1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học

68 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thời Lượng Giảng Dạy Và Chất Lượng Giảng Viên Trường Đại Học
Tác giả Văn Thị Quý
Người hướng dẫn TS. Phan Đức Dũng, Thầy Hồ Đăng Hòa, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Thầy Jonathan R. Pincus
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Chính Sách Công
Thể loại Luận Văn Thạc Sỹ
Năm xuất bản 2010
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 68
Dung lượng 494,87 KB

Cấu trúc

  • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (11)
  • 1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu (13)
    • 1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu (13)
    • 1.2.2. Các câu hỏi trong phạm vi nghiên cứu (13)
    • 1.2.3. Các từ khóa trong đề tài (13)
  • 1.3. tƣợng Đối và phạm vi nghiên cứu (0)
  • 1.4. Nguồn số liệu (14)
  • 1.5. ƣơ Ph ng pháp nghiên cứu (0)
  • 2.1. Quan điểm từ bối cảnh thế giới (16)
  • 2.2. Quan điểm từ bối cảnh Việt Nam (16)
  • 2.3. Nguyên nhân của thực trạng nghiên cứu khoa học tại Việt Nam (20)
    • 2.3.1. chính Tài cho nghiên cứu khoa học hạn hẹp (0)
    • 2.3.2. Chính sách (0)
    • 2.3.3. Nguồn nhân lực (22)
    • 2.3.4. Kinh nghiệm quốc tế (0)
  • 3.1. Vài nét s ơ qua về tr ƣ ờng Đại học Công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh (0)
  • 3.2. S ơ qua về mẫu khảo sát (25)
  • 3.3. Hoạt độn g nghiên cứu khoa học tại tr ƣ ờng Đại học Công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh (0)
  • 3.4. Thực trạng thời lượng giảng dạy của giảng viên tại trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí (36)
  • 3.5. Thực trạng thu nhập của giảng viên (40)
  • 4.1. nghị Đề chính sách (0)
    • 4.1.1. Đối với Nhà nước (44)
    • 4.1.2. Đối với trường Đại học Công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh (47)
  • 4.2. luận Kết (0)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam đang ở mức báo động, khi có đến 50% sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm Trong số những sinh viên có việc, chỉ 30% làm đúng ngành nghề đã được đào tạo, trong khi phần còn lại phải chấp nhận công việc không phù hợp với chuyên môn của mình.

Phỏng vấn trực tiếp trưởng phòng nhân sự công ty Cổ phần xuất nhập khẩu

Công ty Thủy sản An Giang 2 đang tìm kiếm nhân lực có trình độ đại học, ưu tiên những ứng viên sở hữu kỹ năng mềm và khả năng xử lý tình huống Chị Dung nhận xét rằng sinh viên mới tốt nghiệp thường cần ít nhất sáu tháng đào tạo thêm để đáp ứng yêu cầu công việc, do chương trình học tại trường đại học chủ yếu tập trung vào lý thuyết mà thiếu trải nghiệm thực tế Kỹ năng thực hành và khả năng ứng phó trong các tình huống cụ thể là những yếu tố quan trọng mà sinh viên cần trang bị để thành công trong môi trường làm việc.

Sự kiện công ty Intel gặp khó khăn trong việc tuyển dụng kỹ sư cho cơ sở sản xuất ở TP HCM minh chứng cho tình trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao Trong cuộc thi tuyển cho 2000 sinh viên IT Việt Nam, chỉ có 90 ứng viên, tương đương 5%, đạt tiêu chuẩn Đáng chú ý, trong số này, chỉ có 40 ứng viên đủ trình độ tiếng Anh để đáp ứng yêu cầu công việc.

Nguyễn Xuân Thành, giám đốc MPP - Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, đã thực hiện một nghiên cứu tình huống về tình hình đào tạo đại học tại Việt Nam, chỉ ra rằng hệ thống giáo dục đang đối mặt với khủng hoảng Bài nghiên cứu này có thể được tham khảo tại địa chỉ: http://ocw.fetp.edu.vn/ocwmain.cfm?academicyearid&languageid=1.

Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Thủy sản An Giang, một trong những công ty lớn tại tỉnh An Giang, hoạt động đa lĩnh vực và có yêu cầu cao về nguồn nhân lực Chị Dung, trưởng phòng nhân sự, hiểu rõ nhu cầu của doanh nghiệp đối với sinh viên mới tốt nghiệp và những gì cần thiết từ nhân sự được tuyển dụng Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tuyển dụng, công ty đang tìm kiếm những nhân lực tài năng để đáp ứng yêu cầu phát triển.

Công ty Intel đã khẳng định rằng kết quả kinh doanh tại Việt Nam là tồi tệ nhất trong số các quốc gia mà họ đã đầu tư.

Các chuyên gia giáo dục đại học của Harvard nhận định:

Việt Nam hiện chưa có trường đại học nào được công nhận đạt chất lượng quốc tế Hệ thống giáo dục đại học trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu về nguồn lao động có trình độ cho sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

Sinh viên Việt Nam thường gặp khó khăn trong việc cạnh tranh giành học bổng tại các chương trình giáo dục đại học hàng đầu ở Mỹ và Châu Âu, đặc biệt so với sinh viên từ Trung Quốc và Ấn Độ.

Quan điểm phổ biến cho rằng các trường Đại học là nơi lưu giữ và phát triển tri thức, với giảng viên và sinh viên đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học Tuy nhiên, thực tế tại các trường Đại học Việt Nam lại cho thấy nghiên cứu khoa học (NCKH) không phải là niềm đam mê hay yêu cầu bắt buộc Nhiều giảng viên thường dành thời gian vốn dĩ dành cho NCKH để tập trung vào công tác giảng dạy.

Các trường đại học ở Việt Nam chưa chú trọng đúng mức đến nghiên cứu khoa học (NCKH), dẫn đến việc giảng viên không tham gia tích cực trong việc nâng cao trình độ và phát triển tri thức Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng giáo dục đại học Để cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo, các trường đại học cần triển khai các chương trình NCKH, tạo điều kiện cho sinh viên và giảng viên tham gia nghiên cứu, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo.

In November 2008, Thomas J Vallely and Ben Wilkinson published an article titled "Higher Education in Vietnam: Crisis and Response," which highlights the challenges faced by the Vietnamese higher education system The translated version by Hồng Lĩnh can be found on page 4, while the original document is accessible at the Harvard Kennedy School's website.

4 Thomas J Vallely và Ben Wilkinson, đã dẫn.

5 Thomas J Vallely và Ben Wilkinson, đã dẫn.

Thomas J Vallely và Ben Wilkinson nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp cận các vấn đề thực tế trong nghiên cứu khoa học Việc này không chỉ giúp các trường đại học phát huy vai trò trong việc “sản xuất” và “phát triển” tri thức cho xã hội mà còn nâng cao chất lượng giáo dục Để minh họa cho quan điểm này, bài luận văn sẽ sử dụng ví dụ từ Trường ĐHCN TP.HCM.

Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học và giảng dạy của giảng viên tại trường ĐHCN TP.HCM Bài viết cũng đề xuất các chính sách nhằm cải thiện chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học tại các trường đại học, đặc biệt là trường ĐHCN TP.HCM.

Các câu hỏi trong phạm vi nghiên cứu

Thực trạng nghiên cứu khoa học và giảng dạy của giảng viên tại trường Đại học Công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh nhƣ thế nào?

Những yếu tố nào dẫn tới thực trạng trên?

Các từ khóa trong đề tài

Thời lượng giảng dạy là khoảng thời gian mà giảng viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, không bao gồm thời gian soạn bài hay thực hiện các công việc chuyên môn khác như chấm bài hay coi thi Khảo sát thực trạng thời lượng giảng dạy giúp đánh giá mức độ giảng dạy của giảng viên trong từng năm học.

Nghiên cứu khoa học (NCKH) tại các trường đại học bao gồm hai hình thức chính: nghiên cứu bàn giấy, như soạn bài, viết báo và tham gia hội thảo, và nghiên cứu hàn lâm, liên quan đến việc áp dụng nghiên cứu vào thực tiễn Luận văn này sẽ phân tích thực trạng NCKH của giảng viên, phản ánh kết quả từ cả hai loại hình nghiên cứu.

1.3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tại trường Đại học Công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm gần đây (2005-2009) với nội dung khảo sát và phân tích thời lượng giảng dạy và hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường ĐHCN TP.HCM.

Trường ĐHCN TP.HCM là một trường đại học công lập có quy mô đào tạo lớn, mặc dù không có bề dày lịch sử như một số trường khác như ĐH Kinh tế TP.HCM hay ĐH Bách khoa Tuy nhiên, trường đã có quá trình phát triển từ khi còn là trường trung cấp, cao đẳng và hiện nay nằm trong top các trường đông sinh viên nhất với hơn 88.520 học viên, sinh viên vào năm 2008, tăng gấp đôi so với 41.478 học viên, sinh viên vào năm 2004.

