TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN KHOA KINH TẾ BÀI TIỂU LUẬN KINH TẾ VI MÔ Đề tài NHỮNG THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ GIẢI PHÁP PHẦN I : MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của chuyên đề. Thị trường là phương thức tốt để hoạt động trong lĩnh vực kinh tế , nhưng mặc dù tốt nó cũng tránh khỏi được các trường hợp gây tác động làm xoay chuyển tình hình kinh tế theo chiều hướng xấu. Đó là việc “thất bại thị trường”. Theo nguồn kinh tế học thất bại thị trường được miêu tả tình trạng thị trường không phân bổ hiệu quả các nguồn lực. Và để thị trường cần trở lại hoạt động ổn định thì phải có các biện pháp để khắc phục các nguồn đã gây ra thất bại của thị trường. Vì vậy, để làm rõ vấn để trên ta sẽ đi nghiên cứu và phân tích đề tài “ những thất bại của thị trường và các giải pháp khắc phục”. 1.2. Mục tiêu của chuyên đề. Tìm hiểu và phân tích rõ các thất bại thị trường. Đưa ra giải pháp, nhằm khắc phục những thất bại thị trường. 1.3. Đối tượng của chuyên đề. Đề tài nghiên cứu “ những thất bại của thị trường và các giải pháp khắc phục”. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Vận dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, trình bày rõ những thất bại thị trường , các nguyên nhân gây ra và đưa ra giải pháp khắc phục
Tính c ấ p thi ế t c ủa chuyên đề
Thị trường là phương thức quan trọng trong hoạt động kinh tế, nhưng nó không tránh khỏi những tình huống gây ra "thất bại thị trường", tức là tình trạng không phân bổ hiệu quả các nguồn lực Để khôi phục sự ổn định cho thị trường, cần thiết phải áp dụng các biện pháp khắc phục những nguyên nhân gây ra thất bại Bài viết này sẽ nghiên cứu và phân tích về các thất bại của thị trường cùng với những giải pháp để khắc phục tình trạng này.
M ụ c tiêu c ủa chuyên đề
- Tìm hiểu và phân tích rõ các thất bại thị trường.
- Đưa ra giải pháp, nhằm khắc phục những thất bại thị trường.
Đối tượ ng c ủa chuyên đề
- Đề tài nghiên cứu “ những thất bại của thị trường và các giải pháp khắc phục”.
Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, trình bày rõ những thất bại thị trường , các nguyên nhân gây ra và đưa ra giải pháp khắc phục.
NỘI DUNG
Khái quát về thất bại của thị trường
Trong kinh tế học tân cổ điển, thất bại thị trường xảy ra khi việc phân bổ hàng hóa và dịch vụ trong một thị trường tự do không đạt hiệu quả Pareto, dẫn đến tổn thất giá trị kinh tế Tình huống này thường xảy ra khi lợi ích cá nhân không tương thích với lợi ích xã hội Mặc dù thuật ngữ này được sử dụng lần đầu vào năm 1958, khái niệm đã được phát triển từ tư tưởng của triết gia Victoria Henry Sidgwick Thất bại thị trường thường liên quan đến các vấn đề như hàng hóa công cộng, sở thích không đồng nhất về thời gian, thông tin không cân xứng, thị trường không cạnh tranh, và các vấn đề về đại lý hoặc tác nhân bên ngoài.
Các can thiệp chính sách của chính phủ như thuế, trợ cấp, kiểm soát tiền lương và giá cả có thể dẫn đến phân bổ nguồn lực không hiệu quả, được gọi là thất bại của chính phủ Nhiều nhà kinh tế cho rằng chính phủ có thể cải thiện các kết quả thị trường kém hiệu quả Thất bại của thị trường sinh thái xảy ra khi hoạt động kinh tế làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên không thể tái tạo, phá vỡ hệ sinh thái và quá tải khả năng hấp thụ chất thải của sinh quyển.
