Tổng quan về thị trường nợ quốc tế
Khái niệm
Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), thị trường nợ quốc tế là nơi mua bán trái phiếu doanh nghiệp và chính phủ do những người không cư trú phát hành Thị trường này chỉ giao dịch trái phiếu nước ngoài, tạo ra một môi trường đầu tư độc lập với thị trường nợ địa phương.
Thị trường nợ quốc tế là nơi giao dịch các công cụ vay nợ và chứng khoán nợ trên toàn cầu Việc phát hành các công cụ nợ này cho phép nhà phát hành vay mượn với cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Chứng khoán nợ là công cụ tài chính mà người phát hành (người đi vay) cam kết trả một khoản tiền cố định cho người giữ công cụ (người cho vay) theo định kỳ cho đến ngày đáo hạn.
Debt securities exist in various forms, including bonds, notes, money market instruments, and financial derivatives.
Đặc điểm
Công cụ chứng khoán nợ quốc tế thường đi kèm với rủi ro cao hơn do ảnh hưởng của bất ổn khu vực, biến động tiền tệ và lãi suất Tuy nhiên, việc đầu tư vào những công cụ này có thể mang lại lợi nhuận cao hơn cho nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư không chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn của nhà phát hành Trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải hoàn trả theo các cam kết đã ghi trong hợp đồng vay.
Các công cụ nợ hay các chứng khoán nợ có thời hạn thanh toán xác định
Thị trường nợ quốc tế thu hút nhiều thành viên đa dạng, bao gồm chính phủ trung ương và địa phương, các tổ chức tài chính, ngân hàng và nhà đầu tư.
Phân loại thị trường nợ
3.1 Thị trường trái phiếu quốc tế
Theo Nghị định 53/2009/NĐ-CP, trái phiếu quốc tế là chứng chỉ vay nợ có mệnh giá và thời hạn nhất định, được Chính phủ hoặc doanh nghiệp Việt Nam phát hành Mục đích của việc phát hành trái phiếu này là để huy động vốn từ thị trường tài chính quốc tế nhằm phục vụ cho các nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
Trái phiếu quốc tế được điều chỉnh trong Nghị định này gồm:
Trái phiếu Chính phủ: là trái phiếu quốc tế do Chính phủ ủy quyền cho Bộ
Tài chính phát hành Mục đích phát hành trái phiếu chính phủ là:
Huy động nguồn vốn đầu tư phát triển thông qua hình thức cho vay lại nhằm thực hiện các công trình trọng điểm của Nhà nước và các dự án đầu tư hiệu quả cao, đặc biệt là những dự án có nhu cầu sử dụng vốn bằng ngoại tệ, theo quy định tại điều 9 nghị định 53/2009 NĐ-CP.
Trái phiếu doanh nghiệp là loại trái phiếu do các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trên thị trường quốc tế, có thể có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ.
Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh của chính phủ là loại trái phiếu được chính phủ bảo lãnh hoặc kết hợp với các hình thức bảo đảm khác Theo Điều 16 của Nghị định 53/2009-NĐ-CP, hình thức bảo lãnh này nhằm tăng cường độ tin cậy và thu hút nhà đầu tư.
Trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh của chính phủ là trái phiếu do các doanh nghiệp tự phát hành, ngay cả khi có bên thứ ba bảo lãnh nhưng không phải là chính phủ (Điều 16, Nghị định 53/2009-NĐ-CP) Để được phát hành trái phiếu quốc tế, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 17 của nghị định này.
- Được thành lập theo luật pháp Việt Nam và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
- Đáp ứng đủ các điều kiện sau (theo Điều 6 nghị định 53/2009-NĐ-CP):
- Có đề án phát hành trái phiếu được các cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt.
Trị giá phát hành trái phiếu quốc tế phải tuân thủ tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia, được phê duyệt hàng năm bởi Thủ tướng Chính phủ.
Các chương trình và dự án trọng điểm quốc gia, cũng như các dự án đầu tư được các cơ quan có thẩm quyền đánh giá hiệu quả, đã hoàn tất các thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế về hệ số tín nhiệm để phát hành ( trong trường hợp phát hành cần có hệ số tím nhiệm).
Người phát hành đã hoàn tất hồ sơ phát hành theo đúng quy định của pháp luật nước ngoài cho từng đợt và loại hình phát hành, đồng thời tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, khi phát hành trái phiếu quốc tế mà không có bảo lãnh từ chính phủ, yêu cầu bắt buộc là hệ số tín nhiệm phải bằng hoặc cao hơn hệ số tín nhiệm của quốc gia.
- Trị giá tương đương của mỗi đợt phát hành đối với trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh chính phủ không dưới tương đương 100 triệu USD.
