1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam

31 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Tình Hình Ứng Dụng Các Hiệp Ước Vốn Tại Việt Nam
Trường học Việt Nam
Chuyên ngành Tài Chính Ngân Hàng
Thể loại Chuyên Đề
Năm xuất bản 2012
Thành phố Việt Nam
Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 471,39 KB

Cấu trúc

  • 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI (2)
  • 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU (3)
    • 2.1. Mục tiêu chung (3)
    • 2.2. Mục tiêu cụ thể (3)
  • 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU (3)
    • 3.1. Phạm vi không gian (3)
    • 3.2. Phạm vi thời gian (3)
    • 3.3. Đối tượng nghiên cứu (3)
  • 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (4)
    • 4.1. Phương pháp thu thập số liệu (4)
    • 4.2. Phương pháp phân tích số liệu (4)
  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU HIỆP ƯỚC VỐN BASEL (5)
    • 1.1. Đôi nét về ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) (5)
    • 1.2. Lịch sử vắn tắt quá trình hình thành các Basel (6)
    • 1.3. Nội dung cơ bản của các Basel (7)
      • 1.3.1. Nội dung cơ bản của Basel I (7)
      • 1.3.2. Nội dung cơ bản của Basel II (8)
      • 1.3.3. Nội dung cơ bản của Basel III (10)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÁC BASEL TẠI VIỆT NAM (12)
    • 2.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước (12)
    • 2.2. Về phía các TCTD (13)
      • 2.2.1. Giai đoạn 1999-2005 (14)
      • 2.2.2. Giai đoạn 2005-2010 (16)
      • 2.2.3. Giai đoạn 2011-2012 (18)
    • 2.3. Đánh giá thực trạng ứng dụng Hiệp ước vốn tại Việt Nam (22)
      • 2.3.1. Thuận lợi (22)
      • 2.3.2. Khó khăn (22)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ỨNG DỤNG (26)
    • 3.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (26)
    • 3.2. Nâng cao chất lượng xếp hạng tín nhiệm (27)
    • 3.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật (27)
    • 3.4. Các giải pháp khác (28)

Nội dung

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu chung

Phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 1999-

Năm 2012, cần đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam Đồng thời, cần đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng các Hiệp ước này, phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam trong thời gian tới.

Mục tiêu cụ thể

- Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012.

- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012.

- Đề xuất những giải pháp thực thi, có tính đồng bộ giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong tương lai.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp thu thập số liệu

Đề tài này chủ yếu dựa trên dữ liệu thứ cấp từ NHNN Việt Nam, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, Tổng cục thống kê, cùng với các báo cáo thường niên và báo cáo tài chính của các ngân hàng Bên cạnh đó, thông tin cũng được bổ sung từ các báo, tạp chí chuyên ngành và nguồn Internet.

Phương pháp phân tích số liệu

- Sử dụng phương pháp so sánh số tương đối và số tuyệt đối để thấy được tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 1999-2012.

Phương pháp thống kê suy luận được áp dụng để phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai các hiệp ước vốn tại Việt Nam từ năm 1999 đến 2012 Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của các hiệp ước đối với sự phát triển kinh tế và môi trường đầu tư trong giai đoạn này Kết quả cho thấy, mặc dù có nhiều cơ hội từ các hiệp ước, nhưng vẫn tồn tại những thách thức cần khắc phục để tối ưu hóa lợi ích.

Để nâng cao hiệu quả ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong tương lai, cần áp dụng phương pháp tự luận nhằm đưa ra những giải pháp thực thi đồng bộ và hiệu quả.

GIỚI THIỆU HIỆP ƯỚC VỐN BASEL

Đôi nét về ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS)

Vào năm 1974, để ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng do khủng hoảng tiền tệ và thị trường ngân hàng, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) đã được thành lập bởi một nhóm ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại Basel, Thụy Sĩ, sau sự kiện sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức Hiện nay, Ủy ban bao gồm đại diện từ 13 quốc gia như Anh, Mỹ, và Nhật Bản, tổ chức họp bốn lần mỗi năm và một cuộc họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) Để duy trì hoạt động hiệu quả, một Hội đồng thư ký thường trực gồm 15 thành viên chuyên nghiệp từ các tổ chức tín dụng thành viên được thành lập tại Washington DC Mặc dù không có quyền giám sát hay tính pháp lý, Ủy ban Basel báo cáo với các thống đốc ngân hàng trung ương của nhóm G10 để tìm kiếm sự hỗ trợ cho các sáng kiến của mình, đồng thời phát triển các tiêu chuẩn và hướng dẫn giám sát nhằm khuyến khích các quốc gia áp dụng theo cách phù hợp với hệ thống của họ.

