GI Ớ I THI Ệ U
Trong ba thập kỷ qua, toàn cầu hóa đã trở thành xu hướng nổi bật trong nền kinh tế thế giới, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, công nghệ, văn hóa xã hội và đặc biệt là tài chính Sự phát triển và tự do hóa thị trường tài chính vào những năm 80 đã thúc đẩy hội nhập tài chính và tạo ra dòng chảy vốn quốc tế lớn mạnh Mặc dù các quốc gia có thể áp dụng các chính sách tỷ giá hối đoái khác nhau, nhưng đồng đô la vẫn giữ vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu.
Đồng USD vẫn giữ vai trò quan trọng nhất trong thanh toán quốc tế Sự biến động đồng thời của các chỉ số kinh tế như lạm phát, tăng trưởng GDP và giá tài sản ở nhiều quốc gia là biểu hiện của hội nhập tài chính Hiệu ứng "lây nhiễm" thường xảy ra trong các giai đoạn nhạy cảm như suy giảm giá cả hoặc khủng hoảng Điều này đã được thể hiện rõ ràng trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, bắt nguồn từ các khoản cho vay thế chấp dưới chuẩn và chính sách nới lỏng tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong giai đoạn 2001 – 2006, dẫn đến khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.
My đã lây lan trên quy mô toàn thế giới.
Sự đồng biến động trong giá cả tài sản và giá trị các dòng chu chuyển vốn cho thấy sự hội nhập của các thị trường tài chính toàn cầu đang gia tăng Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính sách tiền tệ của Mỹ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự hội nhập này, bên cạnh đó, sự lây nhiễm rủi ro trong thời kỳ khủng hoảng cũng đóng vai trò không nhỏ Hiệu ứng lây nhiễm này không chỉ diễn ra ở các quốc gia phát triển mà còn lan rộng đến các nền kinh tế khác.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, các thị trường mới nổi ngày càng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là qua cuộc khủng hoảng Đông Á 1997-1998, cho thấy hiệu ứng lây nhiễm trong khu vực Sự bất ổn tại các quốc gia Đông Á được lý giải bởi mức độ mở cửa tài chính cao và sự phụ thuộc lẫn nhau trong khu vực Khủng hoảng này đã thúc đẩy các quốc gia tăng cường hợp tác để nâng cao độc lập trong chính sách tiền tệ, thể hiện qua Tiến trình giám sát ASEAN và Sáng kiến Chiang Mai Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 cũng làm dấy lên lo ngại về sự biến động của các nước Đông Á trước cú sốc bên ngoài, dẫn đến việc các nhà làm chính sách tăng cường hợp tác tiền tệ, phát triển Sáng kiến Chiang Mai từ trao đổi song phương lên đa phương với quỹ dự trữ 120 tỷ USD, sau đó tăng lên 240 tỷ USD vào năm 2012 nhằm ngăn ngừa khủng hoảng thanh khoản.
Nghiên cứu gần đây tập trung vào tác động của các cú sốc bên ngoài đến khu vực Đông Á, bên cạnh việc phân tích các cú sốc nội địa Những nghiên cứu này giúp làm rõ mức độ tương đồng và sự hội tụ trong chính sách kinh tế của các quốc gia Để hiểu rõ hơn về tác động của các cú sốc đến các biến số kinh tế vĩ mô, tác giả đã thực hiện nghiên cứu với đề tài: “Nghiên cứu tác động của các cú sốc đến các nền kinh tế Đông Á”, đặc biệt là Việt Nam.
Nghiên cứu này phân tích tác động của các cú sốc bên ngoài đến các biến số kinh tế vĩ mô của các nền kinh tế Đông Á, sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy cấu trúc (SVAR) để thực hiện.
Cú sốc bên ngoài được thể hiện qua ba biến số quan trọng: giá dầu thế giới, phản ánh cú sốc chi phí đầu vào của nền kinh tế; sản lượng của Mỹ, được đại diện bởi chỉ số sản xuất công nghiệp, thể hiện cú sốc thương mại; và lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), đại diện cho cú sốc chính sách tiền tệ của Mỹ.
