GIỚ I THI Ệ U
Lý do chọn đề tài
Thị trường chứng khoán là yếu tố thiết yếu của nền kinh tế thị trường hiện đại, được coi như "Hàn thử biểu" phản ánh tình hình kinh tế Mọi biến động về kinh tế, chính trị và xã hội đều ảnh hưởng ngay lập tức đến thị trường chứng khoán, thể hiện qua sự thay đổi của các chỉ số giá chứng khoán Do đó, nhiều nghiên cứu quốc tế đã phân tích tác động của các biến kinh tế vĩ mô đến giá chứng khoán, điển hình như nghiên cứu của Asmy, Mohamed; Rohilina, Wisam; Hassama, Aris và Fouad, Md (2009) về thị trường Malaysia trong giai đoạn trước và sau khủng hoảng 1997.
Trong giai đoạn 1995 và 1999-2007, lạm phát có mối tương quan dương, trong khi cung tiền lại có mối tương quan âm Tỷ giá hối đoái thể hiện mối tương quan dương trước khủng hoảng, nhưng chuyển sang tương quan âm sau khủng hoảng với chỉ số KLCI.
Christopher Gan và các cộng sự (2006) đã nghiên cứu thị trường chứng khoán New Zealand từ năm 1990 đến 2003, cho thấy GDP và giá dầu bán lẻ có mối quan hệ đồng biến với chỉ số NZSE40, trong khi chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất, cung tiền và tỷ giá hối đoái có mối quan hệ nghịch biến Adnan Hussain và các đồng nghiệp (2009) đã phân tích thị trường chứng khoán Karachi từ 1989 đến 2009, phát hiện mối quan hệ dài hạn cùng chiều giữa chỉ số sản xuất công nghiệp, tỷ giá hối đoái thực, dự trữ ngoại hối, cung tiền và chi tiêu tổng tài sản cố định với giá cổ phiếu, trong khi lãi suất và lạm phát có ảnh hưởng không đáng kể Komain Jiranyakul (2009) đã thực hiện nghiên cứu trên thị trường Thái Lan giai đoạn 1993-2007, cho thấy GDP, cung tiền và tỷ giá có tác động đồng biến đáng kể, trong khi lạm phát có tác động nghịch biến không đáng kể Khaled Hussainey và Le Khanh Ngoc (2009) đã khảo sát tác động của các chỉ báo vĩ mô lên giá chứng khoán tại Việt Nam và Mỹ từ 1/2001 đến 4/2008, cho thấy giá trị sản xuất công nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến giá chứng khoán, trong khi lãi suất ngắn hạn có tác động trái chiều Những nghiên cứu này cho thấy kết quả không đồng nhất giữa các quốc gia do sự khác biệt về nền kinh tế và đặc điểm thị trường chứng khoán Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu "Tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá chứng khoán Việt Nam", nhằm phân tích tác động của các nhân tố này lên VN-Index và HNX-Index để có cái nhìn toàn diện hơn về mối quan hệ này.
M ục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứ u
Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến giá chứng khoán trên hai thị trường Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Nghiên cứu nhằm làm rõ mối quan hệ giữa các biến số kinh tế và diễn biến giá chứng khoán, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư và các bên liên quan.
Hà Nội nhằm so sánh, đánh giá mức độ tác động từ đó đƣa ra các giải pháp, kiến nghị về các chính sách kinh tế vĩ mô.
Với mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn này tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu:
Một là: Có hay không sự tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên giá chứng khoán Việt Nam?
Hai là: Mức độ ảnh hưởng trong ngắn hạn và dài hạn của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên giá chứng khoán Việt Nam?
Đối tƣ ợng và phạm vi nghiên cứ u
1.3.1 Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài hướng đến nghiên cứu các đối tượng sau:
- Chỉ số giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam: bao gồm cả chỉ số VN-Index và HNX-Index.
Các nhân tố kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lãi suất, lạm phát, chỉ số sản xuất công nghiệp, cung tiền và giá vàng đều có ảnh hưởng đáng kể đến hai chỉ số giá chứng khoán Những biến động trong các yếu tố này có thể dẫn đến sự thay đổi trong tâm lý nhà đầu tư và quyết định đầu tư, từ đó tác động đến giá trị của các loại chứng khoán trên thị trường.
- Đề tài nghiên cứu trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX).
- Chỉ số giá chứng khoán VN-Index (thu thập từ sàn HOSE) và HNX-Index (thu thập từ sàn HNX) giai đoạn 2006-2012.
Trong giai đoạn 2006-2012, các chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số giá vàng, lãi suất, tỷ giá, lạm phát và cung tiền đã được thu thập từ Tổng cục Thống kê Việt Nam và hệ thống cơ sở dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IFS-IMF) Những thông tin này đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích tình hình kinh tế và tài chính của Việt Nam trong khoảng thời gian này.
Phương pháp nghiên cứu để phân tích chuỗi dữ liệu thời gian bao gồm các bước quan trọng như kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định đồng liên kết, và mô hình véctơ hiệu chỉnh sai số VECM, nhằm thể hiện mối quan hệ dài hạn giữa các biến Bên cạnh đó, mô hình hiệu chỉnh sai số ECM được sử dụng để thể hiện mức độ hiệu chỉnh trong ngắn hạn Các phương pháp khác như kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger, phân rã phương sai và hàm phản ứng đẩy cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và hiểu rõ hơn về các mối quan hệ trong chuỗi dữ liệu thời gian.
1.5 Bố cục của luận văn
Bố cục của bài luận văn bao gồm 5 chương được trình bày như sau:
Chƣ ơng I Giới thiệu (Introdution)
Chư ơng II Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây (Literature review)
Chư ơng III Phương pháp nghiên cứu (Methodology and data)
Chƣ ơng IV Kết quả nghiên cứu (Results)
Chƣ ơng V Kết luận (Conclusions)
B ố c ụ c c ủ a lu ận văn
Bố cục của bài luận văn bao gồm 5 chương được trình bày như sau:
Chƣ ơng I Giới thiệu (Introdution)
Chư ơng II Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây (Literature review)
Chư ơng III Phương pháp nghiên cứu (Methodology and data)
Chƣ ơng IV Kết quả nghiên cứu (Results)
Chƣ ơng V Kết luận (Conclusions)
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Các nghiên cứ u th ự c nghi ệ m
The study by Asmy, Mohamed; Rohilina, Wisam; Hassama, Aris; and Fouad, Md (2009) investigates the short-term and long-term causal relationships between the Kuala Lumpur Composite Index (KLCI) and selected macroeconomic variables, specifically inflation, money supply, and nominal exchange rates This analysis focuses on two distinct periods: before and after the 1997 financial crisis, covering the years 1987-1995 and 1999-2007.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối tương quan dương giữa tỷ lệ lạm phát và giá cổ phiếu trong dài hạn, trong khi đó, mối tương quan âm giữa cung tiền và giá chứng khoán có thể xuất phát từ việc tăng cung tiền dẫn đến lạm phát trong tương lai, làm giảm giá cổ phiếu Đối với tỷ giá, có sự khác biệt rõ rệt trước và sau cuộc khủng hoảng, với mối tương quan dương trước khủng hoảng và âm sau khủng hoảng Mô hình hiệu chỉnh sai số ECM cho thấy mức độ hiệu chỉnh là 30,28% trước khủng hoảng và 27,6% sau khủng hoảng, cho thấy sự điều chỉnh này diễn ra chậm, trừ khi có các cú sốc khác xảy ra đồng thời với cú sốc ban đầu.