Ủy ban Basel nhấn mạnh rằng sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng, bất kể là ở quốc gia phát triển hay đang phát triển, có thể đe dọa không chỉ sự ổn định tài chính của quốc gia đó mà còn cả toàn cầu Để giảm bớt khoảng cách trong giám sát ngân hàng, Ủy ban thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về hợp tác quốc tế, nhằm nâng cao chất lượng giám sát ngân hàng Để đạt được mục tiêu này, Ủy ban Basel tập trung vào ba điểm chính: (1) Trao đổi thông tin về giám sát ngân hàng ở cấp quốc gia, (2) Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát ngân hàng quốc tế, và (3) Đặt ra tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong các lĩnh vực quan trọng mà Ủy ban quan tâm.

Lịch sử vắn tắt quá trình hình thành các Basel

Vào những năm 1980, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng thương mại toàn cầu đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia phát triển đã tìm ra giải pháp khuyến khích cạnh tranh công bằng và bảo vệ an toàn cho người gửi tiền, đó là Hiệp ước vốn Basel (Basel Capital Accord) hay Basel I Đây là yêu cầu về an toàn vốn do các ngân hàng thuộc nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lý ngân hàng thuộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên.

Basel I, có hiệu lực từ năm 1992, đã thiết lập khung đo lường rủi ro tín dụng với yêu cầu vốn tối thiểu 8%, được áp dụng rộng rãi không chỉ ở các quốc gia thành viên mà còn ở nhiều nước khác Năm 1996, Basel I được sửa đổi để bổ sung rủi ro thị trường, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế Để khắc phục điều này, vào tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất Các chương trình tư vấn tiếp theo diễn ra vào tháng 1/2001 và tháng 4/2003, dẫn đến việc hoàn thiện Basel II vào quý 4/2003 Basel II bao gồm ba trụ cột chính: yêu cầu vốn tối thiểu, giám sát nội bộ và công bố thông tin để nâng cao kỷ luật thị trường Basel II chính thức có hiệu lực vào tháng 1/2007, đánh dấu sự kết thúc quá trình chuyển đổi từ Basel I sang Basel II vào năm 2010.

Nội dung cơ bản của các Basel

Để chuẩn hóa hoạt động ngân hàng trong bối cảnh toàn cầu hóa, Uỷ ban Basel đã thiết lập các tiêu chí đánh giá an toàn và hiệu quả trong ngành ngân hàng Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường vốn quốc tế là mức độ tuân thủ yêu cầu về an toàn vốn tối thiểu, đây là nội dung cốt lõi của Basel.

I Ngoài ra, Ủy ban Basel còn đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng.Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 cấp là vốn cấp 1 và vốn cấp 2 Trong đó, vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của việc đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công cụ nợ cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp Như vậy, tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng Dựa trên cách tính vốn tự có này, Basel 1 đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) mà đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia Công thức tính như sau:

CAR = [(Vốn tự có hay vốn cơ bản) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%.

Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) +

Basel I, mặc dù là một bước tiến quan trọng trong quản lý rủi ro ngân hàng, vẫn tồn tại nhiều hạn chế Đầu tiên, nó chỉ tập trung vào rủi ro tín dụng mà không xem xét các rủi ro khác như rủi ro hoạt động, hệ thống hay thanh khoản Thứ hai, Basel I không phân biệt giữa các loại rủi ro, dẫn đến việc các khoản nợ của tổ chức xếp hạng AAA và B được coi là tương đương, bất chấp sự khác biệt về mức độ rủi ro Thứ ba, quy định này không tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động, khiến ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng phải tuân thủ cùng một yêu cầu vốn tối thiểu như ngân hàng tập trung Cuối cùng, một số quy tắc của Basel I chỉ áp dụng cho ngân hàng hoạt động theo kiểu đơn lẻ, không phù hợp với các mô hình ngân hàng tập đoàn hay ngân hàng mẹ - chi nhánh.

1.3.2 Nội dung cơ bản của Basel II

Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm

Năm 1996, hệ thống quy định vốn ngân hàng còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc Uỷ ban Basel đề xuất khung đo lường mới vào tháng 6/1999 Hiệp ước quốc tế về vốn Basel II chính thức được ban hành vào ngày 26/6/2004, với ba trụ cột chính Trụ cột I quy định tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn giữ ở mức 8% tổng tài sản có rủi ro, nhưng cách tính toán rủi ro đã được cải tiến, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường Trụ cột II yêu cầu các ngân hàng phải đánh giá chính xác các loại rủi ro mà họ đối mặt và đảm bảo rằng các biện pháp đánh giá này được giám sát đầy đủ Đồng thời, trụ cột này cũng liên quan đến việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp công cụ tốt hơn cho các nhà hoạch định chính sách.

