1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị và truyền thông về bệnh lao cho nhân viên y tế

234 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Đặc Điểm Lâm Sàng, Cận Lâm Sàng, Kết Quả Điều Trị Và Truyền Thông Về Bệnh Lao Ở Nhân Viên Y Tế
Người hướng dẫn PGS TS
Trường học Trường Đại Học Y Hà Nội
Chuyên ngành Nội Hô Hấp
Thể loại luận án tiến sĩ y học
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 234
Dung lượng 3,19 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 10 (10)
  • CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 44 (44)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 76 (76)
  • CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN 123 (123)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (156)
  • PHỤ LỤC (167)

Nội dung

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 44

Nghiên cứu được thực hiện trên 3,169 nhân viên y tế tại Bệnh viện Bạch Mai, bao gồm bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, hộ lý và cán bộ các phòng ban, từ 58 đơn vị trung tâm, khoa, phòng và ban của bệnh viện này.

Mục tiêu (1): tất cả NVYT được chẩn đoán và điều trị bệnh lao từ năm

Mục tiêu (2) (3): tất cả NVYT có hợp đồng lao động từ 6 tháng trở lên theo danh sách của phòng tổ chức cán bộ

+ Tiêu chuẩn nghi lao phổi:

Người nghi lao phổi khi có các triệu chứng sau:

- Ho kéo dài trên 2 tuần (ho khan, ho đờm, ho ra máu) là triệu chứng nghi lao quan trọng nhất

Ngoài ra có thể có các triệu chứng sau:

- Gầy sút, kém ăn, mệt mỏi, sốt nhẹ về chiều, ra mồ hôi “trộm” ban đêm, đau ngực, khó thở

Nhóm nguy cơ cao cần chú ý:

Người nhiễm HIV có nguy cơ cao khi tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây, mắc các bệnh mạn tính, hoặc có thói quen nghiện rượu, thuốc lá, thuốc lào Họ cũng dễ gặp vấn đề sức khỏe nếu sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch kéo dài như Corticoid, hóa chất, hoặc trong quá trình điều trị ung thư.

Các trường hợp có bất thường trên X quang phổi : đều cần xem xét phát hiện lao phổi 13

+ Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh lao:

Chẩn đoán xác định khi có tổn thương trên Xquang phổi nghi lao và một trong 2 tiêu chuẩn sau theo tiêu chuẩn của CTCLQG:

- Có bằng chứng vi khuẩn lao trong bệnh phẩm lâm sàng như đờm, dịch phế quản, dịch dạ dày và các bệnh phẩm khác

- Khi có các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng nhưng không xác định được vi khuẩn lao, các bác sĩ chuyên khoa xác định chẩn đoán lao

Phân loại chẩn đoán dựa theo xét nghiệm soi đờm trực tiếp tìm AFB

- Lao phổi AFB (+) : có ít nhất 1 mẫu đờm hoặc dịch phế quản, dịch dạ dày có kết quả soi trực tiếp AFB (+)

- Lao phổi AFB (-) : khi có ít nhất 2 mẫu đờm AFB (-) và được thực hiện quy trình chẩn đoán lao phổi AFB (-)

Chẩn đoán lao phổi AFB (-) cần thỏa mãn 1 trong 2 điều kiện sau:

+ Có bằng chứng vi khuẩn lao trong đờm, dịch phế quản, dịch dạ dày bằng phương pháp nuôi cấy hoặc các kỹ thuật mới như Xpert MTB/RIF

Chẩn đoán bệnh lao được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa dựa trên ba yếu tố chính: (1) triệu chứng lâm sàng, (2) các bất thường nghi ngờ lao trên hình ảnh X-quang phổi, và (3) một trong hai tiêu chí bổ sung, bao gồm tình trạng nhiễm HIV hoặc không có đáp ứng với điều trị kháng sinh phổ rộng.

Dựa vào dấu hiệu, triệu chứng cơ quan ngoài phổi nghi bệnh và sàng lọc xem có lao phổi phối hợp bằng XQ phổi

Lấy bệnh phẩm từ các vị trí tổn thương là bước quan trọng để xét nghiệm vi khuẩn lao Các phương pháp xét nghiệm bao gồm soi trực tiếp, nuôi cấy vi khuẩn, Xpert MTB/RIF, hoặc xét nghiệm mô bệnh và tế bào học nhằm xác định hình ảnh tổn thương do lao gây ra.