Nghiên cứu của Adnan Hussain, Irfan Lal và Muhammad Mubin về mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô và giá chứng khoán tại thị trường chứng khoán Karachi (KSE) trong giai đoạn 1989-2009 cho thấy rằng có sự tác động đáng kể của bảy biến kinh tế vĩ mô, bao gồm tỷ giá hối đoái thực, dự trữ ngoại hối, chỉ số sản xuất công nghiệp, chi tiêu tổng tài sản cố định, cung tiền M2, lãi suất trái phiếu chính phủ 3 tháng và chỉ số giá bán buôn (thay thế cho lạm phát) đến chỉ số giá chứng khoán Karachi Nghiên cứu sử dụng dữ liệu hàng tháng để phân tích mối quan hệ dài hạn này.
Có một mối quan hệ dài hạn giữa chỉ số sản xuất công nghiệp, tỷ giá hối đoái thực, dự trữ ngoại hối, cung tiền và chi tiêu tổng tài sản cố định với giá cổ phiếu Trong khi đó, lãi suất không có mối quan hệ đáng kể, và lạm phát có tương quan âm với giá cổ phiếu trong dài hạn.
Nghiên cứu cho thấy rằng lạm phát ảnh hưởng lớn trong sự bất ổn định giá cổ phiếu.
Sự gia tăng sản xuất công nghiệp có thể thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn Pakistan Do đó, các cơ quan có thẩm quyền nên xem xét xây dựng chính sách hỗ trợ giá cổ phiếu bằng cách khuyến khích hoạt động sản xuất công nghiệp.
Nghiên cứu của Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong và Jun Zhang (2006) phân tích mối quan hệ giữa bảy biến kinh tế vĩ mô và giá chứng khoán tại thị trường New Zealand từ năm 1990 đến 2003 Sử dụng dữ liệu hàng tháng, nghiên cứu xem xét các yếu tố như tỷ giá hối đoái, chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cung tiền (M1), lãi suất ngắn hạn, lãi suất dài hạn và giá dầu bán lẻ Kết quả cho thấy sự tương tác giữa các biến kinh tế vĩ mô và chỉ số giá chứng khoán New Zealand trong giai đoạn nghiên cứu.
Nghiên cứu kiểm định đồng liên kết Johansen cho thấy có mối quan hệ dài hạn giữa chỉ số NZSE40 và các biến số kinh tế vĩ mô Cụ thể, GDP và giá dầu bán lẻ trong nước có xu hướng đồng biến với NZSE40, trong khi chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất, cung tiền và tỷ giá hối đoái lại có mối quan hệ nghịch biến với chỉ số này.
Trong giai đoạn 1990-2003, NZSE40 chịu tác động mạnh mẽ từ lãi suất, cung tiền và GDP thực Nghiên cứu cho thấy rằng tâm lý đầu tư tại New Zealand phản ánh sự ảnh hưởng từ các thị trường chứng khoán lớn khác như Hàn Quốc, Mỹ và Nhật Bản Do đó, các nhà đầu tư tại New Zealand nên chú trọng hơn đến các yếu tố kinh tế vĩ mô thay vì chỉ tập trung vào tỷ giá và chỉ số lạm phát (CPI).
Thị trường chứng khoán New Zealand, mặc dù nhỏ hơn so với các thị trường chứng khoán của nhiều quốc gia đang phát triển khác, lại rất nhạy cảm với các yếu tố kinh tế vĩ mô toàn cầu cũng như những biến động kinh tế từ các đối tác thương mại lớn.
Mehmet Gençtürk, İsmail Çelik, and Ömer Binici conducted a study in 2011 examining the causal relationship between macroeconomic variables and the stock index in emerging economies, specifically focusing on the Istanbul Stock Exchange (ISE) in Turkey Their research highlights the interplay between the stock market and key macroeconomic factors such as exchange rates, providing valuable insights into the dynamics of financial markets in developing nations.
CPI, lãi suất, chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn từ tháng 5/2005 - 7/2011.
Nghiên cứu cho thấy không có mối quan hệ dài hạn giữa giá cổ phiếu ISE và các biến số kinh tế vĩ mô như lãi suất, tỷ giá và chỉ số giá tiêu dùng Tuy nhiên, có một mối quan hệ cùng chiều dài hạn giữa ISE và sản xuất công nghiệp.
Andreas Humpe, Peter Macmillan, Can macroeconomic variables explain long term stock market movements?A comparison of the US and Japan (2007):
Nghiên cứu mối quan hệ dài hạn giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô như giá trị sản xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, và lãi suất dài hạn với giá chứng khoán tại Hoa Kỳ cho thấy sự tương tác phức tạp giữa chúng Các biến này không chỉ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán mà còn phản ánh tình hình kinh tế tổng thể Việc phân tích mối liên hệ này có thể giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định thông minh hơn trong việc đầu tư vào chứng khoán.
Kỳ và Nhật theo số liệu tháng từ 1965 - 2005.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trên thị trường Mỹ, có ít nhất một véctơ đồng liên kết, cho thấy giá cổ phiếu chịu ảnh hưởng tích cực từ giá trị sản xuất công nghiệp, trong khi lại bị tác động tiêu cực bởi lạm phát và lãi suất dài hạn Đối với thị trường Nhật Bản, giá cổ phiếu cũng có mối quan hệ tích cực với giá trị sản xuất công nghiệp, nhưng lại có quan hệ ngược chiều với cung tiền.
Anokye Mohammed Adam và George Tweneboah đã nghiên cứu vai trò của các biến số kinh tế vĩ mô trong sự biến động của thị trường chứng khoán tại Ghana từ tháng 1/1991 đến tháng 12/2006 Nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa chỉ số giá chứng khoán, biến phụ thuộc, và các biến giải thích như chỉ số giá hàng hóa tiêu dùng, tỷ giá hối đoái và lãi suất.
Kết quả kiểm định đồng liên kết và mô hình VECM chỉ ra rằng lạm phát có mối quan hệ tích cực với chỉ số chứng khoán, trong khi lãi suất và tỷ giá lại ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số giá chứng khoán.
Komain Jiranyakul, Economic Forces and the Thai Stock Market, 1993-
Các nhân tố kinh t ế vĩ mô tác động đế n ch ỉ s ố giá chứng khoán
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng, các tác giả tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của một số yếu tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá chứng khoán.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán qua hai khía cạnh: môi trường tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Sự mất giá của đồng nội tệ làm cho hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn so với hàng xuất khẩu, dẫn đến chi phí tăng cao cho các công ty nhập khẩu, từ đó giảm lợi nhuận và giá cổ phiếu của họ Ngược lại, các công ty xuất khẩu được hưởng lợi từ việc gia tăng xuất khẩu, giúp giá cổ phiếu của họ tăng lên.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán, với một số nghiên cứu như của Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009) và Komain Jiranyakul (2009) cho thấy tỷ giá có quan hệ cùng chiều với giá chứng khoán Ngược lại, các nghiên cứu khác như của Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong-Jun Zhang (2006) và Anokye Mohammed Ada, George Tweneboah (2008) lại chứng minh rằng tỷ giá có mối quan hệ ngược chiều Đặc biệt, nghiên cứu của Asmy, Mohamed; Rohilina, Wisam; Hassama, Aris và Fouad, Md (2009) đã chỉ ra rằng tỷ giá hối đoái có tương quan dương trong ngắn hạn nhưng lại có tương quan âm trong dài hạn với chỉ số giá chứng khoán.
Lạm phát là chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng, thường được sử dụng trong phân tích kinh tế Tác động của lạm phát ảnh hưởng rộng rãi đến nhiều lĩnh vực, bao gồm cả thị trường chứng khoán.
