1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS SV tại cơ quan bảo hiểm xã hội việt nam

95 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Thực Trạng Triển Khai BHYT HS - SV Tại Cơ Quan Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam
Tác giả Lê Thuỳ Dung
Trường học Bảo hiểm
Thể loại luận văn
Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 448,92 KB

Cấu trúc

  • I. Sự cần thiết khách quan của BHYT đối với học sinh – sinh viên (3)
    • 1. Sự cần thiết phải triển khai BHYT HS – SV (3)
  • II. Nội dung cơ bản của BHYT (7)
    • 1. Nội dung cơ bản của BHYT trên thế giới (7)
      • 1.1. Đối tượng tham gia BHYT (7)
      • 1.2. Phạm vi BHYT (8)
      • 1.3. Phương thức BHYT (8)
      • 1.4. phí BHYT (9)
      • 1.5. quỹ BHYT (10)
    • 2. Nội dung cơ bản của BHYT ở Việt Nam (11)
      • 2.1. Đối tượng tham gia (11)
      • 2.2. Phạm vi BHYT (12)
      • 2.3. Phương thức BHYT (14)
      • 2.4. Phí BHYT (15)
      • 2.5. Quản lý và sử dụng quỹ BHYT (15)
        • 2.5.1. Nguồn hình thành quỹ BHYT (15)
        • 2.5.2. Quản lý và sử dụng quỹ BHYT (16)
      • 2.6. Quyền và trách nhiệm của các bên tham gia BHYT (0)
        • 2.6.1. Đối với người tham gia BHYT (17)
        • 2.6.2. Đối với cơ quan, đơn vị và người sử dụng lao động (17)
        • 2.6.3. Đối với cơ quan BHYT (0)
        • 2.6.4. Đối với cơ sở KCB (19)
      • 2.7. Tổ chức, quản lý BHYT (20)
    • 2. Phạm vi của BHYT HS-SV (21)
    • 3. Phí và quỹ BHYT HS-SV (23)
      • 3.1. Phí BHYT HS-SV (23)
      • 3.2 Quỹ BHYT HS-SV (25)
    • 4. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHYT HS-SV (26)
      • 4.1. Đối với học sinh - sinh viên (26)
      • 4.2. Đối với nhà trường (29)
      • 4.3. Đối với các cơ sở khám chữa bệnh (30)
      • 4.4. Đối với cơ quan BHXH (31)
    • 5. In ấn và phát hành thẻ (32)
    • 6. Tổ chức thực hiện (32)
    • 7. Mối quan hệ giữa BHYT HS-SV và YTHĐ (33)
      • 7.1. BHYT HS-SV tác động đến YTHĐ (34)
      • 7.2. YTHĐ tác động đến BHYT HS-SV (35)
  • III. So sánh BHYT HS - SV của BHXH Việt Nam với bảo hiểm học sinh của các Công ty Bảo hiểm thương mại (35)
    • 2. Khác nhau (36)
  • I. Các qui định pháp lý về BHYT HS – SV (39)
  • II. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tham gia BHYT HS-SV (41)
    • 1. Nhu cầu BHYT HS-SV (41)
    • 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khẳ năng tham gia BHYT HS-SV (43)
      • 2.1 Khả năng tài chính (43)
      • 2.2. Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế (44)
      • 2.3. Dân số (45)
  • II. Thực tế thực hiện BHYT HS-SV tại bảo hiểm xã hội việt nam trong (46)
    • 1.1. Thuân lợi (46)
    • 1.2. Khó khăn (48)
    • 2. Tình hình học sinh - sinh viên tham gia BHYT (51)
    • 3. Tình hình thu, chi Quỹ BHYT HS-SV qua các năm (56)
      • 3.1. Tình hình thu BHYT HS – SV (56)
      • 3.2. Tình hình chi BHYT HS – SV (60)
  • III. Đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động BHYT HS - SV tại BHXH Việt Nam (66)
  • I. Quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong việc tổ chức thực hiện BHYT HS - SV từ nay đến 2010 (73)
    • 1. Quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước (73)
  • II. Một số kiến nghị đối với các bên có liên quan (76)
    • 2. Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam (80)

Nội dung

Sự cần thiết khách quan của BHYT đối với học sinh – sinh viên

Sự cần thiết phải triển khai BHYT HS – SV

Bảo hiểm y tế (BHYT) ra đời vào cuối thế kỷ XIX, được xem là một trong những giải pháp hiệu quả nhất hỗ trợ người dân trong việc đối phó với rủi ro sức khỏe BHYT giúp giảm bớt gánh nặng chi phí khám chữa bệnh, từ đó ổn định đời sống và góp phần đảm bảo an toàn xã hội.

Ngày nay, bảo hiểm y tế (BHYT) trở nên vô cùng quan trọng khi chi phí y tế và nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng gia tăng Ngành y học đã đạt được nhiều thành tựu, mang lại hy vọng mới cho con người với nhiều bệnh hiểm nghèo đã có thuốc phòng và chữa trị Sự phát triển của trang thiết bị y tế hiện đại cũng giúp nâng cao khả năng chẩn đoán và điều trị Mặc dù có nhiều nghiên cứu thành công về thuốc đặc trị, nhưng không phải ai cũng có thể tiếp cận những tiến bộ này, đặc biệt là những người nghèo Phần lớn người dân không đủ khả năng tài chính để khám chữa bệnh, trong khi những người khá giả cũng có thể rơi vào “bẫy” đói nghèo bất cứ lúc nào.

BHYT là giải pháp hiệu quả giúp chia sẻ rủi ro trong cộng đồng, hỗ trợ tài chính cho những người bệnh để họ có thể tiếp cận thuốc men và thiết bị y tế, từ đó nhanh chóng phục hồi sức khỏe Không có quốc gia nào có thể đảm bảo ngân sách nhà nước đủ để chăm sóc sức khỏe toàn diện cho cộng đồng mà không có sự đóng góp từ các thành viên trong xã hội Ngày càng có nhiều người nhận ra vai trò quan trọng và không thể thiếu của BHYT trong cuộc sống hàng ngày.

BHYT là cần thiết với tất cả mọi người do nó có tác dụng rất thiết thực.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đã áp dụng bảo hiểm y tế (BHYT) với nhiều hình thức tổ chức khác nhau Dù có cách triển khai khác nhau, BHYT đều mang lại những lợi ích chung cho người dân.

Một là giúp những người tham gia BHYT khắc phục khó khăn về kinh tế khi bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật.

Chi phí khám chữa bệnh là nỗi lo lớn của nhiều người, vì khi ốm đau, họ không chỉ mất khả năng lao động mà còn đối mặt với thu nhập giảm sút Sự gia tăng chi phí y tế đã gây khó khăn cho ngân sách gia đình Tuy nhiên, nhờ có bảo hiểm y tế (BHYT), người bệnh có thể yên tâm điều trị, khi mà gánh nặng tài chính được chia sẻ Điều này giúp họ sẵn sàng chữa bệnh cho đến khi hồi phục hoàn toàn.

Tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) giúp người bệnh giảm bớt gánh nặng tài chính, khi chi phí khám chữa bệnh được BHYT thanh toán Điều này không chỉ giúp họ nhanh chóng phục hồi sức khỏe và ổn định cuộc sống, mà còn mang lại sự yên tâm và lạc quan Đối với người lao động, BHYT tạo điều kiện cho họ tập trung vào sản xuất, từ đó đóng góp vào sự phát triển kinh tế và làm giàu cho xã hội.

Hai là làm tăng chất lượng khám chữa bệnh và quản lý y tế

BHYT và chăm sóc sức khỏe cộng đồng có mối liên hệ chặt chẽ, trong đó chất lượng khám chữa bệnh là yếu tố quyết định Mục tiêu hàng đầu của BHYT là nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, với chi phí cho khám chữa bệnh và mở rộng cơ sở y tế chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách Chất lượng dịch vụ tốt sẽ thu hút người tham gia BHYT, trong khi BHYT cung cấp nguồn tài chính cần thiết cho việc nâng cao dịch vụ y tế Nguyên tắc của BHYT là dựa vào sự đóng góp của cộng đồng, từ đó tạo ra nguồn tài chính lớn Để tăng cường chất lượng khám chữa bệnh một cách bền vững, cần phải dựa vào nguồn kinh phí từ phí bảo hiểm của người tham gia.

Qua đó công tác quản lý y tế cũng đơn giản và dễ dàng hơn.

Ba là tạo ra sự công bằng trong khám chữa bệnh

BHYT là hệ thống phân phối thu nhập công bằng giữa các thành viên, đảm bảo rằng mọi người, bất kể địa vị kinh tế, đều được hưởng quyền lợi khi tham gia Khi tham gia BHYT, người bệnh sẽ được chi trả theo phác đồ điều trị cá nhân, phản ánh tính nhân văn sâu sắc của hệ thống này Nguyên tắc hoạt động của BHYT là có đóng góp thì mới được hưởng, đồng thời cơ quan BHYT giám sát chặt chẽ để ngăn chặn tình trạng tiêu cực, bảo vệ quyền lợi cho tất cả người tham gia.

Bốn là góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước

Nguồn thu ngân sách Nhà nước chủ yếu đến từ thuế, nhưng có nhiều khoản chi cần thiết Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hàng rào thuế quan ngày càng được giảm bớt, khiến cho việc chăm sóc y tế không thể chỉ dựa vào nguồn viện trợ từ Nhà nước Bảo hiểm y tế (BHYT) là một trong những phương pháp hiệu quả nhất, khi Nhà nước và nhân dân cùng chia sẻ chi phí Việc hạch toán thu chi độc lập của BHYT sẽ giúp giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc duy trì hoạt động của ngành y tế.

Mọi lứa tuổi đều có thể tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) để bảo vệ sức khỏe Đặc biệt, giai đoạn học sinh là thời kỳ quan trọng trong sự phát triển của mỗi người Ở độ tuổi này, cơ thể các em vẫn đang phát triển và các em thường hiếu động, chưa nhận thức đầy đủ về các nguy hiểm xung quanh, điều này khiến các em dễ gặp phải rủi ro có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng trong tương lai.

Chăm sóc sức khỏe từ khi còn nhỏ là yếu tố quan trọng giúp trẻ em phát triển toàn diện và tiếp thu kiến thức hiệu quả Khi có sức khỏe tốt, các em mới có khả năng lĩnh hội những kiến thức quý giá từ thầy cô trong quá trình học tập Điều này sẽ tạo nền tảng vững chắc cho thế hệ trẻ, giúp các em đủ năng lực để dẫn dắt đất nước trong tương lai.

Nếu các em phải nằm viện điều trị, cha mẹ sẽ lo lắng và phải nghỉ việc để chăm sóc, dẫn đến mất thu nhập và gánh nặng chi phí khám chữa bệnh Có bảo hiểm y tế (BHYT) giúp chia sẻ chi phí này, giảm bớt khó khăn kinh tế cho gia đình Hơn nữa, cha mẹ không cần tốn thời gian đưa các em đi khám sức khỏe định kỳ và yên tâm hơn khi có y tế trường học hỗ trợ Khi sức khỏe của con em được chăm sóc, cha mẹ sẽ tập trung vào lao động sản xuất, góp phần ổn định kinh tế gia đình và phát triển xã hội.

BHYT HS-SV là giải pháp thiết yếu cho việc chăm sóc sức khỏe học sinh - sinh viên, một đối tượng gắn liền với môi trường trường học Công tác chăm sóc sức khỏe cho học sinh không chỉ quan trọng mà còn liên quan chặt chẽ đến hoạt động YTHĐ Nhiều quốc gia như Anh, Mỹ, Nhật Bản và Philippines đã chú trọng phát triển hệ thống YTHĐ, mang lại hiệu quả cao trong việc chăm sóc sức khỏe và nâng cao kiến thức sức khỏe cho học sinh.

BHYT HS - SV không chỉ chú trọng đến sức khỏe của thế hệ trẻ mà còn giáo dục nhân cách và lối sống nhân ái Tham gia BHYT, các em sẽ nhận thức được tác động tích cực của bảo hiểm y tế đối với bản thân và cộng đồng Qua đó, các em sẽ học được cách chia sẻ khó khăn và đồng cảm với những người kém may mắn Những giá trị sống tốt đẹp này sẽ theo các em suốt cuộc đời và được truyền lại cho các thế hệ sau.

Tóm lại, việc triển khai Bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh, sinh viên (HS-SV) là rất cần thiết, không chỉ vì tương lai của các em mà còn vì sự phát triển bền vững của xã hội.

Nội dung cơ bản của BHYT

Nội dung cơ bản của BHYT trên thế giới

1.1 Đối tượng tham gia BHYT. Đối tượng của BHYT là sức khoẻ của con người, bất kỳ ai có sức khoẻ và có nhu cầu bảo vệ sức khoẻ cho mình đều có quyền tham gia BHYT Như vậy đối tượng tham gia BHYT là tất cả mọi người dân có nhu cầu BHYT cho sức khoẻ của mình hoặc một người đại diện cho một tập thể, một cơ quan … đứng ra ký kết hợp đồng BHYT cho tập thể, cơ quan ấy

Trong giai đoạn đầu triển khai bảo hiểm y tế (BHYT), các quốc gia thường chia thành hai nhóm đối tượng tham gia: bắt buộc và tự nguyện Hình thức bắt buộc áp dụng cho công nhân viên chức nhà nước, người về hưu hưởng lương hưu, và những đối tượng thuộc chính sách xã hội theo quy định pháp luật Trong khi đó, hình thức tự nguyện dành cho mọi thành viên khác trong xã hội có nhu cầu, thường bị giới hạn trong một độ tuổi nhất định tùy thuộc vào từng quốc gia.

Tất cả người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) sẽ được cơ quan BHYT xem xét chi trả bồi thường khi gặp rủi ro về ốm đau, bệnh tật trong quá trình khám chữa bệnh (KCB) Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều được chi trả hoàn toàn, mà chỉ trong phạm vi nhất định tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia.

BHYT là hệ thống thu phí bảo hiểm nhằm đảm bảo chi trả chi phí y tế cho người tham gia Mặc dù mọi công dân đều có quyền tham gia BHYT, nhưng thực tế, những người mắc bệnh nan y thường không được chấp nhận bảo hiểm thông thường trừ khi có thỏa thuận bổ sung.

Người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) sẽ được thanh toán chi phí khám chữa bệnh (KCB) khi gặp rủi ro về sức khoẻ tại các cơ sở y tế, tuy nhiên, trong trường hợp tự hủy hoại bản thân hoặc không kiểm soát được hành động, vi phạm pháp luật, BHYT sẽ không chịu trách nhiệm chi trả.

