Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách tiền tệ (CSTT) thu hút sự quan tâm lớn từ các học giả toàn cầu, với nhiều nghiên cứu tập trung vào việc lựa chọn mục tiêu điều hành nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng can thiệp của Ngân hàng Trung ương (NHTW) trong nền kinh tế tài chính Theo lý thuyết, NHTW có thể lựa chọn mục tiêu điều hành CSTT dựa trên sự phát triển của thị trường tiền tệ và điều kiện kinh tế của từng quốc gia, bao gồm khối lượng (tín dụng, lượng cung tiền) hoặc giá cả (lãi suất, tỷ giá), và sử dụng các công cụ CSTT để đạt được các mục tiêu này.
Trong những thập kỷ trước, các chính sách kiểm soát tiền tệ đã góp phần kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải, nhưng khi thị trường phát triển, mối liên hệ giữa chỉ tiêu tiền tệ và lạm phát trở nên kém hiệu quả Do đó, các ngân hàng trung ương tại các nước phát triển và đang phát triển đã chuyển sang điều hành theo mục tiêu giá cả, sử dụng lãi suất để duy trì lạm phát thấp và ổn định tăng trưởng kinh tế Các nước như Úc, Canada, và Thụy Điển đã áp dụng khung khổ LPMT, sử dụng lãi suất như công cụ chính Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước vẫn chủ yếu theo đuổi mục tiêu khối lượng tiền tệ, đặc biệt trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO, với ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế mà thiếu sự kiên trì trong kiểm soát lạm phát.
Năm 2011, chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn tập trung vào mục tiêu khối lượng, ưu tiên hỗ trợ tăng trưởng kinh tế mà chưa có định hướng dài hạn để kiểm soát lạm phát Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, nền kinh tế trong nước thường bị ảnh hưởng bởi biến động của dòng vốn và giá cả trên thị trường quốc tế, điều này đã hạn chế khả năng kiểm soát các chỉ tiêu tiền tệ của NHNN Mặc dù vậy, việc điều hành CSTT trong giai đoạn này đã đạt được một số kết quả nhất định.
Trong thập kỷ 70, các nước công nghiệp lớn như Mỹ, Anh và Đức đã chọn mục tiêu khối lượng tiền tệ (M1, M2 hoặc tăng trưởng tín dụng) để đối phó với tình trạng lạm phát cao nhất sau chiến tranh thế giới II Thời kỳ này cũng chứng kiến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods do nhu cầu vay mượn tăng cao và thâm hụt tài khoản vãng lai ở Mỹ.
Mặc dù đã đạt được thành công trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng tình hình không ổn định qua các năm với lạm phát gia tăng và lãi suất cao đã gây bất ổn cho thị trường tiền tệ, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 Từ cuối năm 2011, theo Nghị quyết số 11/NQ-CP, NHNN đã triển khai các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, bao gồm việc điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt thông qua chỉ thị về tăng trưởng M2 và điều chỉnh lãi suất Kết quả cho thấy lạm phát giảm mạnh từ 8,13% vào cuối năm 2011 xuống 2,66% vào năm 2016, đánh dấu thời kỳ ổn định lạm phát dài nhất trong một thập kỷ, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế từ 5,25% năm 2012 lên 6,21% năm 2016.
Từ năm 2017, mặc dù kinh tế thế giới và trong nước phục hồi với lạm phát thấp và cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) vẫn gặp khó khăn trong việc ổn định tỷ giá khi các đồng tiền tham chiếu biến động mạnh, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh Để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính trong bối cảnh dễ bị tổn thương cao, CSTT cần phối hợp linh hoạt các công cụ để kiểm soát M2 và tín dụng, đồng thời giữ lạm phát cơ bản ổn định Tuy nhiên, thực tế cho thấy điều hành CSTT của Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa rõ ràng và nhất quán theo mục tiêu lãi suất, dẫn đến sự biến động của lãi suất ngắn hạn trên thị trường.
Dựa trên những thành công trong giai đoạn 2011-2016 và bối cảnh kinh tế hội nhập sâu với toàn cầu, nhiều tổ chức quốc tế và chuyên gia đã khuyến nghị Việt Nam chuyển sang điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo lãi suất thay vì theo khối lượng Điều này nhằm kiểm soát và duy trì ổn định lạm phát ở mức thấp trong dài hạn Hơn nữa, sự phát triển và biến động khó lường của thị trường tài chính, tiền tệ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước cần điều hành CSTT một cách linh hoạt hơn, giảm thiểu can thiệp hành chính để tạo điều kiện cho thị trường phát triển theo quy luật tự nhiên.
IMF (2014) khuyến nghị rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần tiếp tục cải tiến phương thức điều hành chính sách tiền tệ, tập trung vào việc tăng cường vai trò của tín hiệu giá cả trong nền kinh tế, đặc biệt là lãi suất.
Việc kiểm soát chỉ tiêu tiền cung ứng đã làm giảm tính chủ động của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc điều tiết thị trường, dẫn đến khả năng gây ra biến động lãi suất thị trường, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng (LNH).
Trong bối cảnh phát triển của thị trường tài chính và sự phản ứng nhanh nhạy của các tổ chức tín dụng trước biến động lãi suất, nền kinh tế đang cho thấy sự nhạy cảm cao hơn với những thay đổi này Đồng thời, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã thúc đẩy sự ra đời của các dịch vụ tài chính dựa trên công nghệ số (Fintech), làm thay đổi mối liên kết giữa các chỉ tiêu tiền tệ và tăng trưởng kinh tế, lạm phát Điều này khiến lãi suất trở thành yếu tố quan trọng giúp Ngân hàng Trung ương đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ.
Dựa trên các đánh giá và hai nhiệm vụ trọng tâm trong công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) theo Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, NHNN cần hoàn thiện khung khổ CSTT nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, và duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô Điều này sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và tăng tính độc lập của NHNN trong việc điều hành CSTT.
Điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) đang chuyển từ phương thức quản lý khối lượng tiền sang tập trung vào điều hành theo giá, với việc sử dụng công cụ gián tiếp và dần dỡ bỏ các biện pháp hành chính về lãi suất khi điều kiện cho phép Đồng thời, việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở sẽ trở thành công cụ chủ yếu để điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD), nhằm đạt được các mục tiêu CSTT trong từng giai đoạn Do đó, cần tiến hành một nghiên cứu cụ thể về quá trình chuyển đổi này.
CSTT theo mục tiêu lãi suất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực thực thi CSTT
Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lãi suất tại Việt Nam” cho luận án tiến sĩ của mình Luận án sẽ phân tích và đánh giá số liệu, kiểm nghiệm mô hình truyền dẫn theo mục tiêu lãi suất, nhằm đánh giá khả năng lựa chọn mục tiêu lãi suất trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng sẽ so sánh các kết quả nghiên cứu thực chứng tại Việt Nam với các bằng chứng quốc tế để đề xuất các giải pháp phù hợp.
Tổng quan nghiên cứu
Tổng quan nghiên cứu nước ngoài
Nhiều nghiên cứu nước ngoài đã chỉ ra những hạn chế trong việc điều hành CSTT theo mục tiêu khối lượng
Các nhà nghiên cứu như Frederic S Mishkin, Enzo Croce, Mohsin S Khan và Don Nakornthab đã chỉ ra rằng khi thị trường tài chính phát triển, mối liên hệ giữa các mục tiêu tiền tệ như tăng trưởng M2 và tín dụng với các mục tiêu cuối cùng như lạm phát và tăng trưởng kinh tế trở nên kém bền vững Do đó, cần thiết phải xem xét lại việc sử dụng các chỉ tiêu tiền tệ làm mục tiêu cho việc điều hành chính sách tiền tệ.
Mối quan hệ giữa mục tiêu khối lượng và các mục tiêu cuối cùng như lạm phát, tăng trưởng kinh tế và lãi suất ngày càng trở nên lỏng lẻo và không ổn định.
(Goldfeld và Sichel, 1990; Benati và Goodhart, 2010; Lucas Jr và Nicolini, 2015)
Hagen và Hofmann (2009) chỉ ra rằng mối liên kết giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đã trở nên yếu kém, dẫn đến việc các chỉ số nhận biết áp lực lạm phát từ tốc độ tăng trưởng cung tiền hay tăng trưởng kinh tế không còn hiệu quả Do đó, các ngân hàng trung ương cần tập trung chủ yếu vào việc duy trì ổn định giá cả trong trung và dài hạn, theo Frederic S Mishkin.
(2000) khi phân tích CSTT theo mục tiêu kiểm soát khối lượng của 5 nước Mỹ, Anh,
Trong giai đoạn 1970-1980, Canada, Đức và Thụy Sỹ cho thấy rằng chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm kiểm soát khối lượng không thực sự hiệu quả do mối quan hệ lỏng lẻo giữa các chỉ tiêu tiền tệ với lạm phát và tăng trưởng Mặc dù CSTT đã đạt được mục tiêu kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán, nhưng lại không thành công trong việc kiềm chế lạm phát Hơn nữa, việc đặt mục tiêu kiểm soát khối lượng gặp khó khăn trong việc truyền tải tín hiệu chính xác về quan điểm kinh tế.
CSTT nhằm tăng sự minh bạch CSTT, lòng tin của công chúng đối với NHTW, dẫn tới không neo đƣợc kỳ vọng lạm phát
Mishkin và Savastano (2000) đã chỉ ra rằng khi phân tích chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm kiểm soát khối lượng tiền tệ ở các nước Mỹ Latinh, điểm yếu lớn nhất của phương pháp này là sự thiếu chặt chẽ trong mối quan hệ giữa chỉ tiêu tiền tệ và mục tiêu cuối cùng.
CSTT không đạt được mục tiêu khối lượng trong bối cảnh lạm phát thấp và sự gia tăng hội nhập tài chính, dẫn đến một mối quan hệ không ổn định.
Wasanthi Thenuwara và Bryan Morgan (2015) đã phân tích chính sách tiền tệ (CSTT) của Sri Lanka bằng cách sử dụng dữ liệu từ năm 1990 đến 2011 Kết quả cho thấy Ngân hàng Trung ương Sri Lanka không đạt được mục tiêu kiểm soát giá cả, chủ yếu do sự không ổn định và khó dự đoán của số nhân tiền tệ, cùng với việc thiếu mối liên kết dài hạn giữa các yếu tố kinh tế.
MB và M2 là hai chỉ số quan trọng trong chính sách tiền tệ, nhưng NHTW gặp khó khăn trong việc kiểm soát chúng Nghiên cứu của Rahul Anand (2011) sử dụng mô hình DSGE để phân tích chính sách tiền tệ của Sri Lanka, cho thấy rằng việc áp dụng quy tắc Taylor sẽ phù hợp hơn, giúp hạn chế biến động kinh tế vĩ mô tối đa cho đất nước này.
Thứ hai, hàm cầu tiền ngày càng trở nên thiếu ổn định mặc dù các nhà điều hành
CSTT đã mở rộng khối tiền (M3, M4) nhƣng cấu phần của khối tiền thiếu tính đồng nhất
Khi nghiên cứu hàm cầu tiền của 7 quốc gia mới nổi ở châu Á (Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Pakistan, Philippines, Singapore và Thái Lan) dựa trên các kiểm định phần dƣ
CUSUM và CUSUMSQ hiệu chỉnh, Bahmani - Oskooee và Rehman (2005) cho thấy nhiều nước có hàm cầu tiền không ổn định như Malaysia, Pakistan, Philippines và Thái
Lan Hassan, Ali và Dawood (2016) nghiên cứu hàm cầu tiền ở Pakistan giai đoạn
1972-2013 đã kết luận hàm cầu tiền trở nên thiếu ổn định và bị ảnh hưởng bởi các yếu
Nghiên cứu của Jiranyakul và Opiela (2014) phân tích tính ổn định của hàm cầu tiền tại Thái Lan trong ngắn hạn và dài hạn, sử dụng các biến số M1, M2 và M3 từ năm 1993 đến 2012 cùng với phương pháp ước lượng OLS và kiểm định Johansen Kết quả cho thấy, cầu tiền M1 thiếu ổn định trong ngắn hạn, điều này gây khó khăn cho Ngân hàng Trung ương trong việc sử dụng M1 như một mục tiêu trung gian để kiểm soát lạm phát trong trung và dài hạn.
