BỘ CÔNG THƯƠNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM KHOA MAY THỜI TRANG ⸙⸙⸙ BÁO CÁO TỐT NGHIỆP “NGHIÊN CỨU VÀ THIẾT KẾ TRANG PHỤC TRÌNH DIỄN ẤN TƯỢNG LẤY CẢM HỨNG TỪ NGHỆ THUẬT MÚA BÓNG RỖI TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghệ thuật múa Bóng rỗi trong văn hóa thờ Mẫu ở Nam bộ thể hiện giá trị độc đáo và sâu sắc, góp phần bảo tồn nền nghệ thuật Việt Nam Bộ sưu tập này không chỉ mang tính nhân văn mà còn kết hợp sự độc đáo và phóng khoáng, với trang phục trình diễn ấn tượng và các kỹ thuật xử lý chất liệu trên bề mặt vải như đính kết và in ấn.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp logic bao gồm việc phân tích, tổng hợp và so sánh thông tin từ các nguồn tài liệu như sách, báo và internet, nhằm đánh giá và phân tích bộ sưu tập trong phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp mỹ thuật học tập trung vào việc nghiên cứu cấu trúc văn hóa kiến trúc và các đặc điểm tạo hình trang phục Việc phân tích sắc độ chuyển màu giữa các màu sắc sẽ giúp xác định sự phù hợp với ý tưởng nghiên cứu, từ đó tạo ra những sản phẩm tối ưu và chất lượng.
Phương pháp văn hóa học giúp khám phá văn hóa qua nghệ thuật múa bóng rỗi của người Nam Bộ, từ đó tìm hiểu nguồn gốc ra đời của trang phục, nhằm chắt lọc và làm nổi bật những nét văn hóa đặc sắc của vùng đất này.
Phương pháp khảo sát bao gồm việc nghiên cứu thị trường và xu hướng thời trang để đánh giá các đối tượng nghiên cứu một cách chọn lọc, từ đó rút ra những kết luận chuyên môn về bộ sưu tập.
Phương pháp thực tế là việc áp dụng những kinh nghiệm chủ quan để thực hiện bộ sưu tập một cách hiệu quả và biểu cảm Những kinh nghiệm này được đúc kết từ thực tiễn, giúp tối ưu hóa quy trình và nâng cao giá trị của bộ sưu tập.
Kết cấu đồ án
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì trong phần nội dung có 3 chương:
Chương 1 Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ bà chúa xứ của người nam bộ
Chương 2 Nghiên cứu về nghệ thuật múa bóng rỗi
Chương 3 Thiết kế bộ sưu tập “Bóng”
Ngoài ra, còn có danh mục hình ảnh, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo
NGHIÊN CỨU VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CHÚA XỨ CỦA NGƯỜI
Khái quát lịch sử: …
Vào đầu thế kỷ 19, ông Thoại Ngọc Hầu, tên thật là Nguyễn Văn Thoại, người Quảng Nam, đã được vua Gia Long giao nhiệm vụ trấn giữ vùng Tây Nam Bộ Ông không chỉ tham mưu cho triều đình mà còn được giao trách nhiệm quan trọng trong việc đào kênh Vĩnh Tế.
Hình 1.1 ông Thoại Ngọc Hầu
Kênh dài 100km, rộng 50m, nối Châu Đốc với Hà Tiên, là công trình vĩ đại nhằm thoát lũ và xả phèn cho đồng bằng sông Cửu Long, rút ngắn đường giao thương thủy phía Tây Dù 80.000 dân công được huy động, công trình gặp nhiều trục trặc, gây ra tai nạn và bệnh tật Trong bối cảnh khó khăn, bà Châu Thị Tế đã khấn vái pho tượng thiêng trên núi Sam, và sau đó, việc xây dựng diễn ra suôn sẻ, hoàn thành trong 5 năm Tuy nhiên, một nhóm cướp ngoại bang đã cố gắng ăn cắp pho tượng, nhưng không thể di chuyển vì nó bỗng trở nên nặng trịch Sau khi bỏ đi, bọn cướp đã đập phá pho tượng, làm gãy một tay, để lại dấu vết phục chế Nghe tin, bà Châu Thị Tế cùng các bô lão lên núi Sam xem xét và quyết định thỉnh bà xuống núi.