Lạm phát, biểu hiện qua sự mất giá của đồng tiền, ảnh hưởng đáng kể đến hành vi tiêu dùng và tiết kiệm của cả người dân lẫn doanh nghiệp Mức độ lạm phát có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội Tỷ lệ lạm phát không hợp lý gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cản trở sự tăng trưởng và đổi mới Nếu lạm phát có thể dự đoán, người dân và doanh nghiệp có thể thích nghi, giảm thiểu gánh nặng kinh tế Ngược lại, lạm phát không thể dự đoán dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm và phân phối thu nhập không công bằng, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Lạm phát tăng thường báo hiệu sự không bền vững trong tăng trưởng kinh tế, dẫn đến lãi suất cao hơn và giảm khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, từ đó làm giảm giá chứng khoán Là một yếu tố quan trọng của nền kinh tế, lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến lợi tức chứng khoán Trong giai đoạn lạm phát cao, nền kinh tế trở nên bất ổn và kỳ vọng tiêu cực gia tăng Lạm phát cũng làm giảm lượng tiền thực lưu thông, gây giảm cầu hàng hóa và kéo theo sự sụt giảm trong cầu và giá chứng khoán Hơn nữa, lạm phát làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp, tăng chi phí phát hành chứng khoán và chi phí đầu tư, trong khi giá sản phẩm lại thay đổi chậm hơn Tất cả những yếu tố này dẫn đến giảm dòng tiền tương lai của doanh nghiệp và tiếp tục làm giảm giá chứng khoán do cầu suy yếu.
Một vài công trình nghiên cứu cho rằng lạm phát có quan hệ cùng chiều với giá chứng khoán nhƣ nghiên cứu của Anokye Mohammed Adam, George Tweneboah
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng lạm phát có mối quan hệ ngược chiều với giá chứng khoán, như được chứng minh bởi các tác giả Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009), Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong, Jun Zhang (2006), Andreas Humpe, Peter Macmillan (2007) và Komain Jiranyakul (2009).
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất đóng vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Nó ảnh hưởng đến việc phân phối thu nhập giữa người dân và doanh nghiệp, cũng như tác động đến tỷ giá hối đoái, lạm phát và thị trường chứng khoán.
Lạm phát và lãi suất tăng đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến doanh nghiệp, dẫn đến việc giảm EPS và làm cho chứng khoán trở nên kém hấp dẫn đối với nhà đầu tư Lãi suất tác động trực tiếp đến nguồn vốn vay, suất chiết khấu và chi phí đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến dòng thu nhập của doanh nghiệp Dòng thu nhập và suất chiết khấu là hai yếu tố quan trọng trong việc định giá chứng khoán, cho thấy lãi suất có tác động tiêu cực đến chỉ số giá chứng khoán Hơn nữa, trong một thị trường tài chính thông suốt, khi lãi suất tăng, nhà đầu tư có thể chuyển sang gửi tiền do yêu cầu về phần bù rủi ro chứng khoán gia tăng.
Nghiên cứu của Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong, và Jun Zhang (2006), cùng với các tác giả Humpe và Macmillan (2007), Adam và Tweneboath (2008) đã chỉ ra rằng lãi suất có ảnh hưởng ngược chiều đến chỉ số giá chứng khoán.
Cung tiền là một yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán, được nhiều nhà kinh tế nghiên cứu Họ cho rằng sự thay đổi trong cung tiền không chỉ tác động trực tiếp đến danh mục đầu tư mà còn gián tiếp qua ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế thực Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định giá chứng khoán.
Theo Wong (2005), mối quan hệ giữa cung tiền và giá chứng khoán rất phức tạp Chính sách mở rộng tiền tệ không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn làm tăng lượng tiền trong tay người dân, từ đó gia tăng nhu cầu về hàng hóa và tài sản tài chính, bao gồm cả chứng khoán Do đó, khi chính sách mở rộng tiền tệ được áp dụng, giá chứng khoán có xu hướng tăng lên.
Nghiên cứu của Adnan Hussain, Irfan Lal và Muhammad Mubin (2009) cùng Komain Jiranyakul (2009) cho thấy rằng cung tiền có mối tương quan tích cực với giá chứng khoán Ngược lại, các nghiên cứu của Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong và Jun Zhang (2006) cũng như Andreas Humpe và Peter Macmillan (2007) lại chỉ ra rằng mối quan hệ này là ngược chiều.
Chỉ số sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp là chỉ tiêu quan trọng phản ánh toàn bộ giá trị sản phẩm, bao gồm sản phẩm vật chất và dịch vụ, được sản xuất bởi ngành công nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định Việc thống kê chỉ tiêu này giúp tổng hợp và đánh giá kết quả sản xuất của ngành, đồng thời là cơ sở để tính toán giá trị tăng thêm và tổng sản phẩm trong nước (GDP) của ngành công nghiệp Phân tích giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế và giá so sánh còn hỗ trợ việc xác định cơ cấu ngành kinh tế và theo dõi tốc độ tăng trưởng hoặc giảm sút của nền kinh tế.
Khi doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, điều này không chỉ hứa hẹn gia tăng cổ tức cho cổ đông mà còn dẫn đến sự tăng giá của cổ phiếu.
Tóm lƣ ợ c k ế t qu ả nghiên cứ u th ự c nghi ệ m
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các tác nhân ảnh hưởng đến giá chứng khoán chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô và giá chứng khoán Tuy nhiên, do sự khác biệt về điều kiện kinh tế, mức độ phát triển, đặc điểm thị trường chứng khoán, tâm lý nhà đầu tư và thể chế chính trị ở các quốc gia khác nhau, việc tổng hợp kết quả chung trở nên khó khăn Các biến kinh tế vĩ mô được lựa chọn cho mô hình nghiên cứu cũng phụ thuộc vào các đặc điểm riêng của từng thị trường Bằng chứng thực nghiệm cho thấy sự tác động của các biến này đến giá chứng khoán có thể khác nhau tùy theo quốc gia, phạm vi và thời gian nghiên cứu.
Bảng 2.1 : Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây
Các biến kinh tế vĩ mô nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu (Tương quan với chỉ số giá chứng khoán nghiên cứu)
Tác giả (Năm) Dữ liệu tại quốc gia (Thời gian)
Asmy Mohamed, Rohilina Wisam, Hassama Aris và
Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong,
Anokye Mohammed Adam, George Tweneboah
(+) Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009) Pakistan (1989-2009)
Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009) Pakistan (1989-2009)
Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong,
Andreas Humpe, Peter Macmillan (2007) Hoa Kỳ và Nhật(1965 -
(+) Asmy Mohamed, Rohilina Wisam, Hassama Aris và
Anokye Mohammed Adam, George Tweneboah
Asmy Mohamed, Rohilina Wisam, Hassama Aris và
Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong,
Andreas Humpe, Peter Macmillan (2007) Hoa Kỳ và Nhật(1965 -
Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009) Pakistan (1989-2009)
Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong,
Andreas Humpe, Peter Macmillan (2007) Hoa Kỳ và Nhật(1965 -
2005) Anokye Mohammed Adam, George Tweneboah
Khaled Hussainey và Le Khanh Ngoc (2009) Việt Nam và Mỹ (1/2002-
Chỉ số sản xuất công nghiệp (+) Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009) Pakistan (1989-2009)
Mehmet GENầTĩRK1, ismail ầELİK và ệmer BİNİCİ (2011)
Andreas Humpe, Peter Macmillan (2007) Hoa Kỳ và Nhật(1965 -
Khaled Hussainey và Le Khanh Ngoc (2009) Việt Nam và Mỹ (1/2002-
Giá vàng (-) Neda Bashiri Iran và Armenia (1/2005 -
Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong,
Dự trữ ngoại hối (+) Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009) Pakistan (1989-2009)
Chi tiêu tổng tài sản cố định (+) Adnan Hussain, Irfan Lal, Muhammad Mubin (2009) Pakistan (1989-2009)
Giá dầu bán lẻ trong nước (+) Christopher Gan, Minsoo Lee, Hua Hwa Au Yong,
Mặc dù có nhiều kết quả khác nhau về thị trường chứng khoán, các nghiên cứu đã đóng góp quan trọng vào lý luận trong lĩnh vực này Nghiên cứu của Asmy, Mohamed; Rohilina, Wisam; Hassama, Aris và Fouad, Md, mang tên “Effects of Macroeconomic Variables on Stock Prices in Malaysia: An Approach of Error Correction Model” (2009), đã chỉ ra mối quan hệ dài hạn giữa chỉ số giá chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lạm phát và cung tiền, đồng thời đo lường mức độ hiệu chỉnh ngắn hạn dẫn đến cân bằng dài hạn Do đó, tác giả đã chọn nghiên cứu này làm cơ sở cho luận văn của mình Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ chính thức hoạt động từ năm 2000 tại TPHCM và Hà Nội.
