SỰ KHỦNG HOẢNG ĐƯỜNG LỐI CỨU NƯỚC
1 Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, biến thành thuộc địa của chúng
Dân tộc Việt Nam đã hình thành và thống nhất qua quá trình dựng nước và giữ nước, phải đối mặt với nhiều cuộc xâm lược từ bên ngoài Qua các triều đại như Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, mỗi khi đất nước bị xâm lược, những vị anh hùng dân tộc đã xuất hiện, thể hiện bản lĩnh và ý chí độc lập tự chủ của dân tộc Những anh hùng này đã làm rạng rỡ non sông, đất nước Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến ở Việt Nam bắt đầu suy yếu, dẫn đến sự phân ly và khổ cực của nhân dân do các phe phái thống trị tranh giành quyền lực Cuộc xung đột giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Mạc kéo dài hơn nửa thế kỷ, tiếp theo là cuộc tranh chấp giữa họ Trịnh và họ Nguyễn, gây ra sự chia cắt đất nước kéo dài suốt hai thế kỷ.
Bộ máy phong kiến đang trong tình trạng suy yếu, với nội chiến kéo dài và tô thuế nặng nề Sự tham nhũng của quan lại và cường hào địa phương đã khiến đời sống nhân dân trở nên khó khăn Từ những điều kiện này, phong trào chiến tranh nông dân bắt đầu bùng nổ ở “Đàng ngoài” vào đầu thế kỷ XVIII, nhanh chóng lan rộng ra toàn quốc và đạt đến đỉnh cao với phong trào Tây Sơn.
Phong trào Tây Sơn đã kết hợp sức mạnh quần chúng nông dân với truyền thống yêu nước và ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc, tạo nên một sự nghiệp vẻ vang Họ đã đánh bại kẻ thù nội, đuổi giặc ngoại, khôi phục sự thống nhất quốc gia, bảo vệ độc lập dân tộc và thực hiện một số cải cách đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Sau khi vua Quang Trung qua đời, Nguyễn Ánh đã tiêu diệt nhà Tây Sơn và thành lập triều đại Nguyễn, khôi phục chế độ phong kiến đã lỗi thời trên toàn quốc.
(1802) Đó cũng là thời kỳ mở đầu cho tư bản phương Tây, nhất là tư bản Pháp nhòm ngó, can thiệp và xâm lược nước ta
Trước áp lực từ tư bản phương Tây, các vua nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã thực hiện những chính sách không phù hợp với bối cảnh, bao gồm việc cấm đạo Thiên Chúa giáo trong nước và thực hiện chính sách "bế quan tỏa cảng" đối ngoại Những biện pháp này đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế công thương nghiệp vốn đã có tiềm năng từ trước.
Dưới triều đại nhà Nguyễn, đất nước phải đối mặt với nhiều thảm họa lớn, đặc biệt là đời sống khổ cực của nông dân Mâu thuẫn giữa nhân dân và giới vua quan trở nên căng thẳng, dẫn đến một loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ Trong nửa thế kỷ đầu của triều đại này, đã có hơn 300 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ diễn ra, phản ánh sự bất mãn sâu sắc trong xã hội.
Vào giữa thế kỷ XIX, vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách, hết sức hiểm nghèo Đó là cuộc xâm lăng của thực dân Pháp
Vào tháng 7 năm 1858, tư bản Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, khởi đầu với việc chiếm Gia Định vào tháng 1 năm 1859 Đến năm 1862, họ buộc triều đình phải nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ theo hòa ước Nhâm Tuất Tiếp theo, vào ngày 25 tháng 6 năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ Sau khi hoàn tất việc thôn tính các tỉnh Nam Kỳ, vào ngày 15 tháng 10 năm 1873, họ tiến hành đánh chiếm Hà Nội.