Mỗi quốc gia đều triển khai các chương trình sức khỏe quốc gia riêng biệt Do đó, cơ quan bảo hiểm y tế (BHYT) không có trách nhiệm chi trả cho những người tham gia bảo hiểm nếu họ khám chữa bệnh theo chương trình này.

Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí KCB cho người có thẻ BHYT thì BHYT có nhiều phương thức thanh toán khác nhau, cụ thể là:

- BHYT trọn gói là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT

Bảo hiểm y tế (BHYT) trọn gói trừ các đại phẫu thuật là phương thức bảo hiểm y tế trong đó cơ quan bảo hiểm y tế sẽ chi trả toàn bộ chi phí khám chữa bệnh thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia, ngoại trừ các chi phí liên quan đến các cuộc đại phẫu phức tạp theo quy định của cơ quan y tế.

BHYT thông thường là phương thức bảo hiểm y tế mà trách nhiệm của cơ quan BHYT tương ứng với nghĩa vụ của người được bảo hiểm Ở các nước phát triển, BHYT đã được triển khai lâu dài và phát triển đa dạng, trong khi các nước đang phát triển thường áp dụng phương thức BHYT thông thường Phương thức này bao gồm hai hình thức: BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện BHYT bắt buộc áp dụng cho những đối tượng nhất định theo quy định của pháp luật, trong khi những người không thuộc diện bắt buộc có thể tham gia BHYT tự nguyện tùy theo nhu cầu và khả năng kinh tế của họ.

1.4 phí BHYT phí BHYT là số tiền mà người tham gia BHYT phải đóng góp để hình thành quỹ BHYT

Phí bảo hiểm y tế (BHYT) được xác định bởi nhiều yếu tố như xác suất mắc bệnh, chi phí y tế, và độ tuổi tham gia Ngoài ra, mức phí có thể khác nhau để phù hợp với khả năng tài chính của từng người Trong số các yếu tố, chi phí y tế là quan trọng nhất, bao gồm tổng số lượt người khám chữa bệnh, số ngày điều trị trung bình, chi phí trung bình cho mỗi lần khám chữa bệnh, và tần suất xuất hiện của các loại bệnh.

Phí bảo hiểm y tế (BHYT) được xác định dựa trên dữ liệu thống kê về chi phí y tế và số lượng người tham gia BHYT trong thời gian gần đây Phí này không chỉ bao gồm chi phí quản lý của tổ chức thực hiện mà còn được tính cho một năm Việc tính toán phí BHYT là một quá trình phức tạp, vừa phải đảm bảo đủ chi trả cho chi phí khám chữa bệnh của người tham gia, vừa phải bảo vệ quyền lợi tối thiểu với mức phí hợp lý.

Tất cả người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) đều phải đóng phí, tạo thành Quỹ BHYT từ các khoản đóng góp này Quỹ BHYT là một quỹ tài chính tập trung, quy mô phụ thuộc vào số lượng và mức độ đóng góp của các thành viên Với mục đích nhân đạo, Quỹ BHYT chủ yếu được hình thành từ hai nguồn: sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, hoặc chỉ từ các thành viên tham gia BHYT.

Quỹ Bảo hiểm Y tế (BHYT) được bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm sự hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước, đóng góp và ủng hộ từ các tổ chức từ thiện, cũng như lợi nhuận từ việc đầu tư quỹ nhàn rỗi theo quy định của pháp luật về BHYT.

Sau khi hình thành quỹ, quỹ BHYT được sử dụng như sau:

- Chi thanh toán chi phí y tế cho người được BHYT

- Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn

- Chi đề phòng hạn chế tổn thất

Tỷ lệ và quy mô các khoản chi này thường được qui định trước bởi cơ quan BHYT và có thể thay đổi theo từng điều kiện cụ thể.

Nội dung cơ bản của BHYT ở Việt Nam

Bảo hiểm y tế (BHYT) tại Việt Nam được tổ chức thực hiện từ năm 1992 theo Nghị định 299/HĐBT, với Điều lệ BHYT được ban hành vào ngày 15/8/1992 Qua thời gian, BHYT đã trải qua nhiều sửa đổi và bổ sung, đặc biệt là theo Nghị định 58/CP ngày 13/8/1998, giúp BHYT Việt Nam dần thống nhất với các hệ thống BHYT của các nước khác.

Theo Nghị đinh 58 thì BHYT Việt Nam cũng được thực hiện dưới hai hình thức là bắt buộc và tự nguyện.

* Đối tượng tham gia bắt buộc gồm:

- người lao động Việt Nam làm việc trong:

+ các doanh nghiệp nhà nước, kể cả các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang.

+ các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị – xã hội.

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, cùng với các cơ quan và tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam, sẽ tuân thủ các quy định hiện hành, ngoại trừ những trường hợp có điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có quy định khác.

+ các đơn vị, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên.

Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội, bao gồm cán bộ xã, phường, thị trấn, được hưởng sinh hoạt phí hàng tháng theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ Điều này cũng áp dụng cho những người làm việc tại các cơ quan dân cử từ Trung ương đến cấp xã, phường.

- người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng do suy giảm khả năng lao động.

- người có công với các mạng theo qui định của pháp luật

- các đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp kinh phí thông qua bảo hiểm xã hội.

Bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện dành cho tất cả mọi đối tượng trong xã hội, bao gồm cả người nước ngoài đang làm việc, học tập và du lịch tại Việt Nam.

Chính phủ đang thúc đẩy việc mở rộng và đa dạng hóa các hình thức bảo hiểm y tế tự nguyện Đồng thời, khuyến khích các tổ chức như Hội chữ thập đỏ, các hội từ thiện, tổ chức quần chúng, cũng như các tổ chức kinh tế nhà nước và tư nhân tham gia hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo Uỷ ban nhân dân các cấp cần chú trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người dân địa phương có thể tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.

Người có thẻ BHYT bắt buộc được hưởng chế độ BHYT khi KCB ngoại trú và nội trú gồm:

- khám bệnh, chẩn đoán và điều trị

- xét nghiệm,chiếu chụp X – quang, thăm dò chức năng

- thuốc trong danh mục theo qui định của Bộ Y tế

- các thủ thuật, phẫu thuật

Người sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện sẽ được quỹ BHYT chi trả các chi phí khám chữa bệnh (KCB) tương ứng với mức đóng và loại hình BHYT tự nguyện mà họ đã chọn Nếu mức đóng BHYT tự nguyện của họ tương đương với mức đóng bình quân của BHYT bắt buộc trong khu vực, họ sẽ được hưởng quyền lợi BHYT giống như những người có thẻ BHYT bắt buộc.

Người có thẻ BHYT có quyền chuyển viện lên tuyến trên khi bệnh vượt quá khả năng chuyên môn của cơ sở KCB Tuy nhiên, Quỹ BHYT sẽ không thanh toán trong một số trường hợp nhất định.

Điều trị bệnh phong bao gồm việc sử dụng thuốc cho các bệnh như lao, sốt rét, tâm thần phân liệt và động kinh Đồng thời, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cũng được cung cấp, vì đây là chương trình sức khỏe quốc gia được ngân sách Nhà nước tài trợ.

- phòng và chữa bệnh dại, phòng bệnh, xét nghiệm, chẩn đoán và điều trị nhiễm HIV – AIDS, lậu, giang mai

- tiêm chủng phòng bệnh, điều dưỡng, an dưỡng, khám sức khoẻ điều trị vô sinh

Chỉnh hình và tạo hình thẩm mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi chức năng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh Các sản phẩm như chân tay giả, mắt giả, răng giả, kính mắt, máy trợ thính, và thủy tinh thể nhân tạo giúp người sử dụng khôi phục khả năng sinh hoạt hàng ngày Bên cạnh đó, ổ khớp nhân tạo và van tim nhân tạo cũng góp phần quan trọng trong việc điều trị các bệnh lý nghiêm trọng, mang lại sự thoải mái và an toàn cho người bệnh.

- các bệnh bẩm sinh và dị tật bẩm sinh

- bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tai nạ chiến tranh và thiên tai

- tự tử, cố ý gây thương tích, nghiện chất ma tuý, vi phạm pháp luật

BHYT tại Việt Nam được triển khai theo hình thức BHYT thông thường, trong đó Quỹ BHYT chi trả 80% chi phí khám chữa bệnh (KCB) cho người có thẻ BHYT bắt buộc, còn 20% chi phí sẽ do người bệnh tự thanh toán Đối với những đối tượng ưu đãi xã hội theo Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, quỹ BHYT sẽ chi trả 100% chi phí KCB.

Nếu người bệnh tự trả 20% chi phí khám chữa bệnh trong năm vượt quá 6 tháng lương tối thiểu, quỹ bảo hiểm y tế sẽ thanh toán toàn bộ các chi phí khám chữa bệnh tiếp theo trong năm Đối với người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện, mức hưởng sẽ được quy định bởi Liên Bộ.

Y tế – Tài chính qui định áp dụng cho từng địa phương sau khi có sự thoả thuận của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc phải đóng 3% lương, trong đó cá nhân đóng 1% và người sử dụng lao động đóng 2% Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân không thuộc biên chế Nhà nước, mức đóng cũng là 3% mức lương tối thiểu hiện hành Đối với người có công với cách mạng và đối tượng bảo trợ xã hội, mức đóng tương tự là 3% mức lương tối thiểu do cơ quan quản lý trực tiếp chi trả.

Người hưởng trợ cấp hưu trí và các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) sẽ đóng góp 3% trên mức lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng, với khoản đóng này được thực hiện trực tiếp bởi cơ quan BHXH.

Người tham gia BHYT tự nguyện có mức đóng do Liên Bộ Y tế - Tài chính qui định áp dụng cho từng địa phương.

2.5.Quản lý và sử dụng quỹ BHYT 2.5.1 Nguồn hình thành quỹ BHYT

Quỹ Bảo hiểm y tế (BHYT) tại Việt Nam được quản lý một cách tập trung và thống nhất trong toàn bộ hệ thống BHYT, hoạt động độc lập với ngân sách nhà nước và được sự bảo hộ của Nhà nước.

Quỹ BHYT được hình thành từ các nguồn sau:

- thu từ các đối tượng tham gia BHYT theo qui định.

- các khoản viện trợ từ các tổ chức Quốc tế

- các khoản viện trợ từ các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước.

- ngân sách Nhà nước cấp

- lãi do hoạt động đầu tư

Quỹ bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện được quản lý và hạch toán độc lập với quỹ BHYT bắt buộc, nhằm phục vụ hiệu quả cho việc triển khai các chương trình BHYT tự nguyện Các khoản thu khác, nếu có, cũng sẽ được ghi nhận trong quá trình quản lý quỹ này.

2.5.2 Quản lý và sử dụng quỹ BHYT.

Hàng năm quỹ BHYT bắt buộc dành 91,5% cho quỹ KCB trong đó dành 5% để lập quỹ dự phòng KCB.

Phạm vi của BHYT HS-SV

Theo Thông tư 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT thì học sinh - sinh viên có thẻ BHYT được: a.Chăm sóc sức khoẻ ban đầu:

- học sinh được quản lý sức khoẻ và hướng dẫn để phòng chống các bệnh học đường, cụ thể:

+ giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường + phòng chống các dịch bệnh

+ các biện pháp phòng, chữa một số bệnh và triệu chứng thông thường như: ỉa chảy, đau bụng, đau mắt, đau đầu.

Để phòng chống bệnh cong vẹo cột sống, việc duy trì tư thế đúng khi ngồi và đứng là rất quan trọng Ngoài ra, vệ sinh răng miệng thường xuyên giúp bảo vệ sức khỏe răng miệng, đồng thời nên chú ý đến việc bảo vệ thị lực để tránh cận thị Hơn nữa, việc phòng chống các bệnh xã hội và các tệ nạn như ma túy, HIV – AIDS cũng cần được quan tâm để đảm bảo sức khỏe cộng đồng.

Để phòng chống tai nạn giao thông và tai nạn lao động, việc khám sức khoẻ định kỳ là rất quan trọng Các thời điểm khám sức khoẻ nên được thực hiện vào đầu năm lớp 1, cuối mỗi cấp học phổ thông và đầu khoá học tại các trường đại học, cao đẳng Điều này giúp đảm bảo sức khoẻ cho học sinh và sinh viên, đồng thời nâng cao ý thức an toàn trong giao thông và lao động.

- thực hiện sơ cứu tai nạn, ốm đau đột xuất

- đảm bảo vệ sinh ăn uống tại trường cho học sinh - sinh viên

- vệ sinh học đường: gồm các hoạt động cụ thể sau:

+ giáo dục sức khoẻ ( là một môn học trong nhà trường) + tuyên truyền chăm sóc bảo vệ sức khoẻ

+ đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh học đường:

 ánh sáng, nước uống, nước rửa hợp vệ sinh

 phong trào xây dựng trường xanh - sạch - đẹp

 vệ sinh an toàn thực phẩm

Quản lý và chăm sóc sức khoẻ học sinh tại trường học là rất quan trọng, giúp học sinh xử lý kịp thời bệnh tật và tạo điều kiện cho nhà trường tổ chức các hoạt động học tập, lao động, và rèn luyện thân thể phù hợp với sức khoẻ của từng em Hơn nữa, việc quản lý sức khoẻ học sinh hiệu quả cũng cung cấp cơ sở dữ liệu cần thiết cho các nhà quản lý vĩ mô trong việc hoạch định chính sách quốc gia về sức khoẻ học đường Khám và chữa bệnh cho học sinh là một phần không thể thiếu trong quá trình này.

Người bệnh có quyền được khám và chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh (bệnh viện) đã được đăng ký trên phiếu khám chữa bệnh bảo hiểm y tế Trong trường hợp khẩn cấp, bệnh nhân có thể nhận được dịch vụ khám chữa bệnh tại bất kỳ bệnh viện nào.

KCB ngoại trú trong trường hợp cấp cứu và tai nạn, nhưng không cần nằm viện, sẽ được chi trả các chi phí dịch vụ y tế như tiền khám, xét nghiệm và X quang Tuy nhiên, học sinh và sinh viên cần tự túc chi phí thuốc.

