KIỀU HỐI VÀ THỰC TRẠNG KIỀU HỐI Ở VIỆT NAM
Tổng quan về kiều hối
1.1.1 Khái niệm về kiều hối
Kiều hối là số ngoại tệ mà người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước, thể hiện tình cảm và lòng hiếu thảo đối với gia đình và quê hương Sự chuyển tiền này không chỉ mang lại hỗ trợ cho người thân mà còn đóng góp đáng kể vào nền kinh tế Việt Nam, giúp cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối và giảm áp lực tăng tỷ giá.
Theo Ngân hàng Thế giới, kiều hối là khoản tiền được chuyển từ nước ngoài, chủ yếu từ thu nhập của người lao động và dân di cư Khoản tiền này được ghi nhận trong cán cân thanh toán quốc tế như một khoản chuyển tiền ròng.
Kiều hối là việc chuyển tiền từ những người lao động ở nước ngoài về cho gia đình và người thân tại quê hương.
Kiều hối là một nguồn ngoại tệ ổn định, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, vượt trội hơn so với đầu tư nước ngoài trực tiếp và viện trợ Nó không chỉ giúp cân bằng cán cân vãng lai mà còn tăng cường dự trữ ngoại tệ và cải thiện đời sống của người nhận.
Ngày càng nhiều người Việt Nam quan tâm đến dịch vụ kiều hối, nhờ vào các chính sách và hiệp định thương mại giữa các quốc gia Điều này giúp việc chuyển kiều hối về Tổ quốc trở nên dễ dàng hơn, làm cho thị trường kiều hối trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người dân.
1.1.2 Vài nét về kiều hối ở Việt Nam
Vào giữa những năm 1980, Việt Nam đã chứng kiến sự thay đổi lớn trong chính sách kiều hối, dẫn đến việc tiếp nhận một lượng ngoại tệ đáng kể từ kiều bào ở nước ngoài Trung bình, mỗi người Việt Nam ở nước ngoài gửi về khoảng 1000 USD mỗi năm, tạo ra tác động tích cực cho cả cá nhân nhận tiền và sự phát triển kinh tế của đất nước.
Từ năm 2000 đến nay, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đã tăng mạnh, đạt 3,15 tỷ USD, tương ứng với mức tăng 135% Dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào năm 2008, kiều hối gửi về Việt Nam vẫn tăng vọt lên 6,8 tỷ USD Năm 2010, với sự phục hồi của kinh tế thế giới, Việt Nam tiếp tục nhận kiều hối trị giá 8,26 tỷ USD, tăng 2,24 tỷ so với năm trước Trong năm này, Ngân hàng Thế giới xếp Việt Nam ở vị trí 16 trong số 20 nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 ở Đông Nam Á, chỉ sau Philippines.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 3 triệu người sinh sống và làm việc ở nước ngoài, chủ yếu tại các quốc gia phát triển với thu nhập cao Cụ thể, Mỹ có khoảng 1,5 triệu người, Pháp khoảng 350.000 người, Canada khoảng 200.000 người và Úc khoảng 250.000 người Số còn lại phân bố rải rác ở nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Năm 2015, kiều hối tại TP HCM đạt 5,5 tỷ USD, vượt xa dự kiến 5,2 tỷ USD, cho thấy sự bội thu trong lĩnh vực này Tuy nhiên, đến năm 2016, kiều hối giảm mạnh xuống còn 11,8 tỷ USD, giảm 31,8% so với năm trước.
Trong năm 2017, Việt Nam đã nhận hơn 13,7 tỷ USD kiều hối, tăng 16% so với năm 2016, theo thống kê của Ngân hàng Thế giới Mỹ là nguồn kiều hối lớn nhất, chiếm 60% tổng số, tiếp theo là châu Âu với gần 20%, cùng với các quốc gia khác như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Năm 2018, nguồn cung ngoại tệ tại Việt Nam tăng trưởng ấn tượng từ 7-15%, với số kiều hối gửi về nước đạt gần 16 tỉ USD, gấp hơn 100 lần so với năm 1993 Đầu tư từ kiều hối trong những năm gần đây đã tập trung vào khoảng 3.000 dự án trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của người dân, đặc biệt là các gia đình nhận kiều hối.
Năm 2019, thị trường ngoại tệ Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt nhờ vào những tín hiệu tích cực từ thặng dư cán cân thương mại, kiểm soát lạm phát hiệu quả, và niềm tin của người dân vào đồng nội tệ Chính sách quản lý kiên định và linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của thị trường này.
Biểu đồ 1.1: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2000-2017
LƯỢNG KIỀU HỐI CHUYỂN VỀ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2017
Lượng kiều hối (tỷ USD)
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (World Bank)
Các hình thức chuyển tiền kiều hối về Việt Nam:
Theo Quyết định số 170/1999/QĐ - TTg, người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có thể chuyển tiền kiều hối về Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm khuyến khích việc gửi tiền về quê hương.
Chuyển ngoại tệ thông qua các tổ chức tín dụng được phép;
Chuyển ngoại tệ thông qua các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính quốc tế;
Cá nhân mang theo người vào Việt Nam.