Thị trường trái phiếu quốc tế là nơi giao dịch các khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên, nơi mà người vay và người cho vay từ nhiều quốc gia tương tác để trao đổi vốn Thị trường này bao gồm nhiều loại trái phiếu khác nhau, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư và tổ chức tài chính tham gia vào các giao dịch quốc tế.
Thị trường trái phiếu nội địa là nơi phát hành trái phiếu bằng đồng nội tệ, được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ quốc gia bởi các tổ chức và cá nhân cư trú Các nhà đầu tư trong thị trường này bao gồm cả người cư trú và người không cư trú, góp phần tạo nên sự đa dạng và phát triển cho thị trường tài chính quốc gia.
Trái phiếu Kho bạc Nhà nước Việt Nam, với mệnh giá bằng đồng nội tệ (VND), được phát hành tại Việt Nam và do Kho bạc Nhà nước phát hành, có thể được mua bởi cả công dân Việt Nam và người nước ngoài.
Thị trường trái phiếu nước ngoài bao gồm các trái phiếu do những người không cư trú phát hành, được ghi bằng đồng nội tệ và phát hành tại quốc gia có đồng tiền tương ứng.
Ví dụ: Nhà nước Việt Nam phát hành trái phiếu được đình danh bằng đồng USD và bán trên thị trường Mỹ.
Thị trường trái phiếu châu Âu, hay còn gọi là Eurobonds market, bao gồm các trái phiếu được phát hành bởi chính phủ, tổ chức tài chính và công ty, với đồng tiền phát hành khác biệt so với đồng tiền của quốc gia nơi trái phiếu được phát hành.
Một trái phiếu được phát hành bởi chính phủ Việt Nam, có mệnh giá bằng đồng USD và được giao dịch trên thị trường châu Âu, được gọi là trái phiếu châu Âu.
- Góp phần bổ sung nguồn lực tài chính trung và dài hạn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế của các nước.
- Đáp ứng khả năng thanh toán của các chủ thể khác nhau khi tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế.
-Góp phần hình thành và phát triển hệ thống thị trường tài chính quốc tế.
-Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ của chính phủ.
Phân tích việc phát hành trái phiếu trên thị trường nợ quốc tế của chính phủ
Lần phát hành thứ nhất
Vào năm 2005, Việt Nam lần đầu tiên phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế, thu hút sự chú ý lớn từ các nhà đầu tư châu Âu, châu Á và châu Mỹ Bộ Tài chính, được ủy quyền bởi Chính phủ, đã chính thức phát hành trái phiếu tại thị trường chứng khoán New York vào ngày 27/10/2005 Trái phiếu được phát hành theo phương thức 144A/điều khoản S, cho phép không cần đăng ký tại Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) và được bán trực tiếp cho một số nhà đầu tư chọn lọc thông qua một đại lý, với sự bảo lãnh hoàn toàn từ nhà quản lý chính cho đợt phát hành này.
Trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam được phát hành thông qua quy trình nghiêm ngặt, với sự tư vấn pháp lý từ các công ty như Shearman & Sterlings, Bộ Tư pháp, Freshfields (đại diện cho Việt Nam) và Phillips Fox (tư vấn cho các ngân hàng bảo lãnh) Ngân hàng Credit Suisse First Boston của Thụy Sỹ (hiện nay là Ngân hàng Credit Suisse) đã đảm nhận vai trò bảo lãnh phát hành chính cho Bộ Tài chính, theo hợp đồng mua bán trái phiếu ký kết vào ngày 27/10/2005.
Bảy ngân hàng tham gia hợp đồng bảo lãnh bao gồm Citigroup (Mỹ), Nomura Securities (Nhật Bản), J.P Morgan, Deutsche Bank, Merrill Lynch, Morgan Stanley và HSBC Ngân hàng New York được chỉ định làm đại lý thanh toán trái phiếu cho Bộ Tài chính theo hợp đồng ký kết vào ngày 03/11/2005.
Trái phiếu chính phủ Việt Nam dự kiến phát hành ban đầu là 500 triệu USD, nhưng trong ngày đầu tiên, số lượng nhà đầu tư đăng ký mua đã lên tới khoảng 1 tỷ USD, gấp đôi số lượng dự kiến.
Chính phủ đã quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu USD, nâng tổng số phát hành lên tới 750 triệu USD, trái phiếu có thời hạn là 10 năm.
Trái phiếu quốc tế 2005 của Chính phủ Việt Nam có mức lãi suất cố định 6,875%/năm, tương đương lãi suất thực là 7,125% Tiền lãi được thanh toán bằng USD mỗi 6 tháng vào ngày 15/1 và 15/7, với kỳ trả lãi đầu tiên diễn ra vào ngày 15/01/2006.
