biến động giá dầu giai đoạn 1978-2009 [69] (Trang 82)
Hình 2.8 Dự báo giá dầu đến 2030 [77] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.8 Dự báo giá dầu đến 2030 [77] (Trang 84)
Bảng 2.1: Lượng tiêu thụ nhiên liệu trong giai đoạn 2003-2008 - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Bảng 2.1 Lượng tiêu thụ nhiên liệu trong giai đoạn 2003-2008 (Trang 88)
Bảng 2.2: Lượng xăng dầu phân phối của các doanh nghiệp đầu mối - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Bảng 2.2 Lượng xăng dầu phân phối của các doanh nghiệp đầu mối (Trang 89)
Hình 2.9 Mô hình quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu  [6] - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.9 Mô hình quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu [6] (Trang 94)
Bảng 2.3. Tổng hợp các chỉ tiêu điều tra, phỏng vấn - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Bảng 2.3. Tổng hợp các chỉ tiêu điều tra, phỏng vấn (Trang 95)
Bảng 2.4: Hệ thống bán lẻ của một số doanh nghiệp xăng dầu ở Việt Nam - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Bảng 2.4 Hệ thống bán lẻ của một số doanh nghiệp xăng dầu ở Việt Nam (Trang 98)
Hình 2.10. Sơ đồ cơ chế quản lý giá trước tác động của thị trường - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.10. Sơ đồ cơ chế quản lý giá trước tác động của thị trường (Trang 112)
Hình 2.11 Qúa trình hình thành  và phát triển cơ chế định giá xăng dầu ở Việt Nam. - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hình 2.11 Qúa trình hình thành và phát triển cơ chế định giá xăng dầu ở Việt Nam (Trang 120)
Bảng 2.5. Giá bán lẻ xăng dầu tối đa theo quy định của Nhà nước (2000 - 2008) - Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Bảng 2.5. Giá bán lẻ xăng dầu tối đa theo quy định của Nhà nước (2000 - 2008) (Trang 121)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w