Ở nước ngoài
Giáo viên (GV) được coi trọng và có vị thế cao trong xã hội ở nhiều quốc gia, với sự quan tâm đặc biệt đến công tác đào tạo Chương trình đào tạo GV không chỉ dừng lại ở giai đoạn tốt nghiệp mà còn bao gồm việc bồi dưỡng thường xuyên, như ở Mỹ, nơi thuật ngữ “phát triển nghề nghiệp GV” được sử dụng để nhấn mạnh sự cần thiết cập nhật kiến thức và kỹ năng Trong bối cảnh công nghệ ngày càng phát triển, GV cần được trang bị không chỉ về chuyên môn và kỹ năng dạy học mà còn về công nghệ thông tin, các vấn đề xã hội, cũng như các nghiên cứu mới trong tâm lý giáo dục và phương pháp giảng dạy.
Bồi dưỡng giáo viên cần được xem xét từ góc độ triết lý và quan điểm, vì đây là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành phương pháp luận Những vấn đề này đóng vai trò nền tảng cho việc thiết kế hệ thống bồi dưỡng giáo viên một cách hiệu quả.
K.Đ.Usinxki nhấn mạnh đến hình thức tự bồi dưỡng của giáo viên:
"Người giáo viên chỉ thực sự sống và phát triển khi họ không ngừng học hỏi; khi dừng lại, bản thân giáo viên sẽ không còn Phẩm chất và năng lực của giáo viên phụ thuộc chủ yếu vào quá trình tự học, giúp họ cập nhật kiến thức và cải thiện kỹ năng sư phạm Khái niệm 'tự học' ở đây được hiểu là 'tự bồi dưỡng'."
Trong tác phẩm nổi tiếng "Trường trung học Pavlưts", V.A Xukhômlinxki đã mô tả chi tiết chiến lược phát triển năng lực giảng dạy cho giáo viên thông qua việc dự giờ từng giáo viên.
Theo Ponamarev O N, quan niệm về "giáo dục liên tục hay giáo dục suốt đời" đã làm thay đổi căn bản nhiệm vụ bồi dưỡng giáo viên trên toàn cầu Tác giả chỉ ra hai nhiệm vụ phương pháp luận quan trọng đối với giáo dục Nga hiện nay: 1) Lựa chọn mô hình đào tạo năng lực cho giáo viên và 2) Lựa chọn mô hình bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên Đây là những thách thức lớn trong bối cảnh có nhiều mô hình năng lực đào tạo và năng lực nghề nghiệp khác nhau.
GV [Dẫn theo Trần Đăng Khởi, 59].
Trong nghiên cứu của Belyaeva E.N mang tên “Sự hình thành năng lực nghề nghiệp của GV trong bồi dưỡng nâng cao trình độ”, tác giả đã nêu bật những vấn đề quan trọng như năng lực được đào tạo, năng lực nghề nghiệp, năng lực xã hội và năng lực nền tảng của nhân cách Bên cạnh đó, nghiên cứu còn phân tích các năng lực nghề nghiệp của giáo viên dựa trên kinh nghiệm từ Mỹ, Nga và Châu Âu [Dẫn theo Trần Đăng Khởi, 59].
Theo Warren-Piper và Glatter (1997), phát triển giáo viên là quá trình thúc đẩy các hoạt động có hệ thống nhằm thỏa mãn hứng thú, nguyện vọng và nhu cầu cá nhân, từ đó phát triển sự nghiệp của họ và đáp ứng nhu cầu tương lai của tổ chức Nghiên cứu của tác giả tập trung vào việc bồi dưỡng giáo viên thông qua tiếp cận phát triển nghề nghiệp.
Nghiên cứu về công tác bồi dưỡng giáo viên trên thế giới đã được nhiều tác giả đề cập, trong đó có Michel Develay với công trình “Peut-on former les enseignants”, N I Bondurep với tác phẩm “Hệ phương pháp hoạt động giáo dục trong trường phổ thông” và Jacques Nimier Những nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc cải thiện chất lượng đào tạo giáo viên toàn cầu.
