1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2020

107 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Công Ty Cổ Phần Theo Luật Doanh Nghiệp 2020
Tác giả Ngô Viết Huy
Người hướng dẫn PGS, TS. Ngô Quốc Chiến
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 107
Dung lượng 8,09 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN (15)
    • 1.1. Khái quát về đại diện (15)
      • 1.1.1. Khái niệm đại diện (15)
      • 1.1.2. Quan hệ pháp luật đại diện (23)
      • 1.1.3. Phân loại đại diện (25)
    • 1.2. Khái quát về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (26)
      • 1.2.1. Khái niệm người đại diện theo pháp luật (26)
      • 1.2.2. Phân loại người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (27)
      • 1.2.3. Một số đặc điểm cơ bản về đại diện của công ty cổ phần (28)
      • 1.2.4. Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (30)
    • 1.3. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần với các (32)
      • 1.3.1. Người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền (32)
      • 1.3.2. Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và người đại diện (34)
      • 1.3.3. Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và người đại diện (36)
      • 1.3.4. Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và người đại diện (38)
    • 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đại diện của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (39)
      • 1.4.1. Các yếu tố bên ngoài (39)
      • 1.4.2. Các yếu tố bên trong (40)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN (43)
    • 2.1. Thực trạng người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 (43)
      • 2.1.1. Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (43)
      • 2.1.2. trí Vị của người đại diện theo pháp luật trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần (0)
      • 2.2.1. Các quy định về năng lực hành vi dân sự (46)
      • 2.2.2. Các quy định về điều kiện cư trú (47)
      • 2.2.3. Các quy định về đăng ký (48)
      • 2.2.4. Các quy định cấm đảm nhiệm (48)
      • 2.2.5. Các quy định về điều kiện chuyên môn (49)
    • 2.3. Thực trạng quy định về phân chia quyền, nghĩa vụ giữa những người đại diện (51)
    • 2.4. Thực trạng các quy định về cơ chế giám sát người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (56)
    • 2.5. Thực trạng quy định của pháp luật về xác lập tư cách pháp lý người đại diện của công ty cổ phần tại Việt Nam (59)
      • 2.5.1. Xác lập tư cách pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (59)
      • 2.5.2. Xác lập tư cách pháp lý của người đại diện theo ủy quyền của công ty cổ phần (62)
    • 2.6. Đánh giá thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (64)
      • 2.6.1. Kết quả đạt được (64)
      • 2.6.2. Hạn chế 56 (65)
  • CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẨN (70)
    • 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (70)
    • 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về NĐDTPL của CTCP (71)
      • 3.2.1. Đề xuất hoàn thiện quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (71)
      • 3.2.2. Đề xuất hoàn thiện quy định về ủy quyền của công ty cổ phần (73)
      • 3.2.3. Giải pháp hoàn thiện quy định về phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (74)
      • 3.2.4 Giải pháp hoàn thiện quy định về trách nhiệm của từng người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (79)
      • 3.2.5. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về đại diện của công ty cổ phần và một số giải pháp hỗ trợ khác (81)
      • 3.2.5. Giải pháp xây dựng cơ chế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ (84)
    • 3.3. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp và Nhà nước (85)
      • 3.3.1. Đối với doanh nghiệp (85)
      • 3.3.2. Đối với Nhà nước (86)

Nội dung

Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.Người đại diện theo pháp luật của công tycổ phần theo Luật Doanh nghiệpnăm 2020.

KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN

Khái quát về đại diện

Trong lịch sử pháp luật, khái niệm về đại diện đã hình thành và phát triển sớm, trở thành một chế định quan trọng ở nhiều quốc gia, đặc biệt trong các quốc gia theo hệ thống common law với học thuyết riêng về đại diện Theo ngôn ngữ La tinh, “Qui facit per alium, facit per se” nghĩa là hành động của một chủ thể qua một chủ thể khác được coi là hành động của chính chủ thể đó Cuộc sống con người được xây dựng từ các quan hệ xã hội, nhưng thời gian có hạn trong khi nhu cầu thì vô hạn; do đó, đôi khi người này phải nhờ đến sự thành thạo của người khác Quan hệ đại diện hình thành từ mối quan hệ giữa người ủy quyền (principal), người đại diện (agent) và bên thứ ba (third party) Luật La Mã quy định rằng hợp đồng phải do chính các bên ký kết, không chấp nhận việc giao kết qua người đại diện do tính chất trọng hình thức của hợp đồng, gây khó khăn cho giao dịch Tuy nhiên, Luật La Mã cũng thừa nhận quan hệ đại diện ủy quyền trong thương mại, phản ánh mối quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền thực hiện công việc vì lợi ích của người ủy quyền.