Khối lượng dự định phát hành 500 triệu USD Khối lượng thực tế phát hành 750 triệu USD
Lãi suất cố định (%/năm) 6,875
Trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam đã thu hút sự quan tâm từ các nhà đầu tư toàn cầu, với 38% thuộc khu vực châu Á, 32% châu Âu và 30% Mỹ Điều này cho thấy trái phiếu Việt Nam được phân bổ đồng đều giữa các khu vực, không chỉ tập trung vào nhà đầu tư châu Á Sự phát hành này đánh dấu một bước tiến quan trọng, khẳng định niềm tin của nhiều nhà đầu tư quốc tế vào tiềm năng phát triển của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Các nhà đầu tư quan tâm đến trái phiếu chính phủ Việt Nam chủ yếu là các quỹ đầu tư tài chính, chiếm 51% tổng số, tiếp theo là ngân hàng (25%), công ty bảo hiểm (17%) và các tổ chức tài chính khác (7%) Đặc biệt, dù các công ty bảo hiểm là những nhà kinh doanh rủi ro, nhưng họ chỉ nắm giữ 17% trái phiếu quốc tế do Chính phủ Việt Nam phát hành, điều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư vào Việt Nam vẫn còn tương đối thấp.
Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu quốc tế của Chính phủ
Việt Nam theo khu vực (2005)
Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam theo đối tƣợng nhà đầu tƣ (2005)
Các quỹ đầu tư tài
51% Các công ty bảo hiểm
Các nhà đầu tư khác
1.2 Sử dụng vốn vay từ trái phiếu quốc tế
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đã được Chính phủ phê duyệt vay lại 731.435.000 USD để đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất Khoản vay này có hiệu lực từ ngày 03/11/2005, với lãi suất 6,875%/năm, tương đương với lãi suất trái phiếu Thời hạn vay lại sẽ kéo dài theo thời hạn của trái phiếu, và khoản gốc sẽ được trả một lần vào ngày đáo hạn, tức ngày 15/01/2016.
Vinashin đã vay tiền chủ yếu để đầu tư vào phát triển các nhà máy đóng tàu (60%), các dự án công nghiệp phụ trợ (30%) và phát triển đội tàu vận tải (10%) Họ đã thực hiện nhiều công trình nhằm xây dựng 3 cụm công nghiệp tàu thuỷ tại ba miền Bắc, Trung, Nam, với tổng nhu cầu vốn lên tới 23 nghìn tỷ đồng.
Vào thời điểm đó, nguồn vốn trái phiếu chỉ đáp ứng khoảng 49% nhu cầu tài chính, trong khi các dự án cần nhiều nguồn vốn đầu tư khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu và kêu gọi các doanh nghiệp trong nước tham gia góp cổ phần Đến cuối năm 2008, tổng nguồn vốn trái phiếu quốc tế đã được giải ngân hoàn toàn cho các đơn vị thành viên của Vinashin.
Vinashin sử dụng Công ty Tài chính công nghiệp tàu thủy (VFC) để phân bổ và điều chuyển nguồn vốn từ trái phiếu quốc tế Hiện tại, Vinashin duy trì 56 đơn vị thành viên được phân bổ nguồn vốn này, với tổng số dự án đã được phê duyệt là
Trong tổng số 222 dự án, 188 dự án đã rút vốn, trong khi số còn lại chưa được giải ngân Tập đoàn đã quyết định dừng giải ngân để tập trung vào các dự án đang trong quá trình thực hiện và hoàn thành.
Các công ty thành viên của Vinashin đang sử dụng vốn trái phiếu quốc tế với mức dư nợ lớn, bao gồm: Công ty công nghiệp tàu thủy Dung Quất với 57,55 triệu USD, Công ty vận tải Viễn Dương Vinashin với 71,78 triệu USD, Nhà máy đóng tàu Hạ Long với 52,74 triệu USD, Công ty công nghiệp tàu thủy Nam Triệu với 73,02 triệu USD và Công ty công nghiệp tàu thủy Cái Lân với 57,02 triệu USD Tổng nguồn vốn trái phiếu quốc tế cho năm đơn vị này đạt khoảng 312,11 triệu USD.
Việc quản lý dòng tiền cho từng dự án của các đơn vị thành viên là rất khó khăn do mỗi đơn vị sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, bao gồm cả trái phiếu quốc tế năm 2005, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải và thiếu vốn cho các dự án Chẳng hạn, Công ty công nghiệp tàu thủy Dung Quất từ khi hoạt động năm 2006 đến 2010 vẫn chưa hạ thủy được tàu nào, trong khi vẫn phải trả lương cho hơn 2.200 lao động Tương tự, Công ty công nghiệp tàu thủy Nha Trang và Công ty vận tải Biển Đông cũng gặp khó khăn về vốn lưu động, không thể thực hiện các hợp đồng mới và chỉ cố gắng hoàn thành những hợp đồng còn dang dở Để trả nợ cho các chủ nợ nước ngoài, Vinashin phải vay nợ mới để trả nợ cũ, nhưng tình trạng thua lỗ và quản lý yếu kém đã khiến nợ nần chồng chất.