Nghiên cứu của Avouyi-Dovi, Drumetz và Sahuc (2012) cho thấy hàm cầu tiền trong khu vực đồng Euro không ổn định qua mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) Dobnik (2013) xác định rằng trong dài hạn, thu nhập tác động cùng chiều đến cầu tiền, trong khi lãi suất, tỷ giá và giá cổ phiếu lại có tác động ngược chiều Dogru và Recepoglu (2013) phát hiện cầu tiền thực ở Thổ Nhĩ Kỳ tỷ lệ thuận với thu nhập nhưng không liên quan đến lãi suất danh nghĩa Khan và Hye (2013) chứng minh rằng GDP và lãi suất huy động thực có ảnh hưởng tích cực đến cầu tiền cả trong ngắn hạn và dài hạn Kumar, Chowdhury và Rao (2013) chỉ ra rằng độ co giãn của cầu tiền tăng lên khi thu nhập gia tăng và phản ứng với lãi suất tăng Paudel và Perera (2013) cho rằng tự do hóa không có mối quan hệ tích cực với cầu tiền Cuối cùng, Wei Liao và Sampawende J.-A Tapsoba (IMF, 2014) nhấn mạnh rằng sự phát triển nhanh chóng của hệ thống tài chính thị trường ở Trung Quốc đã dẫn đến bất ổn trong hàm cầu tiền và tiến trình tự do hóa lãi suất diễn ra nhanh chóng hơn.
Wei Liao và Sampawende J.-A.Tapsoba (IMF, 2014) đã nghiên cứu chính sách tiền tệ (CSTT) của Trung Quốc và quá trình tự do hóa lãi suất, kết hợp với phân tích kinh nghiệm quốc tế từ 08 quốc gia (Đan Mạch, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Na Uy, Thụy Điển và Hoa Kỳ) trong giai đoạn từ Q1 năm 1970 đến Q4 năm 2005 Nghiên cứu cho thấy sự phát triển nhanh chóng của hệ thống tài chính theo định hướng thị trường đã dẫn đến bất ổn định trong cầu tiền và quá trình tự do hóa lãi suất diễn ra nhanh hơn Đồng thời, việc sử dụng tổng cung tiền (M2) làm mục tiêu trung gian đã trở nên không còn phù hợp trong bối cảnh đổi mới và cải cách hệ thống tài chính, nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng cao của việc chuyển sang các mục tiêu về giá như lãi suất trong thực thi CSTT.
Nghiên cứu cho thấy, khi lạm phát được kiểm soát, thị trường tài chính và tiền tệ sẽ phát triển mạnh mẽ hơn và hội nhập quốc tế sâu sắc hơn Do đó, Ngân hàng Trung ương cần xem xét việc chuyển sang điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu giá, cụ thể là lãi suất.
William Poole (1994) đã chỉ ra rằng để kiểm soát lạm phát cao, từ 20% đến 200%, việc duy trì cung ứng tiền ở mức thấp là rất quan trọng Đối với các quốc gia có tỷ lệ lạm phát thấp, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và lạm phát cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo ổn định kinh tế.
Mối quan hệ giữa tiền cung ứng và lạm phát trở nên thiếu tin cậy do hành vi của khu vực tư nhân Khi chính sách tiền tệ mở rộng và lãi suất danh nghĩa giảm, chi phí cơ hội nắm giữ tiền thấp, dẫn đến việc công chúng giữ nhiều tiền hơn Do đó, biến động của tiền cung ứng bị ảnh hưởng bởi hành vi nắm giữ tiền của công chúng thay vì tỷ lệ lạm phát Trong giai đoạn lạm phát cao, tác động của tiền cung ứng đến lạm phát diễn ra nhanh chóng, trong khi khi lạm phát thấp, tác động này diễn ra chậm hơn Nghiên cứu của Cagan (1956) cho thấy trong giai đoạn lạm phát phi mã, độ trễ của tiền cung ứng đến lạm phát có thể được đo bằng tuần.
Kerstin Mitlid và Magnus Vesterlund (2001) đã thực hiện một nghiên cứu so sánh giữa việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trong mô hình kinh tế giản đơn và mô hình hiện đại Họ kết luận rằng khi thị trường tài chính phát triển, cùng với sự tiến bộ của công nghệ và hệ thống thanh toán, việc điều hành CSTT cũng phải được điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi này.
Tổng quan nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu trong nước cho thấy mối quan hệ giữa mục tiêu khối lượng và lạm phát không chặt chẽ, chủ yếu do sự bất ổn định của hàm cầu tiền Do đó, khuyến nghị nên xem xét lựa chọn mục tiêu lãi suất để quản lý lạm phát hiệu quả hơn.
Hung và Pfau (2008) chỉ ra rằng M2 có tác động nhân quả đến sản lượng nhưng không ảnh hưởng đến lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn 1996-2005 Theo IMF (2003, 2006), vai trò của M2 đối với lạm phát được coi là không bền vững với độ trễ khoảng 12 tháng Minh (2009) và Nguyen & Nguyen (2010) đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy tăng trưởng M2 chỉ có tác động không đáng kể đến CPI, với độ trễ khoảng 5 tháng hoặc lâu hơn.