Bài viết phân tích bảy nền kinh tế Đông Á, bao gồm Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc, với các biến kinh tế vĩ mô như tỷ giá hối đoái danh nghĩa so với đô la Mỹ, chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số giá tiêu dùng, dữ liệu được thu thập hàng tháng trong giai đoạn 2001-2012 Tác giả đầu tiên nghiên cứu tác động của các cú sốc bên ngoài đến từng nền kinh tế thông qua phân rã phương sai và hàm phản ứng xung Tiếp theo, tác giả xem xét mức độ tương quan trong phản ứng của các nền kinh tế này đối với các cú sốc bên ngoài nhằm xác định xem các thị trường mới nổi ở Đông Á có phản ứng đồng nhất trước các cú sốc vĩ mô hay không.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được trình bày như sau:
• Phần hai trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan nhưng nghiên cứu thực nghiệm có liên quan.
• Phần ba mô tả phương pháp nghiên cứu và bộ dư liệu sử dụng.
• Phần bốn trình bày về kết quả nghiên cứu và thảo luận.
• Phần năm là kết luận.
Câu hỏi nghiên cứu: Mục tiêu của đề tài là nhằm giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau:
• Thứ nhất, các cú sốc bên ngoài ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam?
Nghiên cứu này phân tích phản ứng của các nền kinh tế Đông Á, bao gồm Việt Nam và năm quốc gia khác, trước các cú sốc bên ngoài Mục tiêu là xác định xem các biến nội địa của những quốc gia này có tương đồng trong cách ứng phó với những tác động từ bên ngoài hay không.
T Ổ NG QUAN CÁC NGHIÊN C ỨU TRƯỚC ĐÂY
nghiên Các c ứ u th ự c nghi ệ m v ề tác độ ng c ủ a các cú s ốc bên ngoài đế n n ề n kinh t ế
Khu vực ngân hàng và tiền tệ trong nước rất nhạy cảm với các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là biến động giá cả hàng hóa toàn cầu và tình hình kinh tế thế giới, bao gồm cả nền kinh tế Hoa Kỳ cũng như các chính sách tiền tệ của FED Hằng và Thành (2011) đã áp dụng mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số (VECM) để phân tích tác động của các yếu tố vĩ mô bên ngoài và nội địa đến lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2010 Nghiên cứu cho thấy giá cả quốc tế có ảnh hưởng rõ rệt đến giá cả nội địa trong ngắn hạn.
D Ữ LI ỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨ U
Phương pháp nghiên cứ u
Để phân tích tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế Việt Nam, tác giả áp dụng mô hình véc tơ tự hồi quy cấu trúc (SVAR) cho hai nhóm biến: biến bên ngoài và biến nội địa của nền kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam, giống như nhiều quốc gia Đông Á khác, được coi là một nền kinh tế nhỏ và mở Điều này có nghĩa là các cú sốc nội địa sẽ không ảnh hưởng đến các biến số bên ngoài.
Tác giả phân tích ba cú sốc bên ngoài ảnh hưởng đến nền kinh tế, bao gồm giá dầu thế giới, sản lượng công nghiệp của Mỹ và lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Giá dầu được xem là cú sốc nguồn cung quan trọng, do vai trò thiết yếu của nó trong nền kinh tế (theo Cushman và Zha, 1997) Xuất khẩu cũng đóng vai trò then chốt trong tăng trưởng của các quốc gia Đông Á, vì vậy tác giả sử dụng chỉ số sản xuất công nghiệp của Mỹ để đánh giá ảnh hưởng của cú sốc thương mại Cuối cùng, biến thứ ba liên quan đến hiệu ứng truyền dẫn của chính sách tiền tệ, khi hầu hết các nước Đông Á áp dụng chế độ tỷ giá neo theo USD hoặc theo rổ tiền tệ, trong đó USD chiếm tỷ trọng từ 80% đến 95%.
Reinhart và Rogoff, 2004) nên tác giả kỳ vọng các biến kinh tế vĩ mô trong nước sẽ nhạy cảm với sự thay đổi trong lãi suất của Mỹ.
Các biến kinh tế vĩ mô trong nước bao gồm tỷ giá hối đoái danh nghĩa, chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số giá tiêu dùng Theo Cushman và Zha (1997), tỷ giá hối đoái là một kênh truyền dẫn quan trọng cho các cú sốc bên ngoài Để phân tích tác động của các cú sốc này đến nền kinh tế Đông Á, tác giả sắp xếp các biến vào mô hình theo thứ tự: biến bên ngoài (giá dầu, chỉ số sản xuất công nghiệp của Mỹ, lãi suất của Mỹ) và biến trong nước (tỷ giá, chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng) Kết quả cho thấy các cú sốc bên ngoài ảnh hưởng đến các biến kinh tế trong nước mà không có tác động ngược lại.