2.1.1 Định nghĩa thất bại của thị trường
Thị trường thất bại khi nguồn lực được phân bổ không hiệu quả, khiến chi phí thực của hàng hóa không phản ánh đúng trong giá cả Điều này thường xảy ra khi bên thứ ba hưởng lợi mà không phải trả tiền, hoặc khi chi phí được áp dụng cho bên thứ ba mà không có sự đồng ý của họ Hệ quả là sự phân bổ nguồn lực không hiệu quả, điển hình như ô nhiễm, mà xã hội và môi trường phải gánh chịu Những chi phí bên ngoài này không được định lượng hoặc chuyển giao cho người tiêu dùng, dẫn đến chi phí ròng cho toàn xã hội.
Thất bại thị trường xảy ra khi nguồn lực không được phân bổ một cách hiệu quả, dẫn đến tình trạng cung vượt cầu hoặc cung cấp quá mức Ngoài ra, những yếu tố bên ngoài cũng có thể góp phần gây ra tình trạng này.
Khi chi phí , cả bên trong và bên ngoài, không được chuyển đến người tiêu dùng cuối cùng, chúng ta có một thị trường thất bại.
Những thất của thị trường có thể được giải quyết thông qua một số giải pháp tư nhân, chính phủ và tập thể tự nguyện.
Sự thất bại của thị trường có thể do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả yếu tố ngoại cảnh và nguồn cung không hiệu quả Chẳng hạn, dịch vụ chăm sóc sức khỏe quốc dân của Vương quốc Anh luôn có nhu cầu cao do miễn phí tại điểm sử dụng, nhưng lại gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu này, dẫn đến thời gian chờ đợi lâu cho bệnh nhân Điều này minh chứng cho sự thất bại của thị trường khi không thể cung cấp dịch vụ đầy đủ.
‘‘ Sự thất bại của thị trường xảy ra khi có sự phân bổ nguồn lực không hiệu quả ’’
CUNG < > CẦU = THỊ TRƯỜNG THẤT BẠI
Việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả không chỉ ảnh hưởng đến cung cấp hàng hóa, mà còn dẫn đến sự thất bại của thị trường do các yếu tố ngoại cảnh, bao gồm cả những yếu tố tích cực và tiêu cực.
Việc xây dựng các hoạt động giải trí không tốn chi phí trực tiếp nhưng mang lại lợi ích tích cực cho cộng đồng Điều này cho thấy sự phân bổ nguồn lực có thể không hiệu quả, vì lợi ích mà mọi người nhận được không phải trả tiền trực tiếp Chẳng hạn, người dân và doanh nghiệp trên toàn quốc sẽ được hưởng lợi từ một lực lượng lao động có trình độ học vấn, nhưng phần lớn sẽ không sẵn lòng chi trả cho việc học của người khác.
2.1.2 Nguyên nhân dẫn đến thất bại của thị trường.
Cạnh tranh không hoàn hảo.
Phân phối thu nhập không cân bằng.
Hoạt đông và các thất bại của thị trường
2.2.1.Hoạt động của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, cá nhân có quyền tự do lựa chọn trong sản xuất và tiêu dùng Khi ra quyết định, họ chỉ xem xét lợi ích và chi phí cá nhân mà không quan tâm đến lợi ích xã hội Mục tiêu của các cá nhân là tối đa hóa lợi ích, trong khi người sản xuất hướng tới tối đa hóa lợi nhuận Sự tương tác giữa hai bên này giúp hình thành giá và sản lượng cân bằng cho hàng hóa và dịch vụ.
Kết quả của thị trường không phải lúc nào cũng đạt được tối ưu, đặc biệt là khi xảy ra các thất bại thị trường, điều này ảnh hưởng tiêu cực đến toàn xã hội.
Vậy ta có thể hiểu được là hoạt động của thị trường có thể gây ra những thất bại của thị trường.