Trong tác phẩm “Giáo viên rèn luyện tâm lý”, các tác giả nhấn mạnh rằng việc đào tạo tâm lý cho giáo viên không chỉ giới hạn trong các trường sư phạm Họ khẳng định rằng giáo viên cần phải liên tục tự rèn luyện bản thân trong suốt sự nghiệp của mình để phát triển tốt hơn.
Các tác phẩm này nhấn mạnh vị trí và tầm quan trọng của hoạt động bồi dưỡng giáo viên, đồng thời cung cấp cơ sở lý luận cho việc đổi mới công tác đào tạo giáo viên Hiện nay, quan niệm về đào tạo giáo viên đã chuyển từ tĩnh, tức là chỉ cần hoàn tất đào tạo ban đầu, sang quan niệm động, coi đào tạo giáo viên là một hệ thống mở và một quá trình phát triển liên tục, bao gồm từ đào tạo ban đầu, giai đoạn tập sự cho đến đào tạo tại chức và bồi dưỡng thường xuyên.
Tác giả Richard I Arends (1998) trong nghiên cứu “Học để dạy” nhấn mạnh vai trò trung tâm của giáo viên trong quá trình dạy và học, đồng thời đề xuất việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy học sinh làm trung tâm Điều này đặt ra yêu cầu cao đối với giáo viên trong việc nâng cao năng lực nghề nghiệp và áp dụng các kỹ năng chuyên biệt trong giảng dạy Do đó, việc bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trở thành một nhu cầu thiết yếu trong ngành giáo dục.
Raja Roy Singh nghiên cứu phát triển đội ngũ giáo viên bằng cách xác định vai trò và vị trí của họ, từ đó đề xuất các biện pháp và nội dung phát triển Theo tác giả, giáo viên không chỉ là chuyên gia mà còn là nhà giáo dục, nhà khoa học, người tư vấn và hướng dẫn, đồng thời là người học tập suốt đời Do đó, việc phát triển đội ngũ giáo viên cần bao gồm cả chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng.
Các tác giả Hannele Niemi và Ritva Jakku-Sihvonen đã phân tích những thay đổi quan trọng trong cấu trúc và nội dung chương trình bồi dưỡng giáo viên tại Phần Lan nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Bên cạnh đó, các tác giả như A Carin, Craig A Mertler và Marzano cũng đã nghiên cứu và đề xuất các biện pháp để phát triển năng lực dạy học cho giáo viên Marzano nhấn mạnh rằng trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần biết sơ đồ hóa kiến thức, khắc sâu những kiến thức trọng tâm và thúc đẩy sự hợp tác của học sinh, từ đó cho thấy sự cần thiết trong việc bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên.
Tác giả Eleonora Villegas-Reimers (2003) đã nghiên cứu về việc bồi dưỡng giáo viên thông qua các mô hình tổ chức hợp tác giữa các trường học và các mô hình quy mô nhỏ như trường học hoặc lớp học.
Tác giả Andrea Kárpáti nhấn mạnh sự cần thiết phải kết nối chặt chẽ các chương trình phát triển chuyên môn với đào tạo tại chức tại nơi làm việc của giáo viên Đồng thời, việc đánh giá năng lực sau khóa học là rất quan trọng để đưa ra những định hướng cải tiến phù hợp.