Hàng chục thanh niên khỏe mạnh được huy động để thỉnh Bà Chúa Xứ, nhưng pho tượng vẫn không hề suy suyển Khi mọi người không biết làm thế nào, một cô gái tự xưng là Chúa Xứ thánh mẫu xuất hiện và yêu cầu dân làng cử 9 cô gái đồng trinh đến rước Bà Khi 9 cô gái đến, tượng nhẹ tênh và đoàn rước chạy xuống chân núi, nhưng khi đến miếu Chúa Xứ hiện nay, kiệu bỗng chìm xuống không nhấc lên được nữa Nghi rằng Bà muốn ngự tại đây, bà Châu Thị Tế đã cho dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ Câu chuyện này được người dân Châu Đốc thuộc nằm lòng, và hàng năm, vào lễ hội Vía Bà Chúa Xứ, họ dựng lại cảnh rước Bà từ núi Sam xuống miếu Lễ hội Vía Bà cũng là lễ hội kéo dài nhất Việt Nam, diễn ra từ tháng 1 đến hết tháng 4 âm lịch hàng năm.
Tượng Bà Chúa Xứ
Theo truyền thuyết, tượng Bà Chúa Xứ được cho là sản phẩm của nền văn hóa Óc Eo thuộc vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII sau Công nguyên Tuy nhiên, nghiên cứu từ các tài liệu và nhà nghiên cứu cho thấy rằng nguồn gốc của pho tượng này có thể không chính xác, và mối liên hệ giữa tượng và văn hóa Óc Eo có thể là sự kết nối cưỡng ép, vì văn hóa Óc Eo chỉ được phát hiện ở vùng Thoại Sơn (An Giang), gần núi Sam.
Các nhà khoa học khẳng định pho tượng được làm từ đá sa thạch, chất liệu không có ở vùng Thất Sơn hay Nam Bộ, cho thấy nó đã được vận chuyển từ xa Thời gian xuất hiện của pho tượng vẫn chỉ là giả thiết, với một số ý kiến cho rằng nó có từ 5.000 năm trước, do một thái tử từ Ấn Độ mang đến Đặc biệt, vào năm 1980, các nhà khoa học phát hiện một bệ đá sa thạch trên núi Sam, được xác định là nơi pho tượng Bà Chúa Xứ "tọa".
Hình 1.2 Pho tượng Bà Chúa Xứ
Vào năm 1941, nhà khảo cổ Pháp Louis Malleret đã khảo sát miếu Bà Chúa Xứ và xác định rằng tượng Bà Chúa Xứ là một tác phẩm nghệ thuật cao, thuộc loại thần Vishnu, được tạc bằng đá son và có nguồn gốc từ cuối thế kỷ VI Trong tác phẩm "Đồng bằng sông Cửu Long - nét sinh hoạt xưa" của nhà văn Sơn Nam, ông đã đưa ra những nhận định đáng chú ý về giá trị văn hóa và lịch sử của tượng này.
Bà Chúa Xứ thực chất là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, được đặt trên đỉnh núi Sam và đã bị bỏ quên lâu năm Tượng ngự trên bệ đá với kích thước 1,60m x 0,3m, có lỗ vuông ở giữa, được làm từ loại đá không có ở địa phương Người Việt di cư từ Bắc đã đưa tượng vào miếu, sơn sửa, mặc áo lụa và biến tượng đàn ông thành đàn bà Ông Trần Văn Dũng trong cuốn “Lịch sử khai phá vùng đất Châu Đốc 1757 -1857” khẳng định tượng Bà Chúa Xứ là tượng nam, ngồi ở tư thế vương giả, với phần đầu được chế tác sau bằng loại đá khác Theo sách Kỷ lục An Giang 2009, tượng Bà được công nhận là "Pho tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam" và "Có áo phụng cúng nhiều nhất".
Kiến trúc
Miếu Bà Chúa Xứ không chỉ nổi bật với kiến trúc đẹp và trang nghiêm, mà còn là một di tích nổi tiếng trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Hình 1.3 Miếu Bà Chúa Xứ
Miếu Bà Chúa Xứ, tọa lạc dưới chân núi Sam tại thành phố Châu Đốc, An Giang, là điểm du lịch tâm linh nổi tiếng không chỉ ở miền Tây Nam Bộ mà còn được biết đến bởi người Việt ở nước ngoài Được xây dựng lần đầu vào khoảng năm 1824 bằng vật liệu gỗ đơn giản, miếu đã trải qua một lần tu sửa vào năm 1870 với cấu trúc bằng gạch hồ ô dước và mái lợp ngói âm dương.