Từ năm 2000 đến 2005, thị trường chứng khoán tại Việt Nam vẫn còn mới mẻ với người dân và doanh nghiệp, dẫn đến khối lượng giao dịch thấp Do đó, tác giả không chia giai đoạn mà tập trung vào việc đánh giá tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên hai chỉ số giá (VN-Index và HNX-Index) trong giai đoạn 2006-2012 Ngoài ba biến kinh tế vĩ mô như tỷ giá hối đoái danh nghĩa, cung tiền và lạm phát, tác giả còn bổ sung thêm lãi suất, chỉ số sản xuất công nghiệp và giá vàng để đánh giá tác động toàn diện hơn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨ U
D ữ li ệu nghiên cứ u
According to the experimental study by Asmy et al (2009) titled "Effects of Macroeconomic Variables on Stock Prices in Malaysia: An Approach of Error Correction Model," along with other referenced research, the authors investigate the impact of macroeconomic variables—such as exchange rates, inflation, interest rates, money supply, industrial production index, and gold price index—on the Vietnamese stock market indices, specifically the VN-Index and HNX-Index.
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập theo tháng trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2012, bao gồm chỉ số giá chứng khoán từ Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội Các biến kinh tế vĩ mô được lấy từ Tổng cục Thống kê Việt Nam và hệ thống cơ sở dữ liệu của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IFS-IMF).
Mô tả các biế n
Bài nghiên cứu bao gồm các biến nhƣ sau:
Biến chỉ số giá chứng khoán (biến phụ thuộc):
+ Chỉ số giá chứng khoán của sàn HOSE là VN-Index (VNI)
+ Chỉ số giá chứng khoán của sàn HNX là HNX-Index (HNX)
Biến kinh tế vĩ mô (biến độc lập):
+ Chỉ số sản xuất công nhiệp (IIP) đại diện cho nền kinh tế thực.
+ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thể hiện cho nhân tố lạm phát đoái
+ Tỷ giá hối đoái danh nghĩa VND/USD (ER) đại diện cho nhân tố tỷ giá hối
+ Lãi suất cho vay (IR) thể hiện cho nhân tố lãi suất.
+ Cung tiền M2 (MS) thể hiện cho nhân tố cung tiền
Chỉ số giá vàng (GO) phản ánh giá vàng trên thị trường Trong khi đó, chỉ số giá chứng khoán VN-Index và HNX-Index được tính dựa trên trung bình giá đóng cửa hàng tháng của các sàn HOSE và HNX Để đại diện cho nền kinh tế thực, biến tăng trưởng kinh tế (GDP) thường được sử dụng, nhưng do thiếu dữ liệu theo tháng, luận văn lựa chọn chỉ số IIP (Chỉ số Sản xuất Công nghiệp) làm đại diện Chỉ số IIP thể hiện sự biến động sản lượng sản xuất trong ngành công nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, cung cấp cái nhìn tổng quan về kết quả sản xuất công nghiệp theo chuỗi thời gian và thường được dùng để phản ánh biến động trong chu kỳ kinh tế.
Biến đại diện cho giá cả trên thị trường tiền tệ thường là lãi suất thị trường, nhưng do thường không có sẵn, nên lãi suất cho vay được chọn làm đại diện cho nghiên cứu.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa VND/USD phản ánh giá trị của VNĐ so với USD, chưa tính đến chênh lệch lạm phát, và được sử dụng để đại diện cho thị trường ngoại hối.
Do khó khăn trong việc thu thập số liệu giá vàng trong nước do chưa có tổ chức chính thức công bố, chỉ số giá vàng được lấy từ dữ liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam được sử dụng làm đại diện cho biến giá vàng trong nghiên cứu.
Các biến nghiên cứu được mô tả tóm tắt ở Bảng 3.1
Bảng 3.1: Bảng tóm tắt các biến nghiên cứu
STT Tên biến Ký hiệu Giải thích Công thức Nguồn dữ liệu
Chỉ số giá chứng khoán của sàn
Lấy bình quân giá đóng cửa của các ngày trong tháng từ năm 2006-2012 sàn HOSE
∑Q1P1 : Tổng giá trị tại thời điểm tính
∑ Q0P0: Tổng giá trị tại thời điểm gốc (Hệ số chia)
P0 , P1 : Giá cả giao dịch thực tế tại thời điểm gốc và thời điểm tính.
Q0 , P0 : Khối lƣợng cổ phần của công ty tại thời điểm gốc và thời điểm tính.
Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
Chỉ số giá chứng khoán của sàn
HNX Lấy bình quân giá đóng cửa của các ngày trong tháng từ năm 2006-2012 sàn HNX
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
3 Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP Dữ liệu theo tháng (lấy năm
- Iq: Tốc độ phát triển sản xuất của toàn ngành công nghiệp hoặc từng ngành, từng nhóm sản phẩm công nghiệp
- iq: Tốc độ phát triển của sản phẩm hoặc ngành cấp dưới liền kề
- Wqo : Quyền số đƣợc tính bằng giá
Tổng cục Thống kê Việt Nam
4 Chỉ số giá tiêu dùng CPI Thể hiện cho nhân tố lạm phát
(năm gốc 2005) Quỹ tiền tệ Quốc tế (IFS-IMF)
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương
ER Tỷ giá bình quân liên ngân hàng theo tháng
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IFS-IMF)
6 Lãi suất cho vay IR Lãi suất cho vay đƣợc thu thập theo tháng Quỹ tiền tệ Quốc tế (IFS-IMF)
7 Cung tiền M2 MS Dữ liệu đƣợc lấy theo tháng Quỹ tiền tệ Quốc tế (IFS-IMF)
8 Chỉ số giá vàng GO Dữ liệu tháng (lấy năm 2005 làm năm gốc) Tổng cục Thống kê Việt Nam
Mô hình nghiên cứu đề xu ấ t
Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên giả thuyết về mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô Mô hình này nhằm đánh giá tác động của 6 biến kinh tế vĩ mô, bao gồm tỷ giá, lãi suất cho vay, lạm phát, cung tiền, chỉ số sản xuất công nghiệp và giá vàng, đến hai chỉ số giá chứng khoán VN-Index (sàn HOSE) và HNX-Index (sàn HNX).
LnVNI = α0+α1LnIIP+α2LnIR+α3LnER+α4LnCPI+α5LnMS+α6LnGO+ π (3.1)
LnHNX = β0+β1LnIIP+β2LnIR+β3LnER+β4LnCPI+β5LnMS+β6LnGO+ε (3.2) Trong đó
- LnVNI: chỉ số giá thị trường VN-Index (lấy logarit tự nhiên).