Sinh thiết hạch và chọc hút hạch là các phương pháp quan trọng trong việc chẩn đoán lao hạch Kết quả xét nghiệm mô bệnh học có thể cho thấy sự hiện diện của chất hoại tử bã đậu, tế bào bán liên, tế bào lympho và nang lao Nhuộm soi trực tiếp có thể phát hiện AFB, trong khi vi khuẩn lao cũng có thể được xác định qua phương pháp nuôi cấy bệnh phẩm từ chọc hút hạch.

Lao màng phổi được chẩn đoán thông qua việc chọc hút dịch khoang màng phổi, thường có màu vàng chanh và chứa chủ yếu tế bào lympho Nhuộm soi trực tiếp và nuôi cấy có thể phát hiện vi khuẩn lao Ngoài ra, sinh thiết màng phổi hoặc soi màng phổi cũng được thực hiện để lấy mẫu bệnh phẩm nhằm chẩn đoán vi khuẩn học hoặc mô bệnh tế bào.

Lao xương khớp được chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng và đặc điểm tổn thương qua hình ảnh X-quang, CT, MRI của cột sống và khớp Trong trường hợp có áp xe lạnh hoặc dò mủ, việc xét nghiệm mủ áp xe để tìm AFB sẽ cho tỷ lệ dương tính cao Sinh thiết tổ chức là phương pháp cho phép xác định chẩn đoán mô bệnh tế bào chính xác.

Dựa vào kết quả kháng sinh đồ hoặc các xét nghiệm chẩn đoán nhanh được WHO chứng thực (Xpert MTB/RIF…):

- Kháng đơn thuốc: Chỉ kháng với duy nhất một thuốc chống lao hàng một khác Rifampicin

- Kháng nhiều thuốc: Kháng với từ hai thuốc chống lao hàng một trở lên mà không cùng đồng thời kháng với Isoniazid (H) và Rifampicin (R)

- Đa kháng thuốc: Kháng đồng thời với ít nhất hai thuốc chống lao là H và R 13

Phân loại bệnh nhân lao theo tiền sử điều trị lao:

- Mới: người bệnh chưa bao giờ dùng thuốc chống lao hoặc mới dùng thuốc chống lao dưới 1 tháng

Tái phát lao là tình trạng người bệnh đã hoàn thành điều trị và được xác định là khỏi bệnh, nhưng sau đó lại mắc bệnh trở lại, với kết quả AFB dương tính hoặc có bằng chứng về sự hiện diện của vi khuẩn lao.

+ Tiêu chuẩn chẩn đoán lao tiềm ẩn

Cán bộ nhân viên tham gia nghiên cứu được thử phản ứng Mantoux và đánh giá kết quả bằng cách đo kích thước cục sẩn trên da sau 72 giờ Kết quả được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của CDC Hoa Kỳ, với phản ứng Mantoux có đường kính cục sẩn ≥ 10 mm và không có bằng chứng của lao hoạt động.

- Đã có triệu chứng hoặc được chẩn đoán bệnh lao trước khi bắt đầu làm việc tại bệnh viện

- Không có bệnh án và/hoặc hồ sơ lưu trữ y tế cơ quan

- Không đồng ý tham gia nghiên cứu

- Không đồng ý làm các xét nghiệm thăm dò chẩn đoán khi kết quả cục sẩn của phản ứng Mantoux ≥ 10 mm

- Tiền sử đã được chẩn đoán và điều trị lao

- Không khám sức khỏe định kỳ, không có hồ sơ sức khỏe lưu trữ, quản lý

- Phụ nữ có thai không chụp được phim và làm các thăm dò chẩn đoán

- Không đồng ý tham gia nghiên cứu

- Tham gia không đủ trả lời câu hỏi KAP bệnh lao trước và sau truyền thông

2 2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Bạch Mai

- Phỏng vấn NVYT mắc bệnh lao tại tất cả Trung tâm/khoa/phòng/ban

- Thu thập thông tin từ Phòng lưu trữ hồ sơ bệnh án

- Thu thập thông tin từ Phòng quản lý và lưu trữ hồ sơ sức khỏe y tế cơ quan

Tất cả nhân viên y tế tham gia nghiên cứu sẽ thực hiện thử phản ứng Mantoux và đọc kết quả sau 72 giờ Các trung tâm, khoa, phòng trong bệnh viện sẽ được hướng dẫn theo dõi các triệu chứng lâm sàng của lao hoạt động và thực hiện chụp X-quang phổi theo lịch khám sức khỏe định kỳ.