Nghiên cứu năm 2006 cho thấy rằng tăng trưởng M2 chỉ giải thích dưới 5% biến động của lạm phát dự báo, trong khi tăng trưởng tổng tín dụng lại đóng góp khoảng 25% vào biến động này sau 24 tháng, dựa trên dữ liệu từ giai đoạn 1996-2005.
Nguyên nhân chính hạn chế việc sử dụng mục tiêu khối lượng là sự bất ổn định của hàm cầu tiền Christopher Adam, Michael Goujon và Sylviane Guillaumont Jeanneney (2003) đã nghiên cứu "Sự thay thế tiền tệ và nhu cầu giao dịch tiền" tại Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ thập niên 1990 với khối lượng tiền hẹp M1, CPI và sản lượng công nghiệp theo tháng Kết quả cho thấy, do đặc điểm nền kinh tế Việt Nam có tình trạng đô la hóa, tác động thay thế tiền tệ đã ảnh hưởng đến sự thay đổi công nghệ giao dịch, từ đó làm tăng độ co giãn của thu nhập với cầu tiền.
Trong dài hạn, các nước phát triển thường từ bỏ mục tiêu khối lượng để tập trung vào lãi suất, trong khi các nước kém phát triển vẫn chưa thể áp dụng mục tiêu lãi suất do thị trường tài chính còn non trẻ Điều này cho thấy sự khác biệt trong chiến lược đầu tư và quản lý rủi ro giữa các quốc gia.
Một số nghiên cứu gần đây đã phân tích mối quan hệ giữa lãi suất và cầu tiền, cùng với sản lượng, như nghiên cứu của Hà Huỳnh Hoa (2010) sử dụng dữ liệu từ năm 1995 đến 2007 và nghiên cứu của Lê Thanh Tùng.
Nghiên cứu năm 2015 về cầu tiền và cấu trúc hàm cầu tiền của Việt Nam trong giai đoạn 1995-2013 đã sử dụng mô hình ARDL (độ trễ phân phối tự hồi quy) và tiến hành kiểm định nhân quả Kết quả cho thấy mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế và cầu tiền, cung cấp cái nhìn sâu sắc về biến động kinh tế trong thời kỳ này.
Nghiên cứu của Granger chỉ ra rằng có mối quan hệ nhân quả một chiều từ lãi suất và tỷ giá đến cầu tiền, cho thấy việc giảm lãi suất có thể kích thích tổng cầu thông qua tiêu dùng hộ gia đình và đầu tư, hiệu quả cả trong ngắn hạn và dài hạn Tuy nhiên, chỉ có tác động từ cầu tiền đến tăng trưởng, và việc kích thích tăng trưởng kinh tế có thể tiềm ẩn rủi ro lạm phát Bùi Văn Hải và Trần Thị Minh Trang (2015) đã sử dụng mô hình để phân tích vấn đề này.
VAR đã ghi nhận lãi suất và cầu tiền là hai tác nhân quan trọng tác động đến sản lƣợng
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa chính sách tiền tệ (CSTT) và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đồng thời rút ra bài học từ các khủng hoảng trước đó để đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện CSTT.
Nguyễn Thị Kim Thanh (2004) và Dương Thu Hương (2005) đã tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa các tài khoản vĩ mô và việc xây dựng cũng như điều hành chính sách tiền tệ Nghiên cứu này của Nguyễn Ngọc Bảo đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về tác động của các yếu tố vĩ mô đối với chính sách tiền tệ.
Nghiên cứu về điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trong bối cảnh tự do hóa giao dịch vốn đã được thực hiện từ năm 2008 Bên cạnh đó, nhiều công trình khác cũng đã tập trung vào việc sử dụng và hoàn thiện các công cụ CSTT, cơ chế truyền tải tác động của CSTT đến cung tiền, cũng như mối liên hệ giữa cán cân thanh toán và điều hành cung tiền tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN) (Nguyễn Thị Kim Thanh 2005; Trần Thị Lộc 2002; Nguyễn Đồng Tiến 2001) Tô Ánh Dương (2014) đã chỉ ra những hạn chế trong việc điều hành CSTT trước năm 2014.
Từ năm 2011, mối quan hệ giữa M2 và lạm phát ở Việt Nam trở nên không rõ ràng, bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu chỉ định của Chính phủ Sau năm 2011, lãi suất và tỷ giá được chú trọng hơn như là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước đã kết hợp điều hành khối lượng tiền và giá cả, tuy nhiên, do độ mở của nền kinh tế lớn, việc kiểm soát M2 trở nên khó khăn Nghiên cứu cũng đã đề xuất điều hành chính sách tiền tệ dựa trên lãi suất, nhưng chưa thực hiện phân tích và đánh giá sâu sắc.
Hà Thị Sáu (2016) đã nghiên cứu kênh chấp nhận rủi ro của các tổ chức tín dụng (TCTD) để giải thích tác động của chính sách tiền tệ (CSTT) đến các mục tiêu kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu Nghiên cứu này phân tích sự tồn tại của kênh chấp nhận rủi ro tại Mỹ và Canada trong giai đoạn lãi suất thấp, từ đó rút ra bài học cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về nhận thức và tác động của kênh này trong cơ chế truyền tải CSTT Đồng thời, Chu Khánh Lân (2017) đã tìm hiểu về CSTT phi truyền thống mà một số ngân hàng trung ương của các nước phát triển áp dụng trong bối cảnh lãi suất mục tiêu.
(LSMT) tiệm cận mức 0% và NHTW không thể giảm lãi suất hơn nữa để kích thích
Khi tổng cầu đạt mức 11, các biện pháp nới lỏng tiền tệ không còn hiệu quả và lạm phát không tái tăng, buộc Ngân hàng Trung ương phải áp dụng các biện pháp chính sách tiền tệ phi truyền thống.