- LnHNX: chỉ số giá thị trường HNX-Index (lấy logarit tự nhiên).
- LnIIP: chỉ số sản xuất công nghiệp (lấy logarit tự nhiên).
- LnIR: lãi suất cho vay (lấy logarit tự nhiên).
- LnER: tỷ giá (lấy logarit tự nhiên).
- LnCPI: lạm phát (lấy logarit tự nhiên).
- LnMS: cung tiền (lấy logarit tự nhiên).
- LnGO: giá vàng (lấy logarit tự nhiên).
- π: sai số & các biến chƣa nghiên cứu trong mô hình đối với VNI
- ε: sai số & các biến chƣa nghiên cứu trong mô hình đối với HNX
Các bước kiểm định của bài luận tuân thủ theo đúng nội dung kiểm định của paper gốc và đƣợc tóm tắt nhƣ hình 3.1
Thu thập dữ liệu để ƣớc lƣợng tham số của mô hình
Kiểm định tính dừng của dữ liệu
Kiểm định tính dừng của sai phân bậc 1
Hồi quy OLS cổ điển
Kiểm định đồng liên kết Ngƣng
KQ kiểm định Không có quan hệ dài hạn
Có quan hệ dài hạn
Véctơ hiệu chỉnh sai số VECM (thể hiện mối quan hệ trong dài hạn)
Mức độ hiệu chỉnh sai số ECM (thể hiện xu hướng thay đổi ngắn hạn lên cân bằng dài hạn)
Xác định mối quan hệ nhân quả Granger
Phân rã phương sai & Hàm phản ứng đẩy
Hình 3.1: Sơ đồ tóm tắt phương pháp kiểm định
Phƣ ơng pháp kiểm đị nh
Chuỗi dữ liệu thời gian được coi là dừng khi trung bình và phương sai không thay đổi theo thời gian Hầu hết các biến chuỗi thời gian thường không dừng hoặc liên kết bậc một, trong khi sai phân bậc 1 có thể tạo ra chuỗi dừng Để tránh hiện tượng hồi quy tương quan giả khi hồi quy chuỗi không dừng với các chuỗi khác, các biến trong mô hình hồi quy cần phải dừng hoặc đồng liên kết Việc ước lượng hệ số hồi quy không chỉ phản ánh ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến phụ thuộc mà còn bao gồm cả yếu tố xu thế Kiểm định tính dừng có thể được thực hiện thông qua Kiểm định nghiệm đơn vị.
Trong mô hình thống kê, ut đại diện cho sai số ngẫu nhiên, dựa trên giả định cổ điển rằng sai số này có giá trị trung bình bằng 0, phương sai là một hằng số và không có sự tự tương quan.
H 0 : ρ = 1 thì Y t có nghiệm đơn vị, là một chuỗi thời gian không dừng.
H 1 : ρ = 0 thì chuỗi thời gian là dừng.
Phương trình (3.3) cũng được viết dưới dạng:
Với ∆Yt = Yt – Yt-1, δ= ρ-1 và ∆ là sai phân bậc 1
H 0 : δ = 1 thì Y t có nghiệm đơn vị, là một chuỗi thời gian không dừng
H1: Khi δ = 0, chuỗi thời gian được coi là dừng Để kiểm định giả thuyết này, trị thống kê t được tính theo quy ước là trị thống kê η (tau statistic), với η = giá trị δ ước lượng chia cho sai số của hệ số δ Các giá trị tới hạn của η được sắp xếp trong bảng bởi Dickey và Fuller, và kiểm định thống kê η còn được gọi là kiểm định Dickey-Fuller (DF) Nếu bác bỏ giả định ρ = 1, chúng ta có thể sử dụng thống kê t, vì lúc này Yt sẽ là chuỗi dừng.
Kiểm định Dickey-Fuller đƣợc áp dụng:
+ δY t-1 + ut (3.7) Trong đó t là biến xu hướng hoặc biến thời gian.
Trong mỗi trường hợp giải thuyết δ=0 là có nghiệm đơn vị Sự khác biệt giữa
PT (3.5), (3.6), (3.7) bao gồm cả hằng số và số hạng xu hướng Để kiểm định giả thuyết H0, ta so sánh giá trị thống kê η tính toán được với giá trị thống kê η tra bảng DF, mà các phần mềm kinh tế lượng thường cung cấp.
DF giả định rằng các số hạng ut không tương quan.
Khi số hạng sai số ut có tính tự tương quan do thiếu biến, người ta thường áp dụng kiểm định DF mở rộng, hay còn gọi là kiểm định ADF (Augmented Dickey-Fuller Test) Phương trình (3.7) sẽ được điều chỉnh tương ứng.
- Nếu ׀ηα׀ tính toán > ׀η׀ =giá trị ADF (ADF test statistic) => không bác bỏ giả thuyết H0, chuỗi thời gian không dừng
- Nếu ׀ηα׀ tính toán < ׀η׀ =giá trị ADF (ADF test statistic) => không bác bỏ giả thuyết H0, chuỗi thời gian dừng
Có một số phương pháp để kiểm định nghiệm đơn vị Luận văn sử 2 phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) và Phillips-Perron (PP).
3.4.2 Kiểm định đồng liên kết (Cointegration Tests)
Hồi quy các chuỗi thời gian không dừng thường dẫn đến kết quả hồi quy giả mạo Tuy nhiên, Engle và Granger (1987) cho rằng nếu một kết hợp tuyến tính của các chuỗi thời gian không dừng tạo thành một chuỗi dừng, thì các chuỗi này được coi là đồng liên kết Phương trình đồng liên kết, được hình thành từ kết hợp tuyến tính dừng, phản ánh mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến Nếu phần dư trong mô hình hồi quy giữa các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi quy là thực và thể hiện mối quan hệ cân bằng dài hạn Mục tiêu của kiểm định đồng liên kết là xác định xem một nhóm các chuỗi không dừng có đồng liên kết hay không.
Với mục đích này, phương pháp kiểm định đồng liên kết Johansen (1991) được sử dụng.
Giả thuyết H 0 : không có đồng liên kết
- Nếu: Trace value hoặc Maximum Eigenvalue < Critical value => chấp nhận giả thuyết H0 (không có đồng liên kết)
- Nếu: Trace value hoặc Maximum Eigenvalue > Critical value => bác bỏ giả thuyết H0 (tồn tại đồng liên kết)
Nếu tồn tại ít nhất một vectơ đồng liên kết giữa các biến, điều này cho thấy có mối quan hệ dài hạn giữa các biến phụ thuộc và biến độc lập Mối quan hệ nhân quả giữa các biến này có thể được xác định thông qua việc ước lượng mô hình VECM.
3.4.3 Mô hình véctơ hiệu chỉnh sai số (VECM)
Mô hình VECM là một công cụ phổ biến trong nghiên cứu quốc tế, được coi là phương pháp hiệu quả để đánh giá tác động trong cả ngắn hạn và dài hạn Mô hình này giúp phân tích ảnh hưởng của các biến động ngắn hạn đến sự cân bằng dài hạn.
Khi hồi quy các chuỗi thời gian không dừng, hiện tượng tương quan giả mạo có thể xảy ra, vì vậy thường áp dụng phương pháp sai phân để phân tích mối quan hệ giữa chúng Tuy nhiên, việc hồi quy các giá trị đã sai phân có thể dẫn đến việc bỏ sót thông tin dài hạn giữa các biến Do đó, không thể sử dụng sai phân để phân tích mối quan hệ dài hạn, vì tất cả các biến trong mô hình sẽ biến mất Khi hai biến đồng liên kết, chúng có mối quan hệ dài hạn và đang ở trạng thái cân bằng, mặc dù có thể không cân bằng trong ngắn hạn Để phân tích ảnh hưởng của xu hướng thay đổi ngắn hạn lên cân bằng dài hạn, các nghiên cứu trước đây đã sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số ECM, trong đó, khi hồi quy các mô hình đã sai phân, cần bổ sung phần dư E.