Ở trong nước
Năm 1961, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam được thành lập, bao gồm Trung tâm Nghiên cứu Đào tạo và Bồi dưỡng giáo viên, đánh dấu giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong nghiên cứu giáo dục Trong thời kỳ này, nhiều công trình nghiên cứu độc lập và chuyên sâu đã được thực hiện, tiêu biểu như tác phẩm của Đặng Vũ Hoạt với đề tài “Kế hoạch rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên” (1989) và đề tài cấp nhà nước “Người thầy giáo theo yêu cầu của sự phát triển giáo dục”, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đóng góp vào nghiên cứu đào tạo và bồi dưỡng giáo viên qua các công trình như của Lê Trần Lâm (1992) và Nguyễn Minh Đường (1996) Những nghiên cứu này tập trung vào lý luận về đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, phản ánh sự quan tâm của Nhà nước đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục Kể từ năm 1968, Nhà nước đã khẳng định mỗi trường học là một cơ sở bồi dưỡng giáo viên, cho thấy tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục.
Trần Bá Hoành đã thực hiện nhiều nghiên cứu quan trọng về giáo viên và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, nổi bật với bài viết “Những đổi mới gần đây trong đào tạo, bồi dưỡng sử dụng giáo viên trung học ở một số nước” đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học Giáo dục, số 77 năm 2000 Các tác phẩm khác như “Đổi mới phương pháp bồi dưỡng giáo viên” và “Bồi dưỡng tại chỗ và bồi dưỡng từ xa” cũng đóng góp đáng kể vào việc phân tích vị trí, vai trò, nội dung, phương pháp và cách thức bồi dưỡng giáo viên trong bối cảnh hiện nay.
Trong báo cáo tổng kết của Đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu đề xuất các biện pháp cải cách công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên phổ thông,” chủ nhiệm Nguyễn Thị Bình đã phân tích thực trạng hoạt động bồi dưỡng giáo viên, bao gồm hình thức, nội dung và mục tiêu Báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế trong các vấn đề này Dựa trên phân tích thực trạng, tác giả đề xuất các biện pháp đổi mới căn bản về phương thức đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.
Trong báo cáo tổng kết Đề tài nghiên cứu của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam về công tác bồi dưỡng giáo viên tại các trung tâm giáo dục thường xuyên, chủ nhiệm Nguyễn Hoài Thu đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên, tập trung vào các bước thực hiện cụ thể trong quá trình này.
Hình thức sinh hoạt chuyên môn nghiệp vụ trong trường phổ thông là một phương pháp bồi dưỡng giáo viên hiệu quả, được nhiều tác giả nghiên cứu và khẳng định Theo Vũ Hạnh, có hai hình thức sinh hoạt chuyên môn chính: tổ chức theo các chuyên đề và dự giờ để trao đổi về tiết dạy Ngoài ra, hình thức bồi dưỡng trực tuyến (E-learning) cũng được Nguyễn Quang Giao xác nhận là phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Mậu Đức và Lê Huy Hoàng cho thấy rằng việc bồi dưỡng và phát triển năng lực chuyên môn cho giáo viên thông qua mô hình nghiên cứu bài học hiệu quả hơn so với các hình thức bồi dưỡng truyền thống Mô hình này khuyến khích giáo viên hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau, từ đó nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
Hiện nay, nghiên cứu về phương pháp bồi dưỡng giáo viên còn hạn chế, nhưng có thể tham khảo công trình của Nguyễn Hữu Dũng (1996), người đã chỉ ra rằng việc lựa chọn phương pháp bồi dưỡng cần căn cứ vào nhiều yếu tố như trình độ học viên, lĩnh vực đào tạo, mục tiêu học tập và năng lực giảng viên Nguyễn Thị Tuyết Trinh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường thực hành và giải đáp thắc mắc cho học viên Phạm Đức Bách đề xuất phương pháp thảo luận trong sinh hoạt chuyên môn để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng, trong khi Đỗ Thế Hưng và Nguyễn Văn Hạnh khuyến nghị áp dụng phương pháp học tập trải nghiệm.
Các công trình nghiên cứu theo hướng này của các nhà khoa học nêu trên đã đề cập các vấn đề cơ bản sau:
Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên là một yếu tố quan trọng được nhiều quốc gia chú trọng, không chỉ diễn ra tại các trường sư phạm mà còn trong suốt sự nghiệp của họ Giáo viên cần phải liên tục tự rèn luyện và nâng cao kỹ năng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong nghề nghiệp.