Năm 1883, quân Pháp khởi binh đánh vào cửa biển Thuận An (Thừa Thiên
Vào năm 1883, triều đình nhà Nguyễn tại Huế buộc phải ký Hiệp ước Hác-măng dưới áp lực của Pháp Đến ngày 6/6/1884, Pháp tiếp tục gây sức ép và ép triều đình Huế ký Hiệp ước Patơnốt, công nhận quyền "bảo hộ" của Pháp đối với cả Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Nền độc lập và thống nhất Tổ quốc, được xây dựng từ mồ hôi và xương máu của nhân dân, đã bị Hiệp ước Patơnốt phá vỡ, dẫn đến tình trạng đất nước bị chia cắt thành ba phần do chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp.
Mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã bị khuất phục, nhưng thực dân Pháp vẫn phải đối mặt với tinh thần chống xâm lược kiên cường của nhân dân Việt Nam Năm 1862, Trương Công Định từ chối ân thưởng của vua, quyết tâm ở lại cùng nghĩa quân chống lại giặc Pháp, sử dụng những vật dụng đơn giản như lau và gậy tầm vông làm vũ khí, thể hiện quyết tâm không bao giờ ngừng chiến đấu Nguyễn Trung Trực đã lãnh đạo phong trào kháng chiến tại nhiều địa phương như Tân An và Rạch Giá, và khi bị bắt, ông tuyên bố mạnh mẽ rằng chỉ khi nào người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây Tương tự, Nguyễn Hữu Huân đã dẫn dắt phong trào chống Pháp tại các khu vực như Mỹ Tho và Cai Lậy trong giai đoạn 1868-1875.
Giặc Pháp mất gần 30 năm (1858-1884) mới chiếm được Việt Nam Chỉ một năm sau Hiệp ước Patơnốt, vua Tự Đức qua đời, vua Hàm Nghi lên ngôi (1885) và cùng với Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn ra lệnh mật không hợp tác với Pháp Năm 1886, Hàm Nghi rời kinh thành, lập căn cứ kháng chiến tại Tân Sở (Quảng Trị) và ban hành chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân giúp vua cứu nước.
Chiếu Cần Vương đã cổ vũ phong trào kháng Pháp làm bùng lên một phong trào khởi nghĩa khắp nơi: Tiêu biểu là khởi nghĩa của Đinh Công Tráng ở
Trong giai đoạn từ 1885 đến 1916, Việt Nam chứng kiến nhiều phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp như khởi nghĩa Ba Đình, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, và khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám Mặc dù những người lãnh đạo phong trào này thể hiện lòng yêu nước và dũng cảm, nhưng tất cả đều thất bại, dẫn đến việc Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp Dưới chế độ đô hộ, xã hội Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi do chính sách cai trị của thực dân.
Chính sách của thực dân Pháp tại Đông Dương thể hiện sự chuyên chế, với quyền lực hoàn toàn nằm trong tay người Pháp, trong khi vua và quan Việt Nam chỉ là bù nhìn Chúng thực hiện chiến lược “chia để trị” nhằm làm suy yếu truyền thống đoàn kết của dân tộc, phân chia ba dân tộc anh em Việt Nam, Lào và Campuchia Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng chủ nghĩa thực dân Pháp không thay đổi chiến lược này, dẫn đến sự chia rẽ trong một dân tộc có chung nguồn gốc, phong tục và lịch sử Sự chia cắt này được lợi dụng để làm nguội tình đoàn kết và tạo ra mâu thuẫn giữa các dân tộc, trước khi ghép lại thành một “liên bang” giả tạo gọi là Liên bang Đông Dương.
Chính sách ngu dân của thực dân nhằm nô dịch nhân dân ta, khiến họ sống trong sự ngu tối và thiếu hiểu biết Tất cả các quyền tự do đều bị cấm đoán, trong khi số lượng nhà tù được xây dựng nhiều hơn trường học và bệnh viện Họ bưng bít thông tin, ngăn cản sự ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ thế giới, bao gồm cả văn hóa Pháp tại Việt Nam, đồng thời khuyến khích những giá trị văn hóa đồi trụy và mê tín dị đoan.