- Học sinh - sinh viên được hưởng chi phí trong điều trị nội trú tại các cơ sở KCB gồm các nội dung sau:

+ khám bệnh, chẩn đoán và điều trị + xét nghiệm, chiếu chụp X – quang, thăm dò chức năng + thuôc trong danh mục theo qui định của Bộ Y tế

Trong trường hợp bệnh nhân cần máu hoặc dịch truyền, các thủ thuật và phẫu thuật sẽ được thực hiện với sự hỗ trợ của vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh phù hợp Đối với những trường hợp ốm đau hoặc tai nạn dẫn đến tử vong, gia đình sẽ được trợ cấp tiền mai táng phí để hỗ trợ trong thời gian khó khăn.

Phí và quỹ BHYT HS-SV

Phí bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh, sinh viên (HS-SV) được xác định dựa trên các nguyên tắc chung về phí BHYT, đồng thời được quy định theo từng vùng, cấp học và địa phương khác nhau.

Bảng 1: phí BHYT HS-SV Đối tượng Mức đóng khu vực nội thành ( đ/hs)

Mức đóng khu vực ngoại thành ( đ/hs)

(Nguồn: Phòng Khai thác – BHXH VN)

Từ năm học 2003 – 2004 mức đóng BHYT HS-SV được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 77/2003/TTLT – BTC – BYT ngày 07/8/2003 hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện.

Bảng 2: Phí BHYT HS-SV Đối tượng Thành thị ( đ/ người) Nông thôn ( đ/ người)

Học sinh - sinh viên 35.000 – 70.000 25.000 – 50.000 Dân cư theo địa giới

Để khuyến khích tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện trong một hộ gia đình, từ thành viên thứ hai trở đi, mỗi thành viên tham gia sẽ được giảm 5% mức đóng so với quy định Mức đóng cụ thể sẽ được quyết định bởi BHXH Việt Nam, dựa trên đề nghị của BHXH tỉnh, thành phố và ý kiến thoả thuận của Bộ Tài chính.

Phí bảo hiểm y tế (BHYT) được thu nộp một hoặc hai lần trong năm theo quy định địa phương Đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở, phụ huynh sẽ nộp BHYT cho tổ chức thu của nhà trường Trong khi đó, học sinh và sinh viên của các trường phổ thông trung học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề sẽ tự nộp phí BHYT cho tổ chức thu của nhà trường.

BHYT HS-SV là một phần của BHYT tự nguyện nên được hạch toán riêng, tự cân đối thu chi.

Nguồn thu của Quỹ BHYT HS-SV được phân bổ như sau:

+ 35% chi cho chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho học sinh - sinh viên tại trường, trong đó:

30% ngân sách được sử dụng để chi trả phụ cấp cho cán bộ y tế học đường, đồng thời mua thuốc và dụng cụ y tế cần thiết nhằm đảm bảo công tác sơ cứu và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh - sinh viên tại các cơ sở giáo dục.

Để khuyến khích sự tham gia tích cực trong công tác thu nộp bảo hiểm y tế (BHYT), 5% sẽ được chi cho các cá nhân và đơn vị tham gia tuyên truyền và tổ chức thực hiện, bao gồm các cơ quan giáo dục và đào tạo cấp quận, huyện, thị trấn và các đơn vị tương đương.

+ 60% chi trả chi phí nội trú và cấp cứu tai nạn, trợ cấp tử vong 1.000.000đ/1 trường hợp.

+ 4% quỹ dùng cho chi quản lý của cơ quan BHYT tỉnh, thành phố

+ 1% quỹ nộp cho BHYT Việt Nam( nay là BHXH Việt Nam), trong đó:

 0,8% trích lập quỹ dự phòng

Cuối năm, quỹ BHYT HS-SV sẽ được trích một phần kết dư để nâng cấp trang thiết bị y tế tại trường học, nhằm cải thiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh - sinh viên Theo Thông tư 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT, 80% phần quỹ kết dư sẽ được đưa vào quỹ dự phòng, trong khi 20% sẽ được sử dụng để mua bảo hiểm y tế cho những học sinh - sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.

Khi quỹ bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) không đủ chi và đã sử dụng hết quỹ dự phòng, cơ quan bảo hiểm cần báo cáo lên liên Sở Giáo dục và Đào tạo, Y tế và Tài chính để thẩm tra và đưa ra kết luận Sau đó, báo cáo sẽ được trình lên Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để xem xét và giải quyết, nhằm đảm bảo quỹ BHYT HS - SV không rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả Đồng thời, cần có kế hoạch xin điều chỉnh mức đóng BHYT HS - SV để đảm bảo an toàn cho quỹ.

Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHYT HS-SV

- được cấp thẻ theo mẫu qui định thống nhất toàn quốc

- được đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở kx gần nơi cư trú theo hướng dẫn của cơ quan BHYT

Người dùng sẽ được bảo hiểm y tế 24/24 giờ trong suốt thời gian sử dụng thẻ Trong trường hợp khẩn cấp, họ có quyền nhận chế độ bảo hiểm y tế tại bất kỳ cơ sở y tế nào của Nhà nước.

- được chăm sóc sức khoẻ ban đầu và sơ cứu tế y tế trường học

Học sinh và sinh viên được hưởng chế độ khám chữa bệnh ngoại trú, bao gồm chi phí cho các dịch vụ y tế như tiền công khám, xét nghiệm, X quang và thủ thuật Tuy nhiên, học sinh và sinh viên cần tự túc chi phí thuốc men.

- được chi trả trong trường hợp tai nạn ốm đau, nội trú tại các cơ sở của Nhà nước theo quy định chuyên môn và các quy định BHYT

- các chi phí KCB được cơ quan BHYT thanh toán với bệnh viện nếu học sinh - sinh viên đi KCB có trình thẻ tại:

 bất kỳ cơ sở y tế nào của Nhà nước trong trường hợp cấp cứu

 bệnh viện đã đăng ký trên phiếu KCB BHYT của học sinh - sinh viên

 bệnh viện theo giấy chuyển viện phù hợp với tuyến chuyên môn kỹ thuật của Bộ Y tế

Trong trường hợp khám chữa bệnh (KCB) không đúng quy định hoặc KCB theo yêu cầu riêng, học sinh và sinh viên sẽ phải tự chi trả các chi phí tại bệnh viện Sau đó, dựa trên hóa đơn và chứng từ hợp lệ, cơ quan bảo hiểm y tế (BHYT) sẽ thanh toán lại một phần chi phí KCB theo mức giá viện phí tại tuyến chuyên môn kỹ thuật phù hợp theo quy định của Bộ Y tế.

- trường hợp không may bị tử vong được cơ quan BHYT chi trả trợ cấp mai táng phí 1.000.000đồng/học sinh

Theo Thông tư 77/2003/TTLT – BTC – BYT quyền lợi của học sinh - sinh viên khi đi KCB BHYT như sau:

Học sinh được chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại phòng y tế của trường học Trong trường hợp trường không có phòng y tế, cơ quan BHXH sẽ hợp đồng với cơ sở y tế gần nhất để đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ được thuận tiện và phù hợp.

- học sinh - sinh viên khi đi KCB BHYT đúng tuyến theo quy định, điều trị ngoại trú và nội trú được hưởng các quyền lợi sau:

+ khám và làm các xét nghiệm, chiếu chụp X quang, các thăm dò chức năng phục vụ cho viẹc chuẩn đoán và điều trị theo chỉ định của bác sỹ

Cung cấp thuốc nằm trong danh mục quy định của Bộ Y tế, thực hiện truyền máu và truyền dịch theo chỉ định của bác sĩ điều trị, cùng với việc sử dụng các vật tư tiêu hao thông dụng và thiết bị y tế phục vụ cho công tác khám chữa bệnh.

+ làm thủ thuật, phẫu thuật + sử dụng giường bệnh Chi phí một lần KCB từ 20.000đ trở lên thì người có thẻ phải nộp 20%

Học sinh và sinh viên tham gia Bảo hiểm y tế (BHYT) liên tục từ 24 tháng trở lên sẽ được cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) thanh toán chi phí khám chữa bệnh (KCB) trong một số trường hợp đặc biệt.

Chi phí cho phẫu thuật tim không vượt quá 10 triệu đồng mỗi người mỗi năm, trong khi chi phí cho chạy thận nhân tạo cũng giới hạn ở mức 10 triệu đồng mỗi người mỗi năm Đối với tiêm phòng uốn ván và điều trị súc vật cắn, mức chi phí tối đa là 300.000 đồng mỗi người mỗi năm.

+ trợ cấp tử vong: theo mức 1 triệu đồng/ trường hợp

* Cơ quan BHYT không thanh toán cho các trường hợp sau:

- các bệnh được Nhà nước đài thọ, sử dụng thuốc đặc trị như: phong, lao phổi, sốt rét, tâm thần phân liệt, động kinh

- phòng và chữa bệnh dại, xét nghiệm HIV, lậu, giang mai

- tiêm chủng mở rộng, điều trị, an dưỡng

- các bệnh bẩm sinh, dị tật bẩm sinh

- chỉnh hình, thẩm mỹ như: mắt giả, răng giả, chan tay giả …

- dịch vụ kế hoạch hoá gia đình

- tai nạn chiếnh tranh, thiên tai

- KCB cấp cứu do tự tử, cố ý gây thương tích, nghiện chất ma tuý, vi phạm pháp luật

Theo Thông tư 77 thì các trường hợp không thuộc trách nhiệm chi trả của Quỹ KCB tự nguyện được quy định bổ sung như sau:

- kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- ghép cơ quan nội tạng

- điều trị phục hồi chức năng ngoài danh mục Bộ Y tế quy định

- tai nạn giao thông, kể cả di chứng tai nạn giao thông

- xét nghiệm, chuẩn đoán thai sớm, điều trị vô sinh

- chi phí vận chuyển người bệnh, khẩu phần ăn trong thời gian điều trị b.Trách nhiệm

- đóng phí BHYT đầy đủ theo quy định

- tự túc tiền ảnh và tiền sổ KCB

Khi khám chữa bệnh nội và ngoại trú, người bệnh cần xuất trình thẻ hoặc giấy tờ tuỳ thân có ảnh hợp lệ cùng với phiếu khán chữa bệnh Đối với trường hợp nhập viện, việc xuất trình các giấy tờ này phải được thực hiện trong vòng 48 giờ kể từ khi nhập viện.

- không cho người khác mượn thẻ

- thực hiện đúng quy định của Nhà nước và sự hướng dẫn của cơ quan BHYT.

4.2 Đối với nhà trường. a Quyền lợi

Nhà trường được trích một khoản kinh phí từ tổng thu BHYT để sử dụng cho công tác YTHĐ. b Trách nhiệm

- Trách nhiệm chính đối với công tác bảo vệ chăm sóc, giáo dục sức khoẻ cho học sinh trong thời gian ở trường thuộc về lãnh đạo nhà trường.

Mỗi trường học hoặc cụm trường cần bố trí y tế trường học theo quy định, đảm bảo các điều kiện cần thiết để hoạt động y tế học đường (YTHĐ) thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ theo hướng dẫn của liên Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Bộ Y tế.

Nhà trường có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền và thực hiện việc đăng ký, kê khai, thu tiền đóng bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh Đồng thời, nhà trường cũng phải sử dụng hiệu quả và đúng mục đích nguồn kinh phí BHYT của học sinh - sinh viên (HS - SV) để lại.

4.3 Đối với các cơ sở khám chữa bệnh. a Quyền lợi

- được cơ quan BHXH tạm ứng kinh phí để tổ chức khám chữa bệnh cho học sinh – sinh viên có thẻ BHYT.

- được thanh toán mỗi quý một lần các chi phí KCB cho học sinh – sinh viên tham gia BHYT. b Trách nhiệm

Để đảm bảo quyền lợi cho học sinh và sinh viên tham gia bảo hiểm y tế (BHYT), việc thực hiện khám chữa bệnh (KCB) cần tuân thủ đúng hợp đồng với cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) Điều này giúp đảm bảo quá trình chữa bệnh diễn ra hợp lý và an toàn, phù hợp với các quy định của Bộ Y tế.

- thực hiện việc ghi chép và cung cấp các tài liệu liên quan đến KCBBHYT HS - SV để làm cơ sở thanh quyết toán tài chính.

Kiểm tra thẻ và phiếu KCB BHYT là cần thiết để phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm và lạm dụng Việc này giúp đảm bảo tính hợp pháp trong sử dụng thẻ, phiếu KCB BHYT, đồng thời cần thông báo ngay cho cơ quan BHYT để có biện pháp giải quyết thích hợp.

Các bệnh viện và cơ quan BHXH đã ký kết hợp đồng trách nhiệm nhằm đảm bảo việc tạm ứng kinh phí và thực hiện định kỳ quyết toán chi phí khám chữa bệnh (KCB) theo quy định và nội dung hợp đồng KCB đã được thống nhất.

- tổ chức tiếp đón học sinh – sinh viên khi đến KCB, có thái độ phục vụ tốt tránh phiền hà.

- giới thiệu học sinh – sinh viên lên đúng tuyến chuyên môn kỹ thuật để điều trị bệnh nếu vượt quá khả năng của tuyến mình.

4.4 Đối với cơ quan BHXH. a Quyền lợi

- được trích lập và sử dụng quỹ BHYT HS - SV theo đúng qui định.

- kiểm tra, giám sát thu hồi thẻ trong trường hợp phát hiện ra việc lạm dụng thẻ, cho người khác mượn thẻ …

- điều tiết, cân đối quỹ KCB BHYT HS – SV, sử dụng quỹ kết dư theo qui định.

Kiểm tra và giám sát việc thực hiện chế độ bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh, sinh viên (HS-SV) tại các bệnh viện là cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của học sinh tham gia BHYT Đồng thời, cần từ chối chi trả trợ cấp BHYT đối với những trường hợp khám chữa bệnh (KCB) không tuân thủ quy định của pháp luật Trách nhiệm trong việc này là rất quan trọng để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc sử dụng BHYT.

- ký kết hợp đồng trách nhiệm với nhà trường để tổ chức thu BHYT của học sinh – sinh viên.

- ký hợp đồng KCB với các bệnh viện để đảm bảo việc tiếp nhận và KCB cho học sinh – sinh viên tham gia BHYT được thuận tiện, hợp lý.

- tổ chức phát hành thẻ và phiếu KCB BHYT HS – SV Chi phí in và phát hành thẻ, phiếu bằng kinh phí quản lý của cơ quan BHXH.

Cơ quan BHXH phát hành thẻ và phiếu KCB BHYT HS - SV có trách nhiệm tạm ứng và thanh toán chi phí theo quy định Việc thanh toán sẽ được thực hiện theo các phương thức đã được quy định.