Sự chuyển đổi từ quan niệm tĩnh về đào tạo giáo viên, nơi mà việc đào tạo ban đầu được xem là đủ để hoàn thành vai trò dạy học, sang quan niệm động, nhấn mạnh rằng đào tạo là một hệ thống mở và là quá trình phát triển liên tục Quá trình này bao gồm đào tạo ban đầu, giai đoạn tập sự, đào tạo tại chức và bồi dưỡng thường xuyên, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
- Xu hướng đào tạo, bồi dưỡng GV được chuyển từ bồi dưỡng tập trung sang đào tạo bồi dưỡng dựa vào nhà trường.
Nhiều nghiên cứu trong nước đã phân tích thực trạng đội ngũ giáo viên THPT, xác định nội dung và phương pháp bồi dưỡng Các nghiên cứu này cũng đề xuất các biện pháp đổi mới căn bản trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Những nghiên cứu về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên và quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên
Ở nước ngoài
Bồi dưỡng giáo viên đã trở thành chính sách quan trọng của nhà nước, với quy định cụ thể về việc nâng cao năng lực chuyên môn và chuẩn hóa trình độ đào tạo Theo nghiên cứu của Hannele Niemi và Ritva Jakku-Sihvonen, thành công của hệ thống giáo dục Phần Lan, nổi bật trong các kỳ thi PISA, đến từ việc nâng chuẩn trình độ giáo viên lên thạc sĩ và yêu cầu giáo viên không ngừng học tập Nghiên cứu của ủy ban Văn hóa và Giáo dục EU cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của bồi dưỡng giáo viên trong quá trình đổi mới giáo dục, cần có kế hoạch lâu dài cho công tác này Luật nhà trường bang Brandenburg, Đức, quy định giáo viên phải tham gia bồi dưỡng, cập nhật kiến thức thường xuyên và áp dụng các biện pháp đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn Chương trình bồi dưỡng giáo viên được triển khai ở ba cấp quản lý: cấp nhà nước, cấp địa phương và tại các trường học.
Các chính sách đổi mới giáo dục sẽ không mang lại hiệu quả nếu không có sự thay đổi từ phía giáo viên Cuốn sách đề cập đến những kinh nghiệm thực tiễn từ 8 quốc gia trong việc bồi dưỡng giáo viên, như Đức với những ý tưởng bồi dưỡng mới mẻ, Ireland coi bồi dưỡng giáo viên là nhiệm vụ ưu tiên, Luxembourg khắc phục rào cản do quan niệm lỗi thời, và Hoa Kỳ hướng tới tiêu chuẩn xuất sắc và có kiểm định trong bồi dưỡng giáo viên.
Nghiên cứu của UNESCO và OECD về nâng cao chất lượng giáo viên bắt đầu từ năm 2001, với OECD tổng kết kinh nghiệm và phân tích từ năm 2004 nhằm thu hút, đào tạo và giữ chân giáo viên giỏi Đến năm 2006, UNESCO đã đưa ra các chính sách liên quan đến tuyển dụng, đào tạo và đãi ngộ giáo viên để đạt mục tiêu giáo dục cho mọi người đến năm 2015 Các nghiên cứu và chia sẻ kinh nghiệm toàn cầu về chính sách giáo viên và đào tạo giáo viên rất quan trọng Hội nghị thượng đỉnh về giáo dục lần đầu tiên diễn ra tại New York vào năm 2011 nhằm chia sẻ kết quả nghiên cứu trong việc nâng cao chất lượng giáo viên và dạy học, và đến năm 2013, hội nghị thượng đỉnh lần thứ ba tại Amsterdam tập trung hoàn toàn vào chất lượng giáo viên.