∆Yt = α0 + α1∆Xt + δEt-1 + εt δE t-1 chính là phần mất cân bằng.
Mô hình VECM là một biến thể của mô hình VAR tổng quát, thích hợp cho các chuỗi dữ liệu không dừng và có mối quan hệ đồng kết hợp Kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger (Granger Causality Tests) được sử dụng để xác định liệu một biến có thể dự đoán biến khác trong chuỗi dữ liệu.
Khi thực hiện hồi quy chuỗi dữ liệu thời gian, việc kiểm định mối quan hệ nhân quả ngắn hạn giữa các biến là rất quan trọng để xác định biến nào là nguyên nhân và biến nào là kết quả Để phân tích mối quan hệ này, mô hình nhân quả Granger với hai biến được sử dụng.
Một thị trường chứng khoán được coi là hiệu quả khi không tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa chỉ số giá chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô Ngược lại, nếu có mối quan hệ nhân quả một chiều hoặc hai chiều, thị trường sẽ trở nên không hiệu quả về mặt thông tin.
3.4.5 Phân rã phương sai (Variance Decomposition) và Hàm phản ứng đẩy
Sau khi áp dụng mô hình VECM, chúng ta sử dụng hàm phản ứng đẩy để phân tích mối quan hệ ngắn hạn giữa các biến Phương pháp này cho phép đánh giá tác động của một biến lên biến khác khi xảy ra cú sốc, đồng thời ước lượng mức độ và thời gian phản ứng của từng biến đối với các loại sốc khác nhau.
Phân rã phương sai giúp phát hiện mối quan hệ nhân quả giữa các biến, đồng thời giải thích mức độ mà một biến bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ tất cả các biến trong hệ thống.
Chương này trình bày mô hình nghiên cứu với sáu biến độc lập thuộc lĩnh vực kinh tế vĩ mô, bao gồm LnIIP, LnIR, LnER, LnCPI, LnMS và LnGO, tác động đến hai biến phụ thuộc là chỉ số giá chứng khoán LnVNI và LnHNX.
KẾ T QU Ả NGHIÊN CỨ U
Phân tích thống kê mô t ả các biế n
4.1.1 Phân tích biến động của chỉ số giá chứng khoán Việt Nam:
Hình 4.1 : Diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2006-2012
(Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM; Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội) Diễn biến thị trường từ năm 2006 đến 2012:
Kể từ đầu năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua một bước phát triển đột phá, mang đến một diện mạo mới với hoạt động giao dịch sôi động và đầy tiềm năng.
Trong năm 2006, chỉ số VN-Index đã tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm vào cuối năm 2005 lên 809,86 điểm, thiết lập kỷ lục mới HNX-Index cũng ghi nhận nỗ lực tăng trưởng, đạt 258,78 điểm Tính chung, VN-Index tăng trưởng 146% và HNX-Index tăng 170% so với đầu năm, đánh dấu những mức tăng ấn tượng mà các thị trường toàn cầu phải công nhận.
Năm 2007 được xem bước phát triển mạnh mẽ nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam Tháng 01 năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ
Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo ra cú hích lớn cho nền kinh tế, đặc biệt là thị trường chứng khoán Sự gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài đã nâng cao tính hấp dẫn của thị trường chứng khoán Việt Nam Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 cũng đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường và tăng cường khả năng hội nhập quốc tế Những yếu tố thuận lợi này đã dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường vào đầu năm 2007, biến Việt Nam thành một trong những thị trường tài chính mới nổi với tình hình chứng khoán sôi động, xuất hiện hiện tượng "khát chứng khoán".
Thị trường chứng khoán Việt Nam kết thúc năm 2007 với VN-Index tăng 23% và HNX-Index tăng 33% so với cuối năm 2006, nhưng sự tác động của chính sách và quan hệ cung cầu đã khiến nhà đầu tư lo ngại Tâm lý bán tháo xuất hiện, với các nhà đầu tư nhỏ lẻ ồ ạt bán cổ phiếu, dẫn đến khủng hoảng thừa và chỉ số chứng khoán tiếp tục giảm sút.
Năm 2008 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử kinh tế toàn cầu, khi các nhà đầu tư nhận ra rằng hệ thống tài chính, dù mạnh mẽ, vẫn có những giới hạn và rủi ro Tại Việt Nam, lạm phát cao và thâm hụt thương mại lớn đã dẫn đến mất cân đối tài chính vĩ mô, buộc Chính phủ phải thắt chặt tiền tệ và ngân hàng hạn chế vốn vào chứng khoán Thị trường chứng khoán rơi vào tình trạng sụt giảm mạnh, với VN-Index giảm xuống còn 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008 và HNX-Index giảm xuống 97,61 điểm vào ngày 27/11/2008, đánh dấu mức đáy trong năm Kết thúc năm 2008, VN-Index đạt 315,62 điểm, giảm 73,04% so với đỉnh cao 1.170,67 điểm vào ngày 12/3/2007 và giảm 65,73% so với đầu năm HNX-Index cũng giảm 33% so với đầu năm, đóng cửa ở mức 105,12 điểm.
Thị trường chứng khoán năm 2009 khởi đầu với phiên giao dịch ảm đạm, khi số lượng nhà đầu tư tham gia rất ít Một kỷ lục đáng chú ý đã được thiết lập vào ngày 24/02, khi VN-Index giảm xuống mức đáy 235,5 điểm, trong khi HNX-Index tụt xuống dưới 100 điểm, đạt mức thấp lịch sử 78,06 điểm.
Nhờ các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ, như hỗ trợ lãi suất và miễn giảm thuế thu nhập, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong năm 2009 đã thúc đẩy sự phục hồi mạnh mẽ của thị trường chứng khoán (TTCK) Lạm phát giảm cũng góp phần tạo niềm tin vào sự ổn định kinh tế vĩ mô Tính đến ngày 30/06/2009, VN-Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%) và HNX-Index tăng 44,57 điểm (42,66%) so với cuối năm 2008, đánh dấu một bước tiến lớn cho TTCK trong nước VN-Index đạt tốc độ tăng lớn thứ 8 trong 89 chỉ số chứng khoán quan trọng toàn cầu với mức tăng 46% so với đầu năm 2009 Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK tiếp tục đợt tăng giá thứ hai, trở thành điểm sáng ấn tượng với tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á.
Từ đầu năm 2010, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đối mặt với nhiều khó khăn, khiến các nhà đầu tư thất vọng Sau sự lạc quan của năm 2009, thị trường trở lại với thực tế khắc nghiệt hơn do áp lực lạm phát, lãi suất tăng cao và nhập siêu lớn Tăng trưởng tín dụng và cung tiền giảm so với năm trước, dẫn đến chỉ số giá chứng khoán giảm Vào ngày 31/12/2010, chỉ số VNI đóng cửa giảm 2% so với cuối năm trước, đạt 484,66 điểm, trong khi HNX-Index giảm tới 32%, chỉ còn 114,24 điểm Kết thúc năm 2010, thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong số ít thị trường không tăng trưởng tại châu Á, đi ngược lại với xu hướng chung của thế giới.