Khi cá nhân ở nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, họ có thể mang theo ngoại tệ để gửi cho người Việt Nam ở nước ngoài Tuy nhiên, người mang hộ cần phải kê khai với Hải quan cửa khẩu về số lượng ngoại tệ mang theo để gửi cho người thụ hưởng trong nước.
Ngoài việc nguồn kiều hối có thể được chuyển vào Việt Nam thông qua kênh chính thức thì trong thực tế, còn được chuyển theo kênh không chính thức
Các kênh chuyển kiều hối chính thức bao gồm các công ty kiều hối, ngân hàng thương mại có giấy phép cung cấp dịch vụ chuyển tiền quốc tế và các công ty chuyển tiền.
Thực trạng kiều hối ở Việt Nam
1.2.1 Tính đến trước quý 4 năm 2008
Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ nhờ vào tình hình kinh tế ổn định và sự phát triển chính trị-xã hội vững vàng Với vị thế quốc gia ngày càng nâng cao và các chính sách của Nhà nước ngày càng thông thoáng, nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn đã xuất hiện, đặc biệt trong các lĩnh vực như chứng khoán, bất động sản và công nghệ cao Điều này đã thu hút nguồn vốn đầu tư và kiều hối từ nước ngoài, giúp thân nhân trong nước có thêm cơ hội phát triển.
1.2.2 Giai đoạn từ đầu quý 4 năm 2008 đến hết năm 2009
Trong năm 2008, Việt Nam nhận tổng lượng kiều hối đạt 6.81 tỷ USD, tăng 10.2% so với năm 2007, tương đương 0.63 tỷ USD Tuy nhiên, từ tháng 10 năm 2008, lượng kiều hối chuyển qua các kênh ngân hàng chính thức bắt đầu có dấu hiệu giảm Theo thông lệ hàng năm, sự giảm này thường diễn ra từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau.
2009 mới chính là "mùa kiều hối".
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng lớn đến kiều hối của Việt Nam, chủ yếu từ hai nguồn: tiền gửi của người lao động Việt Nam ở nước ngoài về cho gia đình và tiền của người Việt định cư ở nước ngoài hỗ trợ người thân trong nước Khó khăn kinh tế tại các quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam đã dẫn đến việc giảm lương cho công nhân, đồng thời làm giảm khả năng tiếp nhận lao động mới.
Lượng kiều hối vào Việt Nam năm 2009 đạt 6,02 tỷ USD, giảm 11,6% so với năm 2008, đánh dấu sự sụt giảm đầu tiên sau 8 năm liên tiếp tăng trưởng Thống kê cho thấy có sự thay đổi trong cơ cấu sử dụng kiều hối, với tỷ trọng đầu tư gia tăng, trong đó bất động sản chiếm 30% tổng lượng kiều hối, tiếp theo là đầu tư vào chứng khoán.
Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đang giảm do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khiến nhiều quốc gia từng tiếp nhận lao động Việt Nam sa thải nhân viên hoặc ngừng tuyển dụng Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam, đến cuối tháng 12 năm 2009, chỉ có hơn 45.000 lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc, trong khi chỉ tiêu cả năm là 90.000 lao động Nhiều công nhân Việt Nam từ các quốc gia như Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản, CH Czech, Slovak đã phải hồi hương do mất việc làm.
Mặc dù kiều hối từ lao động Việt Nam ở nước ngoài đóng góp một phần nhỏ vào tổng lượng kiều hối gửi về nước, nhưng tình hình kinh tế Mỹ hiện đang gặp khó khăn Theo báo Wall Street Journal, gần 2/3 cộng đồng người Việt sống tại Mỹ đang chịu tác động từ sự tăng trưởng chỉ đạt 2% trong năm 2009 Sự sụp đổ của "bong bóng nhà đất" đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường lao động, đặc biệt trong ngành xây dựng, nơi thu hút nhiều lao động nhập cư, dẫn đến việc giảm lượng kiều hối từ cộng đồng người Việt.
Mỹ chuyển về Việt Nam trong năm 2009 giảm mạnh.
Sự giảm sút của kiều hối không chỉ gây khó khăn cho các gia đình ở Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến nguồn ngoại tệ cần thiết cho nền kinh tế Dòng kiều hối giảm dẫn đến việc chi trả qua các ngân hàng cũng giảm mạnh, ngoại trừ một số ngân hàng có lợi thế nổi bật.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) thông báo rằng tính đến hết tháng 10, lượng kiều hối chuyển về nước qua Vietcombank đạt 1 tỷ USD, giảm 18% so với năm trước Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do lượng kiều hối chuyển về để đầu tư giảm mạnh Tuy nhiên, lượng kiều hối gửi cho thân nhân trong nước lại tăng từ 20-25% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nền kinh tế thế giới đang phục hồi mạnh mẽ, với lượng kiều hối gửi về Việt Nam đạt hơn 8 tỷ USD, tăng hơn 11% so với mức cao nhất trước đó vào năm 2008 Để hiểu rõ hơn về quy mô của dòng kiều hối này, có thể so sánh với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam, khi năm 2010 GDP đạt 104,6 tỷ USD, tăng 6,78% so với năm trước.