Người được ủy quyền có trách nhiệm thực hiện công việc được giao và phải chịu trách nhiệm nếu gây tổn thất cho người ủy quyền Họ phải báo ngay khi gặp khó khăn và thực hiện công việc đúng với nội dung quyển quyền Khi kết thúc, họ cần báo cáo và chuyển giao các hệ quả pháp lý cho người ủy quyền Vào thế kỷ XVIII, các luật gia theo trường phái luật tự nhiên đã phát triển quan hệ đại diện ở Châu Âu trong bối cảnh thương mại phát triển Theo Konradi Zweigerti và Heini Koetz, phương thức đại diện là cần thiết trong mọi chế độ phát triển dựa trên phân công lao động Việc không làm vô hiệu hóa hợp đồng qua người đại diện rất quan trọng, vì nó thúc đẩy phân công lao động xã hội và tăng cường giao lưu dân sự, đồng thời giúp các chủ thể thuận tiện hơn trong giao kết hợp đồng.

Luật đại diện tại Hoa Kỳ xác định rằng mọi hành động của một người thay mặt cho người khác đều phải tuân theo các quy tắc xã hội đã được công nhận Nếu không có luật đại diện, mọi cá nhân phải tự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, gây khó khăn cho hoạt động của các công ty và tổ chức Theo Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 1995, đại diện được hiểu là một hợp đồng cho phép một người hành động thay cho người khác Điều này cho thấy nhu cầu về đại diện đã được xã hội chấp nhận và pháp luật ghi nhận Trong lĩnh vực dân sự và thương mại, nếu không có quan hệ đại diện, cá nhân không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ, đặc biệt là khi chưa đủ tuổi hoặc không có năng lực Hơn nữa, các công ty và tổ chức không thể hình thành nếu không có người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ Đối với công ty cổ phần, pháp luật tại các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển rất quan tâm đến vấn đề đại diện, vì công ty cổ phần là một thực thể pháp lý độc lập và chỉ có thể hành động thông qua người quản lý cụ thể Do đó, việc có người đại diện trong giao dịch là cần thiết để xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty.

Lý thuyết pháp nhân cổ điển khẳng định rằng công ty cổ phần (CTCP) là một pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ được xác định bởi ý chí của nhà lập pháp Do không thể tự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, năng lực hành vi của CTCP cần được thể hiện qua hành vi của người đại diện Hơn nữa, sự phân tách giữa quyền sở hữu của cổ đông và quản lý công ty tạo nền tảng cho lý thuyết về mối quan hệ giữa chủ sở hữu (cổ đông) và người đại diện (người quản lý) Quan hệ này được coi như một hợp đồng, trong đó cổ đông bổ nhiệm người khác để quản lý công ty, bao gồm cả quyền quyết định tài sản của công ty.

Triết lý về đại diện của công ty cổ phần (CTCP) nhấn mạnh rằng người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty không thể chỉ dựa vào ủy quyền từ chủ sở hữu Ý chí của từng thành viên chủ sở hữu có thể khác nhau, và chỉ được coi là ý chí của công ty khi thỏa mãn các điều kiện pháp luật hoặc điều lệ công ty thông qua tỷ lệ biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông Chỉ khi ý chí của chủ sở hữu được thông qua hợp pháp thì người đại diện theo pháp luật mới có nghĩa vụ thực hiện Hơn nữa, việc thay đổi người đại diện cũng chỉ có thể diễn ra khi có nghị quyết hợp pháp Điều này khẳng định rằng ý chí của đại diện chỉ được công nhận khi đại diện cho một tỷ lệ vốn nhất định của công ty Thuật ngữ đại diện trong thực tiễn và khoa học thường được nghiên cứu từ nhiều góc độ, đặc biệt là kinh tế học và luật học.