Năm 2011, thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua một năm khó khăn với sự sụt giảm mạnh của cả VN Index và HNX Index Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay đầu tư vào chứng khoán và bất động sản, dẫn đến xu hướng giảm điểm chủ đạo trên thị trường Trong suốt năm, chỉ có hai đợt hồi phục ngắn vào cuối tháng 5 và giữa tháng 8, trong khi phần lớn thời gian còn lại, thị trường chìm trong sự chán nản của các nhà đầu tư Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/12/2011, VN Index và HNX Index lần lượt đóng cửa ở 351,55 và 58,74 điểm, giảm 27,46% và hơn 48% so với đầu năm.
Trong năm 2012, trong năm tháng đầu năm, VN-Index đã ghi nhận mức tăng gần 40%, trong khi HNX-Index tăng 44% so với cuối năm 2011, đưa thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một trong những thị trường tăng trưởng ấn tượng nhất toàn cầu Tuy nhiên, những thành quả này đã hoàn toàn bị mất sau ngày 9/5/2012.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 7 tháng giảm điểm mạnh, đặc biệt là trong tháng 11/2012 khi HNX-Index liên tục lập đáy lịch sử, với mức thấp kỷ lục 50,66 điểm vào ngày 6/11 Năm 2012 chứng kiến sự phân hóa rõ rệt: VN-Index tăng 17,7% so với cuối năm 2011, đạt 413,73 điểm, trong khi HNX-Index giảm nhẹ 2,8%, kết thúc ở mức 57,09 điểm.
4.1.2 Phân tích thống kê mô tả
Dựa vào kết quả chạy Eview có thống kê mô tả các biến trong nghiên cứu nhƣ sau:
Bảng 4.1 : Thống kê mô tả
VNI HNX CPI ER GO IIP IR MS
Std Dev 214.9334 89.10934 37.63735 1955.87 139.9277 22.09948 2.82712 783910.8 Skewness 1.448219 1.069698 0.229998 0.501929 0.477433 -0.154142 0.9073 0.195029 Kurtosis 3.977921 3.525246 1.834724 1.573995 1.730021 2.596555 2.834153 1.788956 Jarque-Bera 32.70989 16.98514 5.493126 10.64428 8.836155 0.902324 11.62098 5.665709 Probability 0.000000 0.000205 0.064148 0.004882 0.012057 0.636888 0.002996 0.058845
(Nguồn: Tác giả tự tính)
Kết quả thống kê mô tả từ phần mềm Eview, được trình bày trong bảng 4.1, chỉ ra những ý nghĩa cụ thể về các biến liên quan.
Hệ số Skewness là chỉ số đo lường mức độ lệch của phân phối, phản ánh sự bất đối xứng trong dữ liệu Các hệ số Skewness của VNI, HNX, CPI, ER, GO, IR, và MS lần lượt là 1.448219, 1.069698, 0.229998, 0.501929, 0.477433, 0.9073 và 0.195029, cho thấy các biến này có giá trị trung bình (Mean) lớn hơn giá trị trung vị (Median), dẫn đến phân phối lệch phải Cụ thể, VNI có Mean 9.2403 lớn hơn Median 0.0961, và HNX có Mean 8.1772 lớn hơn Median 1.0814 Trong khi đó, biến IIP có hệ số Skewness -0.154142, cho thấy phân phối lệch trái.
Kurtosis là chỉ số đo mức độ tập trung của các quan sát quanh trung tâm, so sánh với hai đuôi của phân phối Chỉ số này cũng được sử dụng để đánh giá rủi ro, nhưng dựa trên sự so sánh với độ lệch chuẩn trong phân phối xác suất chuẩn, không phải với giá trị trung bình Cụ thể, biến VNI và HNX có giá trị Kurtosis lần lượt là 3.977921 và 3.525246, đều lớn hơn 3.
Giá trị phân phối tập trung hơn mức bình thường, với hình dạng đa giác nhọn và hai đuôi hẹp, cho thấy các biến có sự biến động mạnh và bất thường trong thời gian nghiên cứu Các chỉ số CPI (1.834724), ER (1.573995), GO (1.730021), IIP (2.596555) và IR điểm VND/USD đều phản ánh sự dao động này.
VN-Index HNX-Index Tỷ giá hối đoái
K ế t qu ả nghiên c ứ u
4.2.1 Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu (Kiểm định nghiệm đơn vị - Unit Root Test) Để xem xét tính dừng của các biến trong mô hình nghiên cứu tìm ra sự tác động của các biến kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá chứng khoán, luận văn sử dụng kiểm định Augmented Dickey – Fuller (APF) và Phillips Peron (PP) để kiểm tra tình trạng tồn tại nghiệm đơn vị trong chuỗi dữ liệu Kết quả của kiểm định ADF và PP đƣợc trình bày trong bảng 4.2.
Bảng 4.2 Kiểm định nghiệm đơn vị
Biến số Level Sai phân bậc 1
Ghi chú: Giá trị trong () là giá trị t-statistic, * cho biết mức ý nghĩa 1%
Kết quả kiểm định ADF và PP cho thấy giá trị p-value của các biến LnVNI (0.1452), LnHNX (0.5677), LnCPI (0.9282), LnER (0.9696), LnGO (0.8103), LnIIP (0.8598), LnIR (0.0273), và LnMS (0.3325) đều không dừng ở mức ý nghĩa 10%, ngoại trừ LnIIP (0.0281) với kiểm định PP và LnIR (0.0273) với kiểm định ADF, dừng ở mức ý nghĩa 5% Khi chuyển sang sai phân bậc nhất, tất cả các biến đều có p-value bằng 0.0000, trừ LnCPI (0.0006) và LnIR (0.0038), cho thấy tất cả các biến đều dừng cùng bậc 1 ở mức ý nghĩa α=1%.
Dữ liệu chuỗi thời gian của các biến LnVNI, LnHNX, LnCPI, LnER, LnGO, LnIIP, LnIR, và LnMS đã đáp ứng yêu cầu về tính không dừng, cho phép thực hiện kiểm định đồng liên kết Bậc đồng liên kết của các biến này là 1, hay còn gọi là I(1).
4.2.2 Kết quả kiểm định đồng liên kết (Cointegration Test)
Lựa chọn độ trễ căn cứ vào độ trễ đƣợc nhiều tiêu chuẩn đề nghị nhất (Phụ lục
Kết quả độ trễ lựa chọn cho cả hai mô hình cho thấy giá trị của biến hiện tại bị ảnh hưởng bởi các biến trễ trong vòng 2 tháng trước.
4.2.2.1Kết quả kiểm định đồng liên kết của chuỗi dữ liệu các biến kinh tế vĩ mô và VN-Index
Series: LNVNI LNMS LNIR LNIIP LNGO LNER LNCPI
Lags interval (in first differences): 1 to 2
Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)
Trace test cho thấy tồn tại 3 vecơ đồng liên kết với mức ý nghĩa 5%
Unrestricted Cointegration Rank Test (Maximum Eigenvalue)
Max-eigenvalue test cho thấy tồn tại 2 vecơ đồng liên kết với mức ý nghĩa 5%
Kế t luậ n : Kết quả kiểm định đồng liên kết theo giá trị “Trace”1.8770 > giá trị “Critical” = 125.6154 và theo giá trị “Maximum Eigen”= 58.25205 > giá trị
Kết quả phân tích cho thấy giá trị "Critical" là 46.23142, dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết H0 ở mức α=5% Điều này chứng tỏ sự tồn tại của véctơ đồng liên kết, cho thấy mối quan hệ dài hạn giữa các biến nghiên cứu LnVNI, LnMS, LnIIP, LnIR, LnGO, LnER và LnCPI.