HỒ CHÍ MINH TÌM ĐƯỢC CON ĐƯỜNG
Tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước
Trong bối cảnh dân tộc Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng về con đường cách mạng, nhiều nhà yêu nước vẫn kiên trì với phương pháp truyền thống để cứu nước Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã quyết định ra đi tìm kiếm con đường cứu nước mới, thể hiện tầm nhìn đổi mới và sáng tạo trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Trong gần mười năm (1911-1920) đi khắp thế giới, bao gồm các nước thuộc địa và các nước tư bản đế quốc như Pháp, Mỹ, Anh, người đã quan sát và nghiên cứu sâu sắc Qua đó, người nhận ra rằng chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân chính là nguyên nhân gốc rễ gây ra mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, không chỉ ở các nước chính quốc mà còn ở các nước thuộc địa.
Dưới ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, những luận cương đầu tiên của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đấu tranh thành lập Đảng Cộng sản Pháp Chủ nghĩa Mác-Lênin, với tư tưởng cách mạng của thời đại, đã sớm được Hồ Chí Minh khẳng định trong nhận thức của mình.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Pháp Để giải thích cho hành động đầy ý nghĩa đó, sau này Hồ Chí Minh đã viết:
Đệ Tam Quốc tế cam kết hỗ trợ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập, điều mà Đệ Nhị Quốc tế không đề cập đến Vì vậy, tôi đã quyết định ủng hộ Đệ Tam Quốc tế, với mong muốn tự do cho đồng bào và độc lập cho Tổ quốc Đây là bước chuyển biến quan trọng trong tư tưởng và lập trường chính trị của Hồ Chí Minh, từ một người yêu nước trở thành người cộng sản Sau mười năm nghiên cứu, Người đã khẳng định con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, nhấn mạnh rằng chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới mang lại tự do cho dân tộc, và cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể thực hiện được dưới sự lãnh đạo của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.
Kể từ khi gia nhập Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đã nỗ lực mạnh mẽ trong việc phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân tại các quốc gia thuộc địa, với trọng tâm là Việt Nam.
Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh đã trình bày dự thảo nghị quyết về "Chủ nghĩa cộng sản và thuộc địa" và đề xuất thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa đã được thành lập với sự đồng ý của Quốc tế Cộng sản, và Hồ Chí Minh được chỉ định làm ủy viên, đồng thời giữ chức Trưởng Tiểu ban Đông Dương Với vai trò này, Người đã tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển lý luận về vấn đề thuộc địa.
9 Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, trang 44
Trong tác phẩm "10 Hồ Chí Minh: Toàn tập" xuất bản năm 1995, có đề cập đến vai trò quan trọng của việc tuyên truyền, giáo dục và giới thiệu nhiều chiến sĩ cách mạng từ các nước thuộc địa châu Á và châu Phi vào Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1921, nhờ sự hỗ trợ của Đảng, Người cùng một số chiến sĩ cách mạng từ Angiêr, Tuynidi, Maroc, Đahômây đã thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa tại Pari, với Hội người An Nam yêu nước ở Pháp là nòng cốt Tổ chức này, cùng với báo Người cùng khổ - diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, đã giúp đưa chủ nghĩa Mác-Lênin đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời thông tin về tình hình các nước thuộc địa cũng được truyền đạt đến nhân dân Pháp.
Ngoài vai trò chủ nhiệm và chủ bút báo Người cùng khổ, Người còn đóng góp nhiều bài viết cho các tờ báo như Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền, và Tạp chí Cộng sản Các tác phẩm của Người chủ yếu lên án chủ nghĩa thực dân Năm 1925, với sự hỗ trợ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tiên tại Paris bằng tiếng Pháp.