Trong bối cảnh các cú sốc bên ngoài, tác giả cho rằng giá dầu không bị tác động đồng thời bởi sản lượng và lãi suất của Mỹ Tuy nhiên, giá dầu lại có ảnh hưởng đến sản lượng và lãi suất của Mỹ, theo nghiên cứu của Leeper và cộng sự (1996) Mackowiak (2007) cũng chỉ ra rằng sản lượng và lãi suất của Mỹ không tác động đồng thời với nhau Do đó, trong mô hình, tác giả đã thêm một ràng buộc để loại bỏ ảnh hưởng đồng thời của sản lượng lên lãi suất của Mỹ.
Cấu trúc hệ phương trình SVAR dạng ma trận được xác định cụ thể như sau:
Từ cấu trúc ma trận này mối quan hệ đồng thời của các biến trong mô hình có thể được viết lại như sau:
Ba phương trình đầu tiên mô tả cú sốc bên ngoài của nền kinh tế toàn cầu đối với Việt Nam, bao gồm giá dầu, sản lượng và lãi suất của Mỹ Trong vòng một tháng, giá dầu chỉ bị ảnh hưởng bởi chính nó, trong khi sản lượng và lãi suất của Mỹ chịu tác động từ cả giá dầu và các yếu tố nội địa Ba phương trình cuối cùng phản ánh các biến nội địa trong mô hình, cho thấy ngoài tác động nội tại, các biến này cũng bị ảnh hưởng bởi các cú sốc bên ngoài và các biến nội địa trước đó.
Khung phân tích của tác giả được thực hiện qua 3 bước như sau:
• Bước 1: tác giả phân tích tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế Việt Nam.
Kiểm đinh tính dừng của các biến, lựa chọn độ trễ tối ưu, kiểm đinh tự tương quan của phần dư và tính ổn đinh của mô hình.
Dựa trên kết quả phân rã phương sai, tác giả chỉ ra rằng các cú sốc bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích mức độ biến động của phương sai sai số dự báo đối với các biến vĩ mô trong nước.
Dựa trên kết quả từ hàm phản ứng xung, tác giả đã xác định mức độ phản ứng của các biến vĩ mô trong nước đối với từng cú sốc bên ngoài.
Tác giả phân tích tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế của sáu quốc gia, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc, với cách tiếp cận tương tự như đối với Việt Nam.
• Bước 3: tác giả kiểm đinh sự tương quan trong phản ứng của các biến nội địa của 7 quốc gia trong mẫu đối với từng cú sốc bên ngoài.
K Ế T QU Ả NGHIÊN C Ứ U
ế t qu K ả nghiên c ứu đố i v ớ i 6 qu ố c gia Đông Á
Hình 4.12: Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc sản lượng của My
Khi FED tăng lãi suất, giá tiêu dùng trong nước có xu hướng giảm Lãi suất cao ở Mỹ có thể ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư vào các thị trường mới nổi, dẫn đến giảm tổng đầu tư trong nước, từ đó tác động đến tổng cầu và làm giảm mức giá nội địa Đối với các quốc gia như Việt Nam theo chế độ neo tỷ giá, lãi suất nước ngoài tăng có thể khiến lãi suất trong nước cũng tăng, dẫn đến giảm chỉ số giá tiêu dùng.
Hình 4.13: Phản ứng của giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc lãi suất của My
4.2 Kết quả nghiên cứu đối với 6 quốc gia Đông Á
4.2.1 Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ tối ưu
Tác giả đã thực hiện kiểm định cho các quốc gia còn lại, cho thấy các biến đều dừng ở sai phân bậc 1 Kết quả kiểm định tự tương quan và tính ổn định của mô hình đã dẫn đến việc lựa chọn độ trễ cho các nước như sau: Indonesia (5), Malaysia (5), Philippines (7), Trung Quốc (4), Singapore (5) và Hàn Quốc (6).
4.2.2 Tầm quan trọng của các cú sốc bên ngoài đối với sự biến động của các chỉ số kinh tế vĩ mô trong nước Đầu tiên tác giả xem xét vai trò của các cú sốc bên ngoài trong việc dự báo biến động của sản lượng trong nước Ngoại trừ Indonesia, cú sốc bên ngoài giải thích hơn 10% sự biến động của sản lượng Điều này có thể do Indonesia là quốc gia duy nhất trong mẫu có xu hướng giảm độ mở thương mại trong thời kỳ quan sát.