Năm 2009, lượng kiều hối vào Việt Nam đạt khoảng 7,7% GDP, cao hơn mức gia tăng GDP năm 2010 (6,78% - 7,1 tỷ USD) khoảng 1 tỷ USD Điều này cho thấy sự quan trọng của lượng kiều hối trên 8 tỷ USD Hai nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ của dòng kiều hối vào Việt Nam trong năm 2010 là
Thị trường bất động sản tại Việt Nam đang diễn ra sôi động, đặc biệt là khi lãi suất tiền gửi bằng đồng USD tại các ngân hàng thương mại hấp dẫn hơn Trong bối cảnh lãi suất USD toàn cầu hiện chỉ dao động từ 0,23-0,78%/năm, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang áp dụng mức lãi suất khoảng 5% cho tiền gửi bằng đồng USD, tạo ra cơ hội đầu tư hấp dẫn cho người dân.
Chính sách kiều hối của Việt Nam đã trở nên thông thoáng và cởi mở, cho phép gửi và nhận tiền bằng đồng USD, cũng như cho phép kiều bào tham gia mua bất động sản theo Nghị định 71 Các ngân hàng thương mại đang triển khai nhiều giải pháp để thu hút nguồn ngoại tệ, bao gồm việc đa dạng hóa các kênh chi trả và nâng cao chất lượng dịch vụ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cả người nhận và người chuyển tiền.
Năm 2011, kinh tế thế giới đã có những cải thiện nhất định, tác động tích cực đến đời sống kiều bào và lượng kiều hối chuyển về tăng Tuy nhiên, vào năm 2016, lượng kiều hối giảm do lo ngại về chính sách tiền tệ sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ của ông Trump Mỹ, với nền kinh tế mạnh mẽ, có ảnh hưởng lớn đến kinh tế toàn cầu, dẫn đến sự sụt giảm kiều hối từ các nước khác Thêm vào đó, chính sách lãi suất tiền gửi 0% với đồng USD của NHNN Việt Nam vào cuối năm 2015 cũng khiến kiều hối từ nước ngoài giảm đáng kể, vì người gửi không còn lợi ích khi chuyển tiền về.
Năm 2017, nền kinh tế đã bắt đầu ổn định trở lại, cùng với việc các chính sách tiền tệ của các quốc gia cũng được củng cố Điều này đã thúc đẩy người lao động nước ngoài tiếp tục gửi tiền về nước, khiến lượng kiều hối tăng lên, đạt hơn 13 tỷ USD trong năm này.
Đánh giá ưu - nhược điểm
Lượng kiều hối vào Việt Nam đã tăng đáng kể qua các năm, cho thấy sự đóng góp to lớn của người Việt ở nước ngoài vào sự phát triển của đất nước Sự tăng trưởng này có được nhờ vào hàng loạt chính sách khuyến khích và đột phá mà chúng ta đã thực hiện trong những năm qua, nhằm tạo sự thông thoáng và tin tưởng từ bà con Việt kiều cũng như người thân trong nước Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để hỗ trợ và thúc đẩy dòng kiều hối.
Quyết định số 170/1999/QĐ-TT ngày 19/8/1999 về khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước;
Quyết định số 78/2002/QĐ-TT ngày 17/6/2002 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 170/1999/QĐ-TT;
Các văn bản này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước, bảo vệ quyền lợi của người gửi và nhận tiền Chính sách mở rộng hình thức chuyển tiền giúp thu hút nguồn ngoại tệ kiều hối vào Việt Nam Người thụ hưởng trong nước có thể nhận kiều hối bằng ngoại tệ hoặc VND, gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng, và rút cả gốc lẫn lãi bằng ngoại tệ Ngoài ra, số ngoại tệ này có thể được sử dụng để chuyển ra nước ngoài cho các mục đích hợp pháp mà không bị hạn chế về số lượng hay đánh thuế Gần đây, Nghị định 71 còn cho phép kiều bào tham gia mua bất động sản.
Các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối đã tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài mang ngoại tệ về nước, với số lượng không hạn chế qua hải quan, chỉ cần khai báo nếu vượt mức cho phép Người không cư trú, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài và kiều bào, có thể mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng với nguồn ngoại tệ từ nước ngoài và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.
Chất lượng chi trả kiều hối đã có sự cải thiện đáng kể, với dịch vụ chi trả được cung cấp tại nhà trên toàn quốc Các công ty kiều hối trong nước sử dụng phương pháp truyền miệng và hợp tác với những người có uy tín trong cộng đồng để giới thiệu sản phẩm, từ đó mở rộng mạng lưới khách hàng thông qua sự giới thiệu từ bạn bè và người quen.