Mỗi 6 tháng hoặc khi có triệu chứng lâm sàng của lao hoạt động, cần phát hiện các trường hợp LTA chuyển thành lao hoạt động Các trường hợp LTA sẽ được khảo sát và theo dõi qua phòng quản lý sức khỏe y tế cơ quan, đồng thời phối hợp với hành chính tại các Trung tâm, khoa, phòng từ thời điểm nghiên cứu bắt đầu.

Khảo sát bộ câu hỏi KAP về bệnh lao và kiểm soát nhiễm khuẩn lao được thực hiện trước và sau khi tiến hành truyền thông cho tất cả nhân viên y tế tại Trung tâm, khoa và phòng trong bệnh viện, nhằm đánh giá hiệu quả của chương trình truyền thông và nâng cao nhận thức về bệnh lao.

Nghiên cứu nhân viên mắc bệnh lao: tiến hành hồi cứu từ năm 2010 đến tháng 3 năm 2017 và tiến cứu từ tháng 4 năm 2017 đến năm 2019

+ Mục tiêu (2) (3): nghiên cứu đặc điểm lao tiềm ẩn và đánh giá hiệu quả truyền thông bệnh lao

Ban giám đốc cần xem xét và cho phép tiến hành nghiên cứu, phối hợp với các Trung tâm, khoa, phòng, và ban để xây dựng bộ câu hỏi và hệ thống thu thập số liệu Lập kế hoạch, chuẩn bị nhân lực và công cụ nghiên cứu sẽ được thực hiện trong thời gian 1 tháng, từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2018.

Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2018, chúng tôi đã phối hợp với các đơn vị liên quan và các khoa phòng để tiến hành khảo sát thông tin điều tra ban đầu Nghiên cứu bao gồm khảo sát bộ câu hỏi KAP về lao và kiểm soát nhiễm khuẩn lao, cũng như thực hiện thử phản ứng Mantoux cho tất cả nhân viên y tế tại các khoa phòng tham gia nghiên cứu.

Triển khai can thiệp truyền thông (12 tháng): từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 3 năm 2020 (9 tháng) sau đó được tiếp tục làm từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 1 năm 2021 (3 tháng)

Khảo sát NVYT mắc lao tiềm ẩn chuyển thành lao hoạt động

- Giai đoạn 3: Đánh giá hiệu quả can thiệp: thu thập thông tin khảo sát lại bộ câu hỏi KAP, viết báo và hoàn thành luận án

Mục tiêu (1): mô tả cắt ngang, tiến cứu phối hợp với hồi cứu:

Hồi cứu đối với nhân viên y tế trong việc chẩn đoán bệnh lao trước thời điểm nghiên cứu được thực hiện thông qua việc sử dụng số liệu từ bệnh án lưu trữ và hồ sơ sức khỏe của cơ quan.

- Tiến cứu đối với NVYT chẩn đoán lao từ thời điểm nghiên cứu: theo tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ

Mục tiêu (2): mô tả cắt ngang có phân tích: xác định tỷ lệ mắc và phân tích yếu tố nguy cơ

Mục tiêu (3): Nghiên cứu can thiệp (dựa trên thiết kế cắt ngang lặp lại), so sánh trước và sau can thiệp

+ Các bước tiến hành nghiên cứu đối với mục tiêu (1):

Nghiên cứu được chia làm 2 giai đoạn:

Xây dựng mẫu bệnh án nghiên cứu

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 76

trước và sau truyền thông (nP1) Đặc điểm n %

Tuổi (TB±SD) min-max 39,26±9,44 28-59

Nghề nghiệp Bác sỹ 6 17,7 Điều dưỡng 23 67,7

Nhân viên hỗ trợ chăm sóc bệnh nhân 3 8,8

Quản lý và hỗ trợ khác 2 5,9 Đặc điểm n %

Trung Phòng khám ngoại trú 5 14,7

3 1 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị bệnh lao của NVYT tại bệnh viện Bạch Mai

3 1 1 Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu

Bảng 3 1 Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu (n4)

Từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2019, có 40 nhân viên y tế (NVYT) mắc và điều trị bệnh lao Trong số đó, 5 NVYT đã được chẩn đoán trước khi tham gia nghiên cứu và 1 NVYT bị loại do mã phân loại bệnh không chính xác Cuối cùng, 34 NVYT mắc lao trong nhóm nghiên cứu đều được thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán tại bệnh viện Bạch Mai khi phát hiện bệnh.