Bảng 4.5: Kết quả phân rã phương sai của sản lượng các nước Đông Á
Cú sốc Thời gian Indone- sia Malay- sia Philip- pines Trung
Kết quả phân rã phương sai của tỷ giá cho thấy sự phù hợp với chính sách tỷ giá của các nước theo phân loại của IMF Trung Quốc và Singapore có mức độ chịu ảnh hưởng từ cú sốc bên ngoài thấp nhất, với Trung Quốc theo đuổi chính sách tiền tệ cứng nhắc neo tỷ giá theo USD, còn Singapore mục tiêu neo tỷ giá theo rổ tiền tệ Mặc dù Malaysia được phân loại theo tỷ giá thả nổi có quản lý, nhưng đồng ringgit đã được giữ giá cố định với USD đến hết tháng 6 năm 2005, dẫn đến mức độ tác động từ cú sốc bên ngoài không cao Ngược lại, các quốc gia như Hàn Quốc, Indonesia và Philippines chịu ảnh hưởng mạnh từ cú sốc bên ngoài do theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có quản lý.
Chỉ số giá tiêu dùng chịu tác động mạnh mẽ hơn so với tỷ giá và sản lượng, đặc biệt là từ các cú sốc bên ngoài như chính sách tiền tệ.
Bảng 4.6: Kết quả phân rã phương sai của tỷ giá các nước Đông Á
Bảng 4.7: Kết quả phân rã phương sai của chỉ số giá tiêu dùng các nước Đông Á
Cú sốc Thời gian Indone- sia Malay- sia Philip- pines Trung
Với kho dự trữ ngoại hối khổng lồ và chiến lược can thiệp hiệu quả, Trung Quốc là một trong những quốc gia ít bị ảnh hưởng từ bên ngoài đến tỷ giá và giá cả Tương tự, Singapore là một ví dụ điển hình thành công trong việc neo tỷ giá và duy trì mức lạm phát thấp Cả hai quốc gia Đông Á này đều được đánh giá cao về sự kết hợp chính sách hài hòa trong khuôn khổ bộ ba bất khả thi theo quan điểm của Stephen.
Hàn Quốc đã thành công trong việc duy trì ổn định giá cả nội địa, nhưng chỉ số giá ở quốc gia này lại chịu ảnh hưởng lớn từ các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là giá dầu Nguyên nhân là do Hàn Quốc phụ thuộc vào việc nhập khẩu hầu hết dầu thô để đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước Trong khi đó, Indonesia và Malaysia ở khu vực Đông Nam Á cho thấy sự đánh đổi giữa việc ổn định tỷ giá và giữ mức giá trước các cú sốc từ bên ngoài.
Kết quả phân rã phương sai cho thấy cú sốc giá dầu và lãi suất có ảnh hưởng lớn hơn cú sốc sản lượng đến sự biến động của các biến vĩ mô ở Đông Á Sự hạn chế của cú sốc sản lượng có thể được giải thích bởi hai thay đổi quan trọng trong thương mại quốc tế trong giai đoạn mẫu Đầu tiên, thương mại nội vùng đã tăng trưởng mạnh mẽ so với thương mại với Mỹ kể từ sau năm.
Vai trò của Trung Quốc trên trường quốc tế và khu vực ngày càng được khẳng định, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu Trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước trong khu vực đã tăng mạnh, cho thấy vai trò cầu nối quan trọng của Trung Quốc trong thương mại giữa các nước đang phát triển ở Đông Á và thế giới, đặc biệt là với Mỹ Nghiên cứu của Allegret và Essaadi (2011) chỉ ra rằng giá trị nhập khẩu khu vực của Trung Quốc có mối quan hệ đồng liên kết với GDP của Mỹ, cho thấy ảnh hưởng từ các cú sốc thương mại.
My đang dần được truyền dẫn thông qua vai trò của Trung Quốc.
4.2.3 Tác động của các cú sốc bên ngoài đến các biến kinh tế vĩ mô trong nước
4.2.3.1 Phản ứng của sản lượng
Kết quả từ hàm phản ứng xung cho thấy rõ ràng sự phản ứng tức thì của các biến kinh tế trong nước trước các cú sốc, đồng thời phản ánh tốc độ điều chỉnh của nền kinh tế.