Các nghiên cứu gần đây thường hướng tới áp dụng khung khổ điều hành CSTT lạm phát mục tiêu, hoàn toàn khác với hướng nghiên cứu của luận án
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tầm quan trọng của việc điều hành chính sách LPMT tại Việt Nam, trong đó Trần Thị Lộc và Nguyễn Văn Hà (2007) phân tích các điều kiện cần thiết để áp dụng cơ chế này Các nghiên cứu của Nguyễn Hữu Nghĩa (2005) và Đỗ Thị Đức Minh (2006) cũng đã cung cấp cái nhìn tổng quan về khung khổ chính sách LPMT, đồng thời phân tích các yếu tố quan trọng để triển khai hiệu quả cơ chế này tại Việt Nam Tô Ánh Dương và cộng sự cũng đóng góp vào việc nghiên cứu các điều kiện áp dụng chính sách LPMT.
Hạn chế và khoảng trống nghiên cứu
Các nghiên cứu về điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo mục tiêu lãi suất đã được thực hiện rộng rãi trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, lĩnh vực này vẫn còn hạn chế Thứ nhất, nhiều nghiên cứu chỉ tập trung vào lãi suất như một công cụ CSTT mà chưa xem xét lãi suất như một mục tiêu điều hành, từ đó chưa đưa ra được những khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu lực thực thi CSTT Thứ hai, mặc dù đã chỉ ra những hạn chế trong điều hành CSTT theo mục tiêu khối lượng, nhưng chưa có phân tích sâu sắc để ủng hộ việc chuyển đổi sang điều hành theo mục tiêu lãi suất Cuối cùng, phần lớn các nghiên cứu chỉ đánh giá hiệu lực các kênh truyền dẫn CSTT mà chưa thiết lập một cơ chế điều hành lãi suất rõ ràng tại Việt Nam.
Nghiên cứu cần tập trung vào cơ chế truyền dẫn của lãi suất và tác động của lãi suất trong chính sách tiền tệ (CSTT), đặc biệt sau khủng hoảng toàn cầu 2008 Cần phân tích kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học cho Việt Nam, nhằm xác định các điều kiện cần thiết để chuyển đổi từ việc điều hành CSTT theo mục tiêu khối lượng sang lãi suất Việc lựa chọn lãi suất chính sách (LSCS) và thiết lập mô hình hành lang lãi suất cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để đạt được tối đa mục tiêu của CSTT.
Câu hỏi nghiên cứu
Luận án này nhằm bổ sung vào những khoảng trống trong nghiên cứu tại Việt Nam, tập trung vào ba câu hỏi nghiên cứu chính để phát triển nội dung còn bỏ ngỏ trong lĩnh vực này.
Một là: Điều hành CSTT theo mục tiêu giá cả (lãi suất) tại các quốc gia trên thế giới hiện nay nhƣ thế nào
Hai là: Khả năng áp dụng điều hành CSTT theo mục tiêu giá cả (lãi suất) tại Việt
Nam và cách thức, lộ trình chuyển đổi
Ba là: Các giải pháp cần thiết để áp dụng thành công điều hành CSTT theo mục tiêu lãi suất nhằm nâng cao hiệu lực CSTT tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án nghiên cứu điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) thông qua mục tiêu hoạt động và lãi suất trung gian, tập trung vào cơ chế truyền dẫn lãi suất và tác động của các công cụ CSTT để đạt được mục tiêu cuối cùng Để thực hiện nghiên cứu này, luận án sẽ áp dụng một số phương pháp khoa học nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Phương pháp truyền thống trong nghiên cứu điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) bao gồm việc sử dụng thống kê mô tả, tổng hợp và so sánh để tóm tắt hệ thống các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm Bên cạnh đó, phương pháp phân tích định tính dựa trên số liệu tài chính- tiền tệ được áp dụng, kết hợp với các bảng biểu, sơ đồ, đồ thị nhằm tăng cường tính trực quan và thuyết phục của nội dung nghiên cứu.
Phương pháp hiện đại trong đánh giá tác động truyền dẫn của các công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) được thực hiện thông qua mô hình kinh tế lượng Mục tiêu là xác định ảnh hưởng đến các chỉ tiêu hoạt động và mục tiêu trung gian, nhằm đạt được các biến số kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính - ngân hàng trong nước.
Đóng góp mới của luận án
Luận án đã hệ thống hóa và bổ sung cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ (CSTT), tập trung vào điều hành CSTT theo mục tiêu lãi suất Nội dung bao gồm cách thiết lập và xác định mức lãi suất mục tiêu, xây dựng hàng lang lãi suất, và lý luận về quá trình chuyển đổi từ phương thức điều hành theo mục tiêu khối lượng sang lãi suất Luận án phân biệt và làm rõ các khái niệm liên quan, chỉ ra nguyên nhân, cơ sở lựa chọn, điều kiện và nguyên tắc áp dụng trong quá trình chuyển đổi Đây là nghiên cứu đầu tiên hệ thống hóa lý luận về nội dung này, điều mà các nghiên cứu trước chưa thực hiện.
Dựa trên nền tảng lý thuyết và kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển và đang phát triển có điều kiện tương đồng với Việt Nam, bài viết sẽ tiến hành đánh giá thực trạng để rút ra những bài học quý giá cho sự phát triển.
16 trạng điều hành CSTT của Việt Nam, luận án đã thiết lập khung điều hành CSTT theo mục tiêu lãi suất áp dụng tại Việt Nam
Dựa trên dữ liệu từ giai đoạn 2007-2017, luận án đã thực hiện phân tích và đánh giá khả năng áp dụng điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lãi suất tại Việt Nam Nghiên cứu tập trung vào hai nội dung chính, trong đó có cơ chế liên thông lãi suất tại Việt Nam.
Cơ chế truyền dẫn của lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế cuối cùng Bài viết sẽ phân tích các khía cạnh chính của cơ chế điều hành lãi suất tại Việt Nam, đồng thời nêu ra những hạn chế và yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của cơ chế này.