Trong nhóm nghiên cứu, tỷ lệ nữ chiếm ưu thế với 79,4% Tỷ lệ điều dưỡng mắc bệnh lao cao hơn so với các nghề khác, cụ thể là 67,7% đối với điều dưỡng, 17,7% đối với bác sĩ, 8,8% đối với hộ lý, và 5,9% đối với quản lý và nhân viên các phòng/ban Nhóm tuổi có tỷ lệ nhân viên y tế mắc lao cao nhất là từ 30-39 tuổi, chiếm 52,9%, tiếp theo là nhóm trên 49 tuổi.

20,6% Tuổi trung bình khi bị mắc lao là: 35,15 ± 6,36

Bảng 3 2 Vị trí làm việc tại trung tâm/khoa /phòng của NVYT mắc bệnh lao trong nhóm nghiên cứu (n) tâm/khoa/phòng Trung tâm hô hấp 4 11,8

Nội tiết- Đái tháo đường 2 5,9

Trong nhóm nghiên cứu, tỷ lệ nhân viên y tế mắc lao cao nhất được ghi nhận tại phòng khám ngoại trú với 14,7%, tiếp theo là trung tâm hô hấp và khoa hồi sức tích cực, mỗi nơi có 11,8% Các khoa kiểm soát nhiễm khuẩn và chẩn đoán hình ảnh có tỷ lệ 8,8%, trong khi các khoa gây mê hồi sức, nội tiết-đái tháo đường, và thận-tiết niệu mỗi khoa ghi nhận 5,9% Các khoa khác như cơ xương khớp, kế hoạch tổng hợp, cấp cứu, thần kinh, ngoại, vật tư, thăm dò chức năng, trung tâm chống độc, và trung tâm huyết học mỗi khoa có tỷ lệ 2,9%.

>= 23 (n=5) BMI thấp BMI bình thường BMI cao

Biểu đồ 3 1 Chỉ số BMI của nhóm NVYT mắc bệnh lao trong nghiên cứu (n4)

Nhận xét: Số người có chỉ số BMI bình thường chiếm tỷ lệ cao: 20 NVYT

(58,8%) sau đó đến BMI thấp: 9 NVYT (26,5%) và BMI cao: 5 NVYT(14,7%)

Số người có bệnh đồng mắc đái tháo đường là 3 chiếm tỷ lệ: 8,8%

Biểu đồ 3.2 cho thấy thời gian làm việc của nhân viên y tế (NVYT) mắc lao trong nhóm nghiên cứu, với tỷ lệ cao nhất là 38,2% (13 người) làm việc từ 5-10 năm Sau đó, số NVYT làm việc trong khoảng thời gian 10-20 năm là 10 người.

(29,4%); dưới hoặc bằng 5 năm: 9 người (26,5%) và trên 20 năm: 2 người (5,9%)

N V YT Tỷ lệ m ắc la o t rê n 1 0 0 0

Các triệu chứng lâm sàng n %

- Vã mồ hôi về đêm

Nuốt vướng Đau vai gáy

Tiền sử tiêm vắc xin BCG

Biểu đồ 3 3 Tỷ lệ mắc lao của NVYT theo từng năm (n4)

Từ năm 2010 đến 2019, tỷ lệ nhân viên y tế mắc lao đã có sự biến động, với các con số lần lượt là 1,8; 1,2; 0,5; 0,5; 2,3; 1,8; 1,3; 3,3; 0,9; và 0,5 trên 1000 người Đặc biệt, năm 2017 ghi nhận tỷ lệ mắc lao cao nhất trong giai đoạn này.

3 1 2 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh lao trên NVYT trong nhóm nghiên cứu

Bảng 3 3 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh lao của NVYT trong nghiên cứu (n4)

Nhận xét: Trong nhóm nghiên cứu số NVYT có tiền sử tiêm vắc xin

BCG chiếm 1/2 số người mắc lao: 52,9%

XQ và CLVT ngực XQ CLVT ngực n n

Các triệu chứng lâm sàng phổ biến khi mắc bệnh lao bao gồm đau ngực (73,5%), ho (67,6%), mệt mỏi (64,7%), và sốt (38,2%) Các triệu chứng khác như vã mồ hôi đêm, khó thở, và sút cân cũng xuất hiện nhưng với tỷ lệ thấp hơn (32,4% và 17,7% tương ứng), trong khi ho máu chỉ chiếm 5,9% Đáng lưu ý, bốn nhân viên y tế mắc lao không có triệu chứng lâm sàng nào và được phát hiện qua khám sức khỏe định kỳ Hai nhân viên y tế làm việc tại khoa cấp cứu và hồi sức tích cực đã được phát hiện bệnh lao phổi thông qua sàng lọc phản ứng Mantoux Hầu hết nhân viên y tế đều làm việc trong môi trường có bệnh nhân lao hiện tại hoặc có tiền sử làm việc tại các khoa có bệnh nhân lao.