Bản án chế độ thực dân Pháp đã tố cáo những tội ác của thực dân không chỉ ở Việt Nam và Angiêri mà còn ở khắp các thuộc địa, thu hút sự chú ý của dư luận Pháp và thế giới Tác giả sử dụng biểu tượng “con đỉa hai vòi” để chỉ ra rằng chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức Bản án này đã góp phần thiết lập liên minh giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác trong cuộc chiến chống kẻ thù chung, nhằm đảm bảo thắng lợi cuối cùng cho giai cấp công nhân quốc tế.
Các dân tộc thuộc địa có tiềm năng cách mạng mạnh mẽ Để phát huy sức mạnh này, những người cộng sản cần thúc đẩy sự hiểu biết và đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa, tạo nền tảng cho một Liên minh phương Đông trong tương lai Liên minh này sẽ đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng vô sản.
Bản án chế độ thực dân Pháp chỉ trích thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay đổi quốc tịch" của những người theo tư tưởng cải lương tư sản, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần tự lực và tự cường trong việc giải phóng bản thân: “công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em.” Qua tác phẩm, Hồ Chí Minh khẳng định rằng cách mạng thuộc địa cần phát triển theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.
Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu tiên của cách mạng Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào đất nước Tác phẩm này đã giúp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ, nhận thức rõ hơn về giá trị của chủ nghĩa Mác-Lênin thông qua những bài viết của Hồ Chí Minh.
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, trang 124
12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, trang 124
13 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, trang 128
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp đi Liên Xô để tham dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế nông dân (10-1923) họp ở Matxcơva Tại diễn đàn Quốc tế nông dân, Người đã khẳng định: “Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân” 14 Tại đây, Người được trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin Từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924, Người được Trung ương Đảng Cộng sản Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản Trong các tham luận của mình Người đã nêu lên vị trí và tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa Người cho rằng: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa “hiện nay, nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là các chính quốc” 15
Trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng
Vào đầu tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc, với vai trò là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế Cộng sản và phụ trách Cục phương Nam, đã rời Liên Xô để thực hiện nhiệm vụ quan trọng.
Xô đến Quảng Châu, Trung Quốc, để phát triển phong trào cách mạng và chỉ đạo các hoạt động tại Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, và thành lập Bị áp bức dân tộc Liên hợp hội.
Tháng 6 năm 1925, tại Quảng Châu, Người sáng lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, trong đó, có tổ chức trung kiên là Cộng sản đoàn làm nòng cốt Thông qua tổ chức cách mạng này, chủ nghĩa Mác-Lênin được trực tiếp truyền bá vào Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam Cũng tại Quảng Châu, Người đã mở ba lớp huấn luyện, đào tạo được 75 cán bộ cách mạng cho đất nước Trong số này, một số được Người chọn đưa sang học tại Trường đại học phương Đông ở Liên Xô (Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập ); một số được đưa vào học quân sự ở Trường Hoàng Phố ở Trung Quốc (Trương Văn Lệnh, Phùng Chí Kiên ); phần
14 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1980, trang 157
15 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, trang 273-274
Vào đầu năm 1927, cuốn sách "Đường cách mệnh" được xuất bản bởi Bộ tuyên truyền của Bị áp bức dân tộc Liên hợp hội, chứa đựng những bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu Đồng thời, Người cũng được phân công về nước để hoạt động và đã cho ra mắt báo Thanh niên, làm cơ quan tuyên truyền của Hội.
Trong tác phẩm quan trọng này, Người nêu rõ những phương hướng cơ bản về tính chất, chiến lược và phương pháp cách mạng của cách mạng Việt Nam Đặc biệt, Người nhấn mạnh tầm quan trọng của tư cách Người cách mạng, yêu cầu cán bộ cách mạng phải thực hiện lời nói đi đôi với việc làm, giữ vững chủ nghĩa và đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân.