Hiệu quả Pareto, được đặt theo tên của nhà kinh tế học Ý Wilfredo Pareto, là một khái niệm quan trọng trong kinh tế học phúc lợi Kinh tế học tân cổ điển và lý thuyết cạnh tranh hoàn hảo được sử dụng để đánh giá hiệu quả của thị trường thực tế, mặc dù cả hai khái niệm này đều là lý thuyết Năm 1909, Pareto đã xuất bản cuốn cẩm nang về kinh tế chính trị học, trong đó ông bàn luận về tính hiệu quả tổng thể của nền kinh tế.
Theo Pareto, một trạng thái kinh tế được xem là hiệu quả khi không thể chuyển sang trạng thái khác mà không làm cho một nhóm người trở nên khá giả hơn mà không gây thiệt hại cho nhóm còn lại.
Khi đạt được trạng thái hiệu quả Pareto, việc cải thiện lợi ích cho một nhóm người sẽ không thể thực hiện mà không gây thiệt hại cho nhóm khác.
Trong bất kỳ tình huống nào ngoài hiệu quả Pareto, việc thay đổi phân bổ nguồn lực có thể mang lại lợi ích cho ít nhất một cá nhân mà không làm thiệt hại đến ai khác Những thay đổi này, nếu đáp ứng điều kiện trên, được xem là bước tiến tới hiệu quả Pareto, và được gọi là cải tiến Pareto.
Cải tiến Pareto diễn ra khi sự thay đổi trong phân bổ không gây hại cho ai và mang lại lợi ích cho ít nhất một người trong nhóm Lý thuyết này cho rằng các cải tiến Pareto sẽ liên tục nâng cao giá trị cho nền kinh tế cho đến khi đạt trạng thái cân bằng Pareto, tại đó không thể thực hiện thêm cải tiến Pareto nào Ngược lại, khi nền kinh tế đạt hiệu quả Pareto, bất kỳ thay đổi nào trong phân bổ nguồn lực sẽ làm ít nhất một cá nhân trở nên tồi tệ hơn.
Hạn chế của nguyên lý Pareto bao gồm các yếu tố như điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, sự không quan tâm đến bất bình đẳng, yêu cầu về sự ổn định của điều kiện kinh tế vĩ mô, và giả định về một nền kinh tế đóng.
1 số ví dụ minh họa hiệu quả Pareto:
Hình 1.Hiệu quả Pareto Điểm B gọi là điểm hiệu quả Pareto Điểm này cũng là điểm mà chi phí cận biên
MC bằng MB (MC = MB) có nghĩa là doanh nghiệp sản xuất đến mức mà giá trị hàng hóa cuối cùng bằng với chi phí sản xuất Điều này đảm bảo rằng doanh nghiệp tối ưu hóa lợi nhuận bằng cách sản xuất đến điểm cân bằng giữa chi phí và giá trị.
Người tiêu dùng cũng mua lượng hàng hóa mà hàng hóa cuối cùng mang lại lợi ích bằng với giá phải trả cho nó.
Giá cả chỉ là phương tiện trao đổi, và điểm phân bổ tối ưu theo hiệu quả Pareto xảy ra khi chi phí sản xuất cận biên của tất cả hàng hóa tương đương với lợi ích cận biên mà chúng mang lại cho người tiêu dùng.
Cả nhà sản xuất và người tiêu dung đều đạt được mục đích của mình.
Trong một nền kinh tế chỉ có một sản phẩm duy nhất mà tất cả công dân đều yêu cầu, mọi trường hợp phân bổ đều đạt hiệu quả Pareto Điều này có nghĩa là không có sản phẩm nào khác có thể tạo ra tình huống tốt hơn hoặc xấu đi cho bất kỳ ai, do đó, sự phân bổ hiện tại là tối ưu.
Hãy lấy một chiếc bánh và hai người:
Hai cá nhân yêu cầu số lượng bánh tối đa, do đó chúng tôi có thể xem xét ba phương án phân bổ khác nhau.
