1
Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Nguyên đơn là công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel (bên B), trong khi bị đơn là công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (bên A), đại diện bởi giám đốc Lê Văn Mạnh Hai bên đã ký hợp đồng mua bán phôi thép ngay sau khi thỏa thuận được thực hiện.
Bên A đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng mặc dù bên B đã chuyển khoản toàn bộ số tiền Tòa án sơ thẩm công ty Hưng Yên phải bồi thường thiệt hại cho công ty Vinausteel Tòa án phúc thẩm đã quyết định hủy bản án sơ thẩm và yêu cầu tòa án sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật Tại phiên tòa, giám đốc thẩm đã xác định ông Mạnh là đại diện hợp pháp của Công ty Hưng Yên trong hợp đồng với Công ty Vinausteel Tòa án cũng đã đưa ra quyết định hủy quyết định giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội và quyết định giải quyết vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, giao hồ sơ về cho Tòa án sơ thẩm xem xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Nguyên đơn trong vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, trong khi bị đơn là Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex Vụ việc liên quan đến các vấn đề phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa hai bên.
Ông Nguyễn Hồng Tâm, Giám đốc Xí nghiệp 4, đã ký hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD vay 2 tỷ đồng với lãi suất 0.75%/tháng nhằm đầu tư máy móc, với tài sản bảo đảm là toàn bộ tài sản hình thành từ vốn vay cùng hai ngôi nhà và quyền sử dụng đất của hai thành viên trong xí nghiệp Ngân hàng đã phê duyệt và giải ngân cho Xí nghiệp 4 tổng số tiền 1.905.976.000 đồng Tuy nhiên, do kinh doanh thua lỗ, Xí nghiệp 4 không có khả năng trả nợ, và Công ty cổ phần xây dựng 16, nơi Xí nghiệp 4 trực thuộc, đã biết và không phản đối việc vay tiền, do đó có trách nhiệm với khoản nợ này Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã buộc Công ty cổ phần xây dựng 16 phải trả khoản nợ gốc và lãi 1.382.040.000 đồng cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Tòa án cũng quyết định hủy bản án sơ thẩm số 01/2008/KDTM-ST và bản án phúc thẩm số 95/2009/KDTM-PT, giao hồ sơ vụ án cho tỉnh Nghệ An xét xử lại theo đúng pháp luật.
TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com moi nhat
VẤN ĐỀ 1: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện. Đại diện trong BLDS 2015 Đại diện trong BLDS 2005
Chủ thể Cá nhân, pháp nhân (Khoản Cá nhân, pháp nhân, chủ thể
2 Điều 134 Bộ Luật dân sự khác (Khoản 2 Điều 139, Bộ
Luật Dân sự 2015 không ghi nhận hộ gia đình và tổ hợp tác như là chủ thể pháp lý, điều này khác với Bộ luật Dân sự 2005, nơi mà các chủ thể này vẫn được công nhận.
Người đại diện là cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người khác Theo Điều 134, người đại diện có quyền lập và thực hiện các giao dịch trong phạm vi đại diện cho cá nhân hoặc pháp nhân được đại diện.
Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
=> Pháp nhân có thể đại trừ trường hợp quy định tại diện cho cá nhân và pháp khoản 2 Điều 143 của Bộ luật nhân khác này.
=> Như vậy, người đại diện là
“ người”, thông thường trong khoa học pháp lý từ “ người” được hiểu bao gồm cả cá nhân và pháp nhân Tuy nhiên trong các quy định tiếp theo
TIEU LUAN MOI tải về tại skknchat123@gmail.com đã chỉ ra rằng khái niệm "người" thường được hiểu là cá nhân Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu pháp nhân có thể đại diện cho cá nhân hay không Trong thực tiễn áp dụng, Bộ luật Dân sự 2005 quy định rằng, trừ khi có quy định pháp luật rõ ràng cho phép pháp nhân đại diện, tòa án thường có xu hướng xác định rằng pháp nhân không có quyền đại diện Do đó, cách vận dụng này không thuyết phục và đã dẫn đến những bất cập trong Bộ luật Dân sự.
Số người đại diện Một người hay nhiều người một người (điều 139)
Luật Doanh nghiệp đã công nhận khái niệm đồng đại diện, cho phép một công ty có thể có nhiều người đại diện Điều này giúp làm rõ hiểu biết rằng việc đồng đại diện là hợp pháp và không bị cấm.
Người đại diện theo pháp luật cần có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và năng lực pháp luật dân sự, trừ những trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 2 Điều 143 và khoản 5 Điều 139 của Bộ luật Dân sự Điều này đảm bảo rằng các giao dịch dân sự được xác lập và thực hiện một cách hợp pháp và hiệu quả.
(Khoản 3 Điều 134) quy định: “2 Người từ đủ
Quy định này cho phép người từ mười lăm tuổi trở lên có thể đại diện theo ủy quyền theo Điều 139 BLDS 2005, trừ những trường hợp pháp luật yêu cầu giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên thực hiện.
TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com moi nhat
=>Quy định tại khoản 5 Điều
Theo quy định tại Điều 139, người dưới 15 tuổi có quyền đại diện trong việc xác lập các hợp đồng mua bán đơn giản, như thực phẩm, và có thể được bên bán chấp nhận giao dịch.
Đại diện được phân loại dựa trên hai căn cứ chính: căn cứ xác lập quyền và chủ thể đại diện Phân loại này có thể được thực hiện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền, nhằm xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bên liên quan trong mối quan hệ đại diện.
+ Đại diện theo pháp luật + Đại diện theo pháp luật của cá nhân
+ Đại diện theo pháp luật + Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân
+ Đại diện theo ủy quyền
Hình thức ủy quyền có thể được xác định theo thỏa thuận giữa các bên, tuy nhiên, trong những trường hợp mà pháp luật yêu cầu, việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.
Hậu quả pháp lý Bỏ khoản 4 điều 139 BLDS Người được đại diện có của hành vi đại diện 2005 quyền, nghĩa vụ phát sinh từ
Quy định mới ở khoản 2 giao dịch dân sự do người đại diện xác lập (khoản 4 điều
TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com moi nhat Điều 139 BLDS 2015 “2 139) Người đại diện có quyền
Việc xác lập và thực hiện hành vi đại diện cần thiết để đạt được mục tiêu của người đại diện phải tuân thủ đúng phạm vi quy định Nếu hành vi vượt quá giới hạn này, sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện như đã nêu trong khoản 1 Điều luật.
146 Như vậy sẽ có mâu thuẫn giữa hai điều luật.
Thời hạn đại diện theo quy định tại Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015 là 1 năm, áp dụng cho đại diện theo ủy quyền, đại diện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, hoặc theo quy định của pháp luật và điều lệ của pháp nhân Đại diện theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật đều phải tuân thủ thời gian này.
Hậu quả của giao (Điều 142) (Điều 142) dịch dân sự do
11
Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Bà Cao Thị Xê; bị đơn: chị Võ Thị Thu Hương và anh Nguyễn Quốc Chính
Bà Xê kết hôn với ông Võ Văn Lưu năm 1996, có làm thủ tục đăng ký kết hôn nhưng không có con chung; trước đó, ông Lưu đã kết hôn với bà Thẩm năm 1964 Ông Lưu để lại di chúc toàn bộ di sản cho bà Xê, và bản án dân sự sơ thẩm số 59/2005/DSST đã chấp nhận yêu cầu của bà Xê, cho bà hưởng toàn bộ di sản Tuy nhiên, Tòa án tại Quyết định số 208/2008/KN-DS nhận định di chúc không đảm bảo quyền lợi cho bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Lưu, người hiện đã già yếu và không còn khả năng lao động Theo điều 669 BLDS, bà Thẩm có quyền thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào di chúc Hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê vi phạm pháp luật, do đó, Hội đồng Giám đốc thẩm quyết định hủy bỏ bản án phúc thẩm và sơ thẩm, giao lại hồ sơ vụ án để giải quyết theo quy định pháp luật.
Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Phạm Thị Ơn.
Bị đơn Lý Thị Chắc tranh chấp tài sản với bà Ơn, vợ của ông Hà, con của cụ Huệ, người đã để lại di chúc cho ông Hà trước khi qua đời Cụ Huệ sở hữu một căn nhà 48,8m2 trên diện tích 921,4m2 đất, có giấy chứng nhận do Sở xây dựng tỉnh Tiền Giang cấp Sau khi ông Hà qua đời mà không để lại di chúc, theo thỏa thuận, bà Ơn được thừa kế toàn bộ tài sản Tuy nhiên, bà Chắc đã sống nhờ trong ngôi nhà này từ lâu, nên không đồng ý trả lại cho bà Ơn và yêu cầu công nhận quyền sở hữu Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đã không chấp nhận yêu cầu của bà Chắc, và Viện kiểm sát đã kháng nghị, chỉ ra những sai sót trong quyết định của Tòa án.
Tải luận văn mới nhất tại địa chỉ skknchat123@gmail.com và xem xét quyền lợi của bà Chắc trong việc quản lý và bảo vệ nhà đất Theo Quyết định của Tòa án Nhân dân tối cao, bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã bị hủy, và hồ sơ vụ án sẽ được chuyển lại cho Tòa án Nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang để xét xử.
Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Khót, ông An Văn Tâm
Ông Nguyễn Tài Nhật và cụ Nguyễn Thị Khánh có ba người con: bà Nguyễn Thị Khót, ông An Văn Tâm và ông Nguyễn Tài Nhật Sau khi cụ Khánh qua đời vào năm 2000, toàn bộ di sản được để lại cho ông Nguyễn Tài Nhật Tại thời điểm đó, bà Khót 72 tuổi và ông Tâm 68 tuổi, đều không còn khả năng lao động Do đó, bà Khót và ông Tâm yêu cầu được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật về người thừa kế không theo di chúc.
Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Kim Dung, ông Nguyễn Hồng Vũ
Bị đơn: ông Nguyễn Hồng Vân
Cụ Nguyễn Văn Phúc (mất năm 1999) và cụ Phạm Thị Thịnh (mất năm 2007) có 6 người con và không để lại di chúc, nhưng cụ Phúc đã dặn rằng tài sản sẽ được chia đều cho các con Tài sản của cụ Phúc và cụ Thịnh bao gồm nhà và đất tại 708 Ngô Gia Tự Trước khi qua đời, cụ Phúc mong muốn bán nhà đất tại 708 Ngô Gia Tự để chia cho các con trai mỗi người 100 triệu và con gái mỗi người 30 triệu Sau khi cụ Phúc mất, một số con gái như bà Oanh, bà Dung và bà Thu đã nhận 30 triệu từ ông Vân và phải ký xác nhận rằng không được đòi hỏi gì thêm từ ngôi nhà Đồng thời, cụ Thịnh để lại di chúc cho ông Vân hưởng toàn bộ di sản, bao gồm nhà đất số 708 Ngô Gia Tự và phần tài sản mà cụ Thịnh được hưởng từ cụ Phúc.
Tại bản án sơ thẩm, tòa án xác định nhà đất thuộc sở hữu của cụ Phúc và cụ Thịnh, công nhận tính hợp pháp của di chúc cụ Thịnh, đồng thời bác bỏ yêu cầu thừa kế của bà Oanh và Dung Yêu cầu chia tài sản bằng hiện vật của ông Vũ cũng không được chấp nhận Tòa giao quyền sử dụng nhà đất cho ông Vân, đồng thời yêu cầu ông Vân phải trả lại phần thừa kế của ông Vi là 150 triệu và trả cho ông Vũ 110 triệu.
TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com moi nhat
Tại phiên phúc thẩm, tòa án đã chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà Oanh và bà Dung, đồng thời giao cho ông Vân quyền sử dụng nhà đất Ông Vân có trách nhiệm thanh toán phần thừa kế cho ông Vi với số tiền 150 triệu, ông Vũ 110 triệu, và mỗi bà Oanh và Dung 40 triệu.
Tòa giám đốc thẩm đã quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho tòa án nhân dân để xét xử lại do diện tích đất không được xác định rõ ràng Ngoài ra, công chăm sóc cha mẹ của ông Vân và công nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vi cũng chưa được làm rõ, cùng với việc số tiền chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp lý.
Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Hới, Bà Nguyễn Thị Hồng vân, Ông Nguyễn Hữu Thắng, ông Huỳnh Công Lĩnh, bà Trần Thị Bông Thành,
Bị đơn : công ty Yue Da Mining Limited
Yue Da Mining Limited yêu cầu thực hiện thủ tục xử lý tài sản đảm bảo theo điều 5,1 của hợp đồng ký ngày 5/9/2013 với Ông Nguyễn Văn Hới, Bà Nguyễn Thị Hồng Vân và Bà Trần Thị Bông Thành.
Bên nguyên đơn đã đề nghị hội đồng xem xét không chấp nhận yêu cầu hủy phán xét trọng tài trong vụ tranh chấp 101/19 HCM của hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
Tòa án quyết định không hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM của hội đồng trọng tài thuộc trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản.
- Thay đổi từ sở hữu nhà nước thành sở hữu toàn dân:
Theo Blds 2005, tài sản thuộc sở hữu nhà nước bao gồm nhiều loại hình, như đất đai, rừng tự nhiên và rừng trồng được đầu tư từ ngân sách nhà nước Ngoài ra, tài sản này còn bao gồm núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, và các nguồn lợi tự nhiên ở biển, thềm lục địa và vùng trời Bên cạnh đó, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và các công trình trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cũng nằm trong danh mục tài sản nhà nước, cùng với các tài sản khác được quy định bởi pháp luật.
Theo BLDS 2015, tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, cùng với các tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước quản lý.
Tài sản công thuộc sở hữu toàn dân được quản lý thống nhất bởi Nhà nước, đại diện cho quyền sở hữu Để tìm hiểu thêm về quản lý và đầu tư trong lĩnh vực này, bạn có thể tải xuống tài liệu mới nhất từ địa chỉ skknchat123@gmail.com.
- Sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức, sở hữu của tập thể gộp thành sở hữu riêng:
Theo Bộ luật Dân sự 2005, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức và sở hữu của tập thể được phân chia thành các loại khác nhau Tuy nhiên, trong Bộ luật Dân sự 2015, ba loại sở hữu này đã được hợp nhất thành hình thức sở hữu riêng.
- Sở hữu tổ chức, sở hữu tập thể thành sở hữu chung:
Theo Bộ luật Dân sự 2005, sở hữu tổ chức và sở hữu tập thể được phân loại trong mục sở hữu chung nhưng vẫn có những hình thức riêng biệt Tuy nhiên, theo Bộ luật Dân sự 2015, các loại sở hữu này đã được gộp lại thành một hình thức sở hữu chung.