+ chi trả cho cơ sở KCB theo hợp đồng đã ký.

+ chi trả qua thanh toán đa tuyến ngoài địa bàn được giao quản lý.

+ chi trả trực tiếp cho người bệnh BHYT trong các trường hợp cụ thể khác.

In ấn và phát hành thẻ

Thẻ và phiếu KCB BHYT HS - SV được quy định thống nhất theo mẫu trên toàn quốc, có giá trị sử dụng trong thời gian ghi trên phiếu và tương ứng với số tiền đã đóng BHYT.

Thẻ BHYT xác nhận quyền lợi bảo hiểm y tế cho người sử dụng, có thời hạn tối đa là 5 năm Đối với học sinh đã có giấy tờ tùy thân có ảnh hợp lệ, việc cấp thẻ BHYT không phải là bắt buộc.

Tổ chức thực hiện

Bảo hiểm xã hội các cấp đang hợp tác chặt chẽ với cơ quan giáo dục để tăng cường tuyên truyền và giải thích về bảo hiểm y tế (BHYT), đặc biệt là BHYT cho học sinh, sinh viên (HS - SV) Hoạt động này hướng tới việc nâng cao nhận thức cho cha mẹ học sinh về lợi ích và tầm quan trọng của BHYT trong việc bảo vệ sức khỏe cho con em họ.

Cơ quan giáo dục, cơ quan y tế và cơ quan bảo hiểm xã hội cần phối hợp chặt chẽ để xây dựng, duy trì và phát triển y tế trường học, đảm bảo triển khai hiệu quả các hoạt động liên quan đến công tác y tế trong trường học.

Cơ quan bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần xây dựng đề án bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên (BHYT HS - SV) và báo cáo với Giám đốc Sở Y tế cùng Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo Đề án này sẽ được xem xét và trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phê duyệt, sau đó sẽ được tổ chức thực hiện tại địa phương khi được phê duyệt.

Các Sở Y tế chỉ đạo các bệnh viện thuộc Sở phục vụ tốt người bệnh có thẻ BHYT HS - SV khi đến KCB ngoại trú và nội trú.

Nhà trường có trách nhiệm theo dõi và thanh quyết toán kinh phí bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên Đồng thời, nhà trường cũng phải báo cáo cơ quan tài chính cấp trên để được phê duyệt.

Cơ quan giáo dục, y tế và BHXH sẽ phối hợp tổ chức các hội nghị liên ngành nhằm triển khai thực hiện Bảo hiểm y tế học sinh.

SV, đánh giá, tổng kết và đề ra các biện pháp đẩy mạnh công tác BHYT HS -

SV cho từng giai đoạn cụ thể.

Mối quan hệ giữa BHYT HS-SV và YTHĐ

YTHĐ là một hoạt động thiết yếu trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho học sinh, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Bộ Y tế đã tiến hành nhiều cuộc điều tra quy mô lớn nhằm khảo sát tình hình phát triển thể lực và sức khỏe của học sinh.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị 48/TTg vào ngày 02/06/1969 nhằm nâng cao sức khỏe học sinh tại 13 tỉnh, thành phố phía Bắc Chỉ thị này yêu cầu các Bộ - Ngành phối hợp thực hiện các biện pháp giữ gìn sức khỏe cho học sinh.

Trong nhiều năm qua, công tác y tế trường học đã không nhận được sự quan tâm thích đáng do thiếu kinh phí và nhân lực, gây khó khăn trong việc triển khai các chương trình Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên, vào ngày 01/03/2000, liên Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Bộ Y tế đã ban hành thông tư liên tịch số

Thông tư 03/2000/TTLT – BYT – BGD ĐT hướng dẫn công tác y tế trường học, nhấn mạnh việc củng cố và phát triển hệ thống y tế trong trường học Thông tư này quy định rõ trách nhiệm của các ngành liên quan, đặc biệt là ngành Y tế, nhằm đảm bảo sức khỏe cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục.

Tổ chức quản lý, chỉ đạo công tác YTHĐ, có sự chỉ đạo thống nhất từ

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi thông báo đến Sở Y tế các tỉnh, các trung tâm y tế dự phòng, trung tâm y tế huyện, cũng như trạm y tế xã, phường và thị trấn Điều này cho thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành Giáo dục và Y tế nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe trong cộng đồng.

Tổ chức quản lý và chỉ đạo công tác y tế trong trường học cần có sự thống nhất từ Bộ Giáo dục - Đào tạo đến các Sở Giáo dục - Đào tạo, Phòng Giáo dục và toàn bộ hệ thống trường học Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành Y tế và ngành Giáo dục - Đào tạo để đảm bảo sức khỏe cho học sinh.

Hai ngành phải có sự phối hợp chặt chẽ và có sự thống nhất chỉ đạo về:

- công tác phòng và chữa bệnh

- công tác củng cố và phát tiển cơ sở YTHĐ

- các điều kiện đảm bảo hoạt động YTHĐ

7.1 BHYT HS-SV tác động đến YTHĐ

Củng cố và phát triển hệ thống Y tế học đường (YTHĐ) là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành Giáo dục và ngành Y tế Trước năm 1998, khi chưa có Thông tư liên tịch số 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT quy định trích 35% số thu để lại cho nhà trường, chỉ một số ít trường học có tủ thuốc y tế và cán bộ phụ trách YTHĐ thường kiêm nhiệm Tuy nhiên, từ khi có văn bản pháp lý quy định rõ ràng về chi phí dành cho YTHĐ, hệ thống này đã bắt đầu được khôi phục và phát triển.

Thực hiện bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh, sinh viên (HS-SV) là giải pháp hiệu quả nhằm khắc phục những hạn chế trong chăm sóc sức khỏe, đưa hoạt động y tế học đường vào nề nếp Chương trình BHYT HS-SV đảm bảo công bằng trong việc chăm sóc sức khỏe, khi mọi học sinh, sinh viên đều được hưởng quyền lợi, không chỉ những em tham gia BHYT mà cả những em không tham gia cũng được chăm sóc sức khỏe đầy đủ.

7.2 YTHĐ tác động đến BHYT HS-SV

Hệ thống YTHĐ giúp phụ huynh và học sinh nhận thức rõ về tác dụng, vai trò và ý nghĩa của bảo hiểm y tế (BHYT) Nhờ đó, phụ huynh sẽ tích cực tham gia BHYT, vì bảo hiểm này đảm bảo con em họ được chăm sóc sức khỏe ngay tại trường học.

BHYT HS-SV và YTHĐ có mối quan hệ tương hỗ, thúc đẩy sự phát triển lẫn nhau Hoạt động YTHĐ không chỉ nâng cao kiến thức sức khỏe cho học sinh - sinh viên mà còn giúp các em tự phòng chống dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe bản thân Đồng thời, YTHĐ khuyến khích các em tham gia BHYT như một thói quen Ngược lại, BHYT hỗ trợ duy trì và hoàn thiện các hoạt động YTHĐ, góp phần chăm sóc sức khỏe cho học sinh ngay tại trường, đồng thời giảm chi phí so với việc phòng ngừa rủi ro từ bảo hiểm thương mại.

So sánh BHYT HS - SV của BHXH Việt Nam với bảo hiểm học sinh của các Công ty Bảo hiểm thương mại

Khác nhau

Sự khác biệt cơ bản giữa bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) của BHXH Việt Nam và bảo hiểm học sinh của các công ty bảo hiểm thương mại nằm ở mục đích thực hiện BHYT HS - SV mang tính nhân đạo, không vì lợi nhuận và không phải đóng thuế, trong khi bảo hiểm học sinh của các công ty thương mại chủ yếu nhằm mục đích kinh doanh và phải chịu thuế Đối tượng tham gia BHYT HS - SV cũng hẹp hơn, không bao gồm trẻ em ở độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo, vì những đối tượng này được Nhà nước chăm sóc sức khỏe hoàn toàn miễn phí.

KCB được thực hiện tại các cơ sở y tế theo quy định, và bảo hiểm học sinh từ các công ty thương mại cũng bao gồm đối tượng này.

Về phạm vi bảo hiểm, hai loại hình bảo hiểm dành cho học sinh có sự khác biệt trong mức phí đóng, dẫn đến việc mở rộng hoặc hạn chế quyền lợi bảo hiểm Tùy thuộc vào từng sản phẩm, các nhà bảo hiểm sẽ quy định các điều khoản loại trừ tương ứng.

Quyền lợi của học sinh khi tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) khác nhau tùy thuộc vào mức phí đóng BHYT học sinh - sinh viên (HS - SV) do BHXH Việt Nam quy định mức phí đồng nhất theo từng địa phương và cấp học, trong khi bảo hiểm học sinh của các công ty bảo hiểm thương mại lại dựa vào khả năng kinh tế của người tham gia, dẫn đến mức hưởng khác nhau Mức hưởng của bảo hiểm thương mại phụ thuộc vào điều kiện và mức phí tham gia, trong khi BHYT HS - SV tại BHXH Việt Nam chi trả 80% chi phí điều trị mà không giới hạn về số ngày điều trị hoặc số tiền tối đa cho mỗi đợt điều trị.

BHYT HS - SV được Nhà nước quản lý thống nhất và hỗ trợ tài chính khi thu không đủ chi, với cơ sở vật chất được đầu tư và cung cấp bởi Nhà nước Khác với bảo hiểm thương mại, BHYT HS - SV không chịu sự điều tiết của Luật Kinh doanh bảo hiểm và có chế độ quản lý riêng Trong khi đó, bảo hiểm học sinh từ các công ty thương mại phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động không hiệu quả, đồng thời phải tuân thủ quy định của pháp luật và thực hiện các quy trình kinh doanh bảo hiểm theo đúng luật định hàng năm.

Mặc dù BHXH và BHYT có sự khác biệt, chúng không mâu thuẫn mà thực sự bổ sung cho nhau BHXH và BHYT, mặc dù đã tồn tại từ lâu, vẫn chưa đủ để bảo vệ con người khỏi tất cả các rủi ro trong cuộc sống Nhà nước không thể đáp ứng mọi nhu cầu của người dân do giới hạn về kinh phí và điều kiện Do đó, với sự đa dạng về điều kiện kinh tế và nhu cầu bảo hiểm của mỗi cá nhân, bảo hiểm thương mại trở thành giải pháp hiệu quả nhất để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của con người.

Cùng một lúc học sinh – sinh viên có thể tham gia nhiều hình thức bảo hiểm để bảo vệ sức khoẻ cho mình một cách tốt nhất có thể.

Thực trạng triển khai BHYT HS-SV tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Các qui định pháp lý về BHYT HS – SV

Thông tư liên Bộ số 14/TTLB ngày 19/9/1994 của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Y tế là văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm y tế tự nguyện cho học sinh Thông tư này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công tác bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên (BHYT HS-SV) và đánh dấu sự khởi đầu của chính sách BHYT HS-SV trên toàn quốc.

Căn cứ vào Nghị định 58/CP ngày 13/8/1998 và Nghị quyết 37/CP ngày 20/6/1996, Liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên Bộ số 40/TTLB vào ngày 18/7/1998, hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm y tế cho học sinh và sinh viên nhằm đảm bảo chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Vào ngày 18/6/1999, Bộ trưởng Bộ Y tế Đỗ Nguyên Phương đã trình bày tờ trình số 3980/TTr – BYT lên Chính phủ, báo cáo về kết quả tích cực của việc thực hiện bảo hiểm y tế học sinh-sinh viên (BHYT HS-SV) trong những năm qua Ông đề nghị Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm xem xét để từ năm học 1999-2000 chỉ cho phép một loại hình bảo hiểm trong hệ thống trường phổ thông, nhằm tạo nguồn lực cho chăm sóc sức khỏe ban đầu và giảm thiểu cạnh tranh giữa các tổ chức bảo hiểm trong trường học Bộ Y tế nhấn mạnh rằng việc này là cần thiết để xã hội hóa công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân, đồng thời giảm bớt gánh nặng tài chính cho phụ huynh Bộ cũng đề xuất Bảo hiểm y tế Việt Nam là tổ chức duy nhất thực hiện BHYT HS-SV trong các trường phổ thông, trong khi BHYT cho các khối học khác sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn của học sinh và nhà trường.

Vào ngày 13 tháng 7 năm 1999, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban hành văn bản số 6436/GDTC, đồng ý với đề xuất của Bộ Y tế về việc chỉ cho phép thực hiện một loại hình Bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh - sinh viên (HS-SV) trong các trường phổ thông Bảo hiểm y tế Việt Nam được chỉ định là tổ chức duy nhất phụ trách việc này.

Ngày 12/8/1999 Thủ tướng Chính phủ có Thông báo số 3645/VPCP –

Theo thông báo VX về việc thực hiện Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS-SV), từ năm học 1999-2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Bộ Y tế để hướng dẫn và vận động học sinh tham gia BHYT HS-SV do Bảo hiểm y tế Việt Nam thực hiện Tuy nhiên, Bộ Tài chính, cơ quan chủ quản của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, đã gửi công văn không đồng ý ý kiến này lên Thủ tướng Chính phủ, dẫn đến việc thực hiện BHYT HS-SV vẫn theo Thông tư 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT.

Vào ngày 01/3/2000, Liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT – BGD&ĐT – BYT, hướng dẫn công tác y tế trường học Thông tư nhấn mạnh rằng sức khỏe tốt là một mục tiêu quan trọng trong giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên ở tất cả các cấp học.

Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục sức khoẻ cho thế hệ trẻ trong các trường học là một ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước, gia đình và toàn xã hội Bộ Y tế đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai các chương trình và chính sách nhằm nâng cao sức khoẻ cho học sinh, đảm bảo sự phát triển toàn diện cho thế hệ tương lai.

Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với cơ quan BHYT để tuyên truyền và vận động học sinh, sinh viên tham gia BHYT HS-SV Các cơ quan y tế dự phòng, cơ sở khám chữa bệnh và BHYT làm việc chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng phòng bệnh và khám chữa bệnh cho học sinh Nguồn kinh phí chủ yếu cho công tác y tế trường học đến từ BHYT HS-SV.