1 Bánh được phân bổ đầy đủ cho Người A;
2 Bánh được phân bổ đầy đủ cho Người B; và
3 Bánh được chia đều cho Người A và Người B.
Để kiểm tra Hiệu quả Pareto, cần xác định xem có thể cải thiện phân bổ tài nguyên mà không làm giảm lợi ích của bên kia hay không Trong trường hợp này, khi cả hai bên đều muốn nhận phần lớn nhất từ bánh, việc tái phân bổ không thể mang lại lợi ích cho cả hai Do đó, các phân bổ này được xem là Hiệu quả Pareto.
Trong kinh tế học, hiệu quả phân bổ được xác định bởi chuẩn mực Pareto, đạt được trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo Hiệu quả Pareto xảy ra khi chi phí biên để sản xuất hàng hóa tương đương với lợi ích cận biên mà hàng hóa đó mang lại cho người tiêu dùng.
Khi thị trường không đạt được trạng thái cân bằng hiệu quả Pareto, sẽ dẫn đến thất bại thị trường Trong những trường hợp này, chính phủ cần can thiệp để khắc phục các vấn đề do thị trường gây ra.
Các nguyên nhân dẫn đến thất bại của thị trường
2.3.1 Thất bại thị trường do các ảnh hưởng hướng ra ngoài.
Ngoại ứng là chi phí hoặc lợi ích phát sinh từ hoạt động sản xuất mà người sản xuất không phải chịu trách nhiệm tài chính Nó có thể là tích cực hoặc tiêu cực, xuất phát từ việc sản xuất hoặc tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ Những chi phí và lợi ích này có thể ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức hoặc toàn xã hội.
Ngoại ứng trong nền kinh tế xảy ra khi sản xuất hoặc tiêu thụ hàng hóa hoặc dịch vụ tác động đến bên thứ ba không trực tiếp liên quan Ảnh hưởng này có thể là chi phí hoặc lợi ích từ hoạt động sản xuất hoặc tiêu dùng, làm ảnh hưởng đến những người không tham gia quyết định quy mô hoạt động đó Điều này cho thấy rằng, ngoại ứng là tác động của các hoạt động kinh tế của một bên đến bên khác mà hệ thống giá không tính đến.
Trong thực tiễn, chúng ta thường xem xét ngoại ứng trong sản xuất và ngoại ứng trong tiêu dùng :
Ngoại ứng trong sản xuất đề cập đến những tác động phát sinh từ quá trình sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ Những ảnh hưởng này thường xảy ra do con người khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách quá mức, dẫn đến những hệ quả không mong muốn cho môi trường và xã hội.
Ngoại ứng trong tiêu dùng là những tác động phát sinh từ việc tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ Quá trình tiêu dùng không chỉ đáp ứng nhu cầu mà còn tạo ra các rác thải độc hại, góp phần gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng.
Ngoại ứng có hai loại: Ngoại ứng tích cực và ngoại ứng tiêu cực
Ngoại ứng tiêu cực là chi phí không được phản ánh trong giá thị trường, ảnh hưởng đến bên thứ ba ngoài người mua và người bán Một ví dụ điển hình là ô nhiễm môi trường do các nhà máy, như nhà máy sản xuất phân đạm xả thải chưa qua xử lý ra sông hồ, gây hại cho sức khỏe cộng đồng và làm giảm lợi nhuận từ nuôi trồng thủy sản Dù gây ra thiệt hại, nhà máy không phải bồi thường, dẫn đến việc chi phí này không được tính vào giá thành sản phẩm Ngoài ra, tiêu dùng thuốc lá và thuốc phiện cũng tạo ra các ngoại ứng tiêu cực rõ rệt.
Ngoại ứng tích cực là những lợi ích không được phản ánh trong giá bán, mang lại cho bên thứ ba, như sự phát triển cơ sở hạ tầng, ví dụ như xây dựng ga điện tàu ngầm, có thể làm tăng giá bất động sản và lợi nhuận cho các đại lý Công nghệ thông tin hiện đại không chỉ mang lại lợi nhuận lớn cho các công ty mà còn cải thiện năng suất lao động và tạo ra những thay đổi tích cực trong đời sống Hơn nữa, việc đào tạo lao động và phát triển khu vực thương mại cũng là những minh chứng cho ngoại ứng tích cực Ngược lại, tiêu cực của ngoại ứng có thể thấy qua việc sử dụng hàng hóa như thuốc phòng bệnh và tiêm vắc xin, không chỉ bảo vệ sức khỏe cá nhân mà còn bảo vệ cộng đồng.