Luận án đề xuất Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo mục tiêu khối lượng sang mục tiêu giá cả (lãi suất) thông qua việc thiết lập cơ chế điều hành theo mục tiêu lãi suất Điều này bao gồm việc lựa chọn lãi suất mục tiêu, xây dựng hành lang lãi suất trần-sàn và các loại lãi suất điều hành khác Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các giải pháp như: (i) Xây dựng khung khổ CSTT linh hoạt; (ii) Đổi mới hệ thống mục tiêu CSTT.
Để nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ, cần tăng cường tính độc lập cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và cải thiện chất lượng thống kê, phân tích cũng như dự báo Bên cạnh đó, các giải pháp bổ trợ khác cũng cần được triển khai để hỗ trợ cho quá trình này.
Nghiên cứu này nhằm làm rõ lý do tại sao Việt Nam cần chuyển sang điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lãi suất, đồng thời đề xuất các phương pháp để thực hiện quá trình chuyển đổi thành công Kết quả nghiên cứu cũng có thể được sử dụng làm tài liệu hỗ trợ cho việc xây dựng và triển khai cơ chế này tại Việt Nam.
Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận án đƣợc kết cấu thành 4 chương như sau:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THEO MỤC TIÊU LÃI SUẤT
Nội dung cơ bản về chính sách tiền tệ
1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
Theo Ngân hàng Trung ương các nước, chính sách tiền tệ (CSTT) là hành động của NHTW nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô như ổn định giá cả, toàn dụng nhân công và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đến nay, quan niệm về chính sách tiền tệ (CSTT) chủ yếu được tiếp cận từ hai hướng: hiệu lực tác động và mục tiêu cuối cùng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) định nghĩa CSTT là các hoạt động của ngân hàng trung ương nhằm ảnh hưởng đến sự sẵn có và giá của tiền tệ, tín dụng để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô Tương tự, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cũng xem CSTT là các quyết định nhằm tác động đến chi phí và sự sẵn có của tiền trong nền kinh tế Ở khu vực đồng EURO, quyết định quan trọng nhất của ECB liên quan đến lãi suất chính sách, bao gồm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay thanh khoản và lãi suất tiền gửi.
Cách tiếp cận thứ hai trong chính sách tiền tệ (CSTT) tập trung vào mục tiêu cuối cùng là ổn định giá cả, như được quy định bởi Ngân hàng Trung ương Anh (BOE), với mục tiêu ngăn chặn lạm phát và duy trì giá trị đồng tiền Sự bất ổn về lạm phát có thể gây tổn thất cho nền kinh tế, trong khi giá cả ổn định giúp doanh nghiệp và cá nhân đưa ra quyết định chính xác hơn về tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng Điều này không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế lâu dài mà còn bền vững Tương tự, Ngân hàng Trung ương Canada (BOC) đặt mục tiêu giữ lạm phát ổn định và ở mức thấp nhằm nâng cao tiêu chuẩn sống cho người dân, với tỷ lệ lạm phát được duy trì trong biên độ 1%-3% từ năm 1995.
Tại Việt Nam, Chính sách tiền tệ quốc gia được định nghĩa theo Khoản 1 Điều 3 của Luật NHNN số 46 năm 2010, cụ thể là các quyết định về tiền tệ ở cấp quốc gia do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.
Quyết định về mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền thông qua chỉ tiêu lạm phát là rất quan trọng Đồng thời, việc lựa chọn các công cụ và biện pháp phù hợp để thực hiện mục tiêu này cũng đóng vai trò then chốt trong quản lý kinh tế.
Sơ đồ 1.1: Mô tả quy trình điều hành chính sách tiền tệ CSTT là
Nguồn: Central banking & Monetary Policy, An Introduction 1 st Edition 2013– Prof Dr AP Faure
Chính sách tiền tệ là quy trình mà Ngân hàng Trung ương hoặc cơ quan quản lý tiền tệ của quốc gia thực hiện các biện pháp và sử dụng công cụ để kiểm soát lượng tiền cung ứng, sự sẵn có của tiền tệ và lãi suất Mục tiêu của chính sách này là kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô Quy trình này được thực hiện thông qua cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ, sẽ được đề cập chi tiết trong các phần sau.
1.1.2 Hệ thống mục tiêu chính sách tiền tệ Để xây dựng, vận hành đƣợc khung khổ CSTT phù hợp với điều kiện cụ thể của một quốc gia điều kiện tiên quyết là phải xác định đƣợc hệ thống mục tiêu CSTT phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và hệ thống tài chính Về nguyên tắc, NHTW sử dụng các công cụ CSTT tác động vào các biến số của mục tiêu hoạt động và quan sát thay đổi các biến số của mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng, sau đó có thể điều chỉnh mục tiêu hoạt động cho phù hợp, cụ thể sơ đồ hoạt động nhƣ sau:
Các quyết định nhằm đạt đƣợc các mục tiêu
Mục tiêu cuối cùng ƣu tiên
Mục tiêu cuối cùng khác
Khối lƣợng (tăng trưởng tín dụng/ tiền tệ; Giá cả (tỷ giá, lãi suất, giá tài sản…).
Lạm phát ổn định và thấp
Tăng trưởng kinh tế ở mức cao;
Tối đa hóa công ăn việc làm… Điều hành CSTT
Sơ đồ 1.2: Mô tả hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ ©©
1.1.2.1 Mục tiêu cuối cùng (goals)
CSTT là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô với mục tiêu chính là tăng trưởng kinh tế bền vững, kiểm soát lạm phát, giải quyết việc làm và ổn định thị trường Sau khủng hoảng toàn cầu 2008, việc ổn định hệ thống tài chính trở nên quan trọng hơn đối với các NHTW Mặc dù CSTT đóng vai trò quan trọng, nhưng để đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa CSTT và các chính sách khác như chính sách tài khoá, thương mại, thu nhập và đối ngoại.