Phí chuyển tiền thông qua các ngân hàng, công ty trong nước chỉ bằng 1/5 so với công ty nước ngoài,
Bên cạnh việc sử dụng tiền mặt, các công ty kiều hối như Đông Á đã phát triển các kênh chuyển tiền trực tuyến, cho phép người gửi theo dõi quá trình chuyển tiền dễ dàng hơn Trước đây, việc xác minh tiền đã đến tay người nhận thường mất nhiều thời gian do phải tra cứu thông tin sổ sách Giờ đây, chỉ với một cú nhấp chuột, người gửi có thể nhanh chóng nhận được câu trả lời, và thời gian chuyển tiền cho người nhận tại Việt Nam chỉ còn khoảng 8-12 giờ cho nội thành và tối đa 24 giờ cho các vùng xa.
Sacombank đã ra mắt dịch vụ chi trả kiều hối qua thẻ, cho phép người nhận rút tiền tại bất kỳ ATM nào Đối với dịch vụ Western Union, người gửi có thể gửi tiền về quê thông qua 16 ngân hàng đại lý hoặc sử dụng dịch vụ chuyển tiền qua điện thoại di động tại 70.000 điểm giao dịch ở 27 quốc gia.
Hiện công ty cung cấp dịch vụ gửi tiền trực tuyến tại 17 quốc gia có số lượng lớn kiều bào sinh sống như Mỹ, Canada, Anh, Úc, Đức.
1.3.2 Nhược điểm 1.3.2.1 Kiều hối - “Thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn thừa”
Kiều hối từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài thường được gửi về cho gia đình và thân nhân tại Việt Nam, và nhiều người chọn cách cất giữ hoặc bán ra thị trường tự do qua các cửa hàng vàng do tỷ giá cao hơn ngân hàng Để thu hút ngoại tệ, các ngân hàng đã liên tục tăng lãi suất tiền gửi bằng USD, đặc biệt là trong năm 2010, khi lãi suất huy động USD trên thị trường tiền tệ được điều chỉnh tăng mạnh.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP.HCM, trong năm 2009, lượng huy động vốn bằng ngoại tệ của các ngân hàng trên địa bàn đạt 167.206 tỷ đồng, tăng 39,6% so với năm trước.
2008 và chiếm 27,7% tổng huy động vốn của các ngân hàng.
Trước Tết 2010, lãi suất huy động USD của các ngân hàng trên địa bàn đã tăng từ 0,1% đến 0,3%, với mức lãi suất dao động từ 3,3% đến 4,5% cho các kỳ hạn dưới 12 tháng Cụ thể, Ngân hàng Quốc tế (VIB) đã điều chỉnh lãi suất tiền gửi USD từ 0,43%.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) và ngân hàng Eximbank đã điều chỉnh lãi suất huy động, tăng thêm khoảng 0,3%/năm cho tất cả các kỳ hạn, với mức lãi suất dao động từ 0,85%/năm đến cao nhất là 4,13%/năm.
Mặc dù lãi suất tiền gửi ngoại tệ đã được điều chỉnh, nhưng vẫn không được khách hàng đánh giá cao, dẫn đến việc nhiều người rút ngoại tệ từ ngân hàng để cất giữ hoặc đầu tư vào các lĩnh vực khác Hệ quả là nguồn tiền gửi USD tại ngân hàng giảm đáng kể khi người dân chuyển đổi ngoại tệ sang nội tệ để gửi tiết kiệm Ngược lại, các doanh nghiệp xuất khẩu lại ưa chuộng việc vay USD do lãi suất thấp hơn.
Trong bối cảnh hiện nay, thị trường ngoại tệ đang dư thừa, nhưng các ngân hàng gặp khó khăn trong việc mua USD Năm 2009, doanh số chi trả kiều hối qua Sacombank đạt 850 triệu USD, tuy nhiên chỉ có 10% trong số đó được gửi lại ngân hàng, cho thấy sự hạn chế trong việc người gửi quay trở lại.
Ngoài nguyên nhân tỷ giá thấp, nhiều người dân không muốn bán USD cho ngân hàng vì khi cần mua ngoại tệ cho các nhu cầu chính đáng như du học, du lịch hay khám chữa bệnh ở nước ngoài, họ thường không nhận được sự đáp ứng từ ngân hàng, hoặc chỉ được cấp với số lượng hạn chế và thủ tục phức tạp Do đó, bên cạnh việc mua bán USD tại các cửa hàng vàng, nhiều người đã lựa chọn cách cất giữ loại ngoại tệ này.
Các ngân hàng cho biết, nếu 50% lượng kiều hối được chuyển về được bán cho họ, thì nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ được giải quyết cơ bản.
Tỷ giá chợ đen và tỷ giá chính thức chênh lệch, dẫn đến việc người nhận kiều hối không chuyển tiền qua ngân hàng Điều này làm tăng lượng ngoại tệ lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng, góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng “đô la hóa” trong nền kinh tế.
1.3.2.2 Sử dụng kiều hối chưa hiệu quả
TỶ GIÁ VÀ THỰC TRẠNG TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
Tổng quan về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được hiểu theo các đơn giản là giá cả của một đồng tiền này tính theo một đồng tiền khác.