Trường Đại học Công nghệ TP.HCM, mặc dù đã được nâng cấp từ cao đẳng lên đại học, nhưng trong thời gian đầu chưa chú trọng đến nghiên cứu khoa học (NCKH) Theo quy định của Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học phải thực hiện hai chức năng chính là đào tạo và NCKH Do đó, Trường Đại học Công nghệ TP.HCM chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu này.

Hệ thống chính sách tại trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh tuân thủ theo các quy định chung của Nhà nước về giáo dục đại học Dựa trên tình hình hiện tại của trường, tác giả đề xuất một số gợi ý chính sách nhằm cải thiện và phát triển giáo dục đại học tại Việt Nam.

Nguồn số liệu trong bài viết được thu thập thông qua khảo sát và phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia, giảng viên và cán bộ tại trường Đại học Công nghệ TP.HCM Bài viết cũng đề cập đến một số chính sách của nhà nước và của trường liên quan đến việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học, cùng với các thông tin chính thống từ trường Ngoài ra, các báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thành lập mới đại học và nâng cấp cao đẳng lên đại học cũng được nêu ra.

Khảo sát và phỏng vấn trực tiếp giảng viên tại Trường Đại học Công nghệ TP.HCM nhằm thu thập thông tin về giảng dạy và nghiên cứu khoa học Nghiên cứu các văn bản, cơ chế và chính sách của Nhà nước cũng như của trường liên quan đến hoạt động này để hiểu rõ hơn về những hỗ trợ và thách thức mà giảng viên đang gặp phải.

Kết hợp giữa phương pháp định tính và định lượng, bài viết phân tích giáo dục đại học (GDĐH) trên thế giới và Việt Nam Đồng thời, nó sử dụng các kết quả nghiên cứu trước đây để làm rõ thực trạng GDĐH hiện nay.

Phân tích và tổng hợp số liệu thu thập bằng các công cụ như SPSS và Excel, nhằm thống kê và đánh giá thông tin về các trường mới thành lập hoặc các trường cao đẳng được nâng cấp lên đại học.

CHƯƠNG 2: CÁC QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ VỀ NGHIÊN CỨU

KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC

2.1 Quan điểm từ bối cảnh thế giới

Wilhelm von Humboldt, vào thế kỷ XIX, được xem là cha đẻ tinh thần của các đại học hiện đại, với tư tưởng kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu Ông nhấn mạnh rằng người thầy giỏi không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà còn phải là người nghiên cứu và khám phá cái mới Tự do trong giảng dạy và học tập là điều cốt yếu, cùng với việc coi trọng nghiên cứu khoa học và tìm kiếm chân lý một cách liên tục.

Các trường đại học hàng đầu đóng góp quan trọng cho sự phát triển tri thức thông qua nghiên cứu và giảng dạy Họ áp dụng giáo trình và phương pháp sư phạm sáng tạo trong môi trường thuận lợi, coi nghiên cứu là một phần thiết yếu trong chương trình giảng dạy Mục tiêu là đào tạo sinh viên xuất sắc, không chỉ trong quá trình học tập mà còn trong sự nghiệp sau khi tốt nghiệp, giúp họ xác định được hướng đi và mức độ làm việc phù hợp.

Ngày nay, chất lượng nghiên cứu khoa học và đào tạo sinh viên là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng đại học toàn cầu Để thu hút sinh viên, các trường đại học trên thế giới phải nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu Nền giáo dục đại học tại Mỹ và một số quốc gia khác được công nhận có chất lượng cao, thu hút hàng triệu sinh viên quốc tế mỗi năm nhờ vào uy tín và chất lượng đã được khẳng định.

2.2 Quan điểm từ bối cảnh Việt Nam

7 Jamil Salmi, “Những thách thức trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp thế giới”, tr 71 Ngân hàng hàng thế giới xuất bản.

Các chuyên gia nhận định rằng Việt Nam cần rút ra bài học từ sự phát triển kinh tế của Đông và Đông Nam Á, đặc biệt là về việc các trường đại học Việt Nam đang tụt lại so với các nước láng giềng, ngay cả những quốc gia có mức phát triển thấp hơn.

Hệ thống các trường đại học ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo, trong khi nghiên cứu khoa học cũng đóng vai trò quan trọng Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu chỉ được triển khai tại một số trường đại học có truyền thống nghiên cứu vững mạnh Những trường này sở hữu đội ngũ cán bộ đam mê và có năng lực nghiên cứu, cùng với cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm và nguồn kinh phí cần thiết để phát triển hoạt động nghiên cứu.

Nguồn số liệu

Nguồn số liệu trong bài viết được thu thập từ khảo sát và phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia, giảng viên và cán bộ tại trường ĐHCN TP.HCM Bài viết phân tích một số chính sách của nhà nước và trường ĐHCN TP.HCM liên quan đến việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học Ngoài ra, nó cũng đề cập đến các nguồn thông tin chính thống từ trường và các báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thành lập mới các trường đại học và nâng cấp cao đẳng lên đại học.

Khảo sát và phỏng vấn trực tiếp các giảng viên tại trường ĐHCN TP.HCM nhằm thu thập thông tin về giảng dạy và nghiên cứu khoa học Nghiên cứu này cũng xem xét các văn bản, cơ chế và chính sách của Nhà nước cũng như của trường liên quan đến hoạt động giảng dạy và nghiên cứu của các giảng viên đại học.

Kết hợp phương pháp định tính và định lượng, bài viết phân tích tình hình giáo dục đại học (GDĐH) toàn cầu và tại Việt Nam Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng dựa trên các kết quả từ những nghiên cứu trước đây về thực trạng GDĐH để cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này.

Phân tích và tổng hợp số liệu thu thập được bằng các công cụ như SPSS và Excel là rất quan trọng Việc thống kê dữ liệu giúp cung cấp cái nhìn tổng quan về các trường mới thành lập hoặc những trường đã nâng cấp từ cao đẳng lên đại học.

CHƯƠNG 2: CÁC QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ VỀ NGHIÊN CỨU

KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC

2.1 Quan điểm từ bối cảnh thế giới

Wilhelm von Humboldt, vào thế kỷ XIX, được coi là cha đẻ tinh thần của các đại học hiện đại, với triết lý kết hợp giảng dạy và nghiên cứu Ông nhấn mạnh rằng một người thầy giỏi phải là người nghiên cứu và khám phá cái mới Tinh thần tự do trong giảng dạy và học tập cũng được coi trọng, cùng với quan điểm rằng khoa học và chân lý cần phải được nghiên cứu không ngừng.

Các trường đại học hàng đầu đóng góp quan trọng cho tri thức thông qua nghiên cứu và giảng dạy, sử dụng giáo trình và phương pháp sư phạm sáng tạo trong môi trường thuận lợi Chúng coi nghiên cứu là một phần thiết yếu của chương trình giảng dạy, đào tạo sinh viên xuất sắc trong quá trình học tập cạnh tranh và chuẩn bị cho họ khả năng làm việc sau khi tốt nghiệp.

Ngày nay, chất lượng nghiên cứu khoa học và chất lượng sinh viên sau đào tạo là những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng đại học toàn cầu Để cạnh tranh và thu hút sinh viên, các trường đại học phải nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu Nền giáo dục đại học tại Mỹ và một số quốc gia khác được công nhận có chất lượng cao, thu hút hàng triệu sinh viên quốc tế hàng năm nhờ vào uy tín và chất lượng đã được khẳng định.

2.2 Quan điểm từ bối cảnh Việt Nam

7 Jamil Salmi, “Những thách thức trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp thế giới”, tr 71 Ngân hàng hàng thế giới xuất bản.

Khi xem xét sự phát triển kinh tế ở Đông và Đông Nam Á, các chuyên gia nhận định rằng các trường đại học Việt Nam đang bị tụt lại so với cả những nước láng giềng kém phát triển hơn.

Hệ thống các trường đại học ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo, trong khi nghiên cứu khoa học cũng là một nhiệm vụ quan trọng Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động nghiên cứu khoa học chỉ được triển khai tại một số trường đại học có truyền thống nghiên cứu Những trường này thường sở hữu đội ngũ giảng viên đam mê và có năng lực nghiên cứu, cùng với cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm và nguồn kinh phí cần thiết cho hoạt động nghiên cứu.