Mục tiêu cuối cùng của ngân hàng trung ương (NHTW) thường được quy định trong luật pháp của nhiều quốc gia, phản ánh sự quan trọng của nó trong việc điều tiết kinh tế và tiền tệ Hiện nay, mục tiêu ổn định giá cả được coi là ưu tiên hàng đầu, như ở Châu Âu với Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) chỉ tập trung vào mục tiêu này, trong khi tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang (FED) còn chú trọng đến việc tạo ra việc làm Ở các quốc gia có nền kinh tế mở như Singapore và Hồng Kông, mục tiêu chính là ổn định tỷ giá Tại Việt Nam, theo Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, nhiệm vụ của NHTW không chỉ là ổn định giá trị đồng tiền mà còn đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, an toàn hệ thống thanh toán quốc gia và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa Do đó, bên cạnh việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định lạm phát, NHTW còn có nhiều nhiệm vụ quan trọng khác trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
TCV OMOs DTBB Lãi suất
Tỷ giá Giá các tài sản Tín dụng
Lãi suất thị trường Khối lƣợng tiền: M1, M2, tín dụng…
Lạm phát/ Ôn định giá cả, Tăng trưởng, Việc làm
1.1.2.2 Mục tiêu trung gian (intermediate targets)
Mục tiêu trung gian là các biến kinh tế mà Ngân hàng Trung ương có khả năng đo lường và kiểm soát một cách hợp lý và chính xác Những biến này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu hoạt động mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế.
CSTT đặt ra mục tiêu hoạt động, trong đó mục tiêu trung gian được kiểm soát và ảnh hưởng đáng kể Khi NHTW đạt được mục tiêu trung gian, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đạt được mục tiêu cuối cùng Dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia, IMF phân loại mục tiêu trung gian thành ba loại chính: mục tiêu tỷ giá hối đoái, tổng cung tiền, và lãi suất trung và dài hạn.
Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ là tổng cung tiền, thường được đo bằng các biến như M1, M2, M3 hoặc tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế Ngân hàng Trung ương thường áp dụng mục tiêu này trong bối cảnh thị trường tiền tệ chưa phát triển, kém hiệu quả và có mức độ cạnh tranh thấp giữa các ngân hàng, đặc biệt là trong giai đoạn lạm phát cao Để mục tiêu này đạt hiệu quả, cần có sự liên hệ chặt chẽ giữa hệ số tạo tiền và hàm cầu tiền, dựa trên lý thuyết về thuyết lượng cầu tài sản Sự thay đổi khối lượng tiền là yếu tố then chốt để tạo ra sự truyền dẫn tiền tệ trong cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ khi thị trường tiền tệ còn yếu kém.
Mục tiêu trung gian trong chính sách tiền tệ là tỷ giá hối đoái, thường được áp dụng trong nền kinh tế mở Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng Trung ương (NHTW) sẽ phải neo đồng tiền nội tệ vào một đồng tiền của quốc gia khác hoặc một rổ tiền tệ của một nhóm quốc gia, với các mức độ khác nhau như neo cứng hoặc thả nổi có kiểm soát Mục tiêu trung gian này đặc trưng cho cơ chế tỷ giá mục tiêu và liên quan chặt chẽ đến mục tiêu cuối cùng là ổn định tỷ giá Do đó, việc điều hành chính sách tiền tệ của quốc gia chọn tỷ giá làm mục tiêu sẽ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia hoặc nhóm quốc gia mà họ neo tỷ giá, đồng thời tỷ giá sẽ được công bố theo một rổ các đồng tiền hoặc neo vào một đồng tiền cụ thể.
Mục tiêu trung gian của ngân hàng trung ương (NHTW) là lãi suất thị trường, nhằm điều chỉnh lãi suất theo mức lãi suất mục tiêu (LSMT) Việc chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian giúp hạn chế ảnh hưởng của cầu tiền và cung tiền đến tổng cầu nền kinh tế Điều này có nghĩa là NHTW không thể đồng thời đặt tổng lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian, dẫn đến việc chấp nhận sự biến động của tổng lượng tiền cung ứng để duy trì lãi suất ở mức mục tiêu.
11 Các nước được chọn đưa vào rổ tiền tệ thường là các nước có quan hệ thương mại, đầu tư, vay nợ lớn nhất với nước chủ nhà
Mặc dù Ngân hàng Trung ương (NHTW) có khả năng ấn định lãi suất danh nghĩa qua việc xác định giá giao dịch chứng khoán trên thị trường mở, nhưng việc đo lường lãi suất thực gặp nhiều khó khăn do phụ thuộc vào lạm phát dự tính Do đó, lãi suất thị trường thường được lựa chọn làm mục tiêu trung gian, gắn liền với lãi suất ngắn hạn, giúp cải thiện khả năng kiểm soát lãi suất Việc này trở nên hiệu quả hơn khi nền kinh tế duy trì lạm phát thấp và ổn định, tăng trưởng cao, phát triển thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng có tính thanh khoản cao, và NHTW có uy tín với các thành viên thị trường.
1.1.2.3 Mục tiêu hoạt động (operating targets):
Cơ sở lý luận về điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lãi suất
1.2.1 Khái niệm lãi suất và điều hành CSTT theo mục tiêu lãi suất
1.2.1.1 Khái niệm lãi suất và nhân tố ảnh hưởng a Khái niệm lãi suất
Lãi suất là mức giá mà người vay phải trả cho việc sử dụng số tiền vay từ người cho vay hoặc tổ chức tài chính, được xem như khoản phí cho tài sản vay (Crowley, 2007) Đây là yếu tố kinh tế quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Theo Irving Fisher, lãi suất là cầu nối giữa thu nhập và vốn, và được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền phải trả trên số vốn vay sau một năm Robert J Gordon cũng cho rằng lãi suất là tỷ lệ phần trăm mà người vay phải trả cho người cho vay Do đó, lãi suất có thể hiểu là giá trị quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn.