Có 2 cách thể hiện tỷ giá hối đoái:
Thứ nhất, tỷ giá hối đoái được thể hiện bằng: 1 số đơn vị nội tệ so với 1 đơn vị ngoại tệ: USD/VND = 23000;
Thứ hai, tỷ giá hối đoái được thể hiện bằng: 1 số đơn vị ngoại tệ so với 1 đơn vị nội tệ: VND/USD = 1/23000.
2.1.2 Các cách phân loại tỷ giá hối đoái
Trong lĩnh vực giao dịch ngoại hối và thanh toán thương mại quốc tế, các loại tỷ giá hối đoái được hình thành với những mục đích khác nhau Theo quan điểm của Tài chính quốc tế, tỷ giá hối đoái được phân loại thành 4 loại chính.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
Tỷ giá hối đoái thực
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương
Tỷ giá hối đoái thực đa phương
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là mức giá của một đồng tiền so với đồng tiền khác, không tính đến sức mua hàng hóa và dịch vụ cũng như ảnh hưởng của lạm phát.
Tỷ giá hối đoái thực giữa hai đồng tiền được tính bằng tỷ giá hối đoái danh nghĩa, đã được điều chỉnh theo mức độ lạm phát giữa quốc gia trong nước và quốc gia ngoài nước.
Tỷ giá thực (RER) thể hiện mối quan hệ giữa giá hàng hóa nước ngoài và giá hàng hóa trong nước, quy đổi về cùng đơn vị tiền tệ Khi RER = 1, giá hàng hóa trong nước và nước ngoài tương đương Nếu RER > 1, hàng hóa nước ngoài đắt hơn so với hàng hóa trong nước, cho thấy đồng tiền trong nước bị định giá thấp Ngược lại, khi RER < 1, hàng hóa nước ngoài rẻ hơn, cho thấy đồng tiền trong nước bị định giá cao.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương là chỉ số phản ánh giá trị và sức mua của một đồng tiền so với các đồng tiền khác từ các quốc gia đối tác Chỉ số này thể hiện mối quan hệ trung bình giữa các tỷ giá song phương của đồng tiền đó với các đồng tiền khác.
Theo công thức này, khi chỉ số NEER tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá so với các đồng tiền khác Ngược lại, nếu chỉ số NEER giảm, đồng nội tệ sẽ tăng giá so với các đồng tiền so sánh.
Tỷ giá hối đoái thực đa phương là tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát, giúp phản ánh mối quan hệ sức mua của đồng nội tệ so với các đồng tiền khác.
Công thức: REER = NEER x CPI W
Nếu REER tăng thì VNĐ mất giá so với tất cả các đồng tiền được so sánh còn lại.
Ngược lại, nếu REER giảm thì đồng nội tệ tăng giá so với tất cả các đồng tiền được so sánh còn lại.
Thực trạng của tỷ giá hối đoái tại việt nam từ năm 2008 đến nay
Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã dẫn đến sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá hối đoái, được coi là giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử tỷ giá hối đoái của Việt Nam Trong bối cảnh này, Ngân hàng Nhà nước đã phải thực hiện đến 3 lần nới lỏng biên độ thay đổi của tỷ giá để ứng phó với tình hình.
Vào tháng 2 năm 2008, lượng kiều hối về nước đạt hơn 60.000, mang theo 300-400 triệu USD, làm tăng nhu cầu đổi nội tệ để tiêu dùng và sinh hoạt Điều này đã dẫn đến sự tăng giá của đồng VND và tỷ giá USD/VND giảm mạnh Tuy nhiên, nhờ sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá vẫn được giữ ổn định trong biên độ 0,5-1,1%.
Biểu đồ 2.2: Tỷ giá USD/VND tại Việt Nam năm 2008
Vào ngày 27/6/2008, tỷ giá VND/USD trải qua giai đoạn bất ổn nhất khi bắt đầu năm chỉ ở mức 15.000 đến 16.000 VND/1 USD, nhưng chỉ sau 5 tháng đã gần chạm ngưỡng 19.500 VND Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu sử dụng ngoại tệ tăng cao từ doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh khủng hoảng.
Lần thứ 3 là 7/11/2008, do làn sóng thoái vốn đầu tư ngoại trên thị trường chứng khoán.
Cuối năm 2009, biên độ tỷ giá được nới lên 5%, khiến tỷ giá trên thị trường vượt qua 18.000 VND/USD Để ổn định tỷ giá, chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp như nâng lãi suất VND, tăng tỷ giá liên ngân hàng và yêu cầu doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại, từ đó giúp cải thiện tình hình tỷ giá.
Từ cuối năm 2009 đến năm 2010, biên độ lãi suất đã được hạ xuống chỉ còn 3%.
Trong giai đoạn này tỷ giá trên thị trường chủ yếu xoay quanh giá bán ở mức 18.000VND – 19.000 VND/USD.