Cùng với Thông tư liên Bộ số 40/1998 hướng dẫn thực hiện BHYT HS-

Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tham gia BHYT HS-SV

Nhu cầu BHYT HS-SV

Nhu cầu là mong ước có được những tư liệu vật chất ngày càng tăng theo sự phát triển của lực lượng sản xuất Điều này cũng áp dụng cho nhu cầu về bảo hiểm, khi mà sau khi thỏa mãn nhu cầu này, con người lại phát sinh nhu cầu cao hơn Maslow, một nhà kinh tế học nổi tiếng, đã đề xuất bậc thang nhu cầu của con người, trong đó nhu cầu về an toàn, tức là nhu cầu được bảo vệ, xuất hiện sau khi các nhu cầu cơ bản như ăn, ở và di chuyển đã được đáp ứng.

Nhu cầu và cầu là hai khái niệm khác nhau, trong đó nhu cầu chỉ trở thành cầu khi con người có khả năng chi trả Bài viết này tập trung vào nhu cầu bảo hiểm y tế (BHYT) của học sinh - sinh viên, nhằm xác định tính cần thiết của việc triển khai BHYT Tuy nhiên, cầu về BHYT cho học sinh - sinh viên còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, và chúng ta cần đưa ra các giải pháp hiệu quả để chuyển đổi nhu cầu này thành cầu thực sự cho BHYT HS - SV.

Từ khi triển khai bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện, học sinh - sinh viên đã trở thành nhóm đối tượng chiếm tới 99% số người tham gia Số lượng học sinh - sinh viên tham gia BHYT tự nguyện hàng năm tăng trưởng đều đặn, tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ vẫn còn hạn chế Trong tổng số khoảng 23 triệu học sinh - sinh viên cả nước, chỉ có hơn 5 triệu em tham gia BHYT tự nguyện, cho thấy còn gần 17 triệu học sinh chưa tham gia, đây là nhóm đối tượng tiềm năng cần được khai thác.

Trong 10 năm qua, việc triển khai bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh - sinh viên đã mang lại nhiều kinh nghiệm quý báu, cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục thực hiện BHYT tự nguyện cho nhóm đối tượng này rất thuận lợi, vì học sinh - sinh viên thường khỏe mạnh, ít ốm đau và tập trung tại trường lớp Hơn nữa, cha mẹ luôn quan tâm đến sức khỏe của con cái, nên việc tuyên truyền hiệu quả sẽ thu hút đông đảo học sinh tham gia Do đó, nhu cầu về BHYT của học sinh

Các nhân tố ảnh hưởng đến khẳ năng tham gia BHYT HS-SV

Khả năng tài chính của người dân là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) Khi tài chính ổn định, con người mới có nhu cầu bảo vệ bản thân thông qua bảo hiểm Theo thuyết nhu cầu của Maslow, nhu cầu về bảo hiểm đứng thứ hai sau các nhu cầu thiết yếu hàng ngày; chỉ khi nhu cầu về ăn uống và chỗ ở được đáp ứng, người ta mới bắt đầu quan tâm đến bảo hiểm.

Sau một thời gian dài chịu ảnh hưởng của chiến tranh, đất nước ta đã bắt đầu quá trình xây dựng lại và đạt được nhiều thành tựu đáng kể Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm luôn duy trì ở mức cao và ổn định, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.

Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm

Tốc độ tăng trưởng GDP 6,8% 6,89% 7,04% 7,24% 7,7%

( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam)

Việt Nam đang tích cực gia nhập các tổ chức quốc tế như APEC và AFTA, và dự kiến sẽ sớm trở thành thành viên của WTO Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, cải thiện đời sống nhân dân Người dân hiện nay ngày càng có điều kiện kinh tế tốt hơn, từ đó sẵn sàng tham gia vào các hình thức bảo hiểm để bảo vệ bản thân.

2.2 Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế

Hiện nay, công tác xã hội hoá trong lĩnh vực khám chữa bệnh (KCB) đang ngày càng được mở rộng, nhằm huy động mọi nguồn lực từ xã hội để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.

Mạng lưới bệnh viện từ Trung ương đến địa phương được củng cố, năm 2000 cả nước có trên 895 bệnh viện, trong đó có 12 bệnh viện tư nhân, đến năm

Năm 2003, Việt Nam có tổng cộng 1.028 bệnh viện, trong đó có 36 bệnh viện tư nhân, cùng với gần 50 nghìn cơ sở hành nghề y, dược và y học cổ truyền Đặc biệt, các bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh như bệnh viện lao và bệnh viện tâm thần đã được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân.

Bảng 4: Số lượng cơ sở KCB qua các năm

(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004)

Trong những năm qua, các bệnh viện đã được đầu tư mạnh mẽ để cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng, với nhiều bệnh viện mới được xây dựng và trang bị thiết bị hiện đại Sự ứng dụng của các thành tựu khoa học công nghệ trong chẩn đoán và điều trị đã nâng cao chất lượng khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế (BHYT) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống y tế, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa Hiện nay, hơn 97% xã, phường trên toàn quốc có trạm y tế, trong đó 60% trạm y tế có bác sĩ.

Bảng 5: Số bác sĩ bình quân trên 1 vạn dân

Số bác sĩ/ 1 vạn dân 4,3 4,8 5,0 5,2 5,6 5,8

( Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004)

Số lượng bác sĩ trên 10.000 dân ngày càng tăng, giúp người dân được chăm sóc y tế bởi đội ngũ chuyên môn cao hơn, từ đó nâng cao hiệu quả trong công tác chữa trị.

Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân, đặc biệt là học sinh và sinh viên, đang ngày càng được cải thiện, tạo cơ hội cho mọi người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) một cách thuận lợi hơn.

Một trong những nguyên tắc của bảo hiểm y tế (BHYT) là lấy số đông bù số ít Với dân số đông và trẻ, chủ yếu trong độ tuổi lao động, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để triển khai BHYT cho học sinh, sinh viên (HS-SV).

Bảng 6: Qui mô dân số Việt Nam giai đoạn 1998 – 2003

Tỷ lệ tăng (%) 1,55 1,51 1,36 1,35 1,32 1,47 Quy mô hộ gia đình

(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004)

Dân số Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới, đặc biệt là số lượng học sinh – sinh viên trong độ tuổi đến trường Hiện tại, dân số nước ta khá đông và nhóm học sinh – sinh viên chiếm tỷ lệ lớn Mỗi em đều có quyền tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) để được chăm sóc sức khỏe tốt nhất.

Quy mô dân số trong các gia đình đang có xu hướng giảm, với mục tiêu mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con Điều này giúp cha mẹ có nhiều thời gian và nguồn lực hơn để chăm sóc cho con cái Họ cam kết tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập và đặc biệt chú trọng đến sức khỏe, vì nhận thức được rằng sức khỏe là yếu tố quan trọng nhất.

Thực tế thực hiện BHYT HS-SV tại bảo hiểm xã hội việt nam trong

Thuân lợi

Trong quá trình thực hiện Bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh - sinh viên (HS - SV), có nhiều điều kiện thuận lợi giúp chương trình phát triển mạnh mẽ Để đạt được hiệu quả cao, cần khai thác tối đa các điều kiện này nhằm mở rộng diện bao phủ thẻ BHYT và triển khai một cách hiệu quả Các điều kiện thuận lợi này cần được xác định rõ ràng và áp dụng một cách triệt để.

Học sinh – sinh viên chiếm hơn 20% dân số cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai bảo hiểm y tế (BHYT) học sinh – sinh viên tại trường học Công tác tuyên truyền có thể thực hiện qua các giờ học và hoạt động ngoại khoá, giúp nâng cao nhận thức về lợi ích của BHYT Việc thu phí cũng trở nên dễ dàng hơn khi cán bộ BHYT chỉ cần đến trường để thu phí từ học sinh sau khi được giáo viên tập trung theo lớp So với các đối tượng tự nguyện khác, việc này giúp giảm chi phí và công sức trong việc vận động tham gia cũng như thu phí và quản lý thông tin.

Việc trích lại 35% số thu từ bảo hiểm y tế (BHYT) cho các trường học giúp cải thiện chăm sóc sức khỏe cho học sinh Nếu không có nguồn kinh phí này, trường sẽ phải sử dụng một phần tiền đóng góp của học sinh để duy trì phòng y tế Nhờ vào nguồn thu này, nhà trường có thể nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe, từ đó phụ huynh yên tâm hơn khi cho con theo học và hiểu biết rõ hơn về BHYT.

BHYT HS - SV tại Ba là một hệ thống bảo hiểm sức khỏe mặc dù diện bao phủ chưa cao, nhưng đã thực hiện tốt nguyên tắc số đông bù số ít Đối tượng học sinh – sinh viên thường khỏe mạnh và ít ốm đau, do đó, mặc dù mức đóng góp thấp, quỹ vẫn duy trì được sự cân đối thu chi và đảm bảo quyền lợi cho người tham gia Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục tổ chức và thực hiện BHYT HS - SV thành công trong tương lai.

So với các loại bảo hiểm y tế (BHYT) khác, quyền lợi của học sinh – sinh viên khi tham gia BHYT rộng hơn và không giới hạn chi phí khám chữa bệnh (KCB) trong một đợt điều trị Điều này mang lại sự yên tâm cho gia đình khi học sinh – sinh viên gặp rủi ro về sức khỏe Hơn nữa, bác sĩ cũng không gặp khó khăn trong việc điều trị, vì thực tế cho thấy nhiều bác sĩ chưa hiểu rõ về "trần" chi phí KCB, dẫn đến lúng túng khi bệnh nhân cần điều trị dài ngày Do tính đơn giản của BHYT học sinh – sinh viên, mọi người dễ dàng nắm bắt quyền lợi và nội dung tham gia.

SV do đó thuận lợi hơn trong việc triển khai.

Bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh, sinh viên (HS - SV) nhận được sự quan tâm mạnh mẽ từ Đảng, Chính phủ và các cơ quan liên quan, thể hiện qua các thông tư và văn bản hướng dẫn Theo chỉ đạo của liên Bộ, nguồn tài chính từ BHYT HS - SV chủ yếu được sử dụng để phục vụ nhu cầu của học sinh Nếu quỹ BHYT HS - SV không sử dụng hết trong năm tài chính, số tiền này sẽ được chuyển vào quỹ phòng chống bệnh tật và đầu tư trở lại để phục vụ học sinh Nhiều người khẳng định rằng BHYT HS - SV là hình thức bảo hiểm toàn diện và hiệu quả cho học sinh.

Khó khăn

Mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên, nhưng vẫn tồn tại một số khó khăn cần khắc phục Những khó khăn này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình thực hiện BHYT HS-SV, do đó cần có giải pháp để giảm thiểu tác động của chúng.

Kinh tế của người dân hiện còn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở nông thôn, nơi mà tỷ lệ hộ gia đình có số con lớn vẫn phổ biến do thói quen sinh đông con từ thế hệ trước Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng cơ cấu kinh tế vẫn nặng về nông nghiệp và ngành dịch vụ chưa phát triển mạnh mẽ Sự cách biệt kinh tế giữa các địa phương cũng khiến cho việc tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) cho con em trở nên khó khăn, nhất là khi khái niệm bảo hiểm vẫn còn mới mẻ đối với nhiều người dân.

Nhiều phụ huynh và học sinh có cái nhìn sai lệch về bảo hiểm y tế (BHYT) do sức khỏe tốt và ít ốm đau, dẫn đến việc không hiểu rõ ý nghĩa của BHYT học sinh - sinh viên Nhận thức sai lầm này xuất phát từ việc BHYT còn mới mẻ ở Việt Nam, khiến người dân chưa nắm vững nguyên tắc chia sẻ rủi ro và thói quen dự phòng tài chính Mặc dù chi phí hàng năm cho BHYT rất thấp so với chi phí khám chữa bệnh nếu không may bị ốm đau, nhưng không phải ai cũng nhận ra giá trị của nó Bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ mà tác dụng của nó chỉ được cảm nhận khi người tham gia sử dụng Nhiều người coi tiền mua BHYT là lãng phí mà không biết rằng nó đã cứu sống nhiều em và hỗ trợ các gia đình khác về tài chính Thói quen tính toán thiệt hơn sẽ cản trở sự phát triển của BHYT học sinh - sinh viên.

Thị trường bảo hiểm dành cho học sinh đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt Năm 1999, Bộ Tài Chính đã phản đối việc Thủ tướng Chính phủ cho phép Bảo hiểm y tế Việt Nam là cơ quan duy nhất thực hiện bảo hiểm y tế cho học sinh và sinh viên Do đó, các công ty bảo hiểm và cơ quan BHXH Việt Nam đã cùng triển khai bảo hiểm cho học sinh, sinh viên So với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thương mại có nhiều lợi thế, đặc biệt là hoa hồng cho giáo viên và trường học thường gấp đôi Điều này dẫn đến thực tế là nhiều giáo viên khuyến khích học sinh tham gia bảo hiểm do các công ty bảo hiểm cung cấp Một số trường còn chia 50% số học sinh tham gia bảo hiểm y tế.

50% học sinh tham gia bảo hiểm thương mại Các sản phẩm bảo hiểm dành cho học sinh từ các công ty bảo hiểm thương mại thường có mức hưởng hấp dẫn, phù hợp với điều kiện kinh tế của người tham gia Thủ tục chi trả khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nhanh chóng và đơn giản, giúp thu hút khách hàng.

Bảo hiểm thương mại (BHTM) không liên quan đến dịch vụ y tế, giúp khách hàng tránh được sự phân biệt giữa bệnh nhân theo thẻ và bệnh nhân tự trả viện phí Các công ty BHTM cung cấp sản phẩm phụ đa dạng, mở rộng quyền lợi cho phụ huynh, khiến họ thấy BHTM ưu việt hơn Với mục tiêu lợi nhuận, BHTM đầu tư mạnh vào quảng cáo, trong khi bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT) chỉ là chính sách nhà nước, ít được truyền thông công khai Điều này khiến BHYT có sức cạnh tranh yếu hơn, gây khó khăn trong việc mở rộng bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên, nhóm đối tượng này vẫn cần được vận động tham gia.

Cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế tại các cơ sở KCB còn hạn chế, dẫn đến chất lượng dịch vụ chưa đạt yêu cầu Đời sống cán bộ y tế thấp cũng góp phần vào những tiêu cực trong việc tiếp đón bệnh nhân có thẻ BHYT Nhiều người tham gia BHYT bắt buộc phàn nàn về chất lượng dịch vụ, tạo ra thành kiến tiêu cực đối với BHYT, khiến họ cảm thấy bị phân biệt đối xử Điều này làm cho họ khó chấp nhận việc cho con cái tham gia BHYT tự nguyện, vì đây là quyết định dựa trên ý kiến cá nhân mà không bị ép buộc.