Trong cuộc tọa đàm với sinh viên Fulbright (MPP1) ngày 26/11/2009, GS Đào Công Tiến, nguyên hiệu trưởng trường ĐH Kinh tế TP.HCM, đã nhấn mạnh rằng nhiều trường đại học Việt Nam chỉ đang hoạt động một cách hạn chế, chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo mà chưa chú trọng đủ đến nghiên cứu khoa học.

Tiến sỹ Trần Tiến Khai nhận định rằng trong suốt hàng chục năm qua, hệ thống Đại học tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo, trong khi chức năng nghiên cứu khoa học chỉ được triển khai tại một số ít trường có truyền thống nghiên cứu hoặc có đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ nghiên cứu.

Hiện nay, Bộ GD-ĐT quy định giảng viên đại học phải giảng dạy 400 giờ mỗi năm, nhưng thực tế nhiều giảng viên phải "đứng lớp" nhiều hơn con số này Tình trạng quá tải giảng dạy đã diễn ra trong thời gian dài mà chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả Quy định của Bộ GD-ĐT gặp khó khăn trong việc thực hiện nghiêm túc do sự gia tăng nhanh chóng về số lượng trường đại học và sinh viên.

Bài viết "Lựa chọn Thành Công: Quá trình phát triển Đông và Đông Nam Á và những bài học cho Việt Nam" phân tích những thành công của các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á, từ đó rút ra những bài học quý giá cho Việt Nam Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các chiến lược phát triển phù hợp với bối cảnh địa phương, đồng thời khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo trong quản lý kinh tế Bài viết cũng đề cập đến vai trò của chính sách và sự hợp tác quốc tế trong việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho Việt Nam.

Bài nghiên cứu cấp trường của TS Trần Tiến Khai, Trưởng Bộ môn Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, tập trung vào 9 nghiên cứu khoa học quan trọng Những nghiên cứu này không chỉ đóng góp vào lĩnh vực kinh tế nông nghiệp mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành nông thôn tại Việt Nam.

Sự tăng trưởng nhanh chóng của số lượng sinh viên tại Việt Nam đã không được hỗ trợ tương xứng bởi sự gia tăng số lượng giảng viên, dẫn đến chất lượng đào tạo không theo kịp nhu cầu của nền kinh tế Theo GS Phạm Minh Hạc, năm 1990, cả nước chỉ có 100.000 sinh viên và 24.000 giảng viên, nhưng đến năm 2006, số sinh viên đã tăng lên 1 triệu trong khi số giảng viên chỉ đạt hơn 40.000 Điều này cho thấy số sinh viên tăng gần 10 lần, trong khi giảng viên chỉ tăng chưa đầy 2 lần Tính đến tháng 9/2009, Việt Nam có 376 trường đại học và cao đẳng, gấp 3,7 lần so với năm 1987 Việc nâng cấp các trường cao đẳng lên đại học và mở nhiều trường đại học dân lập mà chưa có sự chuẩn bị cần thiết, cùng với việc kỷ cương trong giáo dục đại học còn lỏng lẻo, đã làm cho chất lượng đào tạo không đạt yêu cầu mong muốn.

Quan điểm từ bối cảnh thế giới

Wilhelm von Humboldt, vào thế kỷ XIX, được xem là cha đẻ tinh thần của các trường đại học hiện đại Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp giảng dạy và nghiên cứu, cho rằng người thầy giỏi phải là người tiên phong trong việc nghiên cứu và khám phá những điều mới mẻ Humboldt còn đề cao tự do trong giảng dạy và học tập, khẳng định rằng khoa học và chân lý cần phải được nghiên cứu một cách liên tục và không ngừng.

Các trường đại học hàng đầu đóng góp quan trọng cho sự tiến bộ tri thức thông qua nghiên cứu và giảng dạy với giáo trình sáng tạo Họ tạo ra môi trường học tập thuận lợi, coi nghiên cứu là một phần thiết yếu trong chương trình giảng dạy Mục tiêu của các trường này là đào tạo sinh viên xuất sắc, không chỉ trong quá trình học tập cạnh tranh mà còn giúp họ xác định rõ hướng đi và khả năng làm việc sau khi tốt nghiệp.

Ngày nay, chất lượng nghiên cứu khoa học và chất lượng sinh viên sau đào tạo là những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng đại học toàn cầu Để thu hút sinh viên, các trường đại học trên thế giới phải nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu Nền giáo dục đại học tại Mỹ và một số quốc gia khác được công nhận có chất lượng cao, hàng năm thu hút hàng triệu sinh viên quốc tế nhờ vào uy tín và chất lượng đã được khẳng định.

Quan điểm từ bối cảnh Việt Nam

7 Jamil Salmi, “Những thách thức trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp thế giới”, tr 71 Ngân hàng hàng thế giới xuất bản.

Khi xem xét bài học từ sự phát triển kinh tế ở Đông và Đông Nam Á, các chuyên gia nhận định rằng các trường đại học tại Việt Nam đang bị tụt lại so với cả những quốc gia láng giềng kém phát triển hơn.

Hệ thống các trường đại học ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo, trong khi nghiên cứu khoa học cũng là một nhiệm vụ quan trọng Tuy nhiên, hiện tại, hoạt động nghiên cứu chỉ diễn ra ở một số trường đại học có truyền thống nghiên cứu, nơi có đội ngũ cán bộ đam mê và có khả năng nghiên cứu, cùng với cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm và nguồn kinh phí hỗ trợ.

Trong cuộc tọa đàm với sinh viên Fulbright (MPP1) vào ngày 26/11/2009, GS Đào Công Tiến, nguyên hiệu trưởng trường ĐH Kinh tế TP.HCM, đã chỉ ra rằng nhiều trường đại học tại Việt Nam chỉ mới phát triển một cách hạn chế, chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo mà chưa chú trọng đầy đủ đến hoạt động nghiên cứu khoa học.

Tiến sỹ Trần Tiến Khai nhận định rằng hệ thống Đại học ở Việt Nam trong suốt nhiều năm qua chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo, trong khi chức năng nghiên cứu khoa học chỉ được thực hiện tại một số ít trường có truyền thống nghiên cứu hoặc đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ nghiên cứu.

Hiện nay, Bộ GD-ĐT quy định giảng viên đại học phải tham gia giảng dạy 400 giờ mỗi năm, nhưng thực tế, nhiều giảng viên "đứng lớp" vượt quá số giờ quy định này Tình trạng này đã diễn ra trong thời gian dài mà chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả Việc thực hiện nghiêm túc quy định của Bộ GD-ĐT gặp khó khăn khi số lượng trường đại học và sinh viên tăng nhanh chóng.

Bài viết "Lựa chọn Thành Công: Quá trình phát triển Đông và Đông Nam Á và những bài học cho Việt Nam" phân tích các yếu tố thành công trong phát triển kinh tế của các quốc gia Đông và Đông Nam Á Tác giả nhấn mạnh rằng Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học quý giá từ những kinh nghiệm này để thúc đẩy sự phát triển bền vững Các chiến lược như cải cách kinh tế, đầu tư vào giáo dục và công nghệ, cũng như tăng cường hội nhập quốc tế được đề xuất là những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển Tham khảo thêm chi tiết tại địa chỉ: http://www.diendan.org/viet-nam/lua-chon-thanh-cong/.

Bài nghiên cứu cấp trường của TS Trần Tiến Khai, Trưởng Bộ môn Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, đã được thực hiện với mục tiêu khám phá các khía cạnh quan trọng trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp Nghiên cứu này không chỉ góp phần nâng cao hiểu biết về phát triển nông thôn mà còn cung cấp những giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững trong khu vực.

Số lượng sinh viên tại Việt Nam đã tăng mạnh từ 100.000 vào năm 1990 lên 1 triệu vào năm 2006, trong khi số giảng viên chỉ tăng từ 24.000 lên hơn 40.000, cho thấy sự chênh lệch lớn về tỷ lệ tăng trưởng Đến tháng 9/2009, cả nước có 376 trường đại học và cao đẳng, gấp 3,7 lần so với năm 1987 Việc "đôn" các cao đẳng lên đại học và mở nhiều trường đại học dân lập mà không chuẩn bị đầy đủ điều kiện cần thiết, cùng với kỷ cương lỏng lẻo trong giáo dục đại học, đã dẫn đến chất lượng đào tạo không đạt yêu cầu mong muốn.