Dưới góc độ kinh tế học, lý thuyết đại diện (agency theory) tập trung vào việc giải quyết xung đột giữa người đại diện và chủ sở hữu công ty, đặc biệt là trong các công ty cổ phần (CTCP) Các nhà kinh tế học nghiên cứu sự phân chia rủi ro giữa cổ đông (bên ủy quyền) và người đại diện, với mục tiêu và phân công lao động khác nhau Thông tin không hoàn hảo và không đối xứng giữa hai bên dẫn đến hành vi cơ hội của người đại diện, bao gồm hành vi trước và sau khi ký hợp đồng Hành vi cơ hội trước hợp đồng được gọi là sự lựa chọn nghịch, trong khi hành vi sau hợp đồng liên quan đến việc không tuân thủ điều khoản hợp đồng được gọi là rủi ro đạo đức Sự tồn tại của thông tin không hoàn hảo và không đối xứng tạo ra chi phí cho người đại diện Jensen và Meckling nhận định rằng lý thuyết đại diện liên quan đến hợp đồng giữa cổ đông và người đại diện, trong đó cả hai bên đều có động lực tối đa hóa lợi ích, nhưng không phải lúc nào người đại diện cũng hành động vì lợi ích của chủ sở hữu.

Lý thuyết người đại diện trong kinh tế học nghiên cứu việc xây dựng hợp đồng giữa chủ sở hữu công ty và người đại diện, nhằm giảm chi phí đại diện Lý thuyết này chia thành hai nhánh: nghiên cứu thực chứng và nghiên cứu chuẩn tắc, với mục tiêu và giả thiết tương tự về con người, tổ chức và thông tin Nghiên cứu thực chứng đưa ra kết luận từ khảo sát doanh nghiệp, trong khi nghiên cứu chuẩn tắc dựa vào mô hình hóa và phân tích toán học Cả hai nhánh đều tập trung vào việc xây dựng hệ thống động viên và theo dõi để người đại diện hành xử tối ưu hóa lợi ích cho người ủy quyền, đồng thời giảm chi phí đại diện trong điều kiện thông tin không hoàn hảo thông qua các cơ chế thị trường.

Các kết quả nghiên cứu thực chứng và nghiên cứu lý thuyết đại diện bổ sung cho nhau, dẫn đến một số kết luận quan trọng.

Không thể có một hợp đồng hoàn hảo giữa người ủy quyền (chủ sở hữu công ty) và người đại diện, do đó vấn đề đại diện luôn dẫn đến chi phí được gọi là chi phí người đại diện.

Có hai loại hợp đồng đại diện: dựa trên kết quả và dựa trên hành vi Hợp đồng dựa trên kết quả khuyến khích người đại diện hành xử vì lợi ích của người ủy quyền, giúp kiềm chế hành vi cơ hội của họ Tuy nhiên, khi người ủy quyền không chắc chắn về kết quả của người đại diện, hợp đồng dựa trên kết quả sẽ không còn phù hợp.

Người đại diện thường hành xử vì lợi ích của người ủy quyền khi người ủy quyền có hệ thống thông tin để kiểm tra hoạt động của họ.

Chi phí đại diện tăng lên khi người đại diện không nắm giữ hoặc chỉ nắm giữ một lượng cổ phiếu nhỏ của công ty Ngược lại, khi tỷ lệ sở hữu của người đại diện trong công ty tăng, hành vi cơ hội của họ sẽ giảm bớt.

+ Sự né i tránh rủi ro i của người đại diện i tăng lên giữa hợp đồng i dựa trên hành vi và giảm i đi với hợp đồng i dự trên kết i quả.

Dưới góc độ luật học, đại diện là quan hệ ủy nhiệm giữa người đại diện và người được đại diện, trong đó người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện Các hành vi của người đại diện trong phạm vi đại diện sẽ tạo ra quyền và nghĩa vụ pháp lý, thuộc về người được đại diện trong các giao dịch với bên thứ ba.

Pháp luật của các quốc gia, dù có sự khác biệt trong nội dung và cách tiếp cận, đều chú trọng điều chỉnh mối quan hệ đại diện, tập trung vào những nhóm nội dung chính.