Basel I Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, gồm rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro pháp lý, rủi ro thanh khoản, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk) Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: (1) Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó; (2) Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng Họ cũng phải có khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này;

Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì vốn cao hơn mức tối thiểu quy định và can thiệp sớm để đảm bảo vốn không giảm dưới mức tối thiểu Nếu mức vốn không được duy trì, giám sát viên có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức Theo trụ cột thứ ba của Basel II, các ngân hàng cần công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường, bao gồm thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn, cũng như độ nhạy cảm với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá rủi ro của ngân hàng.

Quá trình phát triển của Basel do BCBS đưa ra yêu cầu các ngân hàng thương mại hoạt động minh bạch hơn và đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro, nhằm giảm thiểu rủi ro Mặc dù Basel II được coi là một cơ chế quan trọng để cải cách và củng cố công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã chỉ ra những thiếu sót và bất cập của nó.

Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến hiện nay gặp khó khăn do thiếu các tiêu chuẩn chấp nhận rộng rãi Hơn nữa, các phương pháp giám sát và đánh giá rủi ro chưa phản ánh đầy đủ các hoạt động trong chu kỳ kinh doanh Cuối cùng, các cơ quan quản lý chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của các sản phẩm dịch vụ công nghệ cao, dẫn đến mức độ rủi ro gia tăng.

1.3.3 Nội dung cơ bản của Basel III Để đối phó với những thiếu sót trong các qui định của Basel II, đồng thời nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, BCBS đã phát triển Hiệp ước vốn Basel II thành Hiệp ước vốn Basel III với những quy định nghiêm ngặt hơn dành cho 27 ngân hàng thành viên Như vậy, mục tiêu gói cải cách của BCBS là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài chính cho các nền kinh tế

Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng Các tiêu chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel

II Các đòn bẩy mới và tỷ lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảy ra khủng hoảng Cụ thể, Basel III cũng quy định đối với tất cả các khoản vay có mức độ rủi ro cao cần phải đạt hệ số rủi ro cao nhất là 150% (nghĩa là khi ngân hàng tính toán tài sản có rủi ro sẽ nhân với 1.5 )

Bài viết tóm tắt các thay đổi quan trọng trong quy định về vốn ngân hàng Đầu tiên, chất lượng, tính nhất quán và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được nâng cao, với yêu cầu vốn cấp I phải đạt 6% trên tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, trong đó 4.5% phải là vốn của cổ đông thông thường Thời hạn thực hiện quy định này là ngày 1/1/2015, với lộ trình từ tháng 1/2013 đến cuối năm 2018 Thứ hai, mức vốn để đảm bảo các rủi ro sẽ được tăng cường, bao gồm yêu cầu vốn cao hơn cho các khoản tín dụng, nghiệp vụ bảo đảm và giao dịch tài chính, đồng thời nâng cao vốn dự phòng cho rủi ro và cung cấp ưu đãi để chuyển các hợp đồng phái sinh sang giao dịch ngoại hối tại ngân hàng.

Ủy ban đang đề xuất một tỷ lệ đòn bẩy như một biện pháp bổ sung cho khung rủi ro của Basel II, nhằm xây dựng lớp đòn bẩy thứ hai trong lĩnh vực ngân hàng và cung cấp biện pháp bảo vệ chống lại rủi ro mô hình và sai số đo Đồng thời, Ủy ban cũng khuyến nghị các biện pháp để xây dựng các vùng đệm vốn trong thời kỳ thuận lợi, giúp có thể rút ra khi gặp căng thẳng, nhằm giảm chu kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ.

Vào ngày thứ năm, Ủy ban đã triển khai tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu cho ngân hàng quốc tế, yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo trong 30 ngày, kết hợp với tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn gọi là Tỷ lệ dự phòng bình ổn Đồng thời, Ủy ban đang xem xét nhu cầu vốn bổ sung và các biện pháp giám sát khác nhằm giảm thiểu các yếu tố ngoại tác từ các tổ chức quan trọng có hệ thống Theo Basel III vào tháng 9/2010, yêu cầu tỷ lệ cho cổ phần phổ thông là 7-9,5% (bao gồm 4,5%-2,5% cho vùng đệm bảo tồn và 0-2,5% cho vùng đệm theo thời kỳ), trong khi tỷ lệ cho Vốn cấp 1 là 8,5-11% và 10,5% cho các yêu cầu khác.

THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÁC BASEL TẠI VIỆT NAM

Về phía cơ quan quản lý nhà nước

NHNN Việt Nam và các TCTD đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, đặc biệt trong quản trị rủi ro của các NHTM, hướng tới các chuẩn mực quốc tế NHNN đóng vai trò quan trọng trong việc ban hành các văn bản luật cập nhật theo các điều khoản của Basel, phù hợp với tình hình Việt Nam, đồng thời quản lý và giám sát việc thực hiện các văn bản này để có những điều chỉnh thích hợp.

Mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ mới ban hành Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) vào năm 1997, nhưng chỉ sau hai năm, NHNN đã nhanh chóng cập nhật các chuẩn mực quốc tế về an toàn vốn Cụ thể, vào ngày 25/8/1999, NHNN đã ban hành hai Quyết định quan trọng: Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN quy định về giới hạn cho vay với một khách hàng của TCTD và Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD Tuy nhiên, mặc dù NHNN đã nỗ lực, hai Quyết định này vẫn tồn tại những hạn chế, đặc biệt là khi NHNN ban hành các văn bản luật theo chuẩn mực Basel I, thì BCBS đã bắt đầu đề xuất khung Hiệp ước vốn mới (Basel II).

Vào ngày 23/4/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trong Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, theo Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN ngày 25/8/1999 Đến năm 2005, NHNN tiếp tục ban hành các quyết định mới để cụ thể hóa hơn nữa các quy định theo tiêu chuẩn Basel.

Quyết định 296 và Quyết định 297 bao gồm hai văn bản quan trọng: (1) Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó xác định vốn tự có bằng vốn cấp I cộng vốn cấp II, từ đó tính toán tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (2) Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, phân chia nợ của TCTD thành 5 nhóm: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) không cần trích lập dự phòng, Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) trích lập 5%, Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) trích lập 20%, Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) trích lập 50%, và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) trích lập 100%.

Quyết định 457 và 493 đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến các điều khoản trong hiệp định Basel, nhưng nội dung vẫn còn hạn chế.

Vào tháng 5/2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, thay thế Quyết định 457 và các sửa đổi liên quan Thông tư này không chỉ xác định lại Vốn tự có bao gồm vốn cấp I và vốn cấp II, mà còn hướng dẫn cách xác định tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất, đồng thời nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng lên 9%.

Về phía các TCTD

Các TCTD không chỉ tuân thủ quy định của NHNN mà còn nỗ lực cải thiện hệ thống quản trị rủi ro, hướng tới các chuẩn mực Basel Ngành ngân hàng đã chuyển từ quản lý rủi ro thụ động sang chủ động, với việc thành lập bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt và chú trọng đến rủi ro tác nghiệp Một số ngân hàng lớn như BIDV, VCB, Vietinbank đã xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, phân loại khách hàng thành 10 hạng khác nhau dựa trên thông tin tài chính và phi tài chính Việc thực hiện các quy định về an toàn vốn được chia thành ba giai đoạn, bắt đầu từ năm 1999 với Quyết định 297, và tiếp tục với Quyết định 457 từ năm 2006.

Mặc dù Thông Tư số 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 01/10/2010, nhưng vẫn tính toàn bộ năm 2010 Giai đoạn thứ ba từ năm 2011 đến 2012 yêu cầu các tổ chức tín dụng đảm bảo an toàn vốn tối thiểu 9% theo quy định của Thông tư này.

Tính đến giai đoạn hiện tại, năm ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM NN) như Vietcombank (VCB), VietinBank (CTG), BIDV, Agribank (AGR) và MHB đang nắm giữ 70-75% thị phần Vào năm 2000, để đối phó với tỷ lệ nợ xấu cao, Chính phủ đã cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng trái phiếu đặc biệt cho bốn NHTM NN, nâng tổng vốn tự có của nhóm này lên hơn 18.000 tỷ VND, chiếm 51% vốn tự có toàn hệ thống Sự an toàn trong hoạt động của các ngân hàng này không chỉ quan trọng đối với chính họ mà còn quyết định an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

31/12/2005, ta thấy, hầu hết các NHTM NN đều chưa đạt được yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, trừ MHB

Hình 1: Hệ số an toàn vốn (hệ số CAR) của các NHTM NN thời điểm 31/12/2005

VCB CTG BIDV AGR MHB

Mặc dù các ngân hàng thương mại nhà nước đang gặp khó khăn trong việc đạt tiêu chuẩn an toàn vốn, nhưng các ngân hàng thương mại cổ phần hiện tại lại duy trì được mức an toàn vốn ổn định.

Hình 2: Hệ số an toàn vốn của hệ thống TCTD Việt Nam tính đến 31/12/2005

Nhóm ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM NN) có hệ số an toàn vốn (CAR) thấp nhất, chỉ đạt 4.10%, trong khi các nhóm còn lại đều có CAR cao hơn mức quy định Cụ thể, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị đạt CAR 8.00%, đủ để đáp ứng yêu cầu Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh lần lượt có CAR là 9.20% và 12.00% Đặc biệt, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn có CAR lên đến 24% Tuy nhiên, do thị phần lớn và tỷ trọng vốn tự có của nhóm NHTM NN cao hơn nhiều so với các nhóm khác, hệ thống ngân hàng thương mại vẫn có CAR tổng thể rất thấp, chỉ đạt 5.50% Mặc dù nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đã nỗ lực và hầu hết các ngân hàng cổ phần đều đạt hệ số an toàn vốn trên 8%, nhưng nếu so sánh với cách tính của Basel II, thì rất ít ngân hàng đạt tỷ lệ an toàn vốn trên 8% trong giai đoạn này.