Hiện nay, cả nước có 360 giáo sư trong khi có 376 trường đại học và cao đẳng, cho thấy số lượng giáo sư chưa đủ để mỗi trường có một người Theo quy định, ít nhất 50% giảng viên phải có trình độ thạc sĩ hoặc tiến sĩ Tỷ lệ sinh viên được tuyển sinh tương ứng là từ 5-10 sinh viên cho mỗi giảng viên ở các ngành năng khiếu, 10-15 sinh viên cho ngành khoa học kỹ thuật và công nghệ, và 20-25 sinh viên cho ngành khoa học xã hội, nhân văn và kinh tế - quản trị kinh doanh Những yêu cầu này đã khiến một số trường đại học gặp khó khăn trong việc đảm bảo nguồn nhân lực khi thành lập hoặc nâng cấp từ cao đẳng lên đại học, dẫn đến việc "mượn" danh nghĩa của giảng viên từ các trường khác hoặc các tiến sĩ, thạc sĩ làm việc ở lĩnh vực khác.

Cải thiện chất lượng giáo dục đại học là mục tiêu quan trọng của quốc gia và lãnh đạo Việt Nam Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định vay vốn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

11 http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2006/08/600207/

Bài viết "12 Chất lượng giáo dục đại học: vấn đề và xu thế phát triển" của Bùi Mạnh Nhị, xuất hiện trong tuyển tập các công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu giáo dục – Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích những thách thức và xu hướng hiện tại trong lĩnh vực giáo dục đại học Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng giáo dục và những yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững của các cơ sở giáo dục đại học.

13 Tuệ Nguyễn, “cần điều chỉnh chính sách đối với nhà giáo” tr1 truy cập tại địa chỉ: http://tieuhocdanghai.com/news/?iidA54

Bộ GD-ĐT đã đưa ra 14 quy định về việc thành lập trường Đại học tại Việt Nam, với mục tiêu đầu tư hàng trăm triệu đô la cho 4 trường ĐH trong nước nhằm nâng cao chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc tế Ngày 21 tháng 07 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký quyết định số 121/2007/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020, trong đó đặt ra mục tiêu Việt Nam có ít nhất một trường đại học nằm trong top 200 đại học hàng đầu thế giới vào năm 2020 Điều này cho thấy việc cải thiện chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam đang trở thành một nhiệm vụ cấp bách.

Đầu tư lớn vào nghiên cứu khoa học có thể trở nên lãng phí nếu không chú trọng đến năng lực NCKH của giảng viên Kết quả NCKH, đặc biệt là số lượng bài viết đăng trên tạp chí quốc tế, là một tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực này Những bài viết được công nhận bởi các học giả uy tín chứng minh giá trị của giảng viên trong lĩnh vực nghiên cứu Bảng 1 so sánh năng lực NCKH của hai đại học hàng đầu Việt Nam, ĐH Quốc gia (Hà Nội và TP.HCM) và ĐH Bách Khoa Hà Nội, với các đại học hàng đầu trong khu vực.

Bảng 1: Số bài báo đăng trên các tạp chí có cơ chế thẩm định chéo năm

Trong danh sách các tổ chức giáo dục hàng đầu, Đại học Quốc gia Singapore dẫn đầu với 3.684 công trình nghiên cứu, theo sau là Đại học Quốc gia Seoul với 4.569 công trình Đại học Bắc Kinh và Đại học Tokyo cũng có số lượng công trình đáng kể, lần lượt là 2.892 và 2.194 Các trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Quốc gia Việt Nam đều có 34 công trình, trong khi Đại học Philippines và Đại học Chulalongkorn ghi nhận 194 và 743 công trình nghiên cứu.

Nguồn: Science Citation Index Expanded, Thomson

Bảng 2: Chỉ số Phát Minh Sáng Chế (Thống kê số lƣợng Bằng Phát Minh của các quốc gia trong vùng Đông Á)

Quốc gia Số lƣợng bằng phát minh

Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review

Kết quả từ bảng 1 cho thấy thực trạng nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên tại một số trường đại học hàng đầu Việt Nam còn kém xa so với các nước trong khu vực Bảng 2 chỉ ra rằng Việt Nam đứng ở vị trí cuối cùng với con số bằng sáng chế là zero, cho thấy chưa có bất kỳ phát minh nào được công nhận từ quốc gia này Điều này chứng tỏ rằng các giảng viên Việt Nam chưa thực sự tham gia tích cực vào hoạt động NCKH và chưa kết nối được với xu thế quốc tế trong lĩnh vực chuyên môn của họ.

Nguyên nhân của thực trạng nghiên cứu khoa học tại Việt Nam

Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học công nghệ hiện nay chủ yếu là các giảng viên quen thuộc với việc giảng dạy, nhưng động lực và niềm đam mê nghiên cứu khoa học (NCKH) vẫn chưa cao Hơn nữa, trình độ và khả năng tư duy sáng tạo của nhiều giảng viên vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu khắt khe trong NCKH.

Nhiều trường đại học hiện nay đang đối mặt với vấn đề đội ngũ giảng viên lớn tuổi hạn chế trong khả năng nghiên cứu khoa học (NCKH) và chưa thể dẫn dắt các giáo viên trẻ Lực lượng nghiên cứu khoa học tại các trường này thường mỏng, chủ yếu tập trung ở một số chuyên ngành có giảng viên trẻ, những người đã học tập tại các đại học nước ngoài, có khả năng hợp tác quốc tế và vẫn giữ được động lực cũng như đam mê trong nghiên cứu khoa học.

2.3.4.nghiệm quốc tế Ở những nước tiên tiến có nền GDĐH cao như ở ĐH London (Anh Quốc), mỗi năm giảng viên chỉ tham gia đứng lớp tối đa là 150 giờ 16 , ở ĐH Washington (Hoa kỳ) là 100 giờ trong một năm 17

Tại Việt Nam, số giờ chuẩn tối thiểu cho giáo dục là 400 giờ mỗi năm Điều này được ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nội tại, bao gồm việc mở rộng quy mô các đơn vị cơ sở và gia tăng số lượng sinh viên.

16 Phỏng vấn Tiến sỹ Jonathan Pincus – Giám đốc đào tạo chương trình giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Theo nghiên cứu của Laura Chirnot từ Đại học Harvard, giảng viên tại các trường đại học Việt Nam tham gia giảng dạy quá nhiều so với tiêu chuẩn của các quốc gia phát triển Trong khi đó, các nước tiên tiến khuyến khích giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học, đánh giá cao cả quá trình làm việc của họ, bất kể kết quả có thành công hay không, nhằm động viên và hỗ trợ họ phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu.

Thời gian học đại học tại Việt Nam kéo dài 4 năm với tổng cộng 2.183 giờ, cao hơn 60% so với 1.380 giờ ở Mỹ Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng trường và sinh viên, cùng với lượng giờ học trên lớp quá lớn, đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt giảng viên và áp lực căng thẳng trong ngành giáo dục.

Xu hướng thiên lệch trong chức năng đào tạo của hệ thống quản lý đại học đã dẫn đến việc các trường đại học, đặc biệt là những trường mới thành lập hoặc nâng cấp từ cao đẳng, giảm thiểu chức năng nghiên cứu khoa học (NCKH) trong suốt nhiều năm qua Để thích ứng với bối cảnh hiện tại, gia tăng khối lượng giảng dạy trở thành giải pháp dễ thực hiện nhất, được nhiều giảng viên lựa chọn.

18 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Chế độ làm việc đối với giảng viên kèm theo Quyết định số 64/2008/QĐ-

BGDĐT, tr 7, chương III, định mức thời gian làm việc và thời gian giảng dạy của giảng viên

19 Vũ Quang Việt (2005), so sánh chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt Nam, truy cập tại địa chỉ, http://hoithao.viet-studies.info/VQViet_SoSanhChuongTrinh.pdf

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1 Vài nét sơ qua về trường Đại học Công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh

Trường ĐHCN TP.HCM đã trải qua những biến đổi đáng kể trong hơn 12 năm, từ một trường công nhân và trường nghề, phát triển thành trường trung cấp, rồi cao đẳng, và hiện tại đã trở thành trường đại học công lập Hiện nay, trường có hơn 80.000 sinh viên và 2.000 cán bộ, trong đó có 1.500 giảng viên cơ hữu và 200 giảng viên thỉnh giảng từ các trường đại học, viện nghiên cứu và các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật Tỷ lệ sinh viên trên một giảng viên là 47 sinh viên/1 giảng viên.

Nhà trường tự hào có 100% giảng viên tốt nghiệp đại học, bao gồm 140 giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ và nghiên cứu sinh, cùng với 750 thạc sĩ Nhiều giảng viên đã tham gia vào các công trình nghiên cứu khoa học ở cấp trường, Bộ và thành phố Trong những năm gần đây, nhà trường đã quy tụ một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trẻ, có năng lực chuyên môn và khả năng sư phạm tốt, tạo nên nguồn lực tiềm năng để nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển đội ngũ sư phạm tâm huyết, yêu nghề.