Tình hình học sinh - sinh viên tham gia BHYT

Để đánh giá hiệu quả triển khai bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS – SV) từ năm 1998 đến 2004, cần xem xét các yếu tố tác động, điều kiện thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện Việc khai thác tối đa các điều kiện thuận lợi và hạn chế những khó khăn là rất quan trọng Đồng thời, cần phân tích ảnh hưởng của các yếu tố tác động để có cái nhìn rõ hơn về việc thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm này.

Tình hình học sinh tham gia BHYT trong những năm qua được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 7: Số lượng học sinh – sinh viên tham gia BHYT tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Năm học Số HS – SV tham gia(người) % bao phủ thẻ

( Nguồn: Ban Tự nguyện – BHXH VN)

Theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Y tế, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, cùng với sự hỗ trợ từ các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, hiện nay, 64 tỉnh thành trên cả nước đã thực hiện triển khai Bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên (BHYT HS-SV).

Số lượng học sinh – sinh viên tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) đang có xu hướng tăng qua các năm, với tỷ lệ bao phủ từ 18,8% năm 1997 – 1998 lên 22,9% năm 2003 – 2004 Tuy nhiên, trong năm học 1998 – 1999 và 1999 – 2000, số lượng học sinh – sinh viên tham gia BHYT lại giảm do hai nguyên nhân chính.

Một là, năm 1998 liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Y tế ban hành

Thông tư số 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh, sinh viên, thay thế Thông tư liên Bộ số 14/1994/TTLT Một trong những điểm nổi bật của Thông tư 40/1998 là việc tăng mức phí, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tham gia BHYT của học sinh và sinh viên Nhiều phụ huynh đã từ chối tham gia BHYT cho con em mình do lo ngại về chi phí.

“đắt” hơn cho dù quyền lợi của con em họ được mở rộng.

Bộ Tài Chính không đồng ý với ý kiến của Văn phòng Chính phủ về việc giao Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam độc quyền thực hiện bảo hiểm y tế học sinh-sinh viên (BHYT HS-SV) Công văn số 3645/VPCP – VX ngày 12/8/1999 nêu rõ BHYT Việt Nam là cơ quan duy nhất thực hiện BHYT HS-SV nhằm giảm gánh nặng cho phụ huynh trong bối cảnh kinh tế khó khăn, khi mà nhiều loại hình bảo hiểm cho học sinh đã được triển khai Tuy nhiên, Bộ Tài Chính cho rằng BHYT HS-SV là hình thức bảo hiểm tự nguyện, không khác biệt so với các sản phẩm bảo hiểm thương mại cho học sinh, do đó nên để phụ huynh và học sinh tự do lựa chọn nhà bảo hiểm, nhằm tạo sự cạnh tranh và tránh tình trạng độc quyền Điều này có thể dẫn đến giảm số lượng học sinh tham gia, trong khi các công ty bảo hiểm thương mại thường có chương trình khuyến mại và hoa hồng hấp dẫn cho giáo viên và trường học.

Số lượng học sinh tham gia đã giảm đáng kể, đặc biệt trong năm học 1999 – 2000, khi số lượng học sinh giảm từ 3.460.540 trong năm 1997 – 1998 xuống còn 2.955.160, tương ứng với mức giảm 505.380 học sinh, tức giảm 14,6%.

Từ năm 2000 – 2001 số lượng học sinh – sinh viên tham gia lại tiếp tục tăng và năm sau số em tham gia luôn cao hơn năm trước

Năm 2000 – 2001 số học sinh tham gia là 3.101.123 em tăng 145.963 học sinh tương ứng tăng 4,94% so với năm 1999 – 2000.

Năm học 2001 – 2002 số học sinh tham gia là 4.201.514 em tăng 1.100.391 em tương ứng tăng 35,48% so với năm 2000 – 2001.

Năm học 2002 – 2003 số học sinh tham gia là 4.910.640 em tăng 709.126 em tương ứng tăng 16,88% so với năm 2001 – 2002.

Năm học 2003 – 2004 số học sinh tham gia là 5.078.730 em tăng 168.090 em tương ứng tăng 3,43% so với năm 2002 – 2003.

Năm học 1994 – 1995, năm đầu thực hiện BHYT HS-SV chỉ có 600.000 em tham gia thì đến năm 2003 – 2004 số em tham gia đã tăng 4.478.730 em.

Thị trường bảo hiểm học sinh - sinh viên đã trở nên sôi động từ đầu mùa hè với sự tham gia của nhiều tổ chức bảo hiểm, thông qua các chương trình khuyến mại và chăm sóc khách hàng Học sinh - sinh viên là đối tượng tiềm năng, nhưng trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, việc duy trì thị phần không hề đơn giản Bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh - sinh viên gặp nhiều bất lợi do không nhằm mục tiêu lợi nhuận và không thể thực hiện các chiến dịch quảng bá như bảo hiểm thương mại Mức phí thấp cũng dẫn đến quyền lợi hạn chế, khiến sản phẩm này chưa hấp dẫn đối với đối tượng mục tiêu Để hiểu rõ hơn, cần xem xét số lượng học sinh tham gia vào bảo hiểm thương mại.

Bảng 8: Số lượng học sinh tham gia bảo hiểm tại các công ty BHTM

Năm học Số HS – SV tham gia

Tỷ lệ đã được bảo hiểm

(Nguồn: Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến 2010)

Số liệu cho thấy số lượng học sinh tham gia các nghiệp vụ tại các công ty Bảo hiểm thương mại cao gấp đôi so với số học sinh tham gia BHYT tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam Sự gia tăng này diễn ra đều đặn qua các năm, với tốc độ ổn định từ 10 – 15% mỗi năm Các yếu tố thuận lợi như quảng cáo hiệu quả, mức hưởng hấp dẫn, phí bảo hiểm đa dạng phù hợp với điều kiện kinh tế của từng gia đình, phạm vi bảo hiểm rộng và phương thức thanh toán nhanh chóng đã góp phần vào sự tăng trưởng này.

Trong năm học 2003 – 2004, tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm học sinh đạt 57,07%, gấp 2,5 lần số học sinh tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Trong năm học 1999 - 2000, số học sinh tham gia bảo hiểm thương mại đã tăng lên 440.000 em, tương ứng với mức tăng 5,82% Số lượng này cao hơn 5.044.840 em, gấp 2,71 lần so với số học sinh tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong năm học 1998.

Trong năm học 2000 – 2001, số học sinh tham gia bảo hiểm thương mại đã tăng lên 800.000 em, tương ứng với mức tăng 10,00% Số lượng này vượt quá 5.698.877 em, gấp 2,84 lần so với số học sinh tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) trong năm học 1999 – 2000.

Trong năm học 2001 – 2002, số học sinh tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm thương mại đã tăng lên 1.060.000 em, tương ứng với mức tăng 12,05%, đạt tổng số 5.658.486 em Số học sinh tham gia bảo hiểm thương mại gấp 2,35 lần so với số học sinh tham gia bảo hiểm y tế trong năm học 2000 – 2001.

Trong năm học 2002 – 2003, số học sinh tham gia bảo hiểm thương mại đã tăng lên 1.280.000 em, tương ứng với mức tăng 12,98% Số lượng này cao hơn 6.229.360 em, gấp 2,27 lần so với số học sinh tham gia bảo hiểm y tế trong năm học 2001 – 2002.

Trong năm học 2003-2004, số học sinh tham gia bảo hiểm thương mại đã tăng lên 1.560.000 em, tương ứng với mức tăng 14,00% Số lượng này cao gấp 2,50 lần so với 7.621.270 em tham gia bảo hiểm y tế trong năm học 2002-2003.

Các công ty bảo hiểm đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cho học sinh, đồng thời xây dựng và thực hiện các chiến lược kinh doanh nhằm nâng cao tỷ lệ tham gia Nhờ đó, tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm thương mại đã tăng nhanh chóng trong những năm qua.

Tình hình thu, chi Quỹ BHYT HS-SV qua các năm

3.1 Tình hình thu BHYT HS – SV.

Theo bảng số liệu về số lượng học sinh tham gia qua các năm, mặc dù số học sinh tham gia không đồng đều và có năm giảm, tổng thu Quỹ BHYT HS - SV vẫn tăng Điều này đặt ra câu hỏi liệu có mâu thuẫn hay không Để làm rõ vấn đề này, chúng ta cần xem xét bảng số liệu thu.

Bảng 9: Bảng thu BHYT HS - SV

Năm học Số học sinh tham gia( người) Số thu ( triệu đồng)

( Nguồn: Phòng Kế hoạch tổng hợp – Ban Tự nguyện – BHXH Việt Nam ) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tuy hai năm học 1998 – 1999 và

Từ năm 1999 đến 2000, số lượng học sinh tham gia giảm, nhưng tổng thu vẫn tăng Nguyên nhân chủ yếu là do mức đóng góp đã được điều chỉnh tăng theo Thông tư 40/1998, nhằm đảm bảo quyền lợi được mở rộng phù hợp với nhu cầu của phụ huynh và chi phí y tế thực tế tăng cao.

Biểu đồ cho thấy số thu từ năm học 2003 – 2004 đã tăng gấp 3,56 lần so với năm học 1997 – 1998 Từ năm học 2001 – 2002, số thu tăng nhanh nhờ vào sự gia tăng số lượng học sinh tham gia và nhiều mức đóng linh hoạt tương ứng với quyền lợi Các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất mức đóng cao hơn mức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam để mở rộng quyền lợi phù hợp với địa phương Đặc biệt, số học sinh tham gia tại các khu vực này chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số học sinh – sinh viên toàn quốc, dẫn đến sự biến động trong số thu qua các năm.

Năm học 1998 – 1999 số thu tăng 10.970 triệu đồng tương ứng tăng 22,9% so với năm học 1997 – 1998.

Năm học 1999 – 2000 số thu tăng 2.111 triệu đồng tương ứng tăng 3,6% so với năm học 1998 – 1999.

Năm học 2000 – 2001 số thu tăng 5.293 triệu đồng tương ứng tăng 8,7% so với năm học 1999 – 2000.

Năm học 2001 – 2002 số thu tăng 23.650 triệu đồng tương ứng tăng 35,7% so với năm học 2000 – 2001.

Năm học 2002 – 2003 số thu tăng 24.855 triệu đồng tương ứng tăng 27,6% so với năm học 2001 – 2002.

Năm học 2003 – 2004 số thu tăng 55.939 triệu đồng tương ứng tăng 48,7% so với năm học 2002 – 2003

Bảo hiểm y tế (BHYT) hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối thu chi, do đó, việc tăng tổng thu là điều kiện quan trọng để duy trì các khoản chi, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia Khác với bảo hiểm thương mại, BHYT không vì mục tiêu lợi nhuận, mà thu để chi, thể hiện tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc Chính vì lý do này, chỉ có Nhà nước mới có khả năng tổ chức và quản lý BHYT một cách hiệu quả.

So với doanh thu từ bảo hiểm học sinh tại các công ty bảo hiểm thương mại, doanh thu từ bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) thực sự rất khiêm tốn.

Bảng 10: So sánh số thu BHYT HS - SV và số thu bảo hiểm học sinh

Năm học Số thu BHYT HS - SV Số thu bảo hiểm học sinh

( Nguồn: Ban tự nguyện – BHXH Việt Nam và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ 2003 – 2010 của Bộ Tài chính)

Theo bảng so sánh, doanh thu từ bảo hiểm học sinh tại các công ty bảo hiểm thương mại luôn vượt trội hơn so với doanh thu từ bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên.

Năm học 1999 – 2000 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,16 lần so với BHYT HS – SV.

Năm học 2000 – 2001 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,71 lần so với BHYT HS – SV.

Năm học 2001 – 2002 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,22 lần so với BHYT HS – SV.

Năm học 2002 – 2003 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 2,00 lần so với BHYT HS – SV.

Năm học 2003 – 2004 số thu của bảo hiểm học sinh cao gấp 1,58 lần so với BHYT HS – SV

Số thu từ bảo hiểm học sinh thường cao hơn do số lượng học sinh tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm thương mại luôn vượt trội so với bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV), bên cạnh đó, mức phí của các công ty này cũng tương đối cao.

Bảng11: Phí bảo hiểm học sinh Đơn vị: đồng

(Nguồn: chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ 2003 – 2010 của Bộ Tài chính)

Mức phí bảo hiểm học sinh cao hơn nhiều so với mức đóng bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên chỉ từ 25.000 đến 70.000 đồng, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia.

3.2 Tình hình chi BHYT HS – SV.

BHYT HS - SV là chính sách xã hội nhằm chăm sóc sức khoẻ cho học sinh và sinh viên, thuộc loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện với quỹ được hạch toán riêng và tự cân đối thu chi Việc sử dụng quỹ một cách hiệu quả gặp nhiều khó khăn do chi phí y tế ngày càng tăng Để đánh giá tình hình chi tiêu của quỹ BHYT HS - SV, chúng ta cần xem xét các bảng số liệu qua các năm để hiểu rõ hơn về tình hình chi.

Bảng 12: Tình hình chi BHYT HS – SV

Năm học Chi YTHĐ (triệu đồng)

( Nguồn: Phòng Kế hoạch tổng hợp – Ban tự nguyện - BHXH Việt Nam )

Biể u đ ồ 2: Tì nh hì nh chi qua các năm

Theo bảng số liệu, tổng chi hàng năm có xu hướng tăng lên, chủ yếu do chi phí y tế gia tăng nhanh chóng và sự quan tâm của Nhà nước trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt là ở tuyến cơ sở.

Trong giai đoạn 1998 – 1999, tổng chi cho công tác khám chữa bệnh (KCB) đối với học sinh - sinh viên đạt 35.360 triệu đồng, trong đó chi cho y tế học đường (YTHĐ) chiếm 20.626 triệu đồng, tương đương với phần lớn tổng chi của quỹ Qua các năm học sau, quỹ dành cho YTHĐ tại các trường đã tăng lên, góp phần cải thiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh Đặc biệt, năm học 2002 – 2003, chi cho YTHĐ đã chiếm một nửa tổng chi của cả năm, cho thấy rằng không chỉ học sinh tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) mới được hưởng lợi từ YTHĐ Nếu công tác này được thực hiện hiệu quả, sẽ giúp hạn chế chi phí KCB nhờ vào việc phát hiện sớm bệnh tật và điều trị kịp thời ngay tại trường.

Trong năm học 1999 – 2000, tổng chi ngân sách tăng 2.005 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 3,58% Trong đó, chi cho Y tế học đường (YTHĐ) tăng 739 triệu đồng và chi cho khám chữa bệnh (KCB) tăng 1.266 triệu đồng, cả hai đều tăng 3,58% so với năm học 1998 – 1999.