Các ngoại ứng tiêu cực tạo ra chi phí cho các bên thứ ba, trong khi ngoại ứng tích cực mang lại lợi ích cho họ Những ngoại ứng này có thể xuất hiện trong quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng Để hiểu rõ hơn về các ngoại ứng và sự khác biệt giữa chi phí và lợi ích thực tế đối với toàn xã hội, chúng ta có thể tham khảo hai ví dụ minh họa sau đây.
Khi doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, việc phát sinh chất thải ra môi trường là điều không thể tránh khỏi Nếu chất thải này không được tái chế tự nhiên, nó sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa và tạo ra chi phí cho cộng đồng Chẳng hạn, người dân sống xung quanh có thể phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh do ô nhiễm không khí và nước, từ đó phát sinh chi phí điều trị Hơn nữa, người nuôi trồng thủy sản cũng có thể chịu thiệt hại nặng nề khi cá chết do ảnh hưởng của nước thải Đây chính là chi phí biên ngoại ứng (MEC) mà xã hội phải gánh chịu.
Việc xả thải Đường MEC từ gốc tọa độ có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực, nhưng thực tế cho thấy tự nhiên có khả năng tự tái tạo một lượng chất thải nhất định Do đó, chi phí ngoại biên không thể được xác định ngay từ sản lượng đầu tiên.
Như vậy nếu tính đủ cả chi phí của doanh nghiệp lẫn chi phí ngoại ứng phải chịu thì ta có được MSC = MPC + MEC.
Chi phí cận biên xã hội (MSC) là chi phí xã hội tăng thêm khi doanh nghiệp sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm Từ góc độ xã hội, doanh nghiệp nên sản xuất tại mức sản lượng tối ưu Q* với giá bán P* Tuy nhiên, thực tế doanh nghiệp lại sản xuất ở mức Q1, dẫn đến việc sản xuất thừa với lượng là Q1 - Q*.
+Tổng lợi ích xã hội là diện tích AE1Q1O
+Tổng chi phí xã hội là diện tích OE3Q1
Phúc lợi xã hội = ABE2 – E1E2E3
+Tổng lợi ích xã hội là diện tích AE2Q*O
+Tổng chi phí xã hội là diện tích OBE2Q*
Phúc lợi xã hội = ABE2
Như vậy khi khi nsx sản xuất tại Q1 sẽ gây thiệt hại phục lợi xã hội là diện tích tam giác E1E2E3.
Khi một doanh nghiệp không tính toán các ngoại ứng tích cực vào doanh thu, như lợi ích từ trồng rừng hay cơ sở hạ tầng phục vụ cộng đồng, sản lượng sản xuất sẽ thấp hơn mức cân bằng, dẫn đến tổn thất xã hội Ví dụ, Time City không thể ghi nhận lợi ích mà người dân xung quanh nhận được, như việc có thể sử dụng không gian để chạy bộ, dẫn đến sản lượng sản xuất chỉ đạt Q1 thay vì Q” Kết quả là sự mất mát xã hội được thể hiện qua khoảng E1E2E3.
Hình 3: Ảnh hưởng tích cực do cơ sở hạ tầng tốt.
Trong hình MEB, người tiêu dùng được hưởng lợi ích ngoại ứng, trong khi MSB đại diện cho tổng lợi ích xã hội MSB bao gồm lợi ích của người mua sản phẩm MPB (Marginal Private Benefit) và lợi ích ngoại ứng mà những người không trực tiếp chi trả cũng được hưởng.