Năm 2010, Chính phủ cho phép Vinashin sử dụng khoản tiền vay lại từ phát hành trái phiếu quốc tế để thanh toán một số khoản nợ lãi từ trái phiếu quốc tế năm 2005 Đồng thời, Vinashin phải thực hiện tái cơ cấu theo Quyết định số 926/QĐ-TTg ngày 18/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tập trung vào ngành nghề chính.
Lần phát hành thứ hai
Đầu năm 2007, kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ, tạo ra tiềm năng vốn lớn, trong khi nền kinh tế Việt Nam cũng ghi nhận sự tăng trưởng nhanh chóng Nhu cầu vốn cao đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đặc biệt là dự án nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất, khởi công từ năm 2005, đang cần nguồn vốn đầu tư để hoàn thiện.
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, vào ngày 1/6/2007, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 07/2007/NQ-CP, cho phép phát hành trái phiếu quốc tế trên thị trường vốn quốc tế Hình thức phát hành sẽ được thực hiện theo phương thức trái phiếu toàn cầu và theo quy tắc 144A/Điều khoản S, tương tự như đợt phát hành năm 2005, với mức phát hành dự kiến là 1 tỷ USD.
Thời hạn trái phiếu dao động từ 15 đến 20 năm, được phát hành bằng ngoại tệ USD Mục đích chính của việc phát hành trái phiếu này là để Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng công ty Lắp máy Việt Nam vay lại, nhằm đầu tư vào các dự án quan trọng như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, dự án mua tàu vận tải, dự án thủy điện Xê Ca Mản 3 và Nhà máy Thủy điện Hủa Na.
Cuối năm 2007, thị trường quốc tế gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc phát hành trái phiếu gặp trở ngại lớn và không thể thành công, buộc phải tạm ngừng các đợt phát hành trái phiếu quốc tế.
Kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế từ tháng 6/2007 đã bị hoãn lại do bối cảnh kinh tế toàn cầu không thuận lợi Sự khó khăn của nền kinh tế Mỹ và tình trạng trầm lắng của thị trường tài chính quốc tế đã khiến các nhà đầu tư, cả Mỹ và quốc tế, trở nên dè dặt hơn trong việc đầu tư vào trái phiếu của các quốc gia khác.
Vào ngày 25/1/2010, Bộ Tài chính Việt Nam đã chính thức phát hành trái phiếu quốc tế lần thứ hai tại thị trường chứng khoán New York Lần phát hành này cũng áp dụng phương thức 144A/ điều khoản S giống như lần phát hành trước đó.
Các ngân hàng đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu bao gồm Barclays Bank PLC (Anh), Citigroup Global Markets Inc (Mỹ) và Deutsche Bank Securities Inc (Mỹ), theo hợp đồng mua bán trái phiếu ký ngày 22/1/2010 với Bộ Tài chính Citibank được chỉ định làm đại lý thanh toán trái phiếu cho Bộ Tài chính theo hợp đồng đã ký ngày 14/1/2010.
Chính phủ Việt Nam đã phát hành trái phiếu quốc tế trị giá 1 tỷ USD với kỳ hạn 10 năm, đáo hạn vào ngày 29/1/2020 Trái phiếu này có lãi suất danh nghĩa 6,75%/năm và lợi tức phát hành là 6,95%, được giao dịch theo phương thức T+4.
Khối lượng phát hành 1 tỷ USD
Lãi suất cố định (%/năm) 6,75
Cơ cấu nhà đầu tư theo khu vực cho thấy hơn một nửa số trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam được mua bởi nhà đầu tư Mỹ (56%), tăng đáng kể so với đợt phát hành đầu tiên Ngoài ra, 28% đến từ các nhà đầu tư châu Á và 16% từ châu Âu Xét theo lĩnh vực, 73% là quỹ đầu tư và công ty quản lý tài sản, 10% là quỹ bảo hiểm và hưu trí, 10% là ngân hàng, và 7% là các nhà đầu tư khác.
Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu quốc tế của Chính phủ
Việt Nam theo khu vực (2010)
Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam theo đối tƣợng nhà đầu tƣ (2010)
Các quỹ đầu tư và công ty quản lý tài sản Các ngân hàng
73% Các quỹ bảo hiểm và hưu trí Các nhà đầu tư khác
2.2 Sử dụng vốn vay từ trái phiếu quốc tế
Năm 2010, Việt Nam đã thành công trong việc phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ lần thứ hai với tổng trị giá 1 tỷ USD Thành công này không chỉ nằm ở việc vay vốn mà còn ở cách sử dụng nguồn vốn vay Việc đầu tư hiệu quả từ vốn vay không chỉ đảm bảo khả năng trả lãi và gốc mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
Việc vay vốn từ thị trường quốc tế với điều kiện thuận lợi là bước khởi đầu quan trọng, nhưng để đạt được thành công bền vững, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay là yếu tố quyết định.