Bảng 2.1: Tỷ giá hối đoái các tháng năm 2009 và 2010
Tỷ giá Tỷ lệ dao động Tỷ giá Tỷ lệ dao động
Nguồn: vn.investing.com 2.2.3 Giai đoạn 2011-1016
Từ năm 2011 đến 2016, tỷ giá tiền tệ tại Việt Nam duy trì sự ổn định cao với biên độ chỉ khoảng 1% Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cam kết giữ tỷ giá ổn định và thực hiện thành công cam kết này, góp phần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định Một minh chứng rõ ràng cho điều này là chỉ số lạm phát năm 2014 chỉ ở mức khoảng 3,95%, mức thấp nhất trong 15 năm qua.
Trong giai đoạn này, tỷ giá có sự biến động mạnh nhất, đặc biệt từ tháng 1 đến tháng 2, do lượng kiều bào về nước trong dịp Tết Nguyên Đán và mang theo một lượng kiều hối lớn.
Bảng 2.2: Tỷ giá và tỷ lệ dao động của tỷ giá tháng 1 và tháng 2 giai đoạn 2012 -
Năm Tháng 1 Tháng 2 Tỷ lệ dao động
Nguồn: vn.investing.com 2.2.4 Từ cuối năm 2016 đến nay
Năm 2018, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã mở rộng khả năng điều hành tỷ giá, áp dụng các chính sách linh hoạt và mang tính thị trường hơn, đồng thời vẫn duy trì sự ổn định cần thiết.
Năm 2018, tỷ giá USD biến động mạnh do sự gia tăng giá trị của đồng USD, được thể hiện qua chỉ số USD Index - chỉ số đo lường giá trị đồng USD so với 6 đồng tiền hàng đầu thế giới như EUR, JPY, GBP, CAD, SEK và CHF Mặc dù chỉ số này bắt đầu tăng từ mức đáy 90 điểm và đạt 95 điểm, nhưng vẫn còn cách xa đỉnh 105 điểm thiết lập vào cuối năm 2016.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng rút khỏi các thị trường mới nổi để quay trở lại Mỹ, đặc biệt khi FED dự kiến nâng lãi suất 4 lần trong năm nay, thay vì 3 lần như dự đoán trước đó Sự thay đổi này đã gây ra những xáo trộn trên thị trường tài chính toàn cầu, ảnh hưởng không chỉ đến Việt Nam mà còn đến nhiều quốc gia khác.
Diễn biến khó lường của chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tạo ra những yếu tố đột biến ảnh hưởng đến tỷ giá, gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư Tuy nhiên, khác với năm 2015, chính sách và khả năng điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện đã có nhiều thay đổi và được mở rộng.
2.2.5 Khả năng ổn định tỷ giá
Dư địa can thiệp của NHNN hiện nay đã khác biệt so với năm 2015, khi Việt Nam đối mặt với nhập siêu 3,5 tỷ USD và dự trữ ngoại hối chỉ 30 tỷ USD Trong 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã có nguồn cung ngoại tệ dồi dào nhờ xuất siêu 3,1 tỷ USD, cùng với dự trữ ngoại hối vượt mốc 60 tỷ USD, gấp đôi so với năm 2015.
Biểu đồ 2.3: Cán cân thương mại và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2012
Trong 6 tháng đầu năm, mặc dù thị trường chứng khoán có nhiều biến động, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) vẫn ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ với mức tăng 82,4%, đạt 4,1 tỷ USD Điều này chứng tỏ rằng Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp dẫn cho các nguồn vốn ngoại trung và dài hạn so với nhiều quốc gia khác.
Việc mở rộng dư địa tạo điều kiện cho nhà quản lý duy trì các chính sách cứng rắn, nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ và đảm bảo sự ổn định cho thị trường ngoại tệ.
Trần lãi suất huy động USD hiện vẫn duy trì ở mức 0%, trong khi tín dụng ngoại tệ đang được kiểm soát chặt chẽ hơn Đồng thời, lãi suất tiền đồng được giữ ở mức hấp dẫn nhằm khuyến khích người dân chuyển đổi từ USD sang VND.
Từ đầu năm 2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã áp dụng chính sách điều hành tỷ giá trung tâm, trong đó tỷ giá này được công bố và điều chỉnh hàng ngày Điều này tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng xác định tỷ giá mua và bán của VND so với USD trong biên độ +/- 3% theo quy định.
TÁC ĐỘNG CỦA KIỀU HỐI ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Xây dựng mô hình nghiên cứu
3.1.1 Các nghiên cứu trước đây
Nghiên cứu của Acosta, Lartey và Mandelman (2008) đã phân tích ảnh hưởng của kiều hối đến tỷ giá hối đoái thực, sử dụng dữ liệu phân chia theo ngành với phương pháp dữ liệu mảng không cân bằng.