Trường Đại học Công nghệ TP.HCM là một trong những cơ sở giáo dục phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong việc mở rộng quy mô đào tạo Số liệu cho thấy sự gia tăng đáng kể về quy mô đào tạo trong những năm gần đây, phản ánh sự nỗ lực không ngừng của trường trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội.

20 Thông tin thu thập trên trang web của trường ĐHCN TP.HCM tại địa chỉ: http://www.hui.edu.vn/Content.aspx?MenuIDy

Thông tin về đội ngũ giảng viên của trường Đại học Công nghệ TP.HCM được trình bày chi tiết trên trang web chính thức tại địa chỉ: http://www.hui.edu.vn/Content.aspx?MenuIDy.

Bảng số 3: Số sinh viên trường Đại học Công nghiệp TP.HCM qua các năm

Số học viên, sinh viên toàn trường

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 phương hướng kế hoạch năm 2008; 2008-2009 của trường ĐHCN TP.HCM

Sự phát triển quy mô đào tạo của trường Đại học mới nâng cấp trong sáu năm qua đặt ra câu hỏi về khả năng đáp ứng các tiêu chí của một trường Đại học Liệu trình độ giảng viên và năng lực nghiên cứu khoa học có thực sự đạt tiêu chuẩn như những gì trường đã quảng bá trên trang web?

3.2 Sơ qua về mẫu khảo sát

Thời gian thực hiện phỏng vấn và khảo sát bằng bảng hỏi kéo dài 2 tháng, từ tháng 12/2009 đến tháng 1/2010 Tổng cộng 200 bảng câu hỏi đã được phát ra, trong đó thu về 114 bảng, đạt tỷ lệ 57% Trong quá trình làm sạch dữ liệu, có 5 bảng hỏi không hợp lệ Các cuộc phỏng vấn được thực hiện trực tiếp giữa tác giả và giảng viên trường ĐHCN, với đối tượng phỏng vấn được chọn ngẫu nhiên Thông tin chi tiết về mẫu được trình bày trong phụ lục.

1 Bảng câu hỏi tại phụ lục 2 Phiếu đồng ý tham gia tại phụ lục 3.

Theo số liệu điều tra, giảng viên trong trường có sự cân bằng về giới tính và độ tuổi trẻ, với phần lớn đã lập gia đình Gần 50% giảng viên trẻ có kinh nghiệm từ 1-3 năm, trong khi chức danh GS.PGS rất hiếm, chỉ chiếm dưới 1% Học vị của giảng viên chủ yếu là thạc sỹ (gần 50%), tiến sỹ chỉ đạt 8.3%, còn lại là cử nhân và sau đại học Sỹ số lớp học mà các giảng viên giảng dạy thường dao động từ 100-150 sinh viên.

Ngoài công tác giảng dạy, gần 60% giảng viên còn tham gia vào các công việc khác Nguồn thu nhập từ những công việc này thường cao hơn ít nhất 60% so với thu nhập từ trường.

S ơ qua về mẫu khảo sát

Thời gian thực hiện phỏng vấn và khảo sát bằng bảng hỏi diễn ra trong 2 tháng, từ tháng 12/2009 đến tháng 1/2010 Trong tổng số 200 bảng câu hỏi phát ra, đã thu về 114 bảng, đạt tỷ lệ 57% Sau khi làm sạch dữ liệu, có 5 bảng hỏi không hợp lệ Quá trình phỏng vấn được thực hiện trực tiếp giữa tác giả và các giảng viên của trường ĐHCN, với đối tượng phỏng vấn được chọn ngẫu nhiên Thông tin chi tiết về mẫu khảo sát được trình bày ở phụ lục.

1 Bảng câu hỏi tại phụ lục 2 Phiếu đồng ý tham gia tại phụ lục 3.

Theo số liệu điều tra, giảng viên tại trường có sự cân bằng về giới tính và độ tuổi trẻ, với phần lớn đã lập gia đình Gần 50% giảng viên trẻ có kinh nghiệm từ 1-3 năm, trong khi chức danh GS.PGS rất hiếm, chỉ chiếm dưới 1% Học vị phổ biến nhất là thạc sĩ (gần 50%), tiếp theo là tiến sĩ (8.3%), và phần còn lại là cử nhân và sau đại học (22%) Sỹ số lớp học mà giảng viên phụ trách thường dao động từ 100-150 sinh viên.

Gần 60% giảng viên không chỉ giảng dạy mà còn tham gia vào các công việc khác Thu nhập từ các công việc ngoài trường của họ ít nhất cao hơn 60% so với mức lương tại trường.

Sau đại học là cấp độ học tập của một số giảng viên, thường kéo dài từ 1 đến 2 năm, nhưng chưa đủ điều kiện để nhận bằng Thạc sỹ Trung bình, mỗi giảng viên giảng dạy khoảng 586 giờ mỗi năm tại trường Đặc biệt, có 46.3% giảng viên còn dạy thêm tại các trường khác, với thời gian giảng dạy bổ sung trung bình là 148 giờ mỗi năm.

Theo số liệu khảo sát trong 5 năm qua, hơn 60% giảng viên không tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH), trong khi 40% có tham gia thì gần 75% chỉ thực hiện NCKH cấp trường, và chỉ 25% tham gia các đề tài cấp Bộ trở lên.

Kết quả này đƣợc trình bày trong phụ lục 4.

3.3.Hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường Đại học 23 Công nghiệp Thành

Trong cuộc thảo luận với GS.TSKH Lê Huy Bá, chủ tịch hội đồng khoa học trường ĐHCN TP.HCM, ông cho rằng phong trào nghiên cứu khoa học tại trường rất yếu kém, thậm chí kém hơn cả phong trào thể dục thể thao Mỗi năm, quỹ cho thể dục thể thao lên tới ba trăm triệu đồng để tổ chức các hoạt động, trong khi trường không có quỹ nào dành cho nghiên cứu khoa học Điều này dẫn đến việc không thể tổ chức hội thảo cho giảng viên, cũng như mời các giáo sư chia sẻ phương pháp và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học.

Khảo sát cho thấy hầu hết giảng viên đều coi việc chuẩn bị giáo án và bài giảng trước khi lên lớp là rất quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy Kết quả thống kê cho thấy điểm trung bình của câu hỏi về tầm quan trọng này đạt 4.6697, vượt xa mức trung bình 3, cho thấy cả giảng viên ít kinh nghiệm lẫn giảng viên dày dạn đều có chung quan điểm về sự cần thiết của việc chuẩn bị bài giảng.

Trong nghiên cứu khoa học tại trường Đại học, có 23 hoạt động NCKH, bao gồm biên soạn chương trình đào tạo, tài liệu giảng dạy, dịch thuật, tổ chức hội thảo khoa học và tham gia các hội đồng nghiên cứu Theo TS Trần Tiến Khai, việc chuẩn bị giáo án và bài giảng trước khi lên lớp là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy.

Bảng số 4: Kết quả thống kê bằng SPSS về việc đánh giá của giảng viên.

Số mẫu Điểm thấp nhất Điểm cao nhất Trung bình Tầm quan trọng của việc chuẩn bị giáo án, bài giảng trước khi đến 109 1.00 5.00 4.6697

Nguồn: Tính toán của tác giả

Mặc dù được đánh giá cao, giảng viên phải đối mặt với cường độ làm việc rất cao, dẫn đến việc họ không còn thời gian và sức lực để chuẩn bị bài giảng và giáo án như quy định Nhiều giảng viên chia sẻ rằng trong mùa tuyển sinh, họ phải dạy liên tục ba ca trong một ngày, từ sáng đến tối, khiến họ không chỉ không thể soạn bài mà còn cảm thấy mệt mỏi và thiếu thời gian nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động.

Theo đánh giá của giảng viên, việc chuẩn bị giáo án và bài giảng trước khi lên lớp rất quan trọng, với điểm trung bình 4,669 trên thang điểm 5 Tuy nhiên, thời gian chuẩn bị giữa các giảng viên lại khác nhau Các giảng viên mới thường mất khoảng 3 giờ để soạn 1 giờ giảng dạy, nhưng thời gian này giảm dần trong những năm tiếp theo Sau 3 năm, hầu hết giảng viên sử dụng lại bài giảng cũ, dẫn đến hoạt động nghiên cứu khoa học dưới dạng nghiên cứu bàn giấy trở nên rất khiêm tốn.

Theo số liệu khảo sát trong năm năm qua, chỉ có chưa đến 40% giảng viên tự nhận là tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH), cho thấy mức độ tham gia NCKH của giảng viên rất thấp.

Bảng số 5: Giảng viên tự nhận có tham gia nghiên cứu khoa học

Tần suất Tỷ lệ phần trăm

Nguồn: Số liệu của tác giả

Giảng viên chủ yếu thực hiện nghiên cứu khoa học (NCKH) một cách hình thức, thông qua việc tham gia vào các công trình NCKH cấp trường, cấp Bộ và cấp Quốc tế, nhưng tỷ lệ tham gia rất thấp, như thể hiện trong bảng dưới đây.