Ngày 16/4/2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 56/2010/TT-BTC nhằm hướng dẫn quản lý và giám sát nguồn vốn trái phiếu quốc tế do Chính phủ phát hành Theo thông tư này, tiền thu từ bán trái phiếu trên thị trường quốc tế, sau khi trừ các khoản phí liên quan, sẽ được sử dụng để hoàn trả ngân sách nhà nước theo Nghị quyết số 53/NĐ-CP ngày 02/11/2009 Phần còn lại sẽ được phân bổ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Tài chính đã ủy quyền cho ngân hàng mở tài khoản nhằm tiếp nhận nguồn vốn trái phiếu quốc tế và trở thành cơ quan cho vay lại cho các khoản vay từ trái phiếu quốc tế phát hành năm 2010 Đơn vị vay lại cần mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng để thực hiện giải ngân theo kế hoạch đã đăng ký Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đơn vị vay lại có thể sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, nhưng phải đảm bảo an toàn và không ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn trái phiếu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Định kỳ hàng tháng, quý, và năm, đơn vị vay lại phải báo cáo tình hình rút vốn và việc sử dụng vốn trái phiếu tạm thời nhàn rỗi cho cơ quan cho vay lại và Bộ Tài chính.
Nếu đơn vị vay lại không thực hiện nghĩa vụ, Bộ Tài chính sẽ yêu cầu bồi thường theo thỏa thuận Nếu không bồi thường đúng cam kết, Bộ có quyền yêu cầu các ngân hàng phong tỏa tài khoản của đơn vị vay lại để thu hồi nợ.
Ngày 22/9/2010, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 141/2010/TT-BTC để hướng dẫn việc cho vay lại và trả nợ vốn vay cho dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất Theo Điều 1 của Thông tư, tổng nguồn vốn huy động cho dự án là 1 tỷ USD, trong đó 700 triệu USD được phát hành qua trái phiếu quốc tế của Chính phủ với lãi suất 6,95%/năm và lãi suất danh nghĩa 6,75%/năm, trả lãi mỗi 6 tháng và gốc trả một lần khi đáo hạn vào tháng 1/2020 Số tiền còn lại 300 triệu USD được sử dụng để tái cơ cấu nợ của Vinashin theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Lần phát hành thứ ba
Năm 2014, Việt Nam đã có nhiều điều kiện thuận lợi để huy động trái phiếu quốc tế, nhờ vào những cải thiện tích cực trong nền kinh tế Các tổ chức xếp hạng tín dụng như Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch’s đã ghi nhận sự tiến bộ này, đặc biệt là việc Fitch’s nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ B+ lên BB- và Moody’s từ B2 lên B1, điều này đã tăng cường sức hấp dẫn của trái phiếu Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Các nhà đầu tư đang quan tâm đến các đợt phát hành trái phiếu USD, trong bối cảnh cuộc tìm kiếm lợi tức vẫn tiếp diễn Việt Nam đã không phát hành trái phiếu quốc tế trong vài năm qua, nhưng tình hình vĩ mô hiện tại đã ổn định Những yếu tố này dự báo sẽ mang lại lợi ích cho đợt phát hành trái phiếu của Việt Nam, theo nhận định của Rajeev De Mello, nhà quản lý quỹ tại Schroder Investment Management ở Singapore.
Fitch vừa nâng định hạng tín nhiệm cho Việt Nam, nhấn mạnh sự cải thiện trong ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế tích cực và cán cân tài chính quốc tế được cải thiện Điều này cho thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Khối lượng phát hành 1 tỷ USD
Lãi suất cố định hiện tại là 4,8%/năm, trong bối cảnh lãi suất vay nợ toàn cầu có xu hướng giảm Các ngân hàng trung ương đang thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế Đây là thời điểm thuận lợi cho Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế nhằm tái cơ cấu nợ khi đến hạn thanh toán.
Hai khoản vay trước đó đang đến hạn và cần tái cấu trúc tỷ lệ nợ công hiện tại Đợt chào bán trái phiếu diễn ra vào lúc 1 giờ chiều ngày 6/11/2014 (giờ San Francisco) và 7/11/2014 (giờ Việt Nam), đồng thời với giao dịch hoán đổi hai trái phiếu chính phủ đã phát hành trước đó, có hạn thanh toán vào năm 2016 và 2020 Hoán đổi trái phiếu là việc mua và bán đồng thời hai mã trái phiếu khác nhau của cùng một chủ thể phát hành nhằm mục đích cơ cấu lại danh mục trái phiếu.