Bảng 3 4 Đặc điểm hình ảnh trên phim XQ và CLVT ngực của NVYT mắc bệnh lao trong nghiên cứu (n4)

Nhận xét: Trên phim XQ ngực phát hiện tổn thương bất thường có 29

Trong nghiên cứu về lao hạch, có 5 trường hợp NVYT với hình ảnh XQ bình thường nhưng không có tổn thương phổi do viêm lao kèm theo Các hình thái tổn thương được ghi nhận với tỷ lệ khác nhau: tổn thương đông đặc chiếm ưu thế nhất với 22 NVYT, tiếp theo là tổn thương nốt với 17 NVYT, tràn dịch màng phổi có 8 NVYT, hang phổi ghi nhận 4 NVYT, hạch trung thất có 3 NVYT và vôi hóa chỉ có 1 NVYT Hầu hết các trường hợp đều được thực hiện phim CLVT ngực.

Các xét nghiệm chẩn đoán xác định và tỷ lệ n (%)

- Acid-Fast Bacilli (AFB) dương tính 6 (17 6)

- Khác (sinh thiết) 14 (41 2) Đặc điểm tổn thương N %

Viêm xung huyết Viêm mủ

31,8 18,2 4,5 45,5 trường hợp nghi mắc bệnh lao: 28 NVYT và có 2 trường hợp phát hiện tràn khí màng phổi phát hiện trên phim CLVT ngực

Bảng 3 5 Kết quả tổn thương trên soi phế quản (n")

Nhận xét: Có 22 NVYT được tiến hành soi phế quản Tổn thương thường gặp khi soi viêm xung huyết (31,8%) sau đó viêm mủ (18,2%) và chít hẹp (4,5%)

Bảng 3 6 Các xét nghiệm chẩn đoán lao (n4)

Trong nghiên cứu về các xét nghiệm chẩn đoán lao, tỷ lệ dương tính được ghi nhận như sau: nhuộm soi đạt 17,6%, kỹ thuật gen Expert cũng 17,6%, PCR MTB có tỷ lệ dương tính là 38,2%, cấy MGIT chỉ đạt 5,9%, trong khi sinh thiết cao nhất với 41,2% Các phác đồ điều trị lao cần được xem xét dựa trên những kết quả này.

Nhạy cảm với tất cả các thuốc hàng 1

- 2RHZE/10RHE Phác đồ lao kháng thuốc Phác đồ lao đa kháng Tổng

Các tác dụng phụ khi điều trị bệnh lao

- Ảnh hưởng đến rối loạn tâm thần

Kết quả điều trị Điều trị thành công

- Hoàn thành điều trị Một trường hợp tái phát sau 2 năm kết thúc điều trị Tổng

Các thể lao được chẩn đoán và tỷ lệ n (%)

Bảng 3 7 Các thể lao được chẩn đoán (n4)

Tỷ lệ bệnh nhân mắc lao phổi chiếm 64,7%, cao hơn so với lao ngoài phổi Trong số các trường hợp lao ngoài phổi, lao hạch chiếm tỷ lệ cao nhất với 20,6%, tiếp theo là lao màng phổi với 11,8% và lao xương khớp với 2,9%.

3 1 3 Kết quả điều trị bệnh lao trên NVYT của nhóm nghiên cứu

Bảng 3 8 Các phác đồ điều trị lao, các tác dụng phụ khi điều trị và kết quả điều trị (n4)

Nhận xét: Hầu hết NVYT mắc lao trong nghiên cứu đều hoàn thành phác đồ điều trị lao theo phác đồ điều trị ngắn hạn trong đó phác đồ:

Tỷ lệ điều trị thành công với phác đồ 2(S)HRZE/4HR đạt 61,8%, trong khi phác đồ 2RHZE/10RHE chỉ đạt 23,5% Có ba bệnh nhân điều trị phác đồ đề kháng với thuốc chống lao hàng 1, chiếm 8,8%, trong đó một người kháng với S và hai người kháng với S,H Ngoài ra, có hai bệnh nhân điều trị phác đồ lao đa kháng (5,9%), bao gồm một bệnh nhân kháng HRSE và một bệnh nhân kháng R,H Cả hai bệnh nhân này đều được quản lý tại Bệnh viện Phổi Hà Nội và đã hoàn thành phác đồ điều trị theo chương trình mục tiêu quốc gia.