“ít lòng tham muốn về vật chất”, phải “hy sinh”, “phục tùng Đoàn thể” và phải tuyệt đối giữ “bí mật” để bảo vệ Tổ quốc,
Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh làm rõ mối quan hệ giữa cách mạng chính trị, cách mạng xã hội và cách mạng thế giới Ông chỉ ra rằng cách mạng ở các nước thuộc địa như Việt Nam cần phải trải qua hai hình thức: “Dân tộc cách mạng” và “thế giới cách mạng” Ông nêu ví dụ về các quốc gia như Việt Nam, Ấn Độ, Cao-ly, Phi-líp-pin và Trung Quốc đang đấu tranh giành quyền tự do và bình đẳng cho dân tộc mình Đồng thời, ông nhấn mạnh rằng tất cả những người lao động trên thế giới cần liên kết lại để lật đổ chế độ tư bản, hướng tới một thế giới hòa bình và hạnh phúc Hồ Chí Minh khẳng định rằng mặc dù hai loại cách mạng này có sự khác biệt, nhưng chúng vẫn có mối liên hệ chặt chẽ, với “dân tộc cách mạng” không phân chia giai cấp và “thế giới cách mạng” do giai cấp vô sản dẫn dắt.
Tác phẩm chỉ ra những hạn chế của Cách mạng tư sản Mỹ và Cách mạng Pháp, khẳng định rằng chỉ có Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga mới mang lại hạnh phúc tự do và bình đẳng thật sự cho nhân dân Đường cách mạng xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là tư bản, đế quốc và giai cấp phong kiến địa chủ Đồng thời, tác phẩm nêu rõ động lực và lực lượng của cách mạng Việt Nam, trong đó công nông là gốc rễ, còn học trò, nhà buôn nhỏ, và điền chủ nhỏ là những đồng minh quan trọng.
Mệnh là nền tảng lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc hình thành mặt trận dân tộc thống nhất, dựa trên sự liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, mà Đảng đã xây dựng sau này.
Đường cách mệnh kêu gọi sự đồng tâm nhất trí trong cuộc cách mạng, nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn kết giữa các giai cấp công nông Hồ Chí Minh phê phán những hành động bạo động thiếu tổ chức và nhấn mạnh rằng quần chúng, khi được giáo dục và lãnh đạo đúng cách, sẽ trở thành lực lượng mạnh mẽ Ông khẳng định rằng sức mạnh của nhân dân là vô địch, và cách mạng Việt Nam là một phần không thể tách rời của cách mạng thế giới, đồng thời kêu gọi ý chí tự lực tự cường, không phụ thuộc vào sự giúp đỡ quốc tế.
Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi mà không cần phải chờ đợi cách mạng vô sản ở chính quốc Ông nhấn mạnh rằng để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, cần phải tiêu diệt nền tảng của nó là sự bóc lột các nước thuộc địa Nếu không thực hiện điều này, sẽ chỉ là một nỗ lực không hiệu quả Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng sự thành công của cách mạng An Nam sẽ làm yếu đi tư bản Pháp, từ đó tạo điều kiện cho công nông Pháp tham gia cách mạng Luận điểm này phát triển từ những suy nghĩ của ông vào năm 1921 về việc hàng triệu người dân châu Á sẽ thức tỉnh để lật đổ sự bóc lột của thực dân, tạo thành một lực lượng mạnh mẽ hỗ trợ cho cuộc giải phóng ở phương Tây.
Tác phẩm "Đường cách mệnh" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thành lập một đảng cách mạng để đạt được thắng lợi hoàn toàn trong cách mạng Đảng này cần phải tổ chức và vận động quần chúng, đồng thời kết nối với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên toàn thế giới Để đảng vững mạnh, cần có chủ nghĩa làm cốt lõi, vì một đảng không có chủ nghĩa giống như con người không có trí khôn hay tàu không có bàn chỉ nam Chủ nghĩa Mác - Lênin phải được xem là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng Hồ Chí Minh khẳng định sự đa dạng của học thuyết hiện nay, nhưng vẫn nhấn mạnh sự cần thiết của một nền tảng vững chắc cho sự nghiệp cách mạng.