Tổng khối lượng phát hành trái phiếu đạt 1 tỷ USD thông qua phương thức 144A/ điều khoản S, tương tự như hai đợt phát hành trước Đặc biệt, tổng giá trị đăng ký mua trái phiếu của Chính phủ trong đợt chào bán này vượt quá 10,6 tỷ USD, gấp hơn nhiều lần so với khối lượng phát hành.
Lượng chào bán trái phiếu lần này gấp 10 lần so với dự kiến, với sự tư vấn bảo lãnh từ các ngân hàng như Deutsche Bank, HSBC và Standard Chartered Bank Trong đó, HSBC đóng vai trò là ngân hàng thanh toán và phân phối trái phiếu.
Bộ Tài chính Việt Nam đánh giá đợt phát hành trái phiếu quốc tế lần này thành công với lãi suất cố định chỉ 4,8%/năm, thấp hơn mức dự kiến 5,125%/năm, giúp tiết kiệm khoảng 32,5 triệu USD trong 10 năm Đây là lãi suất thấp nhất so với hai đợt phát hành trước, lần lượt là 6,875%/năm vào năm 2005 và 6,755%/năm vào năm 2010 So với Sri Lanka và Hungary, các quốc gia có xếp hạng tín nhiệm tương đương, lãi suất trái phiếu của họ lần lượt là 5,6% và 5,5%.
Trong tổng số 437 nhà đầu tư quốc tế đăng ký mua trái phiếu, tỷ lệ nhà đầu tư châu Á chiếm 17%, châu Âu 28% và châu Mỹ 55%.
Trái phiếu quốc tế do Chính phủ Việt Nam phát hành đã thu hút được sự tin tưởng đáng kể từ các nhà đầu tư châu Âu và châu Mỹ Điều này phản ánh sự ổn định và tiềm năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế.
Tại Mỹ, 84% nhà đầu tư là các công ty quản lý quỹ đầu tư, trong khi 12% là ngân hàng và 4% còn lại thuộc về các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí.
Tỷ lệ đăng kí mua trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam theo khu vực (2014)
Tỷ lệ đăng kí mua trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam theo đối tƣợng nhà đầu tƣ (2014) Các công ty quản lý
84% Các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí
3.2 Sử dụng vốn vay từ trái phiếu quốc tế
Tổng giá trị trái phiếu đăng ký hoán đổi và được chấp nhận mua lại đạt 726.626.000 USD, bao gồm 436.452.000 USD trái phiếu phát hành năm 2005 và 290.171.000 USD trái phiếu phát hành năm 2010.
Việc hoán đổi nợ công giúp kéo dài thời hạn vay và giảm áp lực trả nợ, đồng thời giảm rủi ro tái cấp vốn và lãi suất cho danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ Đây là một bước chủ động trong quản lý rủi ro nợ công, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Nguồn ngoại tệ từ đợt phát hành trái phiếu thứ ba đóng vai trò quan trọng trong việc đảo nợ đến hạn từ hai lần phát hành trước với lãi suất thấp hơn Bộ Tài chính cho biết, trái phiếu mới có giá trị 273 triệu USD đã được đưa vào quỹ trả nợ và báo cáo Chính phủ Thành công của đợt phát hành trái phiếu quốc tế này đã giúp Việt Nam thiết lập mức lãi suất chuẩn thấp hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng huy động vốn trên thị trường quốc tế với lãi suất hợp lý hơn.
Đánh giá về các đợt phát hành trái phiếu quốc tế
Các đợt phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam đã đạt được nhiều thành công, đặc biệt là lần phát hành đầu tiên, thu hút sự quan tâm lớn từ giới truyền thông, chuyên gia kinh tế và nhà đầu tư nước ngoài Mục tiêu chính của việc phát hành trái phiếu quốc tế là thiết lập điểm chuẩn cho trái phiếu Việt Nam trên thị trường quốc tế, từ đó mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp lớn huy động vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ Sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn vào trái phiếu Việt Nam sẽ tăng tính thanh khoản trên thị trường thứ cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho các đợt phát hành sau.
Các đợt phát hành trái phiếu quốc tế tiếp theo đã tạo cơ hội huy động vốn cho Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam, với gần 1 tỷ USD thu về từ lần phát hành thứ 2 Đây là nguồn thu ngoại tệ quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ trong nước đang bị căng thẳng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế trong và ngoài nước, tác động đến xuất khẩu, kiều hối và thu ngoại tệ từ du lịch.
Nguồn ngoại tệ từ đợt phát hành trái phiếu thứ ba đóng vai trò quan trọng trong việc đảo nợ sắp đến hạn với lãi suất thấp hơn từ các đợt phát hành trước Thành công của đợt phát hành này cũng giúp Việt Nam thiết lập mức lãi suất chuẩn thấp hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn trên thị trường quốc tế với lãi suất hợp lý hơn.