Trong giai đoạn hiện tại, các ngân hàng thương mại (NHTM) nhìn chung đều đạt tỷ lệ an toàn vốn (CAR) trên 8%, tuy nhiên, vẫn tồn tại vấn đề từ giai đoạn trước khi các NHTM nhà nước có ảnh hưởng lớn đến toàn hệ thống nhưng không đáp ứng yêu cầu theo Quyết định 457 Cụ thể, AGR không đạt được hệ số CAR trong suốt giai đoạn thứ hai, với mức CAR rất thấp Thêm vào đó, BIVD, CTG và VCB cũng có thời điểm không đáp ứng yêu cầu về an toàn vốn theo Quyết định 457 và các sửa đổi, bổ sung liên quan.

Bảng 1: CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010 Đơn vị tính: %

( Nguồn: tổng hợp từ website NHNN) Để hiểu rõ hơn về sự biến động của CAR trong giai đoạn này, ta xem xét hình sau:

Hình 3: Hệ số CAR của một số NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010

VCB CTG ARG BIDV TCB STB ACB

Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn đầy biến động Thứ nhất, giai đoạn 2006-

Năm 2008, hầu hết các ngân hàng đều có tỷ lệ an toàn vốn (CAR) vượt mức quy định và có xu hướng tăng trưởng nhờ môi trường kinh doanh thuận lợi và sự bùng nổ của thị trường chứng khoán Tuy nhiên, từ năm 2008 đến 2009, chính sách kích cầu và nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã dẫn đến sự gia tăng đột biến trong tín dụng của các ngân hàng thương mại, làm tăng tổng tài sản rủi ro và giảm tỷ lệ an toàn vốn, với VCB giảm từ trên 8% xuống còn 7.64% Trong giai đoạn 2009-2010, CAR của hầu hết các ngân hàng đã có sự phục hồi đáng kể, do yêu cầu theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP yêu cầu các ngân hàng phải đạt vốn pháp định tối thiểu 3.000 tỷ VND vào cuối năm 2010, dẫn đến việc tăng vốn tự có và cải thiện tỷ lệ an toàn vốn.

Trong giai đoạn hiện nay, bức tranh về an toàn vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khá phức tạp Theo Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, hệ số an toàn vốn tối thiểu được yêu cầu là 9%, và hầu hết các ngân hàng thương mại đều đạt CAR trên mức này Mặc dù AGR chỉ đạt 8%, nhưng đây vẫn là tín hiệu tích cực, vì nó đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel I, II và III.

Hình 4: Hệ số CAR của các NHTM năm 2011

VCB CTG ARG BIDV TCB STB ACB

Dấu hiệu đáng chú ý thứ hai là tỷ lệ CAR trong toàn hệ thống ngân hàng có xu hướng gia tăng, từ 11.92% vào tháng 9/2011 lên 13.7% vào ngày 31/10/2012 Nguyên nhân chính là các ngân hàng thương mại cổ phần đã nỗ lực thực hiện Nghị định 141/2006/NĐ-CP, yêu cầu tăng vốn điều lệ lên trên 3000 tỷ đồng Đến ngày 31/10/2012, không còn ngân hàng nào có mức vốn điều lệ dưới 3000 tỷ đồng.

Bảng 2: Tỷ lệ an toàn vốn của ngành Ngân hàng Đơn vị tính: %

Nguồn: tổng hợp từ NHNN

Mặc dù có hai dấu hiệu khả quan, nhưng chúng ta vẫn chưa thể khẳng định rằng các ngân hàng thương mại Việt Nam đã chuẩn bị đầy đủ để đối phó với những nguy cơ từ các loại rủi ro, do một số nguyên nhân nhất định.

Mặc dù Agribank là ngân hàng lớn nhất Việt Nam về vốn, tài sản, đội ngũ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng, nhưng ngân hàng này không đạt được quy định về mức an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2011 Đến tháng 3/2012, CAR của Agribank chỉ đạt 9,5% nhờ vào vốn Chính phủ, vẫn chỉ cao hơn một chút so với yêu cầu tối thiểu Chất lượng vốn vay suy giảm đang là một rủi ro lớn đối với vốn của Agribank, đặc biệt khi xem xét tình hình yếu kém về chất lượng tài sản và khả năng sinh vốn nội tại hạn chế của ngân hàng Điều này gây lo ngại về rủi ro hệ thống, vì sự sụp đổ của Agribank có thể dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) lớn đang nỗ lực đạt yêu cầu mới về tỷ lệ an toàn vốn của Ngân hàng Nhà nước, trong khi các NHTMCP nhỏ gặp khó khăn trong việc tăng vốn tự có để đảm bảo an toàn Tính đến 31/6/2011, nhiều ngân hàng như ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, Đông Á, và Quân đội đã đạt tỷ lệ CAR trên 9% theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN Tuy nhiên, đến tháng 11/2011, vẫn còn 5 NHTM cổ phần vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu Theo Nghị định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006, tính đến hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15 NHTMCP có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu khoảng 2.000 tỷ đồng, cho thấy một số ngân hàng nhỏ vẫn không thể đạt được các quy định về vốn pháp định dù đã được gia hạn thời gian.