- Khái niệm i đại diện, người đại ii diện, người được i đại diện;

- Các loại đại i diện, các loại i người đại i diện;

- Phạm vi đại i diện, thẩm quyền i đại diện;

- Quyền và nghĩa i vụ của người đại i diện, người được i đại diện;

Nghĩa vụ, trách i nhiệm pháp i lý của người i đại diện, người được i đại diện i đối với người i thứ ba;

Chấm dứt quan hệ đại diện là một vấn đề quan trọng trong pháp luật, liên quan đến việc điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh khi một người đại diện cho người khác để thực hiện giao dịch Pháp luật về đại diện không chỉ quy định về mối quan hệ giữa các bên mà còn xác định quyền và nghĩa vụ của người đại diện và người được đại diện trong quá trình xác lập giao dịch.

Khái quát về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần

1.2.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật

Trước đây, Bộ luật Dân sự (BLDS) và Luật Doanh nghiệp năm 2005 chưa làm rõ khả năng đại diện của tổ chức hay pháp nhân Điều này xuất phát từ việc trong tiếng Việt có hai từ "người" (thuần Việt) và "nhân" (Hán Việt) Trong khi BLDS, một đạo luật gốc của hệ thống luật tư, sử dụng hai từ Hán Việt để chỉ chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là cá nhân và pháp nhân, thì Luật Doanh nghiệp và một số đạo luật chuyên ngành khác lại sử dụng từ "người" Tác giả cho rằng hai từ "người" và "nhân" cần được hiểu là đồng nghĩa, do đó, dù pháp luật Doanh nghiệp có sử dụng từ nào, vẫn có thể hiểu rằng tổ chức hay pháp nhân có thể đại diện trong các quan hệ pháp luật.

“người đại diện” thì “người” đó phải bao gồm cả cá nhân và pháp nhân.

Theo tác giả, thuật ngữ "thể nhân" nên được sử dụng thay vì "cá nhân" vì "thể nhân" chính xác hơn để chỉ con người sinh học, phân biệt với "pháp nhân" - những thực thể pháp lý không phải là người tự nhiên Trong tiếng Anh, "physique person" chỉ con người sinh học, còn "legal person" chỉ pháp nhân Tương tự, tiếng Pháp sử dụng "personne physique" và "personne morale" Tuy nhiên, do pháp luật Việt Nam đã quy định từ "cá nhân", tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ này trong luận văn để tránh hiểu lầm.

Khảo sát pháp luật từ một số quốc gia trong hệ thống Common Law và Civil Law cho thấy từ "người" được hiểu rộng rãi, bao gồm cả cá nhân (người sinh học) và tổ chức (người pháp luật).

NĐD theo pháp luật được định nghĩa là cá nhân hoặc pháp nhân, thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác, được gọi là người được đại diện Các hoạt động này bao gồm việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt và chuyển giao các giao dịch dân sự.

1.2.2 Phân loại người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần i

Người đại i diện theo pháp i luật của công i ty cổ phần

Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của công ty Họ đại diện cho công ty trong vai trò nguyên đơn, bị đơn, hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án, cùng với các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật, với số lượng và chức danh được quy định trong điều lệ công ty Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ cụ thể, và nếu vi phạm các nghĩa vụ này, họ sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân về những thiệt hại gây ra.

- Thực hiện i các quyền và nghĩa i vụ được giao một cách i trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm i bảo đảm lợi ích hợp pháp i của công i ty cổ phần;

Nhân viên cần trung thành với lợi ích của công ty cổ phần, không được sử dụng thông tin, bí quyết hay cơ hội kinh doanh của công ty vào mục đích cá nhân Họ cũng không được lạm dụng vị trí, chức vụ để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác, đồng thời phải bảo vệ tài sản của công ty.

Thông báo kịp thời, đầy đủ và chính xác cho CTCP về việc người đại diện và những người có liên quan đến họ, bao gồm việc sở hữu hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các CTCP khác là rất quan trọng.

Quan hệ đại diện trong Công ty Cổ phần (CTCP) bao gồm hai loại đại diện: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền Pháp luật quy định rõ về các hình thức đại diện này, cụ thể là Nghị định về Đại diện theo pháp luật (NĐDTPL) và Nghị định về Đại diện theo ủy quyền (NĐD theo ủy quyền).