Hình 1.3 Kiến trúc của ngôi miếu
Gần 100 năm sau khi được xây dựng, ngôi miếu đã xuống cấp nghiêm trọng và vào năm 1962, dân làng đã tiến hành sửa chữa để khôi phục lại vẻ đẹp của ngôi miếu, thu hút ngày càng nhiều khách viếng thăm Đến năm 1965, nhờ sự hỗ trợ từ các mạnh thường quân, ngôi miếu được mở rộng với nhà khách và hàng rào bao quanh, nâng cao giá trị tâm linh và thu hút thêm du khách.
Ngôi miếu Bà Chúa Xứ, được xây dựng theo kiểu chữ Quốc, đã trải qua quá trình tu sửa lớn vào năm 1972 và hoàn thành vào năm 1976 Kể từ đó, công trình vẫn giữ nguyên diện mạo cho đến ngày nay Kiến trúc của miếu mang hình dáng độc đáo, thể hiện sự tinh tế trong thiết kế.
"Quốc", hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp 3 tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng
Các văn hoa tại cổ lầu chánh điện thể hiện rõ nét nghệ thuật độc đáo Những tượng thần khỏe mạnh và đẹp đẽ ở trên cao giang tay nâng đỡ các đầu kèo Các khung bao và cánh cửa được chạm trổ tinh xảo, kèm theo nhiều liễn đối và hoành phi lộng lẫy Đặc biệt, bức tượng phía sau tượng Bà cùng bốn cây cột cổ lầu trước chánh điện vẫn được giữ nguyên như cũ.
Hình 1.6 Hình ảnh miếu được thấp đèn vào ban đêm
Cũng kể từ năm 1972, pho tượng không còn ở dạng “thô” như đã từng, mà được
Ngôi miếu với trang điểm màu sắc rực rỡ, mang vẻ uy nghiêm và phúc hậu, đã được dân làng bảo vệ an toàn suốt nhiều năm chiến tranh Trong suốt thời gian khó khăn đó, bom đạn dường như "tránh" ngôi miếu và tượng Bà, giúp chúng không bị tàn phá như những khu vực lân cận.
Hình 1.7 Hình ảnh miếu lúc chưa được cải tạo Ở thời điểm năm 2009, thì miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam là "ngôi miếu lớn nhất Việt Nam".
Nghi lễ thờ cúng
Hàng năm, lễ hội “Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam” được tổ chức từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch, thu hút hàng vạn người tham gia Du khách có cơ hội thưởng thức nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc như hát bội, múa võ, ca nhạc ngũ âm, múa lân và đánh cờ Trong lễ hội, các nghi lễ chính diễn ra trang trọng, tạo nên không khí linh thiêng và sôi động cho sự kiện này.
Lễ Tắm Bà diễn ra vào lúc 0 giờ ngày 24-04 âm lịch, bắt đầu với việc thắp sáng hai ngọn nến lớn trong chánh điện Ông lễ chánh cùng hai vị bô lão thực hiện nghi thức dâng hương, rượu và trà Một bức màn vải lộng lẫy được kéo ngang bệ thờ, che khuất tượng Bà, trong khi chín cô gái trẻ được giao nhiệm vụ tắm Bà bắt đầu vén màn Họ lần lượt cởi bỏ mũ, áo và khăn để lộ toàn thân tượng, sau đó nhúng khăn vào nước thơm, lau sạch tượng và xịt nước hoa lên bức tượng Cuối cùng, họ mặc bộ đồ mới đẹp nhất cho tượng, thắt đai, chít khăn và trang trí lại với đèn màu Lễ tắm Bà kéo dài khoảng một giờ, sau đó bức màn được kéo lên cho khách tự do chiêm bái và xin lộc Phần nước tắm còn lại sẽ được hòa vào hai thùng lớn để phân phát cho du khách tham gia lễ hội.