Bảng số 6:Tham gia nghiên cứu khoa học các cấp của giảng viên tại ĐHCN TP.HCM

Tình trạng giảng viên tham gia NCKH

Tham gia CTNC cấp trường Tham gia CTNC cấp

Bộ Tham gia CTNC hợp tác quốc tế

Tần suất Tỷ lệ phần trăm Tần suất Tỷ lệ phần trăm

Tần suất Tỷ lệ phần trăm

Nguồn: Số liệu của tác giả

Tham gia NCKH Tham gia NCKH cấp trường Tham gia NCKH cấp Bộ Tham gia NCKH cấp Nhà nước Tham gia NCKH cấp quốc tế

Các số liệu trên các bảng 3 và 4 đƣợc khái quát trên cùng 1 biểu đồ nhƣ sau:

Nguồn: Số liệu của tác giả

Biểu đồ số 1: Kết quả nghiên cứu khoa học của các giảng viên ĐHCN TP.HCM trong năm năm qua.

Theo biểu đồ, gần 40% giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học Trong số giảng viên tự nhận có tham gia NCKH, tỷ lệ này cũng đáng chú ý.

30% giảng viên tham gia đề tài cấp trường 24 (chiếm 75%), và 10% còn lại là tham gia các đề tài cấp Bộ, Nhà nước hay Quốc tế (chiếm 25%).

Theo khảo sát, hầu hết giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) chủ yếu ở cấp trường Một số giảng viên và cán bộ lãnh đạo trường ĐHCN TP.HCM cho biết rằng các đề tài NCKH cấp trường hiện nay thường không đủ điều kiện để được cấp kinh phí, mặc dù trường có nguồn tài chính cho nghiên cứu Nhà trường yêu cầu các đề tài cấp trường phải được bảo vệ thành công trước hội đồng khoa học và được phê duyệt bởi Hội đồng khoa học để nhận được kinh phí hỗ trợ.

Trong năm năm qua, Trường ĐHCN TP.HCM chưa cấp kinh phí cho bất kỳ đề tài NCKH cấp trường nào, cho thấy nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học chưa phát huy tác dụng Việc tham gia NCKH chủ yếu nhằm ghi danh và nâng cao thành tích cá nhân của giảng viên GS.TSKH Lê Huy Bá, chủ tịch hội đồng NCKH của trường, cũng xác nhận chưa đánh giá được đề tài nào do cơ chế của trường không quan tâm đến NCKH ở cấp độ này.

Theo số liệu phòng tài vụ Trường ĐHCN TP.HCM cung cấp, số kinh phí nghiên cứu khoa học trong những năm qua nhƣ sau:

Bảng số 7: Kinh phí của các công trình nghiên cứu khoa học 26 trong các năm gần đây tại trường ĐHCN TP.HCM:

Thực trạng thời lượng giảng dạy của giảng viên tại trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí

Chính sách giờ giảng tại trường ĐHCN TP.HCM tuân thủ quy chế chi tiêu nội bộ và các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo Theo chế độ làm việc của giảng viên (2008), Bộ GD-ĐT đã quy định rõ thời lượng giảng dạy mà giảng viên cần thực hiện trong một năm học.

Bảng 10: Thời lƣợng giảng dạy của giảng viên Đại học

Nhiệm vụ Giảng viên Phó giáo sƣ và giảng viên chính

Giáo sƣ và giảng viên cao

Giảng dạy 900 giờ 900 giờ cấp900 giờ

Nguồn: Chế độ làm việc của giảng viên của Bộ GD-ĐT

Quy chế chi tiêu nội bộ của Trường ĐH Công nghệ TP.HCM quy định rằng số giờ giảng dạy của giảng viên mỗi năm được quy đổi ra giờ chuẩn, với tỷ lệ 900/2,25, tương đương 400 giờ chuẩn.

Tại trường ĐHCN TP.HCM, quy chế giảng dạy không được thực thi đúng đắn bởi cả Nhà trường và giảng viên Do quy mô trường mở rộng nhanh chóng và số lượng sinh viên đông, giảng viên thường xuyên phải đối mặt với tình trạng quá tải Nhiều giảng viên mới được nhận vào khoa đã phải đảm nhận đến 6 lớp và 300 giờ giảng trong một kỳ Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mức giờ giảng chuẩn tối thiểu là 400 giờ/năm, nhưng thực tế, giảng viên tại trường phải dạy ít nhất 510 giờ Khảo sát cho thấy hầu hết giảng viên đều vượt qua số giờ quy định này.

27 Quy chế chi tiêu nội bộ trường ĐHCN TP.HCM: quy định về quy đổi giờ giảng chuẩn

Theo số liệu từ mẫu 109 giảng viên, mỗi năm, trung bình một giảng viên giảng dạy khoảng 586 giờ Thông tin chi tiết có thể tham khảo trong bảng số 11 và phụ lục 4.

Tính giờ giảng trung bình của giảng viên trong trường ĐHCN TP.HCM

Giờ giảng Giờ giảng Trung bình Tần suất Tính TB

Nguồn: Tính toán của tác giả

Cụ thể việc tham gia giảng dạy tại trường được khái quát bằng biểu đồ sau:

Nguồn: Số liệu khảo sát và tính toán của tác giả

Biểu đồ số 2: Thể hiện thực trạng thời lượng giảng dạy tại trường ĐHCNTP.HCM của giảng viên.

Theo biểu đồ số 2, có tới 75% giảng viên giảng dạy từ 510 giờ trở lên, cho thấy sự nỗ lực của họ trong việc duy trì tính “hệ thống” trong giảng dạy Nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển mạnh mẽ của các trường Đại học trên toàn quốc, cùng với cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục và yêu cầu từ thị trường lao động.

Theo khảo sát, 46,3% giảng viên tại trường ĐHCN TP.HCM thừa nhận có dạy thêm bên ngoài, cho thấy số lượng giảng viên dạy thêm là rất lớn, gần một nửa tổng số giảng viên Trung bình, mỗi giảng viên dành khoảng 148 giờ mỗi năm để giảng dạy ngoài trường.

Bảng số 12: Tính giờ giảng ngoài trường trung bình 1 năm của mỗi giảng viên trường ĐHCN TP.HCM

Giờ giảng Giờ giảng Trung bình Tỷ trọng

Trung bình giờ giảng mỗi giảng viên

Nguồn: Tính toán của tác giả

Biểu đồ hình thanh thể hiện các mức tham gia “đứng lớp” ở trường khác như sau

Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả

Biểu đồ số 3: Thể hiện thực trạng thời lượng giảng dạy thêm ở trường khác của giảng viên trường ĐHCN TP.HCM.

Theo số liệu, giảng viên trong trường giảng dạy trung bình 586 giờ mỗi năm, vượt xa mức chuẩn quy định là 400 giờ, cho thấy họ làm việc với cường độ cao hơn 1,5 lần so với tiêu chuẩn.

Trong một nghiên cứu tại trường ĐHCN TP.HCM với 109 giảng viên, gần 50% tham gia giảng dạy thêm ngoài giờ, trung bình mỗi năm là 148 giờ Cũng có 50% giảng viên làm thêm ngoài và 17,4% giữ vai trò quản lý, chủ yếu tập trung vào công việc quản lý với ít giờ giảng dạy Bên cạnh việc giảng dạy tại trường và dạy thêm, mỗi giảng viên còn phải thực hiện các công tác chuyên môn như coi thi và chủ nhiệm lớp, với tổng thời gian là 230 giờ mỗi năm.

Quy chế chi tiêu nội bộ của Trường Đại học Công nghệ TP.HCM quy định rằng giảng viên đảm nhiệm vị trí quản lý sẽ được giảm số giờ giảng theo tỷ lệ phần trăm nhất định, cụ thể được nêu rõ trong mục 12, "Định mức và thời gian làm việc của giảng viên".

Giảng viên tại trường thường phải dạy thêm do thiếu hụt nhân lực, vì khi được tuyển dụng, họ không trải qua quá trình kiểm tra năng lực giảng dạy nghiêm ngặt Ngoài ra, nhiều giảng viên ra ngoài trường ĐHCN TP.HCM để dạy thêm nhằm tăng thu nhập và do môi trường đào tạo đang thiếu giảng viên Nếu tính tổng số giờ giảng dạy cả trong và ngoài trường, cùng với thời gian dành cho công việc chuyên môn và làm thêm, có thể thấy rằng tình trạng này đang ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục.