Các chính sách và nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở tầm vĩ mô đã nhấn mạnh những vấn đề quan trọng như quy định bồi dưỡng là nghĩa vụ của giáo viên, yêu cầu giáo viên phải duy trì việc bồi dưỡng kiến thức và năng lực suốt đời, cũng như việc nâng cao chuẩn trình độ giáo viên phổ thông Những tiếp cận này là đúng đắn và đang được các nhà nghiên cứu tiếp tục kế thừa và triển khai.
Ở trong nước
Thời kỳ mới giải phóng miền Bắc, vấn đề bồi dưỡng GV thông qua nghiên cứu khoa học chưa thực sự được chú ý đến Đến khoảng những năm
1960 mới có chủ trương lấy nghiên cứu khoa học làm phương thức bồi dưỡng
GV vẫn chỉ dừng lại ở mức khuyến khích, chưa trở thành yêu cầu bắt buộc Ngày 1/1/1988, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo viên và cần phải chăm lo, bồi dưỡng đội ngũ này Chính sách bồi dưỡng giáo viên đã được xác định là một phần quan trọng trong chính sách quốc gia, với Điều 80 của Luật Giáo dục 2005 quy định Nhà nước có trách nhiệm nâng cao trình độ và chuẩn hóa giáo viên Kể từ năm 1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các chương trình bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên theo chu kỳ 5 năm, và đến nay đã hoàn thành 3 chu kỳ.
Giáo dục và Đào tạo thường xuyên tổ chức bồi dưỡng GV theo chương trình thay sách giáo khoa.
Trong giai đoạn này có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Nguyễn Trí trong bài viết “Bồi dưỡng GV dạy sách giáo khoa mới – Thực tiễn và quan niệm” và Nguyễn Thị Thu Thủy trong bài “Một số vấn đề về phương thức bồi dưỡng thường xuyên GV phổ thông” đã chỉ ra rằng chương trình Bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ II, III cho giáo viên mầm non và phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về chất lượng bồi dưỡng Tác giả đề xuất các hình thức bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên, bao gồm tự học kết hợp sinh hoạt chuyên môn, bồi dưỡng tập trung và học từ xa qua Internet Đồng thời, tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo viên trong việc thực hiện kế hoạch bồi dưỡng hàng năm, và yêu cầu các trường học cùng cơ quan quản lý giáo dục cần tạo điều kiện, hỗ trợ và giám sát hoạt động này.
Bùi Minh Hiền và các cộng sự (2006) đã nghiên cứu sự phát triển đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội dựa trên lý thuyết phát triển nguồn nhân lực Các tác giả nhấn mạnh rằng để thích ứng với sự thay đổi liên tục của khoa học công nghệ và xã hội, đội ngũ giáo viên cần được phát triển đầy đủ ba yếu tố: (i) số lượng giáo viên đủ; (ii) chất lượng giáo viên đạt chuẩn; và (iii) cơ cấu giáo viên đồng bộ Do đó, việc đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trở thành một vấn đề cần thiết, yêu cầu có những giải pháp phù hợp.
Từ năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên dạy lớp 10 chương trình sách giáo khoa mới theo quy trình 2 cấp:
Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường sư phạm bồi dưỡng giáo viên cốt cán cho các môn học tại địa phương Sở Giáo dục và Đào tạo sẽ sử dụng giáo viên cốt cán đã qua tập huấn để hỗ trợ tất cả giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa mới.
Bùi Văn Quân và Nguyễn Ngọc Cầu (2006) đã thực hiện nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng giáo viên với mục tiêu phát triển đội ngũ giáo viên Nghiên cứu này chỉ ra nhiều cách tiếp cận khác nhau để phát triển đội ngũ giáo viên, bao gồm lý thuyết phát triển nguồn nhân lực, quản lý nguồn nhân lực, và quan điểm triết học Từ đó, các tác giả nhấn mạnh sự cần thiết của việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên để đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục hiện nay.