Các tác dụng phụ thường gặp nhất tác dụng trên đường tiêu hóa:

Trong tuần đầu sau điều trị, triệu chứng nôn và buồn nôn xuất hiện phổ biến với tỷ lệ 82,4% và 61,8% tương ứng, sau đó giảm dần trong những tuần tiếp theo Ngoài ra, có 5,9% trường hợp gặp phải triệu chứng tiêu chảy Đáng lưu ý, có hai trường hợp tổn thương gan do thuốc (DILI) và một trường hợp đã có tổn thương gan trước đó nhưng không rõ nguyên nhân, chiếm 5,3% Các tác dụng phụ khác như phản ứng trên da, rối loạn tâm thần và đau khớp cũng ghi nhận với tỷ lệ 5,9%.

3 2 Kết quả nghiên cứu tỷ lệ mắc, các yếu tố nguy cơ lao tiềm ẩn trên NVYT tại bệnh viện Bạch Mai

3 2 1 Đặc điểm chung và thời gian làm việc của nhóm NVYT tham gia nghiên cứu (ny4)

Trong nhóm nghiên cứu lao tiềm ẩn (ny4), có 794 nhân viên y tế tham gia thực hiện sàng lọc lao Trong đó, tỷ lệ nữ chiếm ưu thế với 620 người, tương đương 78,1%, cao hơn so với nam giới.

Bác sĩ (n9) Điều dưỡng (nH7) Hộ lý

Biểu đồ 3.5 cho thấy phân bố vị trí nghề nghiệp của nhóm nhân viên y tế tham gia nghiên cứu, trong đó điều dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất với 487 người, tương đương 66,4% Tiếp theo là số lượng bác sĩ tham gia, với 169 người.

(23,1%); vị trí khác: 70 người (8,8%); hộ lý: 41 người (5,6%); kỹ thuật viên:

Bảng 3 9 Vị trí làm việc tại trung tâm/khoa /phòng của NVYT mắc bệnh lao trong nhóm nghiên cứu (ny4) Đặc điểm

Trung tâm cấp cứu Khoa gây mê hồi sức Khoa dược

Trung tâm hô hấp Khoa hồi sức tích cực n

Trung Khoa cơ xương khớp 48 6,0 tâm/khoa/phòng Khoa thận- tiết niệu

Trung tâm huyết học-truyền máu Khoa nội tiết- đái tháo đường Khoa ngoại tổng hợp

Khoa thần kinh Khoa khám bệnh theo yêu cầu

Trung tâm phụ hồi chức năng 32 4,0

Khoa hồi sức ngoại khoa 26 3,3

Viện sức khỏe tâm thần 23 2,9

Trung tâm bệnh nhiệt đới 23 2,9

Phòng hành chính quản trị 4 0,5 Đặc điểm Số lượng (n) Tỷ lệ %

Thâm niên làm việc tại khoa/phòng

Thời gian làm việc trung bình/ngày (TBSD) 8,251,65

Nhân viên y tế đã tham gia thực hiện xét nghiệm sàng lọc lao tại 22 trung tâm, khoa và phòng trong bệnh viện Điều này bao gồm cả các đơn vị có phòng bệnh nguy cơ cao với bệnh lao và những đơn vị không trực tiếp điều trị bệnh nhân.

Bảng 3 10 Thời gian làm việc trung bình trong 1 ngày và thâm niên làm việc tại khoa phòng của NVYT tham gia nghiên cứu (ny4)

Nhận xét: Tuổi trung bình của NVYT trong nhóm tham gia nghiên cứu là 35,03 NVYT làm việc trên 1 năm chiếm tỷ lệ cao: 98,5%

3 2 2 Tiền sử mắc lao/tiền sử gia đình, tiền sử tiêm vắc xin BCG, tiền sử thử phản ứng Mantoux của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3 trình bày thông tin về tiền sử gia đình mắc lao, tiền sử tiêm vắc xin BCG và tiền sử thử phản ứng Mantoux của đối tượng nghiên cứu (ny4) Số lượng và tỷ lệ phần trăm của các đặc điểm này được thống kê rõ ràng, giúp đánh giá mối liên hệ giữa các yếu tố này và nguy cơ mắc lao.

Tiền sử gia đình mắc bệnh lao

Tiền sử tiêm vắc xin BCG

Tiền sử thử phản ứng Mantoux

Tiền sử tiếp xúc với bệnh nhân Lao mà không có biện pháp bảo vệ

BÀN LUẬN 123

4 1 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh lao trên NVYT tại bệnh Viện Bạch Mai

Nguy cơ mắc bệnh lao ở nhân viên y tế (NVYT) cao hơn so với nguy cơ mắc lao trong cộng đồng toàn cầu Do đó, bệnh lao đã được công nhận là bệnh nghề nghiệp đối với NVYT Tỷ lệ mắc lao ước tính ở các nước cho thấy sự cần thiết phải có biện pháp bảo vệ đặc biệt cho nhóm này.