NĐDTPL của CTCP đại diện cho công ty thực hiện các giao dịch nhằm mang lại lợi ích cho công ty, bao gồm các hoạt động với đối tác, khách hàng và cơ quan Nhà nước.

NĐD theo ủy quyền của CTCP là người được ủy quyền thực hiện các giao dịch với bên thứ ba, thường có quan hệ ổn định và lâu dài, với thẩm quyền rộng và thời gian dài Tuy nhiên, CTCP cũng có thể ủy quyền cho cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện công việc cụ thể, dẫn đến thẩm quyền hẹp và thời gian ngắn hơn Khảo sát Luật DN năm 2020 cho thấy quan hệ ĐDTPL của CTCP được quy định chi tiết, trong khi quan hệ đại diện theo ủy quyền vẫn chưa được luật này quan tâm đầy đủ, có thể do sự giao thoa giữa Luật DN và BLDS.

1.2.3 Một số đặc điểm cơ bản về đại diện của công ty cổ phần Đại diện của CTCP có các đặc điểm sau:

Trong quan hệ đại diện của Công ty Cổ phần (CTCP), chủ thể bao gồm người đại diện theo pháp luật (NĐDTPL) và người đại diện theo ủy quyền (NĐD) NĐDTPL phải là cá nhân, và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL NĐD theo ủy quyền có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, nhưng người được đại diện luôn là CTCP Điều này có nghĩa là CTCP là một bên trong mọi quan hệ đại diện, bao gồm cả đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền Các giao dịch dân sự được thực hiện bởi NĐD của CTCP với bên thứ ba sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ cho CTCP với tư cách là người được đại diện.

8 Tác giả sẽ phân tích sự chưa đầy đủ này tại chương 2.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, các quan hệ đại diện trong trường hợp ủy quyền theo vụ việc sẽ được áp dụng chủ yếu theo các điều khoản của bộ luật này, đặc biệt khi không có quy định trong Điều lệ của Công ty Cổ phần (CTCP) Đồng thời, việc ủy quyền thực hiện quyền cổ đông tại Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) không nằm trong phạm vi đại diện của CTCP.

Quan hệ đại diện giữa công ty cổ phần (CTCP) và nhà đầu tư (NĐD) chủ yếu dựa trên quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều lệ công ty hoặc văn bản ủy quyền Trong đó, NĐD đồng ý với CTCP về phạm vi công việc và quyền hạn đại diện, tạo nên cơ sở pháp lý cho mối quan hệ này.

Thù lao đại diện cho NĐDTPL của CTCP được xác định là một khoản thu nhập cố định, thường được ghi trong điều lệ hoặc hợp đồng lao động Khi thực hiện hoạt động đại diện, NĐDTPL sẽ nhận thù lao, trong khi thù lao cho NĐD theo ủy quyền phụ thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, có thể là khoản cố định hàng tháng hoặc theo từng vụ việc cụ thể.

Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần với các

1.3.1 Người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền

NĐDTPL của CTCP là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp, thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch của CTCP Cá nhân này không chỉ đại diện cho tổ chức mà còn đóng vai trò là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước tòa án, trọng tài, đồng thời thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

NĐD theo ủy quyền của CTCP là cá nhân được ủy quyền bởi NĐDTPL hoặc hội đồng quản trị, với chức danh, quyền và nghĩa vụ được quy định trong văn bản ủy quyền Để trở thành NĐD theo ủy quyền của CTCP, cá nhân cần đáp ứng các điều kiện cụ thể.

Để thành lập và quản lý doanh nghiệp, người sáng lập phải từ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Ngoài ra, họ cũng không được thuộc đối tượng bị cấm theo quy định của pháp luật.

Theo quy định, thành viên và cổ đông của doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết không được cử người có quan hệ gia đình với quản lý công ty hoặc người có thẩm quyền bổ nhiệm quản lý công ty làm người đại diện tại công ty khác.

Bốn là, tiêu chuẩn i và điều kiện khác do Điều lệ công ty quy định

Theo Điều 14 của Luật Doanh Nghiệp 2020, chủ sở hữu doanh nghiệp, thành viên và cổ đông công ty có quyền ủy quyền cho người đại diện Giấy ủy quyền phải được lập dưới dạng văn bản, bao gồm thông tin về người ủy quyền (công ty, doanh nghiệp), người được ủy quyền, thời hạn ủy quyền, nội dung và phạm vi ủy quyền, cũng như quyền và nghĩa vụ của cả hai bên.