(định tính) hay chính là tỷ suất phần trăm giữa tiền lãi và vốn cho vay trong một thời gian nhất định, thường là một năm(định lượng)
Lãi suất là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hiệu suất tài chính của các ngân hàng.
Theo Mang‘eli (2012), sự biến động của lãi suất thị trường có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Cụ thể, khi lãi suất tăng, lợi nhuận của ngân hàng thường có xu hướng tăng theo Ông cho rằng, trong bối cảnh này, hệ thống ngân hàng sẽ hoạt động hiệu quả hơn thay vì bị cản trở bởi sự gia tăng lãi suất.
Hiệu suất tài chính là chỉ số đánh giá khả năng sử dụng tài sản của một công ty thông qua hoạt động kinh doanh chính để tạo ra doanh thu Thuật ngữ này còn phản ánh tình hình sức khỏe tài chính tổng thể của công ty trong một khoảng thời gian nhất định.
Lợi nhuận của 33 ngân hàng phản ánh khả năng sinh lời, tức là khả năng kiếm được lợi nhuận hợp lý từ vốn đầu tư của chủ sở hữu (Buffett, 2005).
Các thước đo lợi nhuận phổ biến bao gồm tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất thu nhập trên vốn đầu tư và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất hình thành từ quan hệ vay mượn vốn và chịu tác động từ nhiều yếu tố như cung cầu vốn, tỷ lệ lạm phát, mục tiêu chính sách tiền tệ, rủi ro và kỳ hạn tín dụng Lịch sử kinh tế học đã đưa ra hai quan điểm chính về các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất.
Lý thuyết cung - cầu quỹ cho vay (LFT) của các nhà kinh tế học cổ điển thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 xác định lãi suất dựa trên yếu tố sản xuất thực và tiết kiệm Theo LFT, lãi suất được xác định khi nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng dài hạn, với giả định nền kinh tế hoạt động hết công suất, giá cả không đổi và cung tiền cố định Lãi suất thực và danh nghĩa là đồng nhất trong bối cảnh này, trong khi lãi suất thị trường còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như lạm phát kỳ vọng, lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư và bội chi ngân sách nhà nước, dẫn đến sự biến động của lãi suất.
Lý thuyết ưa thích thanh khoản (LPT) của John Maynard Keynes, được trình bày trong tác phẩm "Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" (1936), nhấn mạnh rằng khả năng tiết kiệm của người dân chủ yếu phụ thuộc vào mức thu nhập và lãi suất Keynes cho rằng lãi suất ảnh hưởng đến quyết định tiết kiệm, và lãi suất được xác định bởi sự tương tác giữa cung và cầu tiền tệ Theo lý thuyết này, hành vi của các trung gian tài chính quyết định mức lãi suất danh nghĩa, trong khi lãi suất thực tế phụ thuộc vào biến động giá cả và khả năng dự đoán chính xác mức độ biến động.
Nhu cầu về tiền được xác định bởi mối quan hệ giữa nhu cầu và nguồn cung, phụ thuộc vào mức giá, tốc độ của nền kinh tế, và cầu tích lũy tiền như một tài sản an toàn trong bối cảnh biến động Sự bất ổn của các trung gian tài chính khác nhau dẫn đến biến động trong nhu cầu tiền và ảnh hưởng đến lãi suất danh nghĩa Trong khi đó, cung tiền được coi là độc lập với nhu cầu và thường được duy trì ổn định bởi các hành động của cơ quan quản lý tiền tệ.
Lãi suất là công cụ kinh tế quan trọng, được Ngân hàng Trung ương sử dụng để kiểm soát lạm phát và thúc đẩy phát triển kinh tế (Corb, 2012) Sự thay đổi của lãi suất được giải thích qua lý thuyết cung cầu vốn vay và tiền tệ Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất được xác định bởi sự cạnh tranh tự do giữa các chủ thể, dẫn đến mức lãi suất cân bằng Tuy nhiên, nếu không có sự can thiệp từ các cơ quan quản lý, thị trường có thể gặp rủi ro trong việc tự điều chỉnh lãi suất.
Nhà nước cần quản lý hoạt động của thị trường để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến lãi suất cao và ép giá, từ đó hạn chế đầu tư và thu hẹp sản xuất Việc này sẽ giúp duy trì sự ổn định của thị trường và bảo vệ quyền lợi của các tổ chức tín dụng.
1.2.1.2 Khái niệm điều hành CSTT theo mục tiêu lãi suất (interest rate based/targeting) Điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lãi suất là việc NHTW thiết lập mục tiêu hoạt động là các biến số lãi suất ngắn hạn (thường là lãi suất qua đêm, hoặc đến
Mục tiêu trung gian trong 3 tháng là các biến số lãi suất trung và dài hạn, bao gồm lãi suất kinh doanh của ngân hàng như lãi suất huy động và cho vay, nhằm xác định mức lãi suất mục tiêu.
(lãi suất chính sách) và lựa chọn hành lang lãi suất, đồng thời thông qua các công cụ
CSTT để tác động đến nền kinh tế giúp NHTW đạt được mục tiêu CSTT
Ngân hàng Trung ương (NHTW) điều chỉnh mức lãi suất chính sách (LSCS) để tác động đến các lãi suất khác trong nền kinh tế Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng bằng cách bơm tiền vào hệ thống thông qua mua bán chứng khoán trên thị trường tiền tệ, lãi suất thị trường sẽ giảm, từ đó kích thích đầu tư sản xuất nhờ chi phí vay vốn thấp Ngược lại, khi NHTW thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách giảm dự trữ của các ngân hàng, lãi suất thị trường tăng lên, gây cản trở sự phát triển kinh tế do chi phí tín dụng cao hơn.