Trong năm học 2000 – 2001, tổng chi ngân sách tăng 5.029 triệu đồng, trong đó chi cho YTHĐ đạt 1.853 triệu đồng và chi cho KCB tăng 3.176 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 8,67% so với năm học 1999 – 2000.

Trong năm học 2001 – 2002, tổng chi ngân sách đã tăng mạnh lên 19.364 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 30,73% Trong đó, chi cho YTHĐ đạt 7.239 triệu đồng, tăng 31,18%, và chi cho KCB là 12.125 triệu đồng, tăng 30,46% so với năm học 2000 – 2001.

Trong năm học 2002 – 2003, tổng chi ngân sách đã tăng 19.314 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 23,44% Trong đó, chi cho YTHĐ tăng 3.343 triệu đồng, tương đương với 10,98%, và chi cho KCB tăng 15.971 triệu đồng, tương ứng với 30,76% so với năm học 2001 – 2002.

Đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động BHYT HS - SV tại BHXH Việt Nam

Sau 10 năm triển khai bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện cho học sinh, sinh viên từ 1994 đến 2004, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực Số lượng học sinh tham gia BHYT ngày càng tăng, với năm học 2003-2004 ghi nhận 5.078.730 học sinh, mức cao nhất trong 10 năm Hiện tại, tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước đều thực hiện BHYT cho học sinh, sinh viên, trong đó các địa phương có số học sinh tham gia đông là TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thái Bình, Nghệ An Đặc biệt, tỷ lệ học sinh tham gia BHYT cao nhất so với tổng số học sinh ở các địa phương như Huế (67%), Thái Bình (66%) và Đà Nẵng (63%).

Hàng năm có hàng trăm nghìn lượt em đi KCB ngoại trú và điều trị nội trú Cụ thể:

Bảng 14: Bình quân số lượt KCB của học sinh – sinh viên

Số lượt KCB nội trú bình quân (lượt/ h.s)

Số lượt KCB ngoại trú bình quân (lượt/h.s)

Chi phí KCB bình quân (triệu đồng/h.s)

(Nguồn: Tính từ bảng 9 và bảng 11)

Từ năm 1999 đến 2000, theo Thông tư 40/1998, bình quân số lượt học sinh tham gia bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) đi khám chữa bệnh (KCB) cả nội trú và ngoại trú đều ổn định Cứ 21 em tham gia BHYT HS - SV thì có 1 em đi KCB và điều trị nội trú, trong khi đó cứ 8 em tham gia có 1 em điều trị ngoại trú Điều này cho thấy số học sinh tiếp cận với các dịch vụ y tế là khá cao.

Quyền lợi của học sinh trong việc khám chữa bệnh (KCB) được đảm bảo, với nhiều trường hợp được thanh toán chi phí theo yêu cầu riêng, phù hợp với quy định của Bộ Y tế Chất lượng KCB ngày càng được cải thiện, với việc đưa vào sử dụng nhiều thuốc đắt tiền và trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc chẩn đoán và điều trị cho học sinh – sinh viên Mức chi phí KCB bình quân cho mỗi học sinh dao động từ 10.000 đến 15.000 đồng/năm, tương ứng với mức đóng hiện hành.

Tuy nhiên, nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy chi phí KCB bình quân đang có xu hướng tăng lên

Do không có giới hạn tối đa về chi phí điều trị, nhiều bệnh nhân được cơ quan BHXH chi trả hàng chục triệu đồng Những trường hợp không may tử vong cũng sẽ nhận được trợ cấp theo quy định, và cán bộ BHXH sẽ trực tiếp mang tiền trợ cấp đến tận nhà.

Bảng 15: Hiệu quả sử dụng quỹ BHYT HS - SV

Năm học Số học sinh tham gia( người)

Số thu Tổng chi Tổng chi/ thu

(Nguồn: Tính từ bảng 9 và 10)

Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ tổng chi/ thu của quỹ BHYT

Mức độ đạt được cao của BHYT HS - SV chứng tỏ rằng chương trình không nhằm mục đích kinh doanh, mà toàn bộ số tiền thu được được sử dụng để chăm sóc sức khỏe cho học sinh và sinh viên Điều này khẳng định quyền lợi của học sinh được đảm bảo, tuy nhiên, mức thu vẫn còn thấp trong khi chi phí y tế ngày càng gia tăng và không phải địa phương nào cũng có khả năng cân đối quỹ.

Cuối năm, nhiều địa phương đã sử dụng số tiền kết dư để mua thẻ bảo hiểm y tế cho học sinh nghèo, giúp các em có hoàn cảnh khó khăn được tham gia BHYT HS – SV Điều này tạo điều kiện cho các em yên tâm học tập và phát triển.

Mạng lưới y tế trường học đã được khôi phục và xây dựng mới với nguồn kinh phí từ nhà trường, cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh – sinh viên Hàng năm, số tiền này chiếm hơn 1/3 tổng thu của trường, cho phép các trường có YTHĐ thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe, phòng tránh kịp thời các bệnh như mắt, răng miệng và cong vẹo cột sống Học sinh được đảm bảo uống nước sạch và học tập trong môi trường sạch đẹp Nhiều trường có hoạt động YTHĐ hiệu quả đã tạo được thiện cảm với học sinh và phụ huynh, từ đó tăng cường số lượng học sinh tham gia bảo hiểm y tế (BHYT).

* Những khó khăn, tồn tại trong khi thực hiện BHYT HS - SV tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quá trình thực hiện vẫn gặp không ít khó khăn và hạn chế, cũng như tồn tại những vấn đề cần khắc phục.

Sau 10 năm triển khai, Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên chỉ đạt được kết quả khiêm tốn do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan Trong đó, các nguyên nhân khách quan chủ yếu cần được xem xét để cải thiện tình hình.

Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, dẫn đến việc phụ huynh học sinh phải đóng góp nhiều khoản, nhưng nhiều gia đình không đủ khả năng Mặc dù kinh tế đã phát triển trong những năm gần đây, thu nhập bình quân đầu người vẫn thấp, và sự đầu tư không đồng đều tạo ra khoảng cách lớn giữa các địa phương Chỉ có các thành phố lớn như Hồ Chí Minh và Hà Nội, cùng với các khu vực đông dân cư, mới có điều kiện tham gia Mặc dù đã có mức phí riêng cho khu vực thành thị và nông thôn, nhưng mức đóng góp ở nông thôn vẫn không thấp hơn nhiều so với thành thị, trong khi thu nhập giữa hai khu vực này chênh lệch đáng kể Do đó, việc thu hút học sinh ở nông thôn tham gia vẫn gặp nhiều khó khăn.

Việc tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) còn nhiều hạn chế do thiếu kinh nghiệm sau hai năm triển khai Mặc dù có một số chủ trương được đưa ra, nhưng việc thực hiện vẫn chưa hoàn chỉnh Hệ thống văn bản hướng dẫn thiếu sự đồng bộ và số lượng văn bản quá nhiều, gây khó khăn cho cả người tham gia lẫn tổ chức Hơn nữa, cán bộ làm công tác BHYT chưa thực sự nhiệt tình trong việc thu hút đối tượng tham gia, chủ yếu do mức lương và phụ cấp còn thấp.

Ba là, sự tiếp đón học sinh – sinh viên đến KCB chưa thực sự tốt.

Học sinh – sinh viên thường bị đối xử không công bằng bởi một số cán bộ y tế, dẫn đến thành kiến tiêu cực từ phụ huynh và bản thân các em Cha mẹ thường phàn nàn về chất lượng khám chữa bệnh và thái độ phục vụ, khiến họ ngần ngại tham gia Trong khi người lớn cảm thấy bực bội, học sinh còn cảm thấy sợ hãi vì bị quát mắng do tuổi tác Mặc dù khảo sát cho thấy tình trạng này tồn tại nhưng không phổ biến, nhiều người chỉ nghe nói đã hình thành thành kiến Do đó, một số ít nhân viên y tế không tuân thủ đạo đức nghề nghiệp đã gây cản trở cho việc khuyến khích mọi người tham gia.

Một số địa phương vẫn thường xuyên bị bội chi do tỷ lệ tham gia thấp, dẫn đến việc tự ý mở rộng quyền lợi để thu hút người tham gia Việc quản lý và thống kê kém khiến các địa phương không tổng kết được tiến độ thực hiện kế hoạch của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, từ đó cơ quan quản lý không nắm bắt được tình hình thực tế kịp thời để đưa ra giải pháp và định hướng cho năm tiếp theo.

Phần trăm trích lại từ số thu bảo hiểm y tế (BHYT) cho y tế học đường (YTHĐ) hiện nay chưa được sử dụng hiệu quả, với 35% số tiền trích lại Mạng lưới y tế trường học còn chậm phát triển và gặp nhiều vướng mắc, nhiều trường chưa có phòng y tế và cán bộ y tế, dẫn đến khó khăn trong quản lý và sử dụng kinh phí Nguyên nhân chính là số học sinh – sinh viên tham gia BHYT còn thấp, làm cho phần trích lại không đủ để tổ chức YTHĐ Tuy nhiên, Hà Nội là thành phố thực hiện BHYT cho học sinh - sinh viên tương đối tốt, với số tiền trích lại cho YTHĐ năm học 2002 – 2003 là 3.535 triệu đồng, trung bình mỗi trường nhận được 5,4 triệu đồng/năm từ 657 trường tham gia.

Trường học phải chi trả 3,6 triệu đồng mỗi năm cho cán bộ y tế với mức lương tối thiểu 300.000 đồng/tháng, dẫn đến chỉ còn 1,8 triệu đồng/năm cho công tác chăm sóc sức khỏe học sinh – sinh viên Ở một số trường, do học sinh tham gia ít, số tiền dành cho chăm sóc sức khỏe chỉ còn vài trăm ngàn đồng.

Quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong việc tổ chức thực hiện BHYT HS - SV từ nay đến 2010

Quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước

Đảng và Nhà nước ta xác định con người là nguồn tài nguyên quý giá, và để phát triển xã hội, cần đầu tư cho sức khỏe của nhân dân Đầu tư cho sức khỏe không chỉ là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội mà còn là chăm sóc cho thế hệ tương lai, đặc biệt là học sinh – sinh viên Tại đại hội Đảng IX, Đảng đã nhấn mạnh việc thực hiện đồng bộ các chính sách bảo vệ sức khỏe nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực và tuổi thọ, đồng thời củng cố mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở Các trung tâm y tế chuyên sâu sẽ được xây dựng, cùng với việc đẩy mạnh sản xuất dược phẩm để đảm bảo thuốc thiết yếu đến mọi khu vực Đảng cũng nhấn mạnh sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe, đổi mới cơ chế viện phí, và thực hiện bảo hiểm y tế cho người nghèo, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân, một nhiệm vụ chiến lược quan trọng mà toàn Đảng và dân cần phấn đấu thực hiện.

Tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân là một bước đi đúng đắn, phù hợp với bản chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa Mục tiêu này nhằm đảm bảo mọi người dân Việt Nam, không phân biệt nghề nghiệp, giàu nghèo, giới tính hay địa vị xã hội, đều được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe Đây là một mục tiêu công bằng và bình đẳng mà xã hội chủ nghĩa hướng tới Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định tiếp tục con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công bằng và chăm lo đời sống cho nhân dân.

Chăm sóc sức khoẻ nhân dân không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của từng cá nhân, gia đình và các cấp chính quyền Đảng nhấn mạnh rằng Nhà nước và nhân dân cần hợp tác, trong đó Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí y tế thông qua chính sách thu viện phí Điều này là cần thiết vì không quốc gia nào có thể tự mình đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân do ngân sách hạn hẹp Để thực hiện tốt quan điểm và định hướng của Đảng, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành và chỉ đạo thống nhất từ cấp trên.

Hiện nay, chỉ có 21% dân số Việt Nam có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), vì vậy việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT, đặc biệt là học sinh và sinh viên, là một định hướng quan trọng của Đảng nhằm tiến tới BHYT toàn dân Đẩy mạnh công tác y tế học đường (YTHĐ) được xác định là phương thức hiệu quả và kinh tế nhất để thực hiện mục tiêu này Hướng tới việc đảm bảo tài chính cho hệ thống YTHĐ, cần phấn đấu nâng cao cả về số lượng và chất lượng dịch vụ y tế tại các trường học để chăm sóc sức khỏe cho học sinh ngay tại nơi học tập.

2.Phương hướng chung và dự kiến kế hoạch từ nay đến 2010.

Dựa trên kết quả đạt được và quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện, đặc biệt là BHYT học sinh - sinh viên (HS - SV), trong những năm tới, cần chú trọng một số vấn đề quan trọng nhằm hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân theo kế hoạch đã đề ra.

Một là, khẩn trương tổ chức thực hiện Thông tư liên tịch số

Thông tư 77/2003/TTLT-BTC-BYT ngày 07/08/2003 về bảo hiểm y tế tự nguyện nhấn mạnh việc mở rộng đối tượng tham gia Đồng thời, cần xem xét bổ sung các đối tượng bắt buộc và trình Chính phủ Nghiên cứu các phương thức thanh toán chi phí cho cơ sở khám chữa bệnh cũng là một phần quan trọng nhằm đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ y tế.

Cần tăng cường phối hợp giữa ngành Giáo dục - Đào tạo, Bộ Y tế và BHXH Việt Nam từ trung ương đến địa phương để thống nhất thực hiện chương trình bảo hiểm y tế (BHYT) Đặc biệt, sự kết hợp chặt chẽ giữa các ban ngành là rất quan trọng để công tác y tế học đường (YTHĐ) phát triển rộng rãi Hệ thống trường học cần được đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chương trình BHYT hiệu quả.

Từ năm 2003 đến 2004, cả nước có hơn 22 triệu học sinh và sinh viên, trong đó trên 5 triệu người đã tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) Dự báo từ nay đến năm 2010, với tốc độ tăng trưởng hiện tại, số học sinh và sinh viên tham gia BHYT sẽ tăng thêm 0,5 triệu mỗi năm, đưa tổng số lên trên 8 triệu, chiếm khoảng 40% tổng số học sinh và sinh viên có thẻ BHYT.