Theo lý thuyết, giá dầu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thông qua nhiều kênh như chi phí sản xuất, hiệu ứng chuyển giao thu nhập và chính sách tiền tệ thắt chặt Tuy nhiên, điều này cho thấy cú sốc giá dầu sẽ dẫn đến giảm sản lượng Ngược lại, kết quả nghiên cứu cho thấy sản lượng thực tế lại phản ứng tích cực theo chiều hướng của cú sốc giá dầu ở các quốc gia trong mẫu.
Trung Quốc Singapore Hàn Quốc 0.01
Hình 4.14: Phản ứng của sản lượng các nước đối với cú sốc giá dầu
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Á, và cú sốc giá dầu có thể tác động tích cực đến sản lượng Điều này phù hợp với quan điểm của Kilian (2009) và cũng được khẳng định bởi Allegret và các cộng sự.
Nghiên cứu năm 2012 về tác động của giá dầu đến sản lượng các quốc gia Đông Á cho thấy cú sốc sản lượng của Mỹ có thể thúc đẩy sản lượng ở những quốc gia có độ mở thương mại cao trong khu vực này Tuy nhiên, tác động của cú sốc này đến sản lượng nội địa lại không đáng kể Kết quả này củng cố quan điểm rằng ảnh hưởng trực tiếp của Mỹ, cũng như các nước phát triển khác, đến chu kỳ kinh tế của các quốc gia Đông Á đã giảm sút trong thời gian gần đây (Kose và Prasad, 2010).
Cú sốc lãi suất tại Mỹ đã tác động tích cực đến sản lượng của các quốc gia, với xu hướng tăng trưởng rõ rệt Phân tích phản ứng của sản lượng đối với các cú sốc bên ngoài cho thấy trong ngắn hạn, sản lượng có thể tăng hoặc giảm, nhưng trong dài hạn, xu hướng chung là tăng Điều này phản ánh sự phát triển bền vững của các quốc gia trong giai đoạn 2001 – 2012.
Trung Quốc Singapore Hàn Quốc
Hình 4.15: Phản ứng của sản lượng các nước đối với cú sốc lãi suất
4.2.2.2 Phản ứng của tỷ giá
Tỷ giá ở các quốc gia theo chế độ neo như Malaysia, Trung Quốc và Singapore ít nhạy cảm với cú sốc giá dầu Trong khi đó, Indonesia, là nước xuất khẩu dầu thô lớn thứ ba ở Đông Nam Á, chứng kiến đồng rupi tăng giá khi giá dầu tăng Đồng won Hàn Quốc cũng có sự gia tăng giá trị trong giai đoạn đầu, nhưng sau 6 tháng lại giảm giá so với USD.
Trung Quốc Singapore Hàn Quốc
Hình 4.16: Phản ứng của tỷ giá các nước đối với cú sốc giá dầu
ự tương S quan trong phả n ứ ng c ủ a các bi ế n kinh t ế vĩ mô đố i v ớ i cú s ố c t ừ bên ngoài
4.3 Sự tương quan trong phản ứng của các biến kinh tế vĩ mô đối với cú sốc từ bên ngoài
4.3.1 Sự tương quan trong phản ứng của sản lượng Để xem xét mối tương tác giưa các nền kinh tế có nhiều đặc điểm tương đồng trong khu vực, tác giả tính toán hệ số tương quan trong phản ứng xung của các biến kinh tế vĩ mô đối với từng cú sốc bên ngoài Việc tồn tại một hệ số tương quan dương giưa các biến hàm ý các quốc gia có phản ứng cân xứng đối với một cú sốc Ngược lại, một hệ số tương quan âm hoặc không có ý nghĩa thống kê có thể phản ánh nhưng phản ứng bất cân xứng giưa các quốc gia (Canova, 2005) Trong các bảng kết quả, nhưng hệ số dương và có ý nghĩa thống kê được tô đậm. Đầu tiên tác giả xem xét hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng đối với các cú sốc bên ngoài Sản lượng các quốc gia có xu hướng phản ứng tương tự nhau đối với cú sốc giá dầu, cho thấy giá dầu và sản lượng có mối liên quan chặt chẽ Tuy nhiên, theo kết quả hàm phản ứng xung đã trình bày ở trên, sản lượng thường phản ứng dương với cú sốc giá dầu Điều này có thể hàm ý cú sốc giá dầu lúc này phản ánh sự tăng trưởng của kinh tế toàn cầu hơn là cú sốc trong nguồn cung Do đó, cú sốc này có thể dẫn đến phản ứng cân xứng ở các quốc gia.