Có tỷ lệ thấp, trung bình, Cao lần lượt là: 2 4 (95% CI 1 2–3 6), 2 4 (95% CI

1 0–3 8), và 3 7 (95% CI 2 9–4 5) 40 Nguy Cơ mắC lao Của NVYT Cao gấp 3 lần so với Cộng đồng Chung với tỷ lệ dao động từ 25-5361/100 000 và nguy

Tỷ lệ mắc bệnh lao thay đổi theo từng cơ sở y tế, vị trí công việc và gánh nặng bệnh lao Nhóm bệnh nhân và việc sử dụng các thiết bị bảo hộ cá nhân cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn Dữ liệu thống kê cho thấy tỷ lệ mắc lao cao hơn trong một số năm như 2010, 2014, 2015 và 2017 so với tỷ lệ mắc lao của cộng đồng hiện nay.

Tỷ lệ mắc lao trong nghiên cứu của chúng tôi là 170 trên 100.000 người, thấp hơn 40,44% so với các nghiên cứu quốc tế Các năm còn lại có tỷ lệ mắc thấp hơn, cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong dữ liệu nghiên cứu.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng nguồn lây nhiễm chính cho nhân viên y tế mắc bệnh lao là từ môi trường làm việc, với 85,3% số nhân viên y tế có tiếp xúc với bệnh nhân lao hoạt động tại nơi làm việc Chúng tôi đã tiến hành khảo sát để xác định các yếu tố tiếp xúc và không ghi nhận bằng chứng tiếp xúc với người bệnh lao trong gia đình hoặc tại nơi sinh sống.

Hầu hết NVYT mắC bệnh lao trong nghiên Cứu Của Chúng tôi là nữ (79,4%), tuổi trung bình trong nhóm nghiên Cứu: 35,15 ±6,36 (24-53 tuổi)

Kết quả này phù hợp với nghiên Cứu tiến hành tại Thái Lan (2018): trong 109

Kết quả Của Chúng tôi Cũng tương đồng với kết quả Của một

NVYT mắC lao Có 71,6% nữ và tuổi trung bình Của đối tượng nghiên Cứu là 32,9 tuổi 44 nghiên Cứu kháC tiến hành tại bệnh viện trường ở Romani 102

Trong số NVYT mắC bệnh lao trong nghiên Cứu Của Chúng tôi: tỷ lệ mắC thay đổi theo nhóm nghề nghiệp Điều dưỡng Chiếm tỷ lệ Cao nhất:

Gần 68% điều dưỡng tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân, trong khi bác sĩ chiếm 17,7% và nhân viên hỗ trợ chăm sóc bệnh nhân 8,8% Việc tiếp xúc lâu dài với bệnh nhân có nguy cơ cao sẽ làm tăng khả năng lây nhiễm lao, đặc biệt tại các trung tâm có tỷ lệ bệnh nhân lao cao và kiểm soát nhiễm khuẩn chưa đầy đủ Điều này cho thấy điều dưỡng là nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao nhất trong bệnh viện Do đó, cần tăng cường các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn và nâng cao kiến thức về bệnh lao cho đội ngũ điều dưỡng, giúp họ thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng, trong quá trình chăm sóc bệnh nhân, tỷ lệ mắc bệnh lao ở điều dưỡng trong bệnh viện cao hơn so với các nhóm nghề nghiệp khác như nhân viên phòng xét nghiệm và nhân viên y tế tại các chuyên khoa Điều này chỉ ra rằng ngay cả những vị trí có nguy cơ thấp cũng có thể mắc bệnh lao, do đó cần tăng cường các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn Mặc dù tại Đức, bệnh lao chỉ được công nhận là bệnh nghề nghiệp khi nguồn lây nhiễm được xác minh rõ ràng, nhưng các bằng chứng từ nghiên cứu dịch tễ vẫn cho thấy sự cần thiết phải chú trọng hơn đến việc bảo vệ sức khỏe cho nhân viên y tế.

Chuyên gia khuyến Cáo giảm bớt tiêu Chuẩn khi xáC minh nguồn nhiễm khuẩn

Cụ thể ở những vị trí nghề nghiệp Có nguy Cơ Cao đặC hiệu 103

Nghiên cứu của Sung-Ching Pan và các cộng sự (2004-2012) trên 41 nhân viên y tế cho thấy tỷ lệ mắc cao nhất thuộc về điều dưỡng (41,5%), tiếp theo là bác sĩ (29,3%), trong khi các vị trí khác có tỷ lệ thấp hơn.