Do đó, có thể thấy giữa NĐDTPL của CTCP và NĐD theo ủy quyền của CTCP có một i số điểm khác biệt cơ bản như sau:

NĐDTPL của CTCP được pháp luật trao quyền quản lý tài sản và con dấu của công ty, cho phép thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhân danh CTCP Trong khi đó, NĐD theo ủy quyền chỉ được thực hiện một hoặc một số quyền và nghĩa vụ nhất định theo phạm vi ủy quyền từ NĐDTPL, không có quyền tự động nhân danh CTCP cho các quyền và nghĩa vụ liên quan đến công ty.

NĐDTPL của CTCP có quyền ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, ví dụ như Chủ tịch HĐQT có thể ủy quyền cho phó giám đốc Nếu NĐDTPL vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày, họ phải ủy quyền cho người khác đại diện Tuy nhiên, người được ủy quyền không được phép ủy quyền lại cho người khác trừ khi có sự đồng ý của người ủy quyền.

Theo quy định, NĐDTPL của CTCP không nhận thù lao đại diện mà chỉ nhận thù lao chức vụ Trong khi đó, NĐD được ủy quyền bởi CTCP có thể nhận thù lao đại diện, và mức thù lao này sẽ được các bên thỏa thuận.

Thời hạn đại diện của NĐDTPL của CTCP liên quan đến nhiệm kỳ hoặc được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp, quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng lao động của chủ sở hữu công ty Đối với thời hạn đại diện của NĐD theo ủy quyền, thời gian này được thể hiện rõ trong văn bản ủy quyền; nếu không ghi rõ, pháp luật quy định thời hạn ủy quyền là một năm kể từ ngày ký.

Theo quy định về điều kiện cư trú tại Việt Nam, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải cư trú tại Việt Nam Tuy nhiên, người đại diện được ủy quyền không bị ràng buộc bởi điều kiện cư trú này.

Trong một công ty cổ phần (CTCP), địa vị pháp lý của nhà đầu tư cá nhân (NĐDTPL) và nhà đầu tư theo ủy quyền của CTCP có sự khác biệt rõ rệt Sự khác biệt này là hợp lý, nhằm phân định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bên khi tham gia vào quan hệ đại diện cho CTCP.

1.3.2 Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và người đại diện theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị - xã hội

CTCP, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức chính trị xã hội đều là những tổ chức có tư cách pháp nhân Vì vậy, các tổ chức này cần cử ra người đại diện theo pháp luật để thực hiện quyền và nghĩa vụ cũng như xác lập các giao dịch pháp lý thay mặt cho mình.

Theo Điều 14 của Luật Doanh Nghiệp 2020, doanh nghiệp có quyền giao dịch với bên thứ ba Tuy nhiên, giữa nghị định điều chỉnh pháp lý của doanh nghiệp và nghị định của cơ quan tổ chức vẫn tồn tại những điểm khác biệt đáng chú ý.

Tư cách đại diện của NĐDTPL trong CTCP được xác định theo quy định của Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty Trong khi đó, đối với NĐDTPL của các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập hoặc tổ chức chính trị xã hội, tư cách đại diện được hình thành dựa trên các quy định pháp luật tương ứng và thông qua bầu cử hoặc bổ nhiệm bởi cơ quan có thẩm quyền theo quy trình nhất định.

Về luật áp dụng: NĐDTPL của CTCP chịu sự điều chỉnh của BLDS và Luật

Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đại diện của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần

Hoạt động đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (CTCP) bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm pháp luật, quy chế quản trị nội bộ, môi trường kinh tế, văn hóa và xã hội, cũng như chế độ đãi ngộ.

1.4.1 Các yếu tố bên ngoài

Nhà nước cần xây dựng một hệ thống pháp luật chất lượng, minh bạch và rõ ràng để đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng và văn minh cho doanh nghiệp Hệ thống pháp luật này không chỉ giúp các doanh nghiệp hoạt động một cách chân chính và có trách nhiệm mà còn tạo ra sự răn đe cần thiết Nếu pháp luật không đủ mạnh và hoàn thiện, nó sẽ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư Do đó, việc tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố pháp luật và công tác quản lý của Nhà nước.