Luật giáo dục 2019 là văn bản pháp lý quan trọng nhất của Nhà nước Việt Nam, thiết lập một hệ thống giáo dục thống nhất và toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục Các chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THPT đóng vai trò như một cẩm nang, giúp thực hiện mục tiêu giáo dục và định hướng phát triển đội ngũ giáo viên tại các trường THPT Phương châm đào tạo nhấn mạnh sự kết hợp giữa việc sử dụng và bồi dưỡng giáo viên, đồng thời khuyến khích việc tự học và tự bồi dưỡng của giáo viên.
Tác giả Nguyễn Sỹ Thư trong Luận án Tiến sĩ của mình đã nhấn mạnh sự cần thiết phải cải tiến chất lượng đội ngũ giáo viên THCS tại các tỉnh Tây Nguyên nhằm đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục Ông đề xuất rằng Sở GD&ĐT cần có kế hoạch điều tra, rà soát và tổ chức sắp xếp đội ngũ giáo viên theo tiêu chuẩn, đồng thời khuyến khích tham gia các khóa đào tạo để nâng cao trình độ và cập nhật phương pháp dạy học mới Việc tổ chức các lớp bồi dưỡng giáo viên cho những người trực tiếp giảng dạy là một nhiệm vụ cấp bách cần được thực hiện ngay.
Trong Luận án Tiến sĩ: “Quản lý hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm của GV trường THCS trong giai đoạn hiện nay” [71], tác giả Lục Thị
Nga đã nghiên cứu một khía cạnh quan trọng trong quản lý bồi dưỡng giáo viên, cụ thể là quản lý hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm Tác giả đã phân tích và làm rõ hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên trung học cơ sở, đồng thời xây dựng khung lý thuyết cho hoạt động bồi dưỡng và quản lý tự bồi dưỡng Bài viết cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và tự bồi dưỡng, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này, từ đó đề xuất những biện pháp quản lý hiệu quả cho hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên.
Tác giả Trần Đăng Khởi đã nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trung học cơ sở (THCS) theo tiếp cận năng lực tại các tỉnh ven Hà Nội Dựa trên những phát hiện này, ông đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng giáo viên THCS theo hướng tiếp cận năng lực.
Trần Thị Hải Yến trong luận án của mình đã xây dựng khung lý thuyết về năng lực dạy học của giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp, đồng thời nghiên cứu quản lí bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trường trung học phổ thông Nghiên cứu này nhằm khảo sát thực trạng quản lí bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên tại các trường công lập ở Hà Nội và từ đó đề xuất các giải pháp hiệu quả cho hoạt động này.
Nghiên cứu về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên và chuyên môn cho giáo viên đã được đề cập trong nhiều bài viết trên các tạp chí khoa học giáo dục Trong bài viết của tác giả Nguyễn Thị Phương Nhung, "Đổi mới hoạt động bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên tiểu học," đã chỉ ra rằng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tiểu học còn nhiều hạn chế, bao gồm sự thiếu hụt mô hình quản lý và tổ chức bồi dưỡng có tính khoa học, thiếu giáo trình và tài liệu bồi dưỡng, cùng với các phương pháp tập huấn chưa mang lại hiệu quả cao.
Trong bài viết “Cải cách đào tạo bồi dưỡng GV theo định hướng chuẩn và năng lực nghề nghiệp” của tác giả Vũ Quốc Chung và Nguyễn Văn Cường
Hai mô hình cơ bản trong bồi dưỡng giáo viên được xác định bao gồm chương trình bồi dưỡng theo khả năng của cơ quan và chương trình bồi dưỡng định hướng nhu cầu người học Chuẩn nghề nghiệp giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới công tác bồi dưỡng Việc đánh giá giáo viên theo chuẩn sẽ cung cấp thông tin về điểm mạnh và điểm yếu, từ đó giúp giáo viên và cơ quan quản lý xác định nhu cầu bồi dưỡng cá nhân Điều này góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng mô hình bồi dưỡng.