Trong giai đoạn 1990-2003, nghiên cứu trên 109 quốc gia đang phát triển và chuyển tiếp cho thấy GDP bình quân đầu người, chỉ số thương mại và tăng trưởng GDP có ảnh hưởng tích cực đến tỷ giá hối đoái thực, với mức ý nghĩa thống kê 10% Ngược lại, độ mở thương mại không cho thấy sự ảnh hưởng đáng kể Đặc biệt, sự gia tăng kiều hối trong các nền kinh tế đang phát triển dẫn đến tăng chi tiêu và làm tăng giá các sản phẩm phi thương mại, từ đó đẩy tỷ giá hối đoái thực lên cao Hơn nữa, sự tăng giá phi thương mại còn gây ra sự dịch chuyển tài nguyên, dẫn đến giảm năng suất trong lĩnh vực sản xuất.
Nghiên cứu của Acosta, Baerg và Mandelman (2009) cho thấy kiều hối làm tăng giá tỷ giá hối đoái thực Các quốc gia với thị trường tài chính phức tạp có khả năng tốt hơn trong việc đối phó với thách thức kinh tế vĩ mô do sự tăng giá của đồng nội tệ, đồng thời duy trì tính cạnh tranh Họ cũng chỉ ra rằng trong trường hợp đồng tiền mất giá, mức độ mất giá phụ thuộc vào khả năng của nền kinh tế trong nước trong việc thu hút chuyển tiền đầu tư.
Izquierdo và Montiel (2006) đã sử dụng các kỹ thuật hợp nhất và mô hình dữ liệu mảng VAR để nghiên cứu sáu nền kinh tế từ Trung Mỹ và Caribbean trong giai đoạn 1985-2004 Nghiên cứu cho thấy, trái ngược với nhiều phát hiện trước đây, kiều hối không ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái thực của Honduras, Jamaica và Nicaragua Ngược lại, tại Dominica, kiều hối làm giảm tỷ giá hối đoái thực, trong khi ở El Salvador, kiều hối có tác động tích cực đến tỷ giá hối đoái.
3.1.2 Lựa chọn mô hình nghiên cứu
Nghiên cứu của Kemeisha Barrett (2014) đã áp dụng mô hình đánh giá tác động của các yếu tố như tỷ trọng kiều hối trên GDP (REM), chi tiêu của chính phủ (GS), tỷ lệ trao đổi thương mại (TOT), độ mở của thương mại (OPN), viện trợ tài chính từ nước ngoài (AID) và lãi suất thế giới (WIR) đến tỷ giá hối đoái (RER) của Jamaica.
RER = f(REM, GS, TOT, OPN, AID, WIR)
Mô hình đánh giá tác động đến tỷ giá hối đoái của các nước Mỹ Latin và vùng Caribbean, được nghiên cứu bởi Catalina Amuedo-Dorantes và Susan Pozo vào năm 2004, xem xét các yếu tố như kiều hối của công nhân (W), viện trợ nước ngoài (A), tăng trưởng công nghệ (αdiff), chi tiêu chính phủ (G), tỷ lệ trao đổi thương mại (TOT) và lãi suất thế giới (Rw) Mô hình này được biểu diễn dưới dạng q = f(W, A, αdiff, G, TOT, Rw).
Qua các nghiên cứu trên và tìm hiểu, nhóm đưa ra mô hình đánh giá tác động lên tỷ giá hối đoái như sau:
RER = f(REM, GS, TOT, AID, INF) Bảng 3.3: Các biến được lựa chọn Đại lượng Mô tả Đơn vị
RER Tỷ giá hối đoái thực tế VND/USD
REM Kiều hối về Việt Nam USD
GS Tỷ trọng chi tiêu chính phủ trong GDP %
TOT Tỷ lệ trao đổi thương mại Đơn vị
AID Viện trợ nước ngoài USD
INF Chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam %
Mô hình hồi quy có dạng: lnRER t = β 1 + β 2lnREM t + β 3GS t + β 4lnTOT t + β 5lnAID t + β 6INF t + u t
Do sự hạn chế về dữ liệu, nhóm sẽ tiến hành ước lượng tác động của các yếu tố trong giai đoạn 2000 – 2017 Thông tin chi tiết về nguồn số liệu được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 3.4: Mô tả dữ liệu Đại lượng
RER Tỷ giá hối đoái thực tế
Số liệu về tỷ giá hối đoái danh nghĩa bình quân VND/USD và chỉ số CPI của Việt Nam và Mỹ được thu thập từ Ngân hàng Thế giới thông qua chỉ số Phát triển Toàn cầu (World Development Indicators - WDI) tại trang web http://data.worldbank.org/ Đối với tỷ giá hối đoái danh nghĩa bình quân trong giai đoạn 2014 – 2017, dữ liệu được tính toán từ tỷ giá hối đoái danh nghĩa theo tháng từ trang https://vn.investing.com.
Dữ liệu của ngân hàng Thế giới (World Development Indicators (WDI)) theo đường dẫn http://data.worldbank.org/
GS Tỷ trọng chi tiêu chính phủ trong GDP
Dữ liệu của ngân hàng Thế giới (World Development Indicators (WDI)) theo đường dẫn http://data.worldbank.org/
TOT Tỷ lệ trao đổi thương mại
Dữ liệu của ngân hàng Thế giới (World Development Indicators (WDI)) theo đường dẫn http://data.worldbank.org/
AID Viện trợ nước ngoài
Dữ liệu viện trợ nước ngoài bao gồm hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và hỗ trợ chính thức (OA), được thu thập từ Ngân hàng Thế giới Các chỉ số phát triển này có thể được tìm thấy tại trang web http://data.worldbank.org/.