Hình 1.8 Nghi lễ tắm Bà
Lễ Thỉnh sắc diễn ra vào khoảng 16h chiều ngày 25, với sự tham gia của đoàn bô lão trong làng, trang phục chỉnh tề, tiến từ miếu Bà đến lăng Thoại Ngọc Hầu để thực hiện nghi lễ rước bài vị Đoàn lễ hội được dẫn đầu bởi đội múa lân và các học trò cầm cờ phướn, đi trước và sau chiếc kiệu long đình sơn son thiếp vàng Tại điện thờ, ông chánh bái làm lễ niệm hương, sau đó thỉnh bài vị trở về miếu Bà Ba bài vị mang tên Thoại Ngọc Hầu, bà vợ chánh Châu Thị Tế và bà vợ thứ Trương Thị Miệt được đặt trên bàn thờ ở chánh điện, trong khi bài vị thứ tư ghi công lao các quan quân theo Thoại Ngọc Hầu được đặt riêng ở bàn thờ phía trước.
Hình 1.9 Nghi lễ Thỉnh Sắc
Lễ Túc yết được tổ chức vào lúc 0 giờ đêm 25 rạng 26-04 âm lịch, bao gồm hai phần chính: nghi thức cúng tế và phần xây chầu Lễ vật dâng cúng bao gồm một con heo trắng, một đĩa huyết heo kèm theo nhúm lông nhỏ, cùng với một mâm trái cây, trầu cau, gạo và muối Sau ba hồi chiêng, trống và nhạc lễ, nghi thức dâng hương và dâng trà được thực hiện Nghi thức cúng tế kết thúc bằng việc ông chánh tế đốt bản văn tế cùng giấy vàng bạc.
Hình 1.10 Nghi lễ Túc Yết
Sau nghi thức cúng tế, lễ Xây chầu được tổ chức tại nhà võ ca Ông Chánh bái cầu nguyện cho thời tiết thuận lợi, đất đai màu mỡ, mùa màng bội thu, dân chúng khỏe mạnh và yên vui, đồng thời tiêu diệt các loài quỷ dữ Lễ bắt đầu với ba hồi trống lệnh, tiếp theo là âm thanh chiêng trống rộn ràng, đánh dấu sự khởi đầu của chương trình hát bội.
Lễ Chánh tế: Được tổ chức vào tờ mờ sáng ngày 27, gần giống như nghi thức cúng Túc yết
Lễ Hồi Sắc: Cử hành vào khoảng 15h ngày 27-04, đoàn hành lễ sẽ rước bài vị Thoại
Ngọc Hầu và nhị vị phu nhân từ miếu trở về Sơn Lăng Kết thúc lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
Hình 1.11 Nghi lễ Hồi Sắc
Từ năm 2001, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam đã được Bộ Văn hóa Thông tin và Tổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là lễ hội cấp Quốc gia Lễ hội không chỉ có phần Lễ được tổ chức trang trọng theo truyền thống mà còn có phần Hội được tổ chức hàng năm một cách trọng thể.
Tiểu kết chương 1
Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam nổi tiếng không chỉ vì giá trị tâm linh mà còn vì ý nghĩa lịch sử sâu sắc, kết nối với những sự kiện hào hùng của dân tộc qua các di tích và giai thoại truyền miệng Đến Châu Đốc An Giang, du khách sẽ được trải nghiệm vẻ đẹp tâm linh và lịch sử của miếu Bà, nơi thu hút hàng triệu người chiêm bái mỗi năm Những câu chuyện xung quanh pho tượng Bà Chúa Xứ, dù có nhiều bí ẩn và ly kỳ, vẫn khẳng định vị trí quan trọng của Bà trong tâm thức người dân miền Tây Nam Bộ như một điểm tựa tâm linh Các giai thoại về Bà Chúa Xứ sẽ tiếp tục được truyền lại cho các thế hệ sau, góp phần làm phong phú thêm nét đẹp văn hóa của dân tộc.
NGHIÊN CỨU VỀ NGHỆ THUẬT MÚA BÓNG RỖI
Bài múa
Múa bóng là một hệ thống điệu múa kết hợp với âm nhạc, trong đó nổi bật là điệu múa dâng bông, biểu thị lòng tôn kính đối với thần linh Nghệ nhân thực hiện điệu múa này bằng cách mang bình hoa hoặc chén hoa trên tay hoặc đầu, tiến dần vào vị trí thờ Bà và múa liên tục ba lần, được gọi là tam chập Mặc dù nội dung nghi lễ tương tự ở các vùng khác nhau, cách thức múa của từng nghệ nhân có thể khác biệt Điệu múa dâng mâm, mang yếu tố tạp kỹ, yêu cầu nghệ nhân phải thành thạo trong việc sử dụng tay, đầu và toàn thân để thực hiện các động tác như lật, chuyền, tung và bêu mâm, nhằm dâng tháp cho thần linh.