Mặc dù, sau đó, đến 31/10/2012, tất cả đều thỏa mãn quy định của NĐ 41/2006/NĐ-

Hệ thống ngân hàng hiện nay đang có sự phân nhóm rõ rệt, đặc biệt là giữa các ngân hàng lớn và nhỏ Sự phân chia này tiềm ẩn nhiều nguy cơ, không chỉ đối với các ngân hàng nhỏ mà còn có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Theo khuyến nghị của Basel III, mặc dù hệ số an toàn vốn ổn định, nhưng tỷ lệ đòn bẩy cao có thể chỉ ra rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng thương mại Đặc biệt, đối với ngân hàng thương mại cổ phần, xu hướng tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao đang trở nên rõ ràng.

Trong bối cảnh thị trường bất động sản suy giảm, nhiều khoản vay không được thanh toán đúng hạn đã gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, buộc họ phải chuyển nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro, dẫn đến tình trạng thanh khoản suy giảm Tỷ lệ nợ xấu được Ngân hàng Nhà nước công bố là 3,39%, tương đương với khoảng 20% vốn tự có, nhưng con số này chưa phản ánh đúng thực trạng rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam do tiêu chuẩn phân loại nợ còn nhiều bất cập Nếu các ngân hàng áp dụng đúng tiêu chuẩn quốc tế trong phân loại nợ và định giá tài sản bảo đảm cho các khoản vay (trong đó 53% là bất động sản), chi phí dự phòng rủi ro sẽ tăng cao, gây ảnh hưởng tiêu cực đến vốn tự có của hệ thống ngân hàng.

Đánh giá thực trạng ứng dụng Hiệp ước vốn tại Việt Nam

Hiện tại, các NHTM đang áp dụng các quy định về an toàn vốn theo Thông

Tư 13/2010/TT-NHNN nên chúng ta sẽ xem xét những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng Basel II tại Việt Nam.

Việc áp dụng các Hiệp ước vốn đối với NHTM Việt Nam mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt là sự hoàn thiện các văn bản luật của NHNN theo hướng gần gũi với các điều khoản của Basel Hiện tại, các NHTM đang thực hiện Thông tư 13/2010/TT-NHNN, một văn bản cải tiến rõ rệt so với các phiên bản trước Thông tư này quy định chi tiết về phân loại vốn cấp 1, vốn cấp 2 và cách tính vốn tự có, đồng thời NHNN cũng đang tiến hành soạn thảo các quy định bổ sung.

Dự thảo thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN hứa hẹn sẽ mang lại tính hoàn chỉnh và cập nhật cho văn bản pháp luật Các ngân hàng thương mại (NHTM) đang chủ động ứng dụng Hiệp ước vốn và hệ thống quản trị rủi ro, đồng thời phối hợp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để nâng cao hiệu quả ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam.

Một trong những thách thức lớn khi áp dụng Hiệp ước Basel II vào quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến các ngân hàng mà còn cả cơ quan giám sát như Ngân hàng Nhà nước Để hiểu và áp dụng các chuẩn mực Basel II, các chuyên gia cần có kiến thức vững về quản trị, giám sát ngân hàng, cũng như khả năng ngoại ngữ và toán học Kỹ năng phân tích và dự báo cũng rất quan trọng, tạo ra yêu cầu cao cho các chuyên gia ngân hàng hiện nay Mặc dù nguồn nhân lực trong ngành ngân hàng dồi dào, nhưng số lượng chuyên gia đủ khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe này lại rất hạn chế Nhiều chuyên gia giỏi đang giữ vị trí cao nhưng thiếu thời gian và điều kiện để cập nhật kiến thức mới Hơn nữa, chi phí cho các khóa học với chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng thường rất cao, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức từ người học.