Việt Nam đã ba lần phát hành thành công trái phiếu quốc tế của Chính phủ, khẳng định uy tín và tín nhiệm trên thị trường tài chính quốc tế Tuy nhiên, thành công trong huy động vốn chỉ là bước khởi đầu; điều quan trọng là phải phân bổ và sử dụng vốn một cách hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ và mang lại lợi ích kinh tế bền vững.
Hai lần phát hành trái phiếu quốc tế đầu tiên nhằm mục đích cho các doanh nghiệp nhà nước vay lại để đầu tư vào các dự án lớn, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước Tuy nhiên, việc phân bổ và sử dụng vốn trái phiếu 2005 không hợp lý đã dẫn đến thất bại trong quản lý, thu hồi vốn và lãi trái phiếu, tạo gánh nặng nợ cho ngân sách nhà nước Học hỏi từ kinh nghiệm này, vốn trái phiếu quốc tế 2010 đã được phân bổ và sử dụng một cách tập trung hơn, bước đầu đạt kết quả tốt và thực hiện các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn.
Trái phiếu quốc tế 2014 được phát hành nhằm mục đích hoán đổi trái phiếu sắp đến hạn thanh toán từ hai đợt phát hành trước Mặc dù việc đảo nợ đã thành công với lãi suất thấp hơn và thời hạn trả nợ được kéo dài, nhưng điều này cũng nhắc nhở Chính phủ về bài học quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng vốn từ trái phiếu quốc tế 2005.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc phát hành trái phiếu quốc tế
Vai trò của các tổ chức trung gian
Phát hành trái phiếu quốc tế là một giao dịch tài chính phức tạp, vượt qua biên giới quốc gia và liên quan đến nhiều bên tham gia Giao dịch này phải tuân thủ các quy định, tập quán và khung pháp lý khác nhau của các thị trường nước ngoài Các tài liệu quan trọng trong quá trình phát hành trái phiếu bao gồm hồ sơ đánh giá hệ số tín nhiệm, hợp đồng giữa bên phát hành và nhà quản lý chính, bên bảo lãnh phát hành cũng như đại lý tài chính.
Thuê tư vấn để đánh giá hệ số tín nhiệm, tài chính và pháp lý là điều kiện tiên quyết cho doanh nghiệp Việc lựa chọn bên tư vấn có kinh nghiệm giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí trực tiếp như lãi vay và các chi phí gián tiếp liên quan đến việc chuẩn bị hồ sơ phát hành Điều này không chỉ giúp đạt được các điều kiện phát hành thuận lợi mà còn tối ưu hóa cơ cấu phát hành.
Uy tín của nhà quản lý và các bên bảo lãnh phát hành đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của đợt phát hành trái phiếu Nhà quản lý uy tín có lợi thế trong việc đàm phán phí bảo lãnh, thường nhận được mức phí thấp hơn từ các bên bảo lãnh để tăng thị phần Đối với các nhà đầu tư, uy tín của bên bảo lãnh giúp xác định giá trị trái phiếu phát hành Nhà quản lý, với vai trò là bên bảo lãnh chính, quyết định sự thành bại của đợt phát hành và thường tư vấn cũng như chuẩn bị các vấn đề quan trọng liên quan Do đó, việc lựa chọn nhà quản lý chính cần được thực hiện cẩn thận, ưu tiên các công ty có khả năng vốn lớn, uy tín trên thị trường quốc tế và khả năng bán trái phiếu cao.
Đánh giá hệ số tín nhiệm
Để phát hành trái phiếu, bên phát hành cần xác định hệ số tín nhiệm, mặc dù trong một số trường hợp có thể không cần thiết tùy theo yêu cầu của thị trường và uy tín của bên phát hành Để trái phiếu được phát hành thành công, thường cần có đánh giá hệ số tín nhiệm từ hai tổ chức uy tín Các công ty lớn hoạt động toàn cầu thường dễ dàng hơn trong việc nhận xếp hạng tín nhiệm cho cả công ty và trái phiếu của họ, trong khi các công ty nhỏ hơn có thể gặp khó khăn và nhận mức xếp hạng tín nhiệm thấp hơn Việc xếp hạng tín nhiệm không chỉ tốn chi phí mà còn tiêu tốn thời gian, do đó các công ty cần chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi mời tổ chức đánh giá Hơn nữa, việc tham khảo ý kiến từ công ty tư vấn trong quá trình chuẩn bị hồ sơ và tài liệu là rất quan trọng.
Trong tình huống cần huy động vốn gấp hoặc khi thị trường nước ngoài có lãi suất và thời hạn vay hấp dẫn hơn, doanh nghiệp có thể xem xét phát hành trái phiếu không có hệ số tín nhiệm, mặc dù chi phí vay sẽ cao hơn Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, hệ số tín nhiệm của doanh nghiệp có thể vượt qua hệ số tín nhiệm quốc gia, dựa trên tầm quan trọng của doanh nghiệp đối với nền kinh tế và cơ cấu phát hành đảm bảo khả năng thanh toán cao Nếu các yếu tố này được đảm bảo, hệ số tín nhiệm cao sẽ giúp doanh nghiệp huy động vốn với chi phí thấp hơn và hiệu quả hơn.