“Lạy linh Bà ngự chốn miếu trung Cho nữ xứ đáo lai hiến võ”
Hình 2.1 Nghệ nhân trong điệu múa dâng dĩa và hoa
Khi kết thúc các động tác múa, nghệ nhân quỳ trước bàn thờ để thực hiện nghi lễ đốt tháp trên mâm cho đến khi lửa tắt Ngoài hai điệu múa chính, còn có nhiều điệu múa tạp kỹ khác như dâng lộc, múa hoa huệ, múa dù, múa lu, múa ghế đẩu, múa dao phay và múa rót rượu.
Hình 2.2 Nghệ nhân múa dao
Hình 2.3 Nghệ nhân trong điệu múa mâm vàng
Hình 2.4 Lão niên dâng mâm ngũ sắc
Nghệ nhân múa tạp kỹ phục vụ công chúng nhằm làm phong phú thêm nghi lễ cúng Bà, với các điệu múa yêu cầu sức mạnh và sự khéo léo từ người biểu diễn Những điệu múa này, bắt nguồn từ nghi lễ truyền thống, đã dần được dân gian hóa và xiếc hóa, góp phần vào đời sống văn hóa cộng đồng.
Hình 2.6 Nghệ nhân Lê Minh Hùng trong bài múa tạp kỹ
Hát rỗi là hình thức hát phục vụ cho nghi lễ trong tín ngưỡng thờ cúng Bà (Mẫu), nhằm ca ngợi các vị thần linh, mời gọi và thông báo cho các vị về sự chứng giám, đồng thời cầu xin những điều tốt đẹp cho mọi người.
“Bà Kim sanh bạc, hóa vàng
Bà Thủy sanh nước dẫy đầy biển khơi
Bà Hỏa sanh ngọn lửa hồng
Bà Thổ sanh đất đầy đồng nơi đây
Bà Mộc sanh cội hóa cây Năm Bà năm phép tới đây hợp cùng”
(Bài Chầu Năm Bà- người hát Bóng Ba- 76 tuổi, Quận 10- TP Hồ Chí Minh)
Bên cạnh đó, các bài rỗi còn ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên, hiện tượng của cuộc sống, sự giàu sang, …
Hình 2.7 Nghệ nhân Út Son hát rỗi
Sự ngẫu hứng và linh hoạt trong các bài hát rỗi của người dân Nam Bộ thể hiện sự phong phú và đa dạng trong tâm hồn, đồng thời phản ánh niềm tin vào tín ngưỡng thờ Mẫu Hát rỗi cần có sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc nền và trống tổ giữ nhịp, cùng với các nhạc cụ hỗ trợ như trống chiến, đờn cò, đờn sến, đờn kìm, mõ, song loan, chập chõa và guitar, trong đó đờn cò đóng vai trò chính Âm nhạc trong diễn xướng bóng rỗi mang đậm dấu ấn của nhạc lễ truyền thống Nam Bộ.
Bộ nhạc cụ được sử dụng trong âm nhạc Nam Bộ bao gồm các thành phần như Ai, Xuân, Đảo, thể hiện lối tư duy mở và sáng tạo của người dân nơi đây Tiết tấu âm nhạc trong văn hóa này luôn biến đổi, từ chậm đến nhanh rồi lại chậm lại, với sự đa dạng về nhịp điệu và hơi nhạc, tạo nên một trải nghiệm âm thanh phong phú và sống động.
Hình 2.8 Nhạc công thể hiện quan niệm về sự dung hòa giữa trời và đất, âm và dương Hiện nay, trong các nghi lễ cúng Bà, múa bóng rỗi đã phát triển thành hình thức sân khấu hóa dân gian gọi là diễn chập, đây là một trong những kỹ năng bổ sung ngoài hát rỗi và múa bóng truyền thống.