Trong một năm, giảng viên phải đối mặt với cường độ làm việc rất cao, chưa kể đến việc mỗi người còn phải tham gia 600 giờ cho nghiên cứu khoa học (NCKH) Theo quy định của nhà trường, quỹ thời gian này thường bị giảng viên sử dụng cho việc giảng dạy do nhu cầu cuộc sống Một số giảng viên đã chia sẻ rằng họ phải dạy trong thời gian lẽ ra dành cho NCKH.

Thực trạng thu nhập của giảng viên

Mức độ hài lòng của giảng viên về chế độ lương thưởng hiện tại là thấp, với phần lớn không cảm thấy thỏa mãn với chính sách này.

Bảng số 13: Kết quả thống kê đánh giá về độ hài lòng của chế độ lương thưởng

Số mẫu Điểm thấp nhất Điểm cao nhất Trung bình

Mức độ hài lòng về chế độ lương thưởng 109 1,00 5,00 2,83

Nguồn: Tính toán của tác giả

Trung bình là 2,83 nhỏ hơn rất nhiều so với thang điểm 5 Chứng tỏ sự hài lòng về chế độ lương thưởng rất thấp.

Chính sách lương hiện tại của Nhà nước không hợp lý, khiến giảng viên mới tốt nghiệp Đại học chỉ nhận mức lương khoảng 2.372.760 đồng, không đủ để trang trải cuộc sống Mức lương thấp buộc giảng viên phải tìm kiếm nguồn thu nhập bổ sung để đảm bảo cuộc sống hàng ngày.

29 Việc này tác giả phỏng vấn và quan sát thực tế những giảng viên vừa được nhận vào trường ĐHCN

Chính sách thu nhập đối với giảng viên mới vào nghề giáo ảnh hưởng lớn đến sự tham gia NCKH của họ, do mức lương khởi điểm thấp chỉ ở hệ số 2,34, cộng với 30% hệ số đứng lớp Giảng viên trẻ thường phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị bài giảng và nâng cao trình độ, nhưng với thu nhập hạn chế, họ gặp khó khăn trong cuộc sống Mặc dù giảng viên có kinh nghiệm thường khuyến khích giảng viên mới tham gia NCKH để tăng thu nhập, nhưng điều quan trọng hơn đối với họ là học tập và nâng cao trình độ thông qua nghiên cứu.

Trường ĐHCN TP.HCM thực hiện trả lương theo chính sách nhà nước, với mức lương trung bình cho giảng viên khoảng 5-6 triệu đồng mỗi tháng Mức lương này chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu tại TP.HCM, không đủ cho việc nuôi con cái hay tích lũy cho những trường hợp khẩn cấp Do đó, chế độ lương hiện tại chưa tạo điều kiện cho giảng viên an tâm trong nghiên cứu khoa học Khi được hỏi về mức lương hợp lý, hầu hết giảng viên cho rằng nếu lương được tăng gấp đôi, họ sẽ yên tâm hơn và không cần phải tìm kiếm thêm nguồn thu nhập Giảng viên khẳng định rằng họ không muốn tham gia giảng dạy nhiều, mà chủ yếu vì áp lực kinh tế trong cơ chế thị trường.

Quy chế chi tiêu nội bộ của Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM quy định rõ chế độ thanh toán tiền vượt giờ cho giảng viên Theo đó, giảng viên thỉnh giảng nhận mức thanh toán cao hơn so với giảng viên nội bộ cho mỗi giờ dạy vượt giờ quy định.

Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 quy định quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập, bao gồm cả nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính Sự chênh lệch trong chính sách đã tạo động lực cho giảng viên không muốn dạy vượt giờ tại trường mà thay vào đó là tham gia giảng dạy tại các cơ sở khác.

Mức lương cơ bản của giảng viên theo quy định của Bộ Tài chính và Bộ GD-ĐT, áp dụng theo cơ chế tự chủ tài chính tại nghị định số 43, hiện nay quá thấp so với mức sống chung của xã hội và không tương xứng với chất lượng cũng như đầu tư của giảng viên Để đảm bảo cuộc sống, giảng viên buộc phải tăng cường giảng dạy và tìm kiếm thêm thu nhập bên ngoài trường, nhằm có thu nhập cao hơn trên mỗi đơn vị thời gian.

Môi trường làm việc của giảng viên tại trường ĐHCN TP.HCM hiện chưa đạt yêu cầu, chủ yếu do nhà trường chỉ chú trọng đầu tư vào máy móc thiết bị mà không quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo giảng viên Việc thiếu hỗ trợ tài chính và thời gian cho giảng viên học hỏi, nâng cao trình độ đã ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đại học Hơn nữa, môi trường này không khuyến khích giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH), với thanh tra nhà trường chỉ tập trung vào việc kiểm soát giờ giảng mà không quan tâm đến hoạt động NCKH Điều này cho thấy bộ máy quản lý của nhà trường đang vận hành theo cơ chế quản lý quan liêu, chỉ chú trọng đến số lượng mà không chú ý đến chất lượng.

Kết quả nghiên cứu tại trường ĐHCN TP.HCM cho thấy thực trạng nghiên cứu khoa học tại đây rất hạn chế, trong khi thời gian giảng dạy lại chiếm ưu thế Bộ máy quản lý của trường chú trọng vào việc tăng số lượng mà không quan tâm đến chất lượng, phản ánh rằng trường hoạt động như một trường Cao đẳng hơn là một trường Đại học công lập Điều này cho thấy trường chưa thực hiện đúng chức năng nghiên cứu khoa học, chủ yếu chỉ tập trung vào đào tạo Nếu trường không chú trọng đến nghiên cứu khoa học và không yêu cầu học thuật cao, thì thực chất nó chỉ là một trường cao đẳng, hoặc thậm chí chỉ là trường cao đẳng nghề.

Áp lực giảng dạy vượt giờ do thiếu hụt giảng viên khiến họ bị quá tải, trong khi thu nhập thấp không đủ đáp ứng yêu cầu sống trong cơ chế thị trường Điều này buộc giảng viên phải gia tăng số giờ giảng dạy, dẫn đến việc họ ít tham gia nghiên cứu khoa học Thời gian dành cho nghiên cứu thường bị chuyển sang giảng dạy trực tiếp, khiến giảng viên không còn đủ sức lực và thời gian để theo đuổi đam mê nghiên cứu Nếu tình trạng này kéo dài, sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến việc đào tạo những thế hệ không đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

Các trường mới thành lập hoặc vừa được nâng cấp từ Cao đẳng lên Đại học đang gặp phải hai khó khăn chính Thứ nhất, những trường mới thành lập thiếu nguồn nhân lực, dẫn đến việc thực hiện nghiên cứu khoa học gặp nhiều khó khăn Thứ hai, các trường Đại học mới nâng cấp thường duy trì thói quen cũ của giảng viên từ thời kỳ Cao đẳng, khiến cho việc triển khai nghiên cứu khoa học trở nên khó khăn và xa vời.

nghị Đề chính sách

Đối với Nhà nước

Dựa trên các phân tích ở mục 3.3, 3.4 và 3.5, có thể điều chỉnh chính sách đãi ngộ lương cho giảng viên và cải thiện các chế độ phúc lợi liên quan đến công việc.

NCKH, thay đổi cách thức kiểm soát chất lƣợng các công trình NCKH để cung cấp một động cơ tự điều chỉnh hành vi của các giảng viên.

Nhà nước cần thiết lập chính sách thu nhập đặc biệt nhằm thu hút giảng viên, tạo điều kiện cho họ yên tâm về đời sống Điều này sẽ giúp giảng viên phát huy đam mê nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn và cải thiện chất lượng giảng dạy.

Nguồn tài chính cho giáo dục đại học có hạn, nhưng Nhà nước có thể cải thiện chính sách bằng cách trao quyền tự chủ cho các trường Việc cho phép các trường tự thu - tự chi sẽ giúp họ tiết kiệm chi phí và tối đa hóa nguồn thu, từ đó tăng lương và đầu tư vào nguồn nhân lực Điều này cũng tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường trong việc thu hút giảng viên giỏi.

Nhà nước cần thiết lập chính sách khuyến khích hợp lý cho giảng viên trong nghiên cứu khoa học (NCKH), đảm bảo thu nhập tương xứng với công sức bỏ ra và có sự động viên thích đáng ngay cả khi NCKH không thành công Mặc dù NCKH là một trong hai nhiệm vụ chính của giảng viên theo quy định của Điều lệ các trường Đại học, thực tế cho thấy giảng viên chủ yếu tập trung vào giảng dạy và tham gia NCKH một cách hình thức Do đó, Nhà nước không chỉ cần áp dụng chính sách bắt buộc mà còn phải xây dựng cơ chế đánh giá và khích lệ phù hợp với chất lượng nghiên cứu mà giảng viên đã nỗ lực thực hiện.