Bảng 4.8: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc giá dầu
IP_OIL VN IN MA PH CH SI KR
Phản ứng đối với cú sốc sản lượng và lãi suất của Mỹ cho thấy sự không tương quan rõ rệt, cho thấy mức độ phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ của các quốc gia khác nhau Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh này, khi sản lượng của Trung Quốc có xu hướng đồng biến động với sản lượng của Việt Nam, Indonesia và Malaysia Kết quả này củng cố quan điểm rằng vai trò thương mại của Mỹ đối với các nước Đông Nam Á đang được truyền dẫn qua Trung Quốc.
Bảng 4.9: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc sản lượng của My
IP_UIP VN IN MA PH CH SI KR
Bảng 4.10: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc lãi suất của My
IP_UIR VN IN MA PH CH SI KR
4.3.2 Sự tương quan trong phản ứng của tỷ giá
Tỷ giá hối đoái phản ứng mạnh mẽ trước các cú sốc giá dầu, với sự tương quan dương có ý nghĩa thống kê ở hầu hết các cặp tỷ giá Mặc dù có sự tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với sản lượng và lãi suất của Mỹ, nhưng không thể xác định một xu hướng rõ ràng từ những dữ liệu này.
Bảng 4.11: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc giá dầu
EX_OIL VN IN MA PH CH SI KR
Bảng 4.12: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc sản lượng của My
EX_UIP VN IN MA PH CH SI KR
Bảng 4.13: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc lãi suất của My
EX_UIR VN IN MA PH CH SI KR
4.3.3 Sự tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng là biến phản ứng mạnh mẽ nhất trong các yếu tố kinh tế vĩ mô nội địa Khi xảy ra cú sốc giá dầu, mức giá trong nước thường có xu hướng gia tăng Các quốc gia đang phát triển ở Đông Nam Á, như Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Philippines, cho thấy sự tương quan rõ rệt trong phản ứng với các cú sốc kinh tế từ Mỹ Ngược lại, phản ứng của Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc lại có sự tương quan yếu hơn với các quốc gia trong khu vực này.
Bảng 4.14: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc giá dầu
CPI_OIL VN IN ML PH CH SI KR
Bảng 4.15: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc sản lượng của My
CPI_UIP VN IN ML PH CH SI KR
Bảng 4.16: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc lãi suất của My
CPI_UIR VN IN ML PH CH SI KR
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với phát hiện của Allegret và cộng sự (2012), cho thấy rằng tương quan giá cả giữa các nước Đông Á đã tăng lên đáng kể kể từ sau khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997-1998.
K Ế T LU Ậ N VÀ M Ộ T S Ố KHUY Ế N NGH Ị
Bài nghiên cứu quan sát này bao gồm Việt Nam và 6 quốc gia trong khu vực có điều kiện kinh tế tương đồng, trong đó có Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc với nền kinh tế phát triển hơn Mặc dù các quốc gia này theo đuổi các chế độ tỷ giá và chính sách tiền tệ khác nhau theo phân loại của IMF, nghiên cứu kiểm định tầm quan trọng của các cú sốc bên ngoài đối với sự biến động của các biến kinh tế vĩ mô tại Việt Nam và các nước Đông Á, đồng thời đánh giá sự cân xứng trong phản ứng của các quốc gia trước các cú sốc này.
Nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy sản lượng ít bị ảnh hưởng bởi các cú sốc bên ngoài và thường có xu hướng tăng khi xảy ra cú sốc Mặc dù các cú sốc bên ngoài tác động hạn chế đến tỷ giá hối đoái, nhưng chúng lại có vai trò quan trọng trong việc dự báo biến động chỉ số giá tiêu dùng, đặc biệt là cú sốc giá dầu Tác động của giá dầu đến chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam là rõ ràng, do giá dầu ảnh hưởng đến hầu hết các sản phẩm hàng hóa Do đó, việc thực hiện các chính sách nhằm hấp thụ cú sốc giá dầu và hạn chế tác động đến mục tiêu lạm phát là rất cần thiết Để giảm thiểu ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu, cần có những dự báo chính xác về giá dầu hoặc áp dụng hiệu quả các công cụ phòng chống rủi ro do biến động giá dầu.