Hình 2.9 Vở diễn chập Địa- Nàng
Nội dung các cốt chuyện của diễn chập luôn gắn liền với sử tích và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, như trong các tác phẩm Địa-Nàng và Xang Nhựt nguyệt Diễn chập Địa-Nàng thể hiện lối đối đáp, tung hứng giữa Địa và Nàng, mang đến sự ngẫu hứng và ăn ý giữa nghệ nhân biểu diễn và âm nhạc Qua đó, chúng ta thấy được sự phong phú và đa dạng trong hoạt động nghệ thuật của văn hóa dân gian.
Trang Phục- Lễ Phục
Trang phục truyền thống không chỉ là phương tiện bảo vệ cơ thể và thích nghi với tự nhiên, mà còn thể hiện thái độ văn hóa của mỗi cá nhân trong cộng đồng Qua trang phục, chúng ta có thể nhận biết xu hướng và khả năng sáng tạo thẩm mỹ của từng nền văn hóa Đối với một số dân tộc, trang phục còn chứa đựng quan niệm về vũ trụ và nhân sinh, thể hiện qua các hoa văn, họa tiết được dệt hay thêu Ngoài ra, một số trang phục còn mang ý nghĩa phân biệt thứ bậc xã hội Chính vì sự phong phú về giá trị văn hóa, trang phục truyền thống trở thành niềm tự hào của mỗi dân tộc, giúp mỗi người nhận thức rõ hơn về bản sắc văn hóa của mình.
Trang phục không chỉ mang lại vẻ đẹp cho người mặc mà còn thể hiện sự tôn trọng đối với khán giả Trong nghệ thuật biểu diễn, trang phục đóng vai trò quan trọng hơn, yêu cầu những đặc điểm nổi bật và khác biệt so với trang phục thông thường.
Trang phục biểu diễn cần chú trọng đến kiểu dáng và màu sắc để thu hút sự chú ý của người xem Kiểu dáng nên được thiết kế cầu kỳ và khác biệt so với trang phục thường ngày Màu sắc cũng đóng vai trò quan trọng, với các tông màu nổi bật như đỏ, cam, hồng, vàng, kết hợp với kim tuyến để tạo hiệu ứng lấp lánh dưới ánh đèn sân khấu Bên cạnh đó, chất liệu của trang phục cần đảm bảo sự thuận tiện cho người biểu diễn, đặc biệt trong các màn trình diễn có nhiều động tác múa phức tạp Chất liệu nên nhẹ, co dãn tốt, giúp người biểu diễn dễ dàng di chuyển và thể hiện tốt nhất khả năng của mình.
Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ mang đặc điểm riêng biệt so với miền Bắc và miền Trung, thể hiện sự kế thừa, tiếp thu và sáng tạo trong văn hóa Điều này cho thấy mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Việt-Khmer và Việt-Hoa, tạo nên một quần thể tín ngưỡng đa văn hóa phong phú Hiện tượng tích hợp nhiều lớp văn hóa-tín ngưỡng khác nhau như văn hóa Phù Nam, văn hóa cổ truyền Khmer, văn hóa Chăm và văn hóa Việt đã hình thành nên đặc trưng riêng của tín ngưỡng thờ mẫu tại khu vực này.
Tín ngưỡng ở Nam Bộ chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn văn hóa khác nhau, dẫn đến sự đa dạng trong trang phục của các buổi múa bóng rỗi Do đó, không có nhiều tư liệu ghi chép về trang phục đặc trưng, vì sự giao thoa giữa các nền văn hóa tín ngưỡng đã làm cho nét đặc trưng này trở nên khó xác định.
Hình 2.13 Nghệ nhân múa bóng
Hình 2.14 Nghệ nhân dân gian Hoàng Tiến Hưng trong giá Hầu
Nghi lễ hầu đồng ở Bắc Bộ là một hình thức tín ngưỡng liên quan đến đạo thờ Mẫu và thờ Tứ phủ, có nguồn gốc từ vùng đồng bằng Bắc Bộ Mặc dù thời điểm xuất hiện chính xác của nghi lễ này chưa được xác định, nhưng nó đã phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 Hầu đồng không chỉ đơn thuần là một tín ngưỡng dân gian mà còn là một loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo, kết hợp nhiều yếu tố như âm nhạc, cách trình diễn, lời ca và trang phục đặc sắc.