MSB, hay tổng lợi ích xã hội (Marginal Social Benefit), cho thấy rằng doanh nghiệp nên sản xuất ở mức E2 để tối ưu hóa lợi ích xã hội Tuy nhiên, do không tính đến lợi ích này, doanh nghiệp chỉ sản xuất ở mức E1, dẫn đến việc hao phí một lượng phúc lợi xã hội, được thể hiện qua đoạn E1E2E.
Qua đó ta có nhận định về ngoại ứng như sau: dù tích cực hay tiêu cực đều có chung những đặc điểm sau:
Ô nhiễm có thể phát sinh từ cả hoạt động sản xuất và tiêu dùng Một nhà máy gây ô nhiễm không chỉ phản ánh những tác động tiêu cực từ quá trình sản xuất, mà còn có thể ảnh hưởng đến môi trường xung quanh Tương tự, hành động hút thuốc của một cá nhân không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của chính họ mà còn gây nguy hiểm cho những người xung quanh, thể hiện ngoại ứng tiêu cực từ tiêu dùng.
Trong ngoại ứng, việc xác định ai gây ra tác hại hay lợi ích cho ai thường mang tính tương đối Ví dụ, khi một nhà máy xả chất thải, không chỉ có thể xem xét thiệt hại mà nhà máy gây ra cho người dân, mà còn cần phân tích tác động đến ngư trường của nông dân, khi mà hoạt động của họ bị thu hẹp do sự hiện diện của nhà máy.
Đánh giá chung
Thất bại thị trường xảy ra khi hàng hóa hoặc dịch vụ không được phân phối hiệu quả trong nền kinh tế Điều này thường do bốn nguyên nhân chính gây ra, dẫn đến sự không hiệu quả trong hoạt động của thị trường.
Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào các nguyên nhân gây ra thất bại thị trường để đảm bảo khả năng phân bổ nguồn lực hiệu quả.
Thất bại thị trường xảy ra khi các cá nhân trong một nhóm không hành động vì lợi ích cá nhân một cách lý trí, dẫn đến kết quả kém hơn Khi đó, nhóm phải chịu chi phí quá lớn hoặc nhận được lợi ích quá ít.
Các kết quả kinh tế trong tình trạng thất bại thị trường thường không đạt được mức tối ưu mà các nhà kinh tế mong đợi, dẫn đến sự không hiệu quả trong kinh tế Mặc dù khái niệm này có vẻ đơn giản, nhưng thuật ngữ liên quan có thể gây hiểu nhầm và dễ bị nhận diện sai.
Thất bại thị trường không chỉ phản ánh sự không hoàn hảo của nền kinh tế thị trường mà còn tồn tại trong các hoạt động của chính phủ.
Không phải mọi kết quả tiêu cực từ hoạt động thị trường đều được xem là thất bại thị trường Thất bại thị trường không đồng nghĩa với việc các tác nhân tư nhân không thể tìm ra giải pháp cho vấn đề phát sinh Hơn nữa, không phải tất cả các thất bại thị trường đều có thể khắc phục, ngay cả khi có sự can thiệp của quy định quản lý hoặc tăng cường nhận thức cộng đồng.
Để khắc phục các thất bại của thị trường, chính phủ - bàn tay hữu hình cần can thiệp vào nền kinh tế để khắc phục các thất bại đó.
Để khắc phục các thất bại của thị trường, chính phủ cần can thiệp vào nền kinh tế bằng cách sử dụng các công cụ như thuế, trợ cấp, điều chỉnh và kiểm soát Việc can thiệp này nhằm đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả và đạt được các mục tiêu xã hội mong muốn, đồng thời xử lý các vấn đề liên quan đến sự công bằng về thu nhập Chính phủ cần xác định cách thức sử dụng các công cụ này một cách hợp lý để cải thiện tình hình kinh tế và giảm thiểu những thất bại thị trường.