Ngoài ra nhưng nhà làm chính sách cũng cần quan tâm đến chính sách tiền tệ của
Trong bối cảnh hội nhập tài chính gia tăng, chính sách tiền tệ nới lỏng của FED có thể tiềm ẩn nguy cơ lạm phát tại Việt Nam Đề tài này chỉ tập trung vào ảnh hưởng của cú sốc tăng lãi suất mà chưa xem xét tác động của việc nới lỏng tiền tệ Việc theo dõi và phân tích chính sách tiền tệ của Mỹ sẽ hỗ trợ các nhà quản lý kinh tế Việt Nam đưa ra giải pháp ổn định phát triển kinh tế quốc gia Đối với các quốc gia Đông Á, cú sốc giá dầu và lãi suất có ảnh hưởng lớn hơn đến sản lượng và giá cả so với cú sốc sản lượng Tác động của tỷ giá phụ thuộc vào chính sách tỷ giá của từng quốc gia; các nước có tỷ giá linh hoạt như Việt Nam, Indonesia và Malaysia thường chịu ảnh hưởng mạnh từ cú sốc bên ngoài, trong khi Trung Quốc và Singapore duy trì được ổn định hơn Việc duy trì ổn định tỷ giá có thể dẫn đến biến động trong các chỉ số kinh tế vĩ mô, do đó cần cân nhắc mục tiêu chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển để đạt hiệu quả tăng trưởng và ổn định.
Khi phân tích phản ứng của các biến nội địa trước các cú sốc, biến tỷ giá có sự khác biệt giữa các quốc gia, điều này không chỉ do thay đổi cung cầu ngoại tệ mà còn liên quan đến chính sách tỷ giá của từng nước Tuy nhiên, sản lượng và mức giá thường biến động cùng chiều trước cùng một cú sốc, chẳng hạn như cú sốc giá dầu làm tăng cả sản lượng và mức giá tiêu dùng Sự gia tăng sản lượng trong trường hợp này có thể phản ánh sự phát triển của kinh tế toàn cầu Ngược lại, cú sốc lãi suất cũng thúc đẩy sản lượng nhưng lại khiến chỉ số giá tiêu dùng giảm Phản ứng tích cực của sản lượng đối với các cú sốc có thể liên quan đến chu kỳ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong giai đoạn mẫu Sự tương đồng trong phản ứng của sản lượng và mức giá cho thấy rằng các biến số thực trong nền kinh tế không phụ thuộc nhiều vào chính sách tỷ giá danh nghĩa của các quốc gia.
Kết quả kiểm định mối tương quan cho thấy cú sốc giá dầu gây ra sự đồng biến động cao nhất trong sản lượng, tỷ giá và giá tiêu dùng Đồng thời, không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm nước với các chế độ tỷ giá và chính sách tiền tệ khác nhau Chẳng hạn, Indonesia, Philippines và Hàn Quốc đều áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, nhưng mức độ tương quan của các biến vĩ mô ở những quốc gia này không cao và không đồng đều khi phản ứng với các cú sốc bên ngoài Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Mackowiak (2007) và Allegret cùng các cộng sự.
Nghiên cứu năm 2012 không hoàn toàn ủng hộ quan điểm của Rose (2011) về việc áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu làm cho chu kỳ kinh tế của các quốc gia Đông Á trở nên tương đồng Đề tài tập trung vào tác động của các cú sốc bên ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam và các quốc gia Đông Á, nhưng chỉ dừng lại ở việc đánh giá sơ bộ và xem xét sự tương quan giữa các quốc gia mà chưa tiến hành phân tích chuyên sâu Để có được cái nhìn toàn diện, cần thực hiện các nghiên cứu chi tiết về hoàn cảnh kinh tế của từng quốc gia Về dữ liệu, nghiên cứu sử dụng chỉ số sản xuất công nghiệp làm đại diện cho sản lượng, tuy nhiên, chỉ số này không thể hoàn toàn thay thế cho GDP, do đó, phản ứng của chỉ số sản xuất công nghiệp có thể không phản ánh chính xác tình hình sản lượng của các nước.
Allegret J.P., Couharde C., Guillaumin C., 2012 The Impact of External Shocks in East Asia: Lessons from a Structural VAR Model with Block Exogeneity International Economics
Allegret, J.-P., & Essaadi, E., 2011 Business Cycles Synchronization in East Asian Economy:
Evidences from time-variyng Coherence Study Economic Modelling, 28(1-2), pp 351-368.
Bouakez, H., Normandin, M., 2010 Fluctuations in the foreign exchange market: how important are monetary policy shocks? Journal of International Economics, 81(1), pp 139-153.