Một trong những khó khăn lớn trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam là sự thiếu hụt các tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp Theo quy định của Basel II, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần dựa vào nhiều yếu tố để xác định hệ số rủi ro cho từng khoản mục tài sản, trong đó có kết quả xếp hạng tín nhiệm từ các tổ chức độc lập Hiện nay, mỗi ngân hàng đang tự xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho khách hàng, nhưng thông tin này chủ yếu phục vụ cho quyết định cho vay và ít được chia sẻ ra bên ngoài, dẫn đến đánh giá mang tính chủ quan hơn là khách quan Tại Việt Nam, có ba tổ chức được xem là chuyên nghiệp trong lĩnh vực này, nhưng chưa được công nhận quốc tế và chưa thực hiện đúng chức năng đánh giá tín nhiệm Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC), Công ty thông tin và xếp hạng doanh nghiệp (C&R), và Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRVC) đều chỉ cung cấp thông tin liên quan mà chưa thực hiện đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế Do đó, việc xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và đồng bộ sẽ cần nhiều thời gian và nỗ lực, đặc biệt khi các tiêu chuẩn hiện tại vẫn dựa vào mô hình của tổ chức khác, gây khó khăn trong việc áp dụng cho doanh nghiệp Việt Nam.

Một trong những khó khăn lớn mà các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam gặp phải là vấn đề chuẩn mực báo cáo Hiện tại, các NHTM đang lúng túng trong việc áp dụng chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS) Việc thực hiện báo cáo theo hai chuẩn mực này hoặc thuê tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập đánh giá thường dẫn đến kết quả khác biệt Chẳng hạn, báo cáo cân đối kế toán của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam khi thuê Moody’s xếp hạng đã cho thấy sự chênh lệch rõ rệt Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các ngân hàng tại Việt Nam trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn của Basel II.

Bảng 3 trình bày một số chỉ tiêu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, được so sánh theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực quốc tế (IFRS), với đơn vị tính là triệu đồng.

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2007

Việc áp dụng Basel tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn, bao gồm trình độ quản lý của cơ quan giám sát ngân hàng còn yếu kém và chi phí ứng dụng cao Thêm vào đó, hệ thống cơ sở dữ liệu chưa được xây dựng đầy đủ, cùng với rào cản ngôn ngữ do tài liệu Basel chủ yếu bằng tiếng Anh với nhiều thuật ngữ chuyên ngành.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ỨNG DỤNG

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Để nâng cao năng lực nguồn nhân lực trong ngành ngân hàng, cần tổ chức các khóa đào tạo kịp thời cho nhà quản lý, giám sát và cán bộ tín dụng, với sự phối hợp của NHNN và các NHTM Việc mời chuyên gia từ Ngân hàng Thanh toán Quốc tế khu vực châu Á để chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn là rất cần thiết Đồng thời, trong trung và dài hạn, cần chú trọng đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, đồng thời hạn chế số lượng trường Đại học không đáp ứng đúng chuyên môn Chất lượng đào tạo phải được đặt lên hàng đầu để tối ưu hóa nguồn lực và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu quốc tế trong ngành ngân hàng Việt Nam.

Nâng cao chất lượng xếp hạng tín nhiệm

Để đáp ứng nhu cầu xếp hạng tín nhiệm khách hàng, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chuyên nghiệp Hệ thống này sẽ hỗ trợ quản trị rủi ro, chính sách dự phòng rủi ro và xác định giới hạn tín dụng cho khách hàng Ngoài ra, các NHTM nên thống nhất tiêu chuẩn đánh giá xếp hạng và chia sẻ thông tin khách hàng nhằm đảm bảo sự đánh giá khách quan và chính xác.

Để phát triển bền vững, Việt Nam cần thành lập các công ty xếp hạng tín nhiệm độc lập, tập trung vào chức năng xếp hạng tín dụng thay vì chỉ công bố thông tin Các công ty này cần công bố khả năng thanh toán nợ cho từng mức xếp hạng, giúp nhà đầu tư đánh giá độ tin cậy của họ Để thực hiện điều này, việc thu thập dữ liệu trong nhiều năm là cần thiết, do đó, họ nên cung cấp dịch vụ xếp hạng miễn phí trong giai đoạn đầu Ngoài ra, cần thiết lập một khung pháp lý tối thiểu cho hoạt động xếp hạng tín nhiệm trong nước, đặc biệt khi đã có một số tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này và nhiều doanh nghiệp lớn đã thuê dịch vụ xếp hạng từ các công ty hàng đầu thế giới Hệ thống pháp lý cần quy định rõ ràng cho cả tổ chức xếp hạng tín nhiệm và doanh nghiệp có nhu cầu xếp hạng.

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật

Để ứng dụng thành công quy trình giám sát và quản trị rủi ro theo chuẩn mực Basel II, vai trò của NHNN trong việc xây dựng nền tảng luật pháp hoàn thiện là rất quan trọng Cần quy định rõ thẩm quyền của các tổ chức và định nghĩa chính xác các thuật ngữ liên quan đến phân tích rủi ro Hệ thống kế toán ngân hàng cần được cải cách theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt trong việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và hạch toán thu nhập/chi phí Sự phối hợp giữa các bộ ngành để hoàn thiện hệ thống kế toán theo chuẩn mực IAS là cần thiết Cần xây dựng các giải pháp chính sách nhằm hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong ngân hàng, hướng tới các chuẩn mực quốc tế Đồng thời, tạo điều kiện cho ngân hàng ứng dụng công nghệ quản trị hiện đại và thiết lập rào cản chống lạm dụng và gian lận, đặc biệt chú ý đến sự khác biệt giữa GAAP và IFRS trong xu thế hợp nhất giữa hai chuẩn mực này.