Các công ty cổ phần (CTCP) cần nhận thức rõ rằng chỉ một thay đổi nhỏ trong hệ thống pháp luật như thuế và đầu tư có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh Do đó, pháp luật cần có những quy định rõ ràng để yêu cầu CTCP tuân thủ Việc hiểu rõ tinh thần và các quy định của pháp luật là rất quan trọng, giúp các CTCP chủ động đưa ra các đối sách kịp thời nhằm đối phó với nguy cơ từ những thay đổi pháp lý, từ đó tránh được thiệt hại do thiếu hiểu biết về pháp lý trong kinh doanh.

1.4.1.2 Môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội

Môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách cá nhân, bao gồm các chuẩn mực và giá trị được xã hội hoặc nền văn hóa chấp nhận Một môi trường trong sạch, lành mạnh sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội Sự thay đổi của các yếu tố văn hóa xã hội thường diễn ra chậm hơn so với các yếu tố khác do ảnh hưởng lâu dài, và có tính chất tinh tế, khó nhận biết Do đó, các nhà quản trị cần chú ý đến sự tác động rộng rãi của các yếu tố văn hóa xã hội, vì hiểu biết về chúng là cơ sở quan trọng trong quản trị chiến lược tại các công ty cổ phần.

1.4.2 Các yếu tố bên trong

1.4.2.1 Quản trị nội bộ của công ty cổ phần

Yếu tố bên trong đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại của CTCP, chủ yếu là tổ chức nội bộ của công ty Tổ chức này được thiết lập để tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thực hiện sứ mệnh, mục tiêu và chiến lược dài hạn Nó bao gồm các giá trị niềm tin, chuẩn mực, quy định và nguyên tắc, nhằm định hướng kết quả và hành vi của người lao động trong CTCP.

Quản trị nội bộ của CTCP được tổ chức theo cấu trúc riêng biệt, nhằm đảm bảo các hoạt động được thực hiện hiệu quả Quản trị không chỉ là phân chia quyền lực mà còn là khả năng điều phối và dẫn dắt những người dưới quyền thực hiện công việc một cách hiệu quả, hướng tới mục tiêu chung của tổ chức.

1.4.2.2 Chế độ đãi ngộ của các công ty cổ phần

Thù lao và chế độ phúc lợi đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của người đại diện cho cổ đông tại các công ty cổ phần (CTCP) Những CTCP có chế độ đãi ngộ thấp thường không đạt hiệu quả cao trong công việc, trong khi những CTCP có đãi ngộ tốt lại có xu hướng hoạt động hiệu quả hơn Do đó, để đảm bảo hiệu quả công việc của người đại diện cổ đông, các CTCP cần chú trọng đến vấn đề đãi ngộ Hình thức đãi ngộ có thể bao gồm tiền lương, tiền thưởng và các hỗ trợ như nhà ở, phương tiện đi lại Một số CTCP còn phát hành cổ phần không tự do chuyển nhượng cho người đại diện cổ đông nhằm tăng cường sự gắn bó của họ với công ty.

Trong chương 1, tác giả phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến Nguồn Đầu Tư của Doanh Nghiệp, đặc biệt là Nguồn Đầu Tư Tài Chính của Công Ty Cổ Phần, nhằm xây dựng nền tảng và cơ sở cho nghiên cứu sâu hơn về Nguồn Đầu Tư Tài Chính của Công Ty Cổ Phần trong chương 2.

Dựa trên các phân tích ở chương 1, có thể khẳng định rằng NĐDTPL của CTCP là một quy định quan trọng, do đó, cả ở nhiều quốc gia và tại Việt Nam, quy định này được pháp luật quản lý một cách chặt chẽ.

Trong bối cảnh kinh tế và quản trị, NĐTPL có vai trò thiết yếu đối với sự thành công của công ty cổ phần (CTCP) Để đạt được thành công, các CTCP cần chú trọng đến những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NĐTPL, bao gồm môi trường pháp luật, môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội, và đặc biệt là chế độ đãi ngộ dành cho NĐTPL.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẨN

Ngày đăng: 02/10/2022, 21:49

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w