4.1 Xử lý các ngoại ứng.
Chính phủ có thể giải quyết các ngoại ứng thông qua các phương pháp như thương lượng, áp dụng thuế, cung cấp trợ cấp và thực hiện điều chỉnh Những công cụ này cũng được sử dụng để khắc phục các loại thất bại khác trong thị trường.
Giải pháp Coarse, do nhà kinh tế R Coarse đề xuất, nhấn mạnh rằng thương lượng tự nguyện giữa các bên liên quan có thể dẫn đến giải pháp hiệu quả nhất Chính phủ cần xác định quyền sở hữu tài sản để thị trường hoạt động hiệu quả cho tất cả hàng hóa và giảm thiểu chi phí thương lượng Để tối đa hóa phúc lợi xã hội, chính phủ có thể áp dụng thuế và trợ cấp nhằm loại bỏ chênh lệch giữa lợi ích xã hội cận biên và chi phí xã hội cận biên Cụ thể, chính phủ nên đánh thuế lên những hành vi mà lợi ích cá nhân vượt trội hơn lợi ích xã hội, từ đó giảm thiểu chi phí xã hội.
Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp hành chính để kiểm soát sản xuất hàng hóa và dịch vụ, bao gồm cả việc cấm sản phẩm gây ô nhiễm như DDT và thuỷ ngân Mặc dù không thể cấm hoàn toàn các hành vi gây ô nhiễm, nhưng có thể thiết lập tiêu chuẩn cho yếu tố đầu vào như nhiên liệu, tiêu chuẩn về chất thải như khí thải ô tô, và các tiêu chuẩn liên quan đến môi trường Các biện pháp này nhằm đảm bảo rằng mức độ ô nhiễm trong môi trường được giữ ở mức tối ưu gần bằng không.
Chính phủ có thể khắc phục thất bại thị trường thông qua việc cung cấp hàng hóa công cộng, với lợi thế hơn tư nhân nhờ khả năng định giá cho các sản phẩm này Để xác định số lượng hàng hóa công cộng cần sản xuất, chính phủ có thể sử dụng phương pháp bỏ phiếu để phân bổ ngân sách Mặc dù nguyên tắc bỏ phiếu theo đa số, nhưng đôi khi nó không hiệu quả vì không xem xét đúng mức sở thích của từng cá nhân.
Chính phủ có thể cung cấp hàng hóa công cộng thông qua doanh nghiệp nhà nước hoặc khuyến khích khu vực tư nhân tham gia cung cấp Dù lựa chọn nào, chính phủ cũng cần xác định nguồn lực phù hợp để thực hiện.
4.3 Khắc phục sự không hoàn hảo của thị trường.
Sự không hoàn hảo của thị trường là hiện tượng khách quan, dẫn đến giá cao và sản lượng thấp, gây ra tổn thất cho xã hội Chính vì vậy, mục tiêu chính của chính sách chính phủ trong bối cảnh cạnh tranh không hoàn hảo là điều tiết giá cả, sản lượng và lợi nhuận của các doanh nghiệp độc quyền.
Chính phủ sử dụng nhiều công cụ như thuế lợi tức, kiểm soát giá, điều tiết độc quyền, và luật chống độc quyền để đạt được các mục tiêu kinh tế Những công cụ này thường được kết hợp trong chính sách cạnh tranh nhằm đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trên thị trường.
4.4 Đảm bảo phân phối thu nhập công bằng.
Chính phủ sử dụng nhiều công cụ để đảm bảo phân phối thu nhập công bằng, bao gồm thuế, trợ cấp, điều chỉnh giá cả và đầu tư vào con người Trong đó, thuế và trợ cấp là những phương tiện trực tiếp nhất để phân phối lại thu nhập, trong khi kiểm soát giá cả có tác động phân phối lại nhưng phụ thuộc vào loại hàng hoá và dịch vụ Đầu tư vào con người mang lại tác động dài hạn hơn Thuế đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho chi tiêu cho người nghèo, như phát triển dịch vụ ở các khu vực nghèo và miễn thuế cho hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng của họ, giúp giảm bất công bằng trong phân phối thu nhập.