Các giải pháp khác

Để đạt được hiệu quả tối ưu, bên cạnh ba giải pháp đã nêu, cần kết hợp đồng bộ các biện pháp khác như hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin, cải tiến quy trình quản trị rủi ro, nâng cao tính chủ động và sức mạnh tài chính cho các ngân hàng thương mại, đầu tư vào ứng dụng Basel II, cải thiện chất lượng thông tin tín dụng, và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát ngân hàng.

Để hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, NHNN và các NHTM đã hợp tác hoàn thiện hệ thống pháp lý và quản trị rủi ro, đặc biệt là tuân thủ các Hiệp ước vốn Basel Từ năm 1999 đến 2012, NHNN liên tục cập nhật thông tin từ Basel nhằm cải thiện pháp luật về quản trị rủi ro tại Việt Nam Các NHTM cũng đã nâng cao hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) và bắt đầu xây dựng, cải tiến quy trình quản trị rủi ro cùng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

Mặc dù NHNN và các NHTM đã thể hiện quyết tâm trong việc thực hiện các Hiệp ước vốn, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, giám sát và tổ chức xếp hạng tín nhiệm Để nâng cao hiệu quả ứng dụng Hiệp ước vốn tại Việt Nam, cần có những giải pháp cụ thể như cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng xếp hạng tín nhiệm và phát triển hệ thống công nghệ thông tin.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Báo cáo thường niên của NHNN giai đoạn 1999-2012

2 Báo cáo thường niên của các NHTM giai đoạn 1999-2012

3 Chu Thị Hương Giang (2009) “ Ứng dụng Hiệp ước Basel II vào hệ thống quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học

4 Nguyễn Văn Hiệu ( 2010) “Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel 3 - lộ trình củng cố bức tường an ninh tài chính – ngân hàng”, Tạp chí Ngân hàng, (số 22/2010)

5.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011) “Đề án Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2015”

6 Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD do NHNN ban hành

7 Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD do NHNN ban hành

1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1

4.1 Phương pháp thu thập số liệu 3

4.2 Phương pháp phân tích số liệu 3

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU HIỆP ƯỚC VỐN BASEL 4

1.1 Đôi nét về ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) 4

Ngày đăng: 14/10/2022, 08:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Chu Thị Hương Giang (2009). “ Ứng dụng Hiệp ước Basel II vào hệ thống quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: “ Ứng dụng Hiệp ước Basel II vào hệ thống quảntrị rủi ro của các NHTM Việt Nam
Tác giả: Chu Thị Hương Giang
Năm: 2009
4. Nguyễn Văn Hiệu ( 2010). “Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel 3 - lộ trình củng cố bức tường an ninh tài chính – ngân hàng”, Tạp chí Ngân hàng, (số 22/2010) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel 3 - lộ trình củng cố bức tường an ninh tài chính – ngân hàng"”, Tạp chí Ngân hàng
5.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011). “Đề án Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2015” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề án Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 2011
1. Báo cáo thường niên của NHNN giai đoạn 1999-2012 2. Báo cáo thường niên của các NHTM giai đoạn 1999-2012 Khác
6. Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD do NHNN ban hành Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
h ân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam (Trang 1)
Hình 1: Hệ số an toàn vốn (hệ số CAR) của các NHTMNN thời điểm 31/12/2005 - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
Hình 1 Hệ số an toàn vốn (hệ số CAR) của các NHTMNN thời điểm 31/12/2005 (Trang 15)
Hình 2: Hệ số an tồn vốn của hệ thống TCTD Việt Nam tính đến 31/12/2005 - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
Hình 2 Hệ số an tồn vốn của hệ thống TCTD Việt Nam tính đến 31/12/2005 (Trang 15)
Hình 3: Hệ số CAR của một số NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010 - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
Hình 3 Hệ số CAR của một số NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010 (Trang 17)
Bảng 1: CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010 - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
Bảng 1 CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010 (Trang 17)
Hình 4: Hệ số CAR của các NHTM năm 2011 - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
Hình 4 Hệ số CAR của các NHTM năm 2011 (Trang 19)
Hình 5: Hệ số CAR của hệ thống các TCTD - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
Hình 5 Hệ số CAR của hệ thống các TCTD (Trang 21)
Bảng 3: Một số chỉ tiêu của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và thế giới (IFRS) - Chuyên đề phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại việt nam
Bảng 3 Một số chỉ tiêu của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và thế giới (IFRS) (Trang 24)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w