Trong lễ hầu đồng, trình tự thực hiện được sắp xếp từ cao đến thấp, bắt đầu từ Thánh Mẫu, tiếp theo là hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng, và có tổng cộng 36 giá đồng, phản ánh quan niệm truyền thống của người xưa.
Có 36 vị Thánh bảo vệ người dân, mỗi vị Thánh tương ứng với một giá đồng và bộ trang phục riêng biệt Mặc dù các bộ trang phục này đa dạng và có thể thay đổi theo văn hóa từng địa phương, nhưng vẫn phải tuân theo quy định nghiêm ngặt về kiểu dáng, màu sắc và phụ kiện Trang phục bao gồm cả y phục nữ của các Chầu Bà, Thánh Cô và y phục nam của các Quan lớn, Thánh Cậu.
Hình 2.15 Trang phục giá Hầu
Trước khi tiến hành hầu đồng, cần chuẩn bị kỹ lưỡng các yếu tố như chọn ngày lành tháng tốt, địa điểm Đền, Phủ, Điện phù hợp, và bốn người hầu dâng Ngoài ra, cần mời con nhang, đệ tử, quan khách, chuẩn bị lễ vật dâng cúng, trang phục và phụ kiện, cùng với việc mời cung văn để đảm bảo buổi lễ diễn ra suôn sẻ và trang trọng.
Hình 2.16 Nghệ nhân đang Hầu
Mỗi lần thay giá, người hầu dâng lại phủ lên thanh đồng một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng…
Hình 2.17 Hầu dâng lên khăn
Hình 2.18 Trang điểm kỹ càng sau mỗi lần thay giá
Hình 2.19 Trang phục thanh đồng Cô
Hình 2.20 Thanh đồng trong giá hầu Mẫu Thượng Ngàn
Trang phục của thanh đồng cũng rất phong phú, đa dạng tùy theo nội dung của từng giá đồng, thường thể hiện rất rõ đặc tính cũng như nguồn gốc xuất thân của từng vị thánh trong mỗi giá đồng Ngoài trang phục thì trang sức và các vật đi kèm như quạt, khăn đội đầu, mũ, hài cũng được gia công rất tinh xảo Có thể kể đến như Cù ngọc, thẻ bài dùng trong các giá Quan, giá Hoàng hay các loại vòng, cài khăn dùng trong các giá Chầu, giá
Trang sức và trang phục trong nghi lễ hầu đồng được chế tác tinh xảo từ các chất liệu như bạc, đá màu và ngọc, góp phần tạo nên sự phấn khích cho người tham dự Hệ thống trang phục thể hiện sự phong phú của văn hóa Việt Nam qua nhiều tộc người và thời kỳ khác nhau Yếu tố không thể thiếu để buổi hầu đồng thành công chính là trang phục, không chỉ giới thiệu giá trị văn hóa mà còn là biểu tượng được đúc kết từ nhiều thế hệ của người Việt.
Thờ Mẫu ở Nam bộ không mang tính khuôn mẫu như ở Bắc bộ và không trở thành một đạo Mẫu chính thức Quá trình du nhập và phát triển tại Nam bộ đã tạo ra một hình thức thờ Mẫu thoáng, mở, tích hợp nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau Một số nữ thần đã được nâng lên thành Thánh mẫu, gắn liền với Đất, Nước, Trời Dù vậy, thờ Mẫu ở Nam bộ vẫn giữ lại những hình thức thờ tự của Bắc bộ Điều này cho thấy thờ Mẫu ở Nam bộ vừa thể hiện sự đa dạng vừa mang nét đặc thù, góp phần minh chứng cho quy luật thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Từ những năm 70-80 của thế kỷ trước, múa bóng rỗi bị đánh đồng với mê tín dị đoan và dần chìm vào quên lãng, khiến cho các nghệ nhân không tìm được truyền nhân và ít quan tâm đến việc đào tạo kế thừa Tuy nhiên, một số nghệ nhân tại Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, Bến Tre, Long An, Đồng Tháp, An Giang vẫn âm thầm đào tạo những hạt nhân mới vì đam mê Để phục hồi loại hình này, cần ít nhất 10-20 năm, bởi nghệ nhân phải được chọn lọc và đào tạo từ nhỏ, có căn cơ và gắn bó với nghề Hiện tại, chưa có trường đào tạo chính quy hay khóa huấn luyện nào cho múa bóng rỗi, vì nghệ nhân trước đây truyền thụ trực tiếp qua người thầy mà không có giáo trình thống nhất, điều này tạo nên sự độc đáo cho nghệ thuật này.