27 Sách đã dẫn, tập 1,trang 36
28 Sách đã dẫn, tập 2, trang 268
29 Sách đã dẫn, tập 2, trang 268
30 Sách đã dẫn, tập 2, trang 268 chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” 31
Trong tác phẩm "Đường cách mệnh", Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia vào các tổ chức chính trị quốc tế, phân tích ba tổ chức lớn: Đệ nhất quốc tế, Đệ nhị quốc tế và Đệ tam quốc tế Ông chỉ ra rằng Đệ nhất quốc tế thiếu sự thống nhất, trong khi Đệ tam quốc tế có vai trò lãnh đạo các đảng cộng sản và kêu gọi sự liên kết của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức Ngược lại, Đệ nhị quốc tế đã trở thành phản cách mạng do kỷ luật lỏng lẻo và sự xâm nhập của những phần tử không đáng tin cậy Ông khẳng định rằng để cách mạng ở An Nam thành công, cần phải dựa vào Đệ tam quốc tế, đồng thời nhấn mạnh rằng tất cả những ai đấu tranh cho cách mạng trên thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam.
Cùng với báo Le Paria và báo Thanh niên, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh đã đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam Đây là cuốn giáo khoa chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, giúp các nhà cách mạng nắm vững lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến từ tự phát sang tự giác.
Giá trị của Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh rằng để giải phóng dân tộc, nhân dân ta phải theo con đường cách mạng vô sản, tuân theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Những thất bại của các nhà yêu nước trước đây đã chỉ ra rằng nhân dân ta cần một con đường giải phóng mới để thoát khỏi sự xâm lược của kẻ thù mạnh hơn Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện với sự nhận thức đúng đắn về quy luật của thời đại Từ đây, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đến với dân tộc Việt Nam, đặc biệt là với những người yêu nước đang tìm kiếm con đường cứu nước.
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
Vào những năm 1920-1925, công nhân đã tiến hành các cuộc đấu tranh nhằm đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống Mặc dù đã có sự hình thành ý thức giai cấp ban đầu, nhưng phong trào này vẫn mang tính chất dân tộc rõ rệt.
Những năm 1928-1929, khi Thanh niên Cách mạng đồng chí hội thực hiện
Phong trào công nhân Việt Nam đã có những bước phát triển rõ rệt, với các cuộc đình công và chống đi phu được tổ chức và kỷ luật hơn Giai cấp công nhân đã phân định rõ bạn, thù trong từng giai đoạn lịch sử và cuộc đấu tranh Đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vô sản, đã ghi nhận sự chuyển biến này, cho rằng phong trào đã từ chỗ rời rạc, nhờ ảnh hưởng của các tài liệu như Bản án chế độ thực dân Pháp và báo Người cùng khổ, dần dần lan rộng và có tổ chức.
1927, công nhân đi vào phong trào Thanh niên Cách mạng đồng chí hội một cách sâu rộng”
Từ các hội ái hữu và tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ chức thành công hội, bắt đầu từ Công hội Nhà máy Ba Son vào năm 1925 Sau đó, nhiều công hội khác đã ra đời như Công hội Nhà máy xe lửa Trường Thi tại Vinh - Nghệ An, Công hội Nhà máy xi-măng Hải Phòng, và Công hội Nhà máy dệt Nam Định, cùng với các công hội ở các mỏ than Mạo Khê, Cẩm Phả, Hồng Gai Ngày 28-9-1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập, tiếp theo là sự ra đời của Tổng công hội Nam Kỳ vào tháng 10 cùng năm.
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối phong trào nông dân với phong trào công nhân Lịch sử Việt Nam cho thấy, trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, yếu tố quyết định là ai nắm giữ được sự ủng hộ của nông dân.