Mặc dù mức đóng góp của học sinh hiện nay còn thấp, quyền lợi hưởng lại khá toàn diện, dẫn đến tình trạng bội chi tại một số địa phương Tuy nhiên, trong những năm qua, quỹ bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) trên toàn quốc vẫn duy trì được sự cân đối giữa thu và chi Để khắc phục tình trạng này trong tương lai, cần tăng cường số lượng học sinh tham gia và điều chỉnh mức phí cho phù hợp với giá cả chung Tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo quỹ được cân đối, góp phần vào thành công của công tác BHYT HS - SV.

Đến năm 2010, tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) chỉ đạt 40%, chưa đáp ứng được mục tiêu BHYT toàn dân Do đó, cần triển khai các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của BHYT cho học sinh và sinh viên.

Một số kiến nghị đối với các bên có liên quan

Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Trước năm 2002, Bảo hiểm Y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) do Bảo hiểm Y tế Việt Nam trực tiếp quản lý Tuy nhiên, theo Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 24/01/2002, Bảo hiểm Y tế Việt Nam đã được chuyển giao về hệ thống Bảo hiểm xã hội (BHXH), biến BHYT thành một bộ phận của BHXH Hiện nay, BHXH là cơ quan tổ chức và thực hiện các chương trình BHYT.

Bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh - sinh viên (HS - SV) là một vấn đề quan trọng, đòi hỏi Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần triển khai nhiều giải pháp hiệu quả Việc gắn kết BHYT với từng học sinh - sinh viên trong thời gian học tập tại trường sẽ đảm bảo quyền lợi sức khỏe cho các em, đồng thời nâng cao nhận thức về bảo vệ sức khỏe trong cộng đồng học đường.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần nâng cao năng lực quản lý hệ thống BHYT, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi sang BHXH Việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ chuyên môn cho cán bộ chưa có kinh nghiệm về BHYT là cần thiết, bao gồm các chương trình đào tạo mới và nâng cao Chất lượng nhân viên khai thác thông tin cũng rất quan trọng, đặc biệt trong việc tuyên truyền và hướng dẫn thủ tục tham gia BHYT Để giải quyết những khó khăn hiện tại, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần xây dựng đề án triển khai BHYT cho học sinh, sinh viên và hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý là cần thiết nhằm đơn giản hóa quy trình làm việc, đồng thời phát triển phần mềm quản lý BHYT HS - SV thống nhất trên toàn quốc để cải thiện công tác quản lý hồ sơ và thống kê.

Việc cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt trong công tác phát hành thẻ bảo hiểm xã hội, cần được đẩy mạnh Hiện tại, Bảo hiểm xã hội Việt Nam thường chỉ cho phép phát hành thẻ khoảng hai tháng sau khi năm học mới bắt đầu, dẫn đến việc những học sinh có nhu cầu tham gia sau không được đáp ứng Để khắc phục điều này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên không quy định thời gian cứng nhắc mà cần thiết lập bộ phận hỗ trợ, như phòng tài chính kế toán của trường, để bổ sung cho những học sinh tham gia sau khi đợt phát hành đã kết thúc.

Nghiên cứu cùng với Bộ Tài chính và Bộ Y tế để điều chỉnh mức phí cho Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV) là cần thiết nhằm đảm bảo tính khả thi trong chi trả và sự tham gia đông đảo của học sinh Mặc dù mức đóng hiện tại đã được áp dụng từ nhiều năm trước, chi phí y tế lại thường xuyên thay đổi, dẫn đến khó khăn trong việc thích ứng của người dân Việc tăng phí có thể khiến số lượng người tham gia giảm, trong khi nếu giữ nguyên mức phí, tình trạng bội chi sẽ xảy ra, gây thất bại cho chương trình BHYT HS - SV Tâm lý người dân thường ưu tiên giá rẻ nhưng vẫn yêu cầu chất lượng, do đó, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần xem xét mức đóng phù hợp cho các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đồng thời kiến nghị Nhà nước hỗ trợ một phần phí cho khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa.

Trong bối cảnh hiện nay, việc chú trọng công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm là vô cùng cần thiết, bởi kiến thức của người dân về lĩnh vực này vẫn còn hạn chế.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay chủ yếu tuyên truyền về bảo hiểm y tế (BHYT) qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, tạp chí, báo chí và áp phích, nhưng chưa có chương trình quảng cáo riêng cho BHYT học sinh - sinh viên (HS – SV) Để nâng cao nhận thức và tham gia của đối tượng này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần đa dạng hóa các kênh truyền thông đặc thù cho BHYT HS – SV, nhằm thu hút sự chú ý và cung cấp thông tin đầy đủ hơn.

- Tuyên truyền qua trường học.

Môi trường học đường là nơi lý tưởng để tuyên truyền về Bảo hiểm y tế (BHYT) cho học sinh, sinh viên Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần thiết lập mối quan hệ tốt với các trường học để nâng cao nhận thức của sinh viên về BHYT Việc tăng cường thông tin tuyên truyền trong trường học sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của BHYT, từ đó khuyến khích họ tham gia tích cực và hình thành thói quen bảo hiểm Các quốc gia có tỷ lệ tham gia BHYT cao cho thấy người dân coi bảo hiểm là một phần thiết yếu trong chi tiêu hàng ngày Thói quen này không hình thành trong một sớm một chiều mà cần thời gian dài, từ thế hệ này sang thế hệ khác Do đó, việc giáo dục thế hệ trẻ về BHYT không chỉ mang lại lợi ích trước mắt mà còn góp phần xây dựng ý thức tham gia bảo hiểm cho các thế hệ sau.

Tại trường học Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên chăng có các cách tuyên truyền sau:

+ tuyên truyền qua hội phụ huynh.

Phụ huynh học sinh đóng vai trò quyết định trong việc tham gia Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên (BHYT HS - SV), đặc biệt là với các em học sinh tiểu học và trung học cơ sở, khi các em chưa hiểu rõ về lợi ích của BHYT Do đó, cha mẹ thường là người đưa ra quyết định về việc tham gia bảo hiểm Hàng năm, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần có văn bản hướng dẫn các cơ quan BHXH xuống tận trường học để tuyên truyền về chính sách BHYT trong buổi họp phụ huynh đầu năm Việc này có thể được thực hiện thông qua sự phối hợp với các giáo viên chủ nhiệm hoặc tổ chức tập huấn cho họ để nâng cao hiệu quả tuyên truyền.

BHXH cấp cơ sở cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các trường học để tăng cường thời gian tuyên truyền về BHYT trong các buổi họp phụ huynh Trong các buổi họp này, nhân viên bảo hiểm sẽ giải đáp thắc mắc về BHYT, hướng dẫn thủ tục và nhấn mạnh ý nghĩa của BHYT đối với sức khỏe của học sinh, sinh viên, giúp phụ huynh vượt qua khó khăn kinh tế Mặc dù học sinh ở các cấp học khác đã có nhận thức tốt hơn về BHYT, việc tuyên truyền đến cha mẹ vẫn cần được duy trì và không nên lơ là.

+ tuyên truyền trực tiếp tới các em.

Việc tuyên truyền về bảo hiểm y tế (BHYT) nên được thực hiện từ cấp THCS trở lên, khi học sinh đã có nhận thức nhất định Mục tiêu là giúp các em nhận thức rõ tác dụng của BHYT thông qua các kênh như đài phát thanh trường, buổi chào cờ, Đoàn thanh niên, và tờ rơi Hoạt động này cần được duy trì không chỉ vào đầu năm học mà còn thường xuyên trong suốt năm, bởi vì kiến thức về BHYT sẽ ảnh hưởng đến quyết định tham gia của các em trong những năm học tiếp theo.

Trong buổi tuyên truyền, cần đưa ra những ví dụ thực tế như chi phí khám chữa bệnh cho học sinh trong trường và việc nâng cao chất lượng phòng y tế với trang thiết bị mới Đồng thời, thông qua các hoạt động của Đoàn thanh niên và Hội sinh viên, nên phát động các cuộc thi tìm hiểu về lợi ích và tính nhân văn của bảo hiểm y tế, đặc biệt là bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên Ngoài ra, cũng có thể tổ chức cuộc thi sáng tác tranh cổ động, bài văn và thơ về bảo hiểm y tế và bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên.

SV BHXH cấp cơ sở có thể trích tiền tài trợ cho các chương trình này từ số tiền để lại trường học.

Tuyên truyền qua đài truyền thanh và truyền hình là phương pháp phổ biến và hiệu quả mà các công ty thường sử dụng để quảng cáo sản phẩm của mình.

BHYT HS - SV là một sản phẩm dịch vụ cần được quảng cáo qua các kênh truyền thông, và các công ty bảo hiểm thương mại đã tận dụng hiệu quả phương thức này để giới thiệu sản phẩm đến khách hàng Qua kênh tuyên truyền, BHYT có thể phát các tin bài, phóng sự về những thành tựu như chương trình YTHĐ, giúp gia đình các em mắc bệnh hiểm nghèo có điều kiện chữa trị Do BHYT HS - SV là chính sách của Nhà nước, việc tuyên truyền qua đài truyền hình và đài tiếng nói trở nên thuận lợi với chi phí thấp hơn so với các công ty thương mại, từ đó mang lại hiệu quả lớn trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng.

Hệ thống loa truyền thanh tại các xã, phường hiện nay rất phong phú và gần gũi với nhân dân, với hầu hết các địa phương trên cả nước đều có hệ thống này Việc Bảo hiểm xã hội Việt Nam tuyên truyền về Bảo hiểm y tế (BHYT), đặc biệt là BHYT học sinh - sinh viên (HS - SV), qua kênh này sẽ mang lại hiệu quả thiết thực nhờ thời lượng phát sóng dồi dào và khả năng đăng bài dễ dàng Tuy nhiên, thực tế cho thấy BHXH chưa chú trọng đến nguồn thông tin này, vì vậy trong những năm tới, Ban Tuyên truyền của Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần tăng cường quan tâm đến kênh thông tin này hơn nữa.

- Tuyên truyền qua kênh thông tin khác.

Ngày đăng: 14/10/2022, 09:04

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Giáo trình Thống Kê bảo hiểm - PGS. TS. Hồ Sĩ Sà chủ biên - Nhà xuất bản Thống Kê - 2000 Khác
4. Tạp chí Bảo hiểm Y tế Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2002 Khác
5. Tạp chí Bảo hiểm xã hội từ năm 2003 đến năm 2005 Khác
6. Thông tư liên tịch số 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT ngày 19/8/1998 về BHYT HS - SV Khác
7. Nghị định 58/CP ngày 13/8/1998 ban hành kèm theo điều lệ BHYT Khác
8. Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT - BYT – BGD ĐT ngày 01/03/2000 hướng dẫn thực hiện công tác y tế trường học Khác
9. Thông tư liên tịch số 77/2003/TTLT – BTC – BYT ngày 07/8/2003 hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện Khác
10. Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010 của Bộ Tài chính Khác
11. Các báo cáo tổng kết nghiệp vụ BHYT HS - SV từ năm 1998 đến năm 2004 của Ban Tự nguyện – Bảo hiểm xã hội Việt Nam Khác
12. Niên giám thống kê từ năm 2001 đến năm 2004 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2: Phớ BHYT HS-SV - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
Bảng 2 Phớ BHYT HS-SV (Trang 24)
Bảng 4: Số lượng cơ sở KCB qua cỏc năm - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
Bảng 4 Số lượng cơ sở KCB qua cỏc năm (Trang 44)
Bảng 6: Qui mụ dõn số Việt Nam giai đoạn 1998 – 2003 - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
Bảng 6 Qui mụ dõn số Việt Nam giai đoạn 1998 – 2003 (Trang 45)
Bảng 5: Số bỏc sĩ bỡnh quõn trờn 1 vạn dõn - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
Bảng 5 Số bỏc sĩ bỡnh quõn trờn 1 vạn dõn (Trang 45)
Bảng 7: Số lượng học sinh – sinh viờn tham gia BHYT  tại cơ quan Bảo hiểm xó hội Việt Nam - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
Bảng 7 Số lượng học sinh – sinh viờn tham gia BHYT tại cơ quan Bảo hiểm xó hội Việt Nam (Trang 51)
- Cho trẻ chuyển đội hình thành hai hàng ngang. - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
ho trẻ chuyển đội hình thành hai hàng ngang (Trang 53)
Để làm rừ vấn đề này chỳng ta cần xem xột qua bảng số lượng học sinh tham gia vào BHTM. - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
l àm rừ vấn đề này chỳng ta cần xem xột qua bảng số lượng học sinh tham gia vào BHTM (Trang 54)
Qua bảng số liệu về số lượng học sinh tham gia qua cỏc năm chỳng ta thấy số học sinh tham gia tăng khụng đều, thậm chớ cú năm cũn giảm nhưng tổng thu Quỹ BHYT HS - SV đều tăng, điều đú liệu cú mõu thuẫn với nhau khụng? Để trả lời thắc mắc đú chỳng ta  cựn - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
ua bảng số liệu về số lượng học sinh tham gia qua cỏc năm chỳng ta thấy số học sinh tham gia tăng khụng đều, thậm chớ cú năm cũn giảm nhưng tổng thu Quỹ BHYT HS - SV đều tăng, điều đú liệu cú mõu thuẫn với nhau khụng? Để trả lời thắc mắc đú chỳng ta cựn (Trang 56)
Bảng 12: Tỡnh hỡnh chi BHYT HS – SV - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
Bảng 12 Tỡnh hỡnh chi BHYT HS – SV (Trang 61)
Qua bảng số liệu trờn ta thấy tổng chi qua cỏc năm đều tăng một phần là do chi phớ y tế tăng nhanh và do việc Nhà nước chỳ ý nõng cao chất lượng ở tất cả cỏc tuyến đặc biệt là tuyến cơ sở - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
ua bảng số liệu trờn ta thấy tổng chi qua cỏc năm đều tăng một phần là do chi phớ y tế tăng nhanh và do việc Nhà nước chỳ ý nõng cao chất lượng ở tất cả cỏc tuyến đặc biệt là tuyến cơ sở (Trang 62)
Bảng 14: Bỡnh quõn số lượt KCB của học sinh – sinh viờn - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
Bảng 14 Bỡnh quõn số lượt KCB của học sinh – sinh viờn (Trang 67)
Tuy nhiờn, nhỡn vào bảng số liệu trờn ta thấy chi phớ KCB bỡnh quõn đang cú xu hướng tăng lờn - Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS   SV tại cơ  quan bảo hiểm xã hội việt nam
uy nhiờn, nhỡn vào bảng số liệu trờn ta thấy chi phớ KCB bỡnh quõn đang cú xu hướng tăng lờn (Trang 68)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w