4.2.2.2Kết quả kiểm định đồng liên kết của chuỗi dữ liệu các biến kinh tế vĩ mô và HNX-Index
Series: LNHNX LNMS LNIR LNIIP LNGO LNER LNCPI
Lags interval (in first differences): 1 to 2 Unrestricted
Trace test cho thấy tồn tại 3 vecơ đồng liên kết với mức ý nghĩa 5% Unrestricted
Cointegration Rank Test (Maximum Eigenvalue)
Max-eigenvalue test cho thấy tồn tại 1 vecơ đồng liên kết với mức ý nghĩa 5%
Kế t luậ n : Kết quả kiểm định đồng liên kết theo giá trị “Trace”1.4638 > giá trị “Critical” = 125.6154 và theo giá trị “Maximum Eigen”= 56.54484 > giá trị
Kết quả phân tích cho thấy giá trị "Critical" là 46.23142, cho phép bác bỏ giả thuyết H0 ở mức α=5% Điều này chứng tỏ sự tồn tại của véctơ đồng liên kết, cho thấy có mối quan hệ dài hạn giữa các biến nghiên cứu LnHNX, LnMS, LnIIP, LnIR, LnGO, LnER và LnCPI.
Sự tồn tại của véctơ đồng liên kết giữa các biến đã bác bỏ giả thuyết không có mối quan hệ nhân quả Điều này cho thấy có ít nhất một mối quan hệ nhân quả một chiều và mối quan hệ dài hạn giữa các biến trong nghiên cứu.
4.2.3 Kết quả xác định quan hệ trong dài hạn giữa các biến nghiên cứu Để xem xét mối quan hệ dài hạn giữa các biến kinh tế vĩ mô và chỉ số giá chứng khoán, ta ƣớc lƣợng mô hình hồi quy với biến phụ thuộc lần lƣợt là chỉ số giá chứng khoán (VN-Index và HNX-Index) và các biến độc lập là các biến kinh tế vĩ mô (Phương trình (3.1); (3.2)) Tuy nhiên, mối quan hệ dài hạn chỉ thực sự tồn tại khi giữa các biến trong mô hình hồi quy có quan hệ đồng liên kết (Kết quả kiểm định ở mục 4.2.2) Để ƣớc lƣợng mối quan hệ trong dài hạn, sử dụng mô hình véctơ hiệu chỉnh sai số VECM.
4.2.3.1 Kết quả xác định quan hệ dài hạn của các biến kinh tế vĩ mô và VN- Index
Trong đó giá trị ghi trong () là sai số chuẩn và giá trị ghi trong [] là giá trị thống kê t
K i ểm đ ị nh ý nghĩa th ống kê c ủ a các h ệ s ố :
Luận văn áp dụng thống kê t (t-statistic) để kiểm tra ảnh hưởng của biến độc lập đến biến phụ thuộc Với mức ý nghĩa α đã xác định và k là số lượng biến trong mô hình, công thức được sử dụng là t c β ^ j - 0.
Với: lt c l>t(n-k,α/2), bác bỏ giả thuyết H 0 (β j =0) và chấp nhận giả thuyết H 1
Nghiên cứu sử dụng hàm TINV (α, k) trong hàm excel với α là mức ý nghĩa và k là bậc tự do (k=7) để tính ra giá trị t.
Kết quả phân tích cho thấy giá trị t-statistic của các biến kinh tế vĩ mô như LnCPI là [1.71778], LnER là [5.62323], LnGO là [-5.31845], LnIIP là [-6.11054], LnIR là [2.25422] và LnMS là [3.64724] Hàm TINV(10%, 74) cho giá trị t là 1,665, trong khi hàm TINV(5%, 74) cho giá trị t là 1,99 Điều này cho thấy các hệ số của mô hình đều có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%, ngoại trừ biến CPI có ý nghĩa với độ tin cậy 90% Nhìn chung, các biến này đều ảnh hưởng đến chỉ số giá chứng khoán VN-Index.
Trong dài hạn, các yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỷ giá, lãi suất và cung tiền có ảnh hưởng ngược chiều đến biến phụ, trong khi giá vàng và chỉ số sản xuất công nghiệp lại tác động cùng chiều với chỉ số chứng khoán VN-Index Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ dài hạn giữa các biến này và HNX-Index cũng được xác định rõ ràng.
Trong đó giá trị ghi trong () là sai số chuẩn và giá trị ghi trong [] là giá trị thống kê t
Kết quả phân tích cho thấy giá trị t-statistic của các biến kinh tế vĩ mô như sau: LnCPI là [3.09992], LnER là [3.09992], LnGO là [-6.25402], LnIIP là [-6.25402], LnIR là [2.18387] và LnMS là [2.42054] Đồng thời, giá trị t từ hàm TINV(5%, 74) là 1,99 Những kết quả này chỉ ra rằng các hệ số trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê.
(độ tin cậy 95%) hay các biến đều ảnh hưởng đến biến chỉ số giá chứng khoán HNX-Index.
Trong dài hạn, các yếu tố như lạm phát, tỷ giá, lãi suất và cung tiền ảnh hưởng ngược chiều đến chỉ số giá chứng khoán HNX-Index Ngược lại, giá vàng và chỉ số sản xuất công nghiệp có tác động cùng chiều với HNX-Index.
4.2.3.3Kết luận chung về kết quả ƣớc lƣợng mô hình dài hạn:
Kết quả phân tích cho thấy cả VN-Index và HNX-Index đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tỷ giá, với mối tương quan âm rõ rệt: khi tỷ giá tăng 1%, VN-Index giảm 18,46% và HNX-Index giảm 23,84% Tỷ giá VND/USD, đại diện cho thị trường ngoại hối, cho thấy rằng khi đồng nội tệ mất giá, chỉ số giá chứng khoán sẽ giảm Việt Nam, với nền kinh tế chưa phát triển và công nghệ còn hạn chế, phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu máy móc và nguyên liệu, đặc biệt là từ USD - loại ngoại tệ mạnh Khi đồng nội tệ giảm giá, chi phí nhập khẩu tăng, dẫn đến tăng chi phí sản xuất và giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó làm giảm giá trị doanh nghiệp và giá chứng khoán Hơn nữa, sự mất giá của nội tệ có thể làm gia tăng lạm phát và giảm kỳ vọng của nhà đầu tư về nền kinh tế Điều này cũng khiến thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên kém hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, do lợi nhuận bằng ngoại tệ giảm Mất giá nội tệ còn là dấu hiệu cho sự bất ổn kinh tế, tạo ra tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư, dẫn đến giảm cầu chứng khoán và giá chứng khoán.
Biến CPI, đại diện cho lạm phát, có mối tương quan âm với chỉ số giá chứng khoán; cụ thể, khi CPI tăng 1%, VN-Index giảm 4,086% và HNX-Index giảm 8,073% Mặc dù mối quan hệ này có ý nghĩa thấp trong mô hình tác động với VN-Index (độ tin cậy 90%), nhưng vẫn phù hợp với lý thuyết kinh tế cổ điển Khi lạm phát gia tăng, nền kinh tế mất cân bằng giữa cung và cầu, dẫn đến giá cả hàng hóa tăng cao, làm tăng chi phí sản xuất cho doanh nghiệp, trong khi giá bán chưa kịp điều chỉnh Lạm phát kéo dài gây khó khăn cho thị trường huy động vốn, làm tăng chi phí hoạt động và giảm lợi nhuận doanh nghiệp, từ đó làm giảm dòng cổ tức Sự gia tăng lạm phát và giảm giá trị đồng tiền khiến giá trị lợi nhuận từ chứng khoán giảm, khiến các nhà đầu tư chuyển sang kênh đầu tư an toàn hơn như vàng hoặc ngoại tệ mạnh, dẫn đến sự sụt giảm giá chứng khoán.