INF Chênh lệch lạm phát giữa
The inflation rates of the United States and Vietnam are sourced from the World Bank's World Development Indicators (WDI), accessible at http://data.worldbank.org/.
Tỷ giá hối đoái thực tế được tính theo công thức:
Trong đó NER t là tỷ giá hối đoái tại thời điểm t, CPIt US là chỉ số giá tiêu dùng của
Mỹ tại thời điểm t, CPI t VN là chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tại thời điểm t.
Tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái thực phụ thuộc vào cách sử dụng tiền của người nhận Roberts (2006) chỉ ra rằng một phần lớn kiều hối được dùng cho tiêu dùng, trong khi một tỷ lệ nhỏ hơn được dành cho đầu tư.
Tỷ giá hối đoái thực biến động như thế nào phụ thuộc vào loại hàng hóa được tiêu thụ.
Khi hầu hết các sản phẩm trong nước được tiêu thụ, cầu về nội tệ tăng lên, dẫn đến việc đường cầu dịch chuyển sang phải và giá nội tệ tăng, làm tăng tỷ giá hối đoái thực của nội tệ so với USD Tuy nhiên, trong trường hợp phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, tác động này sẽ ngược lại, tức là sẽ làm giảm tỷ giá hối đoái thực.
Chỉ số trao đổi thương mại (Terms of Trade) đánh giá mối quan hệ giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu của một quốc gia Khi tốc độ tăng giá xuất khẩu cao hơn giá nhập khẩu, tỷ lệ trao đổi thương mại được cải thiện, cho thấy nhu cầu hàng xuất khẩu đang gia tăng, dẫn đến cung ngoại tệ tăng và tỷ giá hối đoái giảm Ngược lại, nếu giá xuất khẩu tăng chậm hơn giá nhập khẩu, giá trị đồng ngoại tệ sẽ tăng so với các đối tác thương mại.
Chi tiêu chính phủ (G) có ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, và tác động này phụ thuộc vào cấu trúc chi tiêu của các ngành.
Ta có công thức PPP ở dạng tuyệt đối:
E là tỷ giá hối đoái của một đơn vị ngoại tệ so với nhiều đơn vị nội tệ, trong khi P * T đại diện cho chỉ số giá của nhóm hàng hóa có khả năng tham gia thương mại quốc tế (ITG) tại nước ngoài.
Kết quả nghiên cứu
Nhóm tác giả đã tiến hành thống kê mô tả dữ liệu và xác định các đặc điểm cơ bản của các biến, bao gồm giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất và lớn nhất.
Bảng 3.6: Thống kê mô tả
Trung bình Độ lệch chuẩn
Giá trị nhỏ nhất lnRER 18 10.6568 3.171767 9.676138 23.34654 lnREM 18 22.37531 0.8448196 20.81858 23.40184
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tính toán bằng phần mềm Stata 3.2.2 Kết quả hồi quy
Kết quả hồi quy mô hình được trình bày trong bảng:
Bảng 3.7: Kết quả hồi quy
Biến Hệ số hồi quy p-value Khoảng tin cậy ở mức ý nghĩa 5% lnREM -3.611232 0.000 [-5.227199; -1.995266]
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tính toán bằng phần mềm Stata
Kết quả hồi quy cho thấy giá trị R² đạt 0.9628, cho thấy mô hình có khả năng giải thích 96,28% sự biến động của tỷ giá hối đoái tại Việt Nam Điều này có nghĩa là chỉ có 3,72% sự thay đổi còn lại được giải thích bởi các yếu tố khác ngoài mô hình.
Với mức ý nghĩa 5%, các biến số tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP, chênh lệch lạm phát và logarit viện trợ quốc tế đều có p-value lớn hơn 0.05, cho thấy rằng các biến này không có ý nghĩa trong mô hình.
Theo kết quả hồi quy, kiều hối có hệ số âm -3.611232 với p-value là 0.000, cho thấy có ý nghĩa thống kê ở mức 5% Điều này chỉ ra rằng kiều hối là một yếu tố giải thích quan trọng cho tỷ giá hối đoái của Việt Nam Cụ thể, khi các yếu tố khác không thay đổi, việc tăng 1% nguồn kiều hối sẽ dẫn đến việc giảm tỷ giá hối đoái 3.611232%.
Logarit của chỉ số trao đổi thương mại có hệ số dương là 31.31353 với giá trị p-value 0.000, cho thấy có ý nghĩa thống kê ở mức 5% Điều này có nghĩa là khi các yếu tố khác không thay đổi, một sự gia tăng 1% trong chỉ số trao đổi thương mại sẽ dẫn đến việc tỷ giá hối đoái VND/USD tăng 31.31353% Tuy nhiên, dấu của hệ số hồi quy lại trái với kỳ vọng trước đó.