Cương lĩnh của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh việc tịch thu và phân phối ruộng đất từ các đồn điền, nhà chung, quý tộc và địa chủ, nhằm phục vụ lợi ích của nông dân Khẩu hiệu của họ kêu gọi “Đất bồi, đất hoang về dân cày” và phản đối việc cưỡng chiếm đất đai, đồng thời yêu cầu miễn góp lúa trong những năm mất mùa Trong khi đó, các đảng phái yêu nước khác, như Việt Nam Quốc dân Đảng, chỉ đưa ra những chủ trương giải phóng dân tộc chung chung mà không có khẩu hiệu cụ thể nào bảo vệ quyền lợi của công nhân và nông dân.
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, đại diện cho giai cấp vô sản, đã khéo léo thu hút sự ủng hộ từ tầng lớp tiểu tư sản trí thức Việt Nam.
Sau Thế chiến thứ nhất, nhiều trí thức và tiểu tư sản đã tiếp nhận tư tưởng tiến bộ và dũng cảm tham gia vào con đường cách mạng.
Mặc dù chưa thoát khỏi tư tưởng tư sản, các hội viên của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, chủ yếu là tiểu tư sản trí thức, đã tiếp cận chủ nghĩa cộng sản sớm hơn và mạnh mẽ hơn so với các đảng tiểu tư sản khác nhờ sự hướng dẫn của Nguyễn Ái Quốc tại Quảng Châu Trong giai đoạn 1925 – 1926, phong trào bãi khóa của học sinh, sinh viên từ Bắc chí Nam để yêu cầu thả cụ Phan Bội Châu và tưởng niệm cụ Phan Chu Trinh đã dẫn đến việc thực dân Pháp trục xuất hàng ngàn giáo viên, sinh viên, học sinh khỏi các trường học Với tinh thần yêu nước mãnh liệt, thanh niên đã đáp ứng lời kêu gọi từ Matxcova và Quảng Châu, gặp gỡ Nguyễn Ái Quốc và chủ nghĩa Mác-Lênin Sự tham gia của tiểu tư sản trí thức vào phong trào cách mạng khẳng định sức thuyết phục của con đường cứu nước do Nguyễn Ái Quốc đề xướng Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, kế thừa truyền thống chống ngoại xâm anh hùng, đã dễ dàng kết hợp với chủ nghĩa quốc tế cộng sản để xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh như ước mơ của các bậc tiền bối.
Cuộc “vô sản hoá” vào những năm 1928 – 1929 do Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội khởi xướng đã giúp tầng lớp tiểu tư sản trí thức gắn bó với công nhân, đào tạo họ trở thành đại biểu của giai cấp công nhân Lịch sử hình thành Đảng vô sản tại Việt Nam cho thấy, lớp chiến sĩ cách mạng đầu tiên chủ yếu là trí thức, đặc biệt là trung và tiểu trí thức, đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin để xây dựng các tổ chức cộng sản, bên cạnh một số ít người thuộc giai cấp công nhân.
Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đã thành công trong việc chuyển đổi phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác, tạo liên minh với phong trào nông dân và thu hút tầng lớp tiểu tư sản trí thức Qua đó, hội đã giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh ý thức hệ, đẩy lùi tư tưởng cải lương và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của tư sản, đồng thời xác lập hệ tư tưởng của giai cấp vô sản trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Sau khi trở về Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã gặp gỡ các thanh niên yêu nước và nhiệt huyết cách mạng trong tổ chức Quang phục hội do Phan Bội Châu lãnh đạo Những thanh niên này, như Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, thể hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ và quyết tâm đấu tranh cho độc lập.
Lê Hồng Phong, Lê Cần, Nguyễn Giản Khanh và nhiều thành viên khác trong nhóm Tâm tâm xã đã sớm áp dụng quan điểm của Hồ Chí Minh, trở thành những người cộng sản đầu tiên trong Cộng sản đoàn Tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, họ không chỉ là hội viên Thanh niên Cách mạng đồng chí hội mà còn thu hút những đảng viên chủ chốt của Hội Phục Việt, như Trần Phú và Lê Duy Điểm, tham gia học tập Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, đã tham gia Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và từng là cán bộ chủ chốt của Việt Nam Quốc dân Đảng Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội cũng nhanh chóng thu hút những người tiên tiến trong Đảng Thanh niên của Trần Huy Liệu Đầu năm 1929, Nguyễn An Ninh đã bàn giao tổ chức Thanh niên Cao vọng đảng cho các đảng viên Tân Việt có ảnh hưởng từ Thanh niên Cách mạng đồng chí hội.