Tiểu kế chương 2
Bộ sưu tập “Bóng” lấy cảm hứng từ nghệ thuật múa bóng rỗi trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Nam Bộ, nhằm đưa loại hình diễn xướng này trở thành một nghệ thuật sân khấu thực thụ Bộ sưu tập không chỉ giữ gìn giá trị nguyên bản mà còn thổi hồn những nét mới mẻ, góp phần bảo tồn nghệ thuật múa bóng rỗi đang dần phai nhạt và giới thiệu nét văn hóa độc đáo của người dân Nam Bộ tới bạn bè.
THIẾT KẾ BỘ SƯU TẬP “BÓNG”
Ý tưởng
Bộ sưu tập “Bóng” được lấy cảm hứng từ nghệ thuật múa bóng rỗi trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Nam Bộ, nhằm đưa loại hình diễn xướng này gần hơn với nghệ thuật sân khấu thực thụ Bộ sưu tập không chỉ thổi hồn vào những nét mới mẻ mà còn giữ gìn giá trị ban đầu, góp phần bảo tồn nghệ thuật múa bóng rỗi đang dần phai nhạt và giới thiệu nét văn hóa độc đáo của con người Nam Bộ đến bạn bè.
3.3.1 Đặc điểm: Đối tượng thiết kế là những nghệ nhân múa bóng rỗi, không phân biết giới tính và không phân biệt tuổi tác
Với những đặc điểm trên, người sử dụng phục vụ cho việc múa bóng rỗi, diễn xướng tại các lễ đình, …
Mẫu thiết kế
Hình 3.11 Mô tả phẳng mẫu 1
Hình 3.12 Mô tả phẳng mẫu 2
Hình 3.13 Mô tả phẳng mẫu 3
Hình 3.14 Mẫu được chọn làm sản phẩm
Giải pháp thiết kế BST
Sử dụng những phom dáng cơ bản phù hợp như tùng váy 360 o , áo dài truyền thống, váy 180 o , áo nhật bình…
Bộ sưu tập này được thiết kế từ những chất liệu thấm hút, mịn màng và thoải mái như satin, taffeta, organza và gấm Các kỹ thuật cắt may và đính kết tinh tế được áp dụng để tạo nên sản phẩm hoàn hảo.
Hình 3.15 Vải được sử dụng may sản phẩm
Màu chính: đỏ, vàng, xanh lá
Màu phụ: đen, xanh dương, tím
3.5.4 Trang trí: Đính kết kim sa- hạt cườm
Hình 3.16 Kim sa hạt cườm được chọn lựa trang trí sản phẩm
Quy trình thực hiện
Hình 3.17 Thiết kế mẫu vải
Hình 3.23 Kết cườm sản phẩm
Hình 3.24 Kiểm tra chi tiết và bù cườm
Hình 3.25 Làm phụ kiện và đạo cụ cho trang phục
Mẫu hoàn thiện
Hình 3.26 Poster 1 trước ngày bảo vệ đồ án 1 tuần
Hình 3.27 Poster 2 sử dụng trong ngày bảo vệ đồ án
Hình 3.28 Poster 2 sử dụng trong ngày bảo vệ đồ án
Hình 3.29 Trang phục thiết kế số 1
Hình 3.30 Trang phục thiết kế mẫu số 1
Hình 3.31 Trang phục thiết kế số 2
Hình 3.32 Trang phục thiết kế mẫu số 2
Hình 3.33 Trang phục thiết kế mẫu số 3
Hình 3.34 Trang phục thiết kế số 3
Tiểu kết chương 3
Bộ sưu tập “Bóng” được lấy cảm hứng từ nghệ thuật múa bóng rỗi trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Nam Bộ, nhằm đưa loại hình diễn xướng này trở thành một hình thức nghệ thuật sân khấu thực thụ Bộ sưu tập không chỉ thổi hồn vào nghệ thuật này những nét mới mẻ, mà còn giữ gìn giá trị nguyên bản, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa độc đáo của nghệ thuật múa bóng rỗi đang dần bị phai mờ, đồng thời giới thiệu đến bạn bè về nét văn hóa đặc sắc của con người Nam Bộ.