Nhiều đề tài nghiên cứu đã tập trung vào việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở các cấp học Điển hình là đề tài cấp nhà nước "Nghiên cứu đề xuất các biện pháp cải cách công tác đào tạo bồi dưỡng GV phổ thông" do Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu cấp Viện KHGD Việt Nam mang tên "Thực trạng công tác bồi dưỡng cho GV dạy ở các trung tâm giáo dục thường xuyên" do Nguyễn Hoài Thu làm chủ nhiệm cũng đã được thực hiện.
Nhận xét
Tổng quan nghiên cứu cho thấy các công trình của các nhà khoa học đã đề cập đến những vấn đề cơ bản liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
Công tác bồi dưỡng giáo viên (GV) đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển cá nhân của từng giáo viên và nhà quản lý, mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến sự tiến bộ của sự nghiệp giáo dục tại mỗi quốc gia Việc quản lý hiệu quả hoạt động bồi dưỡng giáo viên là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng giảng dạy và đáp ứng nhu cầu giáo dục trong bối cảnh hiện đại.
Coi trọng công tác bồi dưỡng giáo viên (GV) là yếu tố then chốt nâng cao chất lượng giáo dục Mỗi quốc gia áp dụng hình thức bồi dưỡng GV đa dạng, nhưng đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc GV tự học suốt đời Bồi dưỡng dựa vào nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục, trong đó nhà trường tạo điều kiện thuận lợi để GV phát triển nghề nghiệp.
Các nghiên cứu đã đề xuất nhiều biện pháp quản lý giáo dục nhằm cải thiện hiệu quả trong hoạt động bồi dưỡng giáo viên trong bối cảnh hiện nay.
Mặc dù có nhiều tài liệu về bồi dưỡng giáo viên, nhưng rất ít công trình nghiên cứu đi sâu vào quản lý bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên, và bồi dưỡng chuyên môn thường chỉ là một phần trong hoạt động tổng thể Chưa có nghiên cứu nào đề cập đến việc quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho từng môn học hay ngành học cụ thể, mặc dù mỗi môn học đều có những đặc trưng riêng về kiến thức và phương pháp giảng dạy Do đó, việc nghiên cứu quản lý hoạt động bồi dưỡng theo chuyên môn đặc thù là một hướng đi quan trọng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục trong các trường học.
1 Ban Bí thư BCH TW Đảng (2004), Chỉ thị số 40-CT/TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục.
2 Phạm Đức Bách (2010), “Một số hình thức sinh hoạt chuyên môn ở trường Trung học cơ sở nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học”, Tạp chí Giáo dục số 235, tr.58-59.
3 Đặng Quốc Bảo (1997), Một số khái niệm về quản lý giáo dục, Trường CBQL giáo dục, Hà Nội.
4 Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2005), Hội thảo tập huấn phát triển năng lực thông qua phương pháp và phương tiện dạy học mới, Bộ GD&ĐT-
Dự án đào tạo giáo viên Trung học cơ sở, Hà Nội.
5 Nguyễn Thị Bình (2013), Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp Nhà nước,
Nghiên cứu đề xuất các biện pháp cải cách công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên phổ thông,
6 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Thông tư 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 về việc ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS, giáo viên THPT.
7 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Thông tư số 31/2011/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 8 năm 2011 ban hành Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học cơ sở.
8 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 26/2012/TT-BGDĐT về Quy chế bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên.
9 Bộ giáo dục và Đào tạo (2015), Một số vấn đề về đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông, Tài liệu lưu hành nội bộ.
10 Bộ giáo dục và Đào tạo (2017), Thông tư số 16/2017/TT-BGD&ĐT
“Hướng dẫn danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông công lập”.
11 Bộ giáo dục và Đào tạo (2018), Thông tư số 20/2018/TT_BGD&ĐT về
“Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông”.