Brown, Stephen P A & Yucel, Mine K., 2002 Energy prices and aggregate economic activity: an interpretative survey The Quarterly Review of Economics and Finance, 43(2), pp 193-208.
Canova, F., 2005 The transmission of US Shocks to Latin America Journal of Applied
Coset G., Pesenti P và Roubini N., 1999 Paper tigers? A model of the Asian crisis European
Cushman D.O và Zha T., 1997 Identifying Monetary Policy in Small Open Economy Journal of
Ehrmann, M và Fratzscher, M., 2009 Global financial transmission of monetary policy shocks.
Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 71(6), pp 739-759.
Eichengreen, B., Rose, A., Wyplosz, C., 1996 Contagious currency crises: first tests The
Scandinavian Journal of Economics, 98(4), pp 463-484.
Flood, R.P and A.K Rose, 1995 Fixing exchange rates: a virtual quest for fundamentals Journal of
Forbes, K.J., Chinn, M.D., 2004 A decomposition of global linkages in financial markets over time.
The Review of Economics and Statistics, 86(3), pp 705-722.
Nghiên cứu của Hằng N.T.T và Thành N.D (2011) khám phá nguồn gốc lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010, cung cấp những phát hiện mới dựa trên các bằng chứng hiện có Bài viết thuộc Trung Tâm Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế, đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về tình hình kinh tế Việt Nam trong thời kỳ này.
Huang Y và Guo F., 2006 Is currency union a feasible option in East Asia? A multivariate structural VAR approach Reasearch in International Business and Finance, 20(1), pp 77-94.
IMF, 2007 Decoupling the Train? Spillovers and Cycles in Global Economy World Economic
Kaminsky G., Reinhart C và Vegh C., 2003 The Unholy Trinity of Financial Contagion Journal of
Kilian, L., 2009 Not All Oil Price Shocks Are Alike: Disentangling Demand and Supply Shocks in the Crude American Economic Review, 99(3), pp 1053-69.
Kim, S., 2001 International transmission of U.S monetary policy shocks: evidence from VAR's.
Journal of Monetary Economics, 48(2), pp 339-372.
Kose, M A., & Prasad, E S., 2010 Emerging markets, resilience and growth amid global turmoil Washington D.C: Brookings Institution Press.
Lân, N P., 2010 Cơ chế truyền dẫn tiền tệ dưới góc độ phân tích định lượng Tạp Chí Ngân Hàng,
Leeper E., Sims C.A và Zha T., 1996 What does Monetary Policy Do? Brookings Papers in
Luiz de Mello; Mauro Pisu, 2010 The bank lending channel of monetary transmission in Brazil: A VECM approach The Quarterly Review of Economics and Finance, 50(1), pp 50-60.
Lutke-pohl, H., 2005 New Introduction to Multiple Time Series Analysis Berlin biên t p â viên không biết chu biên:Springer.
Markowiak, B., 2007 External shocks, U.S monetary policy ang macro economic fluctuations in emerging markets Journal of Monetary Economics, 54(8), pp 2512-2520.
Miniane, J., Rogers, J.H, 2007 Capital controls and the international transmission of U.S money shocks Journal of Money, Credit, and Banking, 39(5), pp 1003-1035.
Moneta F và Ruffer R., 2009 Business Cycle Synchoronization in East Asia Journal of Asian
Ng, T H., 2002 Should the Southeast Asian Countries form a Currency Union? The Developing
Reinhart C và Rogoff K., 2004 The Modern History of Exchange rate arrangements: A
Reinterpretation Quarterly Journal of Economics, 119(1), pp 1-48.
Rose, A., 2011 Understanding Business Cycle Synchronization: Is Inflation Targeting Paving the Way to Asian Monerary Union Trong: J L Robert J.Barro, biên t p â viên Costs and Benefits of
Economic Integration in Asia không biết chu biên:Oxford University Press.
Ruffer R., 2007 Emerging Asia's Growth and Intergration How Autonomous are Business Cycle?.
Working Paper 715, European Central Bank
Sousa, J và Zaghini, A., 2008 Monetary policy shocks in the Euro area and global liquidity spillovers International Journal of Finance Economics, 13(3), p 205–218.
Stephen, G., 2011 The Impossible Trinity and the Capital Flows in East Asia ADBI Working Paper
Tang, W., W Libo và Z Zhang, 2010 Oil Price Shocks and Their Short- and Long-Term Effects on the Chinese Economy Energy Economics, T p â 32, pp S3-S14.