3 Lựa chọn thị trường phát hành
Phân tích các yếu tố như hệ số tín nhiệm, kỳ hạn, lãi suất, chi phí, khối lượng, đồng tiền, hạch toán, pháp lý, lãi suất chuẩn, lãi suất thả nổi hay cố định là rất quan trọng để giúp nhà phát hành lựa chọn thị trường phát hành phù hợp Việc lựa chọn đúng thị trường sẽ hỗ trợ bên phát hành trong việc xây dựng cơ cấu phát hành hợp lý và hiệu quả nhất.
Xác định thời điểm phát hành
Thời điểm phát hành trái phiếu đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, đặc biệt đối với những trái phiếu có hệ số tín nhiệm thấp Nên tránh phát hành trong thời gian thị trường biến động mạnh hoặc khi có nhiều trái phiếu chưa bán được, vì điều này có thể dẫn đến việc bị ép giá và tăng chi phí, làm giảm khả năng thành công Để đảm bảo thành công cho đợt phát hành, doanh nghiệp cần thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư bằng cách xác định thời điểm phát hành phù hợp và vị trí của mình trên thị trường quốc tế.
Xây dựng cơ cấu phát hành
Xây dựng cơ cấu phát hành hợp lý là yếu tố then chốt quyết định thành công của giao dịch phát hành trái phiếu quốc tế, giúp đảm bảo chi phí hiệu quả cho nhà phát hành và khả năng thanh toán cao cho nhà đầu tư Một cơ cấu phát hành hợp lý không chỉ tối ưu hóa chi phí mà còn đáp ứng được các mục tiêu tài chính quan trọng.
Việc nâng cao hệ số tín nhiệm là điều quan trọng trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu cho các doanh nghiệp trong nước Trước đây, quy trình này gặp nhiều khó khăn, nhưng với sự phát triển của các kỹ thuật tài chính, nhiều cấu trúc phát hành trái phiếu có đảm bảo đã được xây dựng Một ví dụ điển hình là giao dịch phát hành trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản thu trong tương lai, hay còn gọi là chứng khoán hóa Nhờ vào việc lựa chọn tài sản có giá trị làm đảm bảo, hệ số tín nhiệm của trái phiếu có thể được cải thiện, giúp doanh nghiệp phát hành trái phiếu với chi phí thấp hơn và tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư trong quyết định đầu tư của họ.
Giảm chi phí thuế là một lợi ích quan trọng trong việc phát hành trái phiếu Nhiều quốc gia áp dụng quy định khấu trừ thuế từ gốc, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp Để tối ưu hóa chi phí thuế, doanh nghiệp có thể cơ cấu giao dịch phát hành trái phiếu một cách hợp lý, chẳng hạn như phát hành thông qua một doanh nghiệp tài chính chuyên dụng ở quốc gia không có chế độ thuế khấu trừ Công ty mẹ sẽ bảo lãnh cho đợt phát hành, trong khi doanh nghiệp tài chính chuyên dụng sẽ cho công ty mẹ vay lại số tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu.
Để đảm bảo phương thức phát hành phù hợp, phát hành riêng lẻ nhanh hơn so với phát hành ra công chúng do không cần thời gian đăng ký trên thị trường chứng khoán Phát hành riêng lẻ hiện đang phổ biến cho các đợt phát hành trái phiếu quốc tế của các công ty chưa có định mức tín nhiệm, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí Nhiều công ty lớn cũng chọn phương thức này để nắm rõ thông tin về chủ nợ hoặc khi phát hành công chúng không khả thi Tuy nhiên, phát hành ra công chúng có lợi thế tiếp cận nhiều nhà đầu tư hơn, và khi trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán, việc mua bán lại sẽ thuận lợi hơn.
Xem xét cơ sở pháp lý
Giao dịch phát hành trái phiếu quốc tế là một quy trình phức tạp, liên quan đến nhiều bên và diễn ra trên nhiều quốc gia, do đó, luật pháp điều chỉnh các giao dịch này cũng rất đa dạng và phức tạp Tại quốc gia của nhà phát hành và thị trường phát hành, các giao dịch này phải tuân thủ nhiều đạo luật và quy định khác nhau Để đảm bảo tính hợp pháp của giao dịch, vai trò của tư vấn luật trở nên cực kỳ quan trọng Các luật sư không chỉ soạn thảo các văn kiện cần thiết mà còn phải lập kế hoạch và cấu trúc giao dịch sao cho phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.