Nghiên cứu của InChai và CS trên 76 nhân viên y tế mắc bệnh lao cho thấy điều dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất với 71,1%, tiếp theo là bác sĩ với 15,8% và hộ lý với 13,2% Trong số này, tỷ lệ nữ cao hơn nam, với 51 nữ và 25 nam, và độ tuổi trung bình là 37 ± 11,6.

Nghiên cứu của Tudor và CS (2014) đã tiến hành khảo sát 112 nhân viên mắc lao, trong đó điều dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất với 48%, tiếp theo là nhân viên hỗ trợ lâm sàng với 33% Đặc biệt, tỷ lệ nữ trong nhóm này cao hơn, chiếm tới 70%.

Vị trí làm việc là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh lao Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại 3 trung tâm, khoa và phòng khác nhau để đánh giá mối liên hệ này.

NVYT mắC lao Cao trong nhóm bị bệnh lần lượt: phòng khám ngoại trú:

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc lao ở các đơn vị y tế như Trung tâm hô hấp là 14,7%, Khoa hồi sức tích cực là 11,8%, trong khi các đơn vị khác có tỷ lệ mắc thấp hơn Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của InChai và CS (2018), cho thấy tỷ lệ nhân viên y tế mắc lao cao nhất tại phòng khám nội khoa (36,8%) và phòng khám cấp cứu (15,8%).

NVYT mắC lao đượC ghi nhận ở hầu hết CáC nơi trong bệnh viện trong nghiên Cứu này 45

Nghiên cứu của Tudor và CS (2014) trên 112 nhân viên y tế đã chỉ ra sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ mắc lao giữa nhân viên chăm sóc bệnh nhân lao và nhân viên chăm sóc bệnh nhân không phải lao Cụ thể, tỷ lệ xuất hiện bệnh lao gia tăng ở những người có tiền sử làm việc tại phòng bệnh lao với tỷ số tỷ lệ mắc (IRR) là 2.03 (95% CI 1.11-3.71), tại khoa nhi (IRR 1.82, 95% CI 1.07-3.10) và tại khoa khám ngoại trú (IRR 2.08, 95% CI).

Tỷ lệ mắc lao ở nhân viên y tế (NVYT) có tiền sử nhiễm HIV cao hơn so với những người không nhiễm HIV, với IRR là 3,2 (95% CI 1,54-6,66) Ngoài ra, tỷ lệ mắc lao của NVYT cũng gấp 2 lần so với nhóm dân số nói chung trong cùng thời điểm nghiên cứu, cho thấy sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh lao trong nhóm này.

Số nhân viên y tế mắc lao trong nghiên cứu của chúng tôi được ghi nhận rải rác khắp các trung tâm, khoa và phòng trong bệnh viện, bao gồm cả những vị trí không tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân Số lượng nhân viên y tế mắc lao cao hơn thường gặp tại các vị trí tiếp đón bệnh nhân ban đầu như phòng khám ngoại trú, khoa cấp cứu và khoa tiếp nhận bệnh nhân nặng có bệnh lý đường hô hấp kèm theo Nhân viên y tế tại các bệnh viện không chuyên khoa lao ở những nước có thu nhập thấp-trung bình có thể đối mặt với những khó khăn trong việc phòng ngừa lây nhiễm lao, từ đó làm gia tăng nguy cơ mắc lao.

Bệnh lao có thể tiến triển thành lao hoạt động, với hơn 11,104 ca do thiếu kiến thức về nhận biết và chú trọng đến bệnh lao từ cả bệnh nhân và nhân viên y tế Việc kiểm soát nhiễm khuẩn lao trong bệnh viện gặp khó khăn do hạn chế về nguồn lực y tế và con người Cần nhận biết sớm các dấu hiệu, triệu chứng và chẩn đoán kịp thời bệnh nhân mắc lao, đặc biệt tại các khoa tiếp nhận như khoa cấp cứu, phòng khám ngoại trú và khoa chẩn đoán hình ảnh, nhằm hạn chế nguồn lây nhiễm Một số bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng điển hình hoặc tự điều trị tại nhà, cùng với tình trạng nặng do các bệnh lý khác, đã làm trì hoãn việc chẩn đoán lao ngay trong thời gian nằm viện.

Ngày đăng: 13/10/2022, 07:12

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w