Ba tổ chức cộng sản xuất hiện ở Việt Nam
Vào giữa năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào, Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đã trở thành một tổ chức quá độ, không còn đủ khả năng lãnh đạo phong trào Trong bối cảnh đó, số lượng Cộng sản đoàn trong hội ngày càng gia tăng, cho thấy nhu cầu thành lập một Đảng Cộng sản để tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng trong tình hình mới là rất cấp thiết.
Tháng 3 năm 1929 Những Cộng sản đoàn trong Kỳ bộ Thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cứu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Văn Tuân, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5D phố Hàm Long, thành phố Hà Nội, quyết định thành lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng Cộng sản thay thế Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội để lãnh đạo cách mạng
Ngày 9 tháng 5 năm 1929 Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ Hội, Thư gửi Quốc tế Cộng sản và các nghị quyết quan trọng khác của Hội Kiến nghị của đoàn đại biểu Bắc Kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng Cộng sản không được chấp nhận đưa vào nghị quyết Đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại hội về nước ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân cách mạng ủng hộ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản
Ngày 17 tháng 6 năm 1929, những đảng viên trong Chi bộ 5D Hàm Long đã họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng; cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyễn Văn Tuấn; thông qua Tuyên ngôn và quyết định xuất bản báo Búa liềm và xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng
Sau khi Đại hội toàn quốc của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội bế mạc,
Sáu uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ gồm Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm, Nguyễn Sỹ Sách, Lê Hồng Sơn và Phạm Văn Đồng đã họp bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản, đồng thời cử ra Ban trù bị với các lãnh đạo Tổng bộ Theo chủ trương này, các Cộng sản đoàn còn lại trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đã hình thành các chi bộ cộng sản Bên cạnh hai chi bộ ở Trung Kỳ và Nam Kỳ, còn có chi bộ cộng sản người Việt Nam tại Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc).
Vào thượng tuần tháng 8 năm 1929, An Nam Cộng sản đảng được thành lập tại căn phòng số 1, lầu 2 “Phòng cảnh khách lầu” ở góc đường Bonard-Philippines, Sài Gòn (nay là góc đường Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực, thành phố Hồ Chí Minh) Hội nghị thành lập đã bầu ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí: Châu Văn Liêm (tức Việt), Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sỹ Sách, với đồng chí Châu Văn Liêm giữ chức bí thư.
Sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng ra đời, các đảng viên Tân Việt Cách mạng đã tổ chức Đại hội thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng 1 năm 1930, với sự tham gia của nhiều đồng chí như Trần Hữu Chương và Nguyễn Khoa Văn Tuy nhiên, hội nghị chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền thực dân Pháp bắt giữ, dẫn đến việc Đông Dương Cộng sản liên đoàn ra đời mà không có Ban Chấp hành Trung ương Sự ra đời của hai đảng đã tạo ra sự tranh giành ảnh hưởng và công kích lẫn nhau, phản ánh những mâu thuẫn trong quá trình phát triển của phong trào cộng sản Việt Nam, đồng thời cho thấy sự ấu trĩ và khuynh hướng tiểu tư sản trong phong trào công nhân và yêu nước thời kỳ đầu Dù đã nhiều lần trao đổi thư từ để tìm kiếm sự thống nhất, hai đảng vẫn không đạt được đồng thuận.
Các nhà lãnh đạo cộng sản và những người yêu nước chân chính nhận thức rõ ràng rằng cần phải nhanh chóng khắc phục tình trạng hiện tại Họ kêu gọi thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, thực sự theo tư tưởng Mác-xít-Lênin để dẫn dắt cách mạng tiến lên và đạt được thắng lợi.