12 Bộ Nội vụ (2006), Quyết định 06/2006/QĐ-BNV ngày 21/3/2006 về việc
Ban hành Quy chế đánh giá xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông công lập, Hà Nội.
13 Bondurep N I (1981), Hệ phương pháp hoạt động giáo dục trong trường phổ thông, NXB Giáo dục.
14 Business Edge (2007), Đánh giá hiệu quả làm việc (Phát triển năng lực nhân viên), Nxb Trẻ, TP.HCM.
15 Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2005), Lý luận đại cương về quản lý, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
16 Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.
17 Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, Ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg, Hà Nội.
18 Vũ Quốc Chung, Nguyễn Văn Cường (2009), Cải cách đào tạo bồi dưỡng giáo viên theo định hướng chuẩn và năng lực nghề nghiệp, Tạp chí Giáo dục, số 219, kỳ 1.
19 Vũ Quốc Chung (2012), Giới thiệu mô hình đào tạo giáo viên THPT và TCCN ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20 Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21 Nguyễn Văn Cường (2009), “Đào tạo giáo viên ở CHLB Đức và những khuyến nghị cho việc cải cách đào tạo giáo viên ở Việt Nam”, Báo cáo tại hội thảo Mô hình đào tạo giáo viên THPT và TCCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế lần 2, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
22 Develay M (1998), Một số vấn đề về đào tạo giáo viên, NXB Giáo dục.
23 Trần Kim Dung (2006), Quản trị nguồn nhân lực, Nxb Thống kê, Hà Nội.
24 Nguyễn Hữu Dũng (1996), Định hướng đổi mới phương pháp đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, Đề tài cấp Bộ mã số B94-37-46, Trung tâm nghiên cứu giáo viên, Viện khoa học giáo dục
25 Nguyễn Tiến Dũng (2012), Tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên cốt cán đầu đàn yếu tố quyết định để xây dựng nhà trường hiệu quả, Tạp chí Giáo dục, số 294, kỳ 2.
26 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới cơ bản và toàn diện GDDH Việt Nam giai đoạn 2006-2020, Hà Nội.
27 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28 Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám BCHTU Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Hà Nội.
29 Đào Ngọc Đệ (2009), Bồi dưỡng năng lực giáo viên – đòn bẩy nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 8/2009, Hà
30 Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Mậu Đức, Lê Huy Hoàng (2012), “Phương pháp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, sinh viên sư phạm thông qua mô h nh “nghiên cứu bài học””, Tạp chí Giáo dục số 293, tr.38-39.
31 Bùi Minh Đức, Tạ Ngọc Trí (2013), Chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông ở Anh quốc – một góc nhìn tham chiếu, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số
32 Trần Khánh Đức (2009), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33 Trần Khánh Đức (2013), Nghiên cứu nhu câu và xây dựng mô hình đào tạo theo năng lực trong linh vực giáo dục, Đề tài trọng điểm ĐHQGHN, mã số: QGTD.
34 Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha (2006), Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
35 Everard, K.B & Geofrey, Morris & Ian, Wilson (2009), Quản trị hiệu quả trường học, Nxb Hà Nội.
36 Nguyễn Quang Giao, Trấn Công Thành (2013), “Biện pháp tăng cường bồi dưỡng tiếng Anh chuyên môn cho giáo viên ở các trường Trung học cơ sở hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội số 91, tr.30-32.
37 Mạc Thị Việt Hà (2008), Một số chính sách phát triển nghề nghiệp giáo viên ở Hàn Quốc, Tạp chí Giáo dục, số 195
38 Mạc Thị Việt Hà (2008), Một số chính sách phát triển nghề nghiệp giáo viên ở Nhật Bản, Tạp chí Giáo dục, số 204.
39 Phạm Minh Hạc (1986), Một số vấn đề về giáo dục và khoa học giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40 Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41 Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.