Cần kiểm soát chặt chẽ các tiêu chuẩn của các trường đại học và khuyến khích tổ chức xã hội tham gia thẩm định chất lượng đào tạo, nghiên cứu Đây là biện pháp hiệu quả để đảm bảo chất lượng giáo dục đại học và xử lý kỷ luật kịp thời nhằm răn đe toàn bộ hệ thống giáo dục.

Khi Nhà nước tăng lương và thực hiện các chính sách kiểm soát nghiêm ngặt, hiệu quả NCKH sẽ khả thi hơn Giảng viên không còn lo lắng về cuộc sống hàng ngày, từ đó có thể yên tâm giảng dạy và theo đuổi đam mê nghiên cứu Họ sẽ có thời gian chuẩn bị, đổi mới các ví dụ và hình ảnh trong bài giảng Nếu chính sách này được thực hiện hiệu quả, nó sẽ tự điều chỉnh hành vi của giảng viên, nhà trường và xã hội Một môi trường NCKH thuận lợi sẽ khuyến khích giảng viên tìm tòi, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học.

Kết luận từ chương 3 cho thấy có khả năng cải thiện việc thực thi cơ chế cấp phép thành lập mới trường đại học và nâng cấp trường cao đẳng lên đại học Mặc dù các quy định của Nhà nước về việc này đã được phân tích, nhưng thực tế cho thấy không có ai thực hiện nghiêm túc các quy định đó.

Nhà nước cần xem xét các điều kiện thành lập trường đại học một cách nghiêm ngặt và minh bạch, đảm bảo chỉ những cơ sở đủ khả năng mới được cấp phép Việc thành lập trường đại học nhằm đáp ứng nhu cầu học đại học cao ở Việt Nam là đúng đắn, nhưng nếu không kiểm tra kỹ lưỡng, sẽ dẫn đến việc cấp phép cho các trường không đủ tiêu chuẩn Hiện nay, tình trạng đào tạo không đạt yêu cầu dẫn đến thiếu hụt nhân lực chất lượng, không chỉ cho các công ty nước ngoài mà ngay cả các doanh nghiệp trong nước Hệ thống giáo dục đại học hiện tại đang chạy theo thành tích, như mục tiêu 20.000 Tiến sĩ vào năm 2020, gây cản trở cho việc nâng cao chất lượng đào tạo.

31 Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2010-2020

Để đáp ứng mục tiêu đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ, cần thiết phải nâng cấp các trường cao đẳng lên thành đại học hoặc thành lập mới các trường đại học Chỉ có các trường đại học mới đảm bảo chức năng này.

Đối với trường Đại học Công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh

Trường ĐHCN đang trên đà phát triển, vì vậy việc tuyển đủ giảng viên là rất quan trọng Khi số lượng giảng viên đáp ứng đủ nhu cầu, sẽ giải quyết nhiều vấn đề như giảm thời gian giảng dạy và áp lực dạy vượt giờ cho giảng viên Điều này không chỉ giúp giảng viên có thêm thời gian tham gia hội thảo mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu khoa học.

Để tăng thu nhập cho giảng viên và đảm bảo đời sống trong cơ chế thị trường, cần giảm bớt áp lực giảng viên phải dạy thêm ở nhiều trường khác, đồng thời tạo điều kiện cho họ tham gia nghiên cứu khoa học và theo đuổi đam mê Để đạt được điều này, các trường cần đa dạng hóa nguồn thu và thiết lập liên kết với doanh nghiệp bên ngoài nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn Trường ĐHCN có lợi thế nhờ quá trình đào tạo công nhân kỹ thuật phù hợp với nhu cầu sản xuất, do đó cần xây dựng kế hoạch để tận dụng ưu thế này.

Chất lượng giáo dục đại học sẽ được cải thiện khi Nhà nước thực hiện chính sách tạo điều kiện cho giảng viên yên tâm về thu nhập, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học (NCKH), cần có hệ thống kiểm soát chất lượng độc lập, đủ tin cậy và có sức răn đe, buộc giảng viên phải có trách nhiệm với NCKH Kết quả kiểm soát cần được công khai và xử lý nghiêm minh các vi phạm để tạo gương cho giảng viên khác Đầu tư vào NCKH là chính sách hợp lý, vì đây là nguồn thu lớn khi phát triển Để thúc đẩy NCKH tại ĐHCN TP.HCM, trường cần chỉ ra lợi ích cụ thể cho giảng viên, như mức thu nhập và thăng tiến, đồng thời thiết lập tiêu chí đánh giá dựa trên các bài báo và công trình NCKH được công bố Hệ thống này phải tạo ra sự cạnh tranh giữa các giảng viên và khuyến khích đam mê nghiên cứu, đồng thời xây dựng chỉ tiêu hợp lý để quản lý hiệu quả trong bối cảnh đặc thù của giảng viên.

Trường cần xây dựng chính sách thu hút và hỗ trợ giảng viên trẻ trong nghiên cứu khoa học (NCKH), bao gồm việc tạo ra các quy định bắt buộc và cơ chế khuyến khích hợp lý Việc đào tạo giảng viên tại chỗ hoặc cho đi nước ngoài học tập cũng là yếu tố quan trọng Kết quả NCKH sẽ được sử dụng để đánh giá và xếp loại giảng viên, đồng thời làm cơ sở cho việc đề bạt các vị trí chủ chốt và lãnh đạo, nhằm nuôi dưỡng nhân tài cho trường Đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm và uy tín sẽ đóng vai trò truyền cảm hứng cho giảng viên trẻ, những người đầy nhiệt huyết và có tiềm năng NCKH cao Việc khai thác hiệu quả đội ngũ này không chỉ giúp xây dựng một tập thể giảng viên chất lượng mà còn tạo ra môi trường NCKH thuận lợi, góp phần vào những thành công nghiên cứu trong tương lai.

Trường ĐHCN TP.HCM và Viện cần có sự hợp tác chặt chẽ để thúc đẩy nghiên cứu khoa học (NCKH) trong toàn trường Nếu trường có những chính sách thực sự quan tâm đến NCKH, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu Viện sở hữu nhiều nhân tài với uy tín và khả năng, có thể tham gia vào nhiều dự án NCKH có ứng dụng thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Vào năm 2010, Viện đã nhận được nhiều đơn đặt hàng giá trị lớn từ các tỉnh và có các công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ Để hỗ trợ giảng viên và sinh viên tiếp cận môi trường nghiên cứu khoa học, trường nên cung cấp một số kinh phí hoạt động Việc tạo ra liên kết hiệu quả giữa trường và Viện sẽ là nguồn lực hữu ích cho nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong giai đoạn đầu khó khăn khi trường chuyển đổi từ cao đẳng lên đại học Điều này không chỉ xây dựng môi trường nghiên cứu khoa học mà còn khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu trong giảng viên và sinh viên, đồng thời tận dụng sức trẻ của sinh viên để giảng dạy những kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học thông qua các sản phẩm mà giảng viên đã và đang thực hiện.

Nghiên cứu khoa học tại trường ĐHCN TP.HCM hiện đang ở mức thấp, trong khi thời gian giảng dạy lại chiếm ưu thế Trường chưa thực hiện đầy đủ chức năng nghiên cứu khoa học, chủ yếu tập trung vào đào tạo Sự thiếu quan tâm đến nghiên cứu khoa học cho thấy trường chưa đạt tiêu chuẩn của một cơ sở giáo dục đại học, có thể chỉ được xem như một trường cao đẳng hoặc trường cao đẳng nghề Mặc dù trường công bố thông tin về đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp và có trình độ cao trên trang web, nhưng qua phân tích và khảo sát, thực tế cho thấy vẫn còn khoảng cách lớn giữa thông tin quảng bá và năng lực thực tế.

Nghiên cứu chỉ ra rằng giảng viên của trường ĐHCN TP.HCM chủ yếu tập trung vào giảng dạy thay vì nghiên cứu khoa học, nguyên nhân là do cơ chế chính sách chưa hợp lý, thiếu hụt giảng viên, chế độ lương thưởng thấp và tình trạng “tính ỳ” trong nghiên cứu khoa học, một phần do chính sách, chủ trương và cách quản lý của nhà trường.

Trong hơn nửa thập kỷ qua, các trường mới thành lập hoặc nâng cấp từ cao đẳng lên đại học, như trường ĐHCN TP.HCM, gặp phải tình trạng chưa đủ khả năng nghiên cứu khoa học (NCKH) mặc dù có sự quảng bá và xin phép Nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng nhất mà các trường này chưa chuẩn bị đầy đủ Hầu hết giảng viên từ trường cao đẳng vẫn duy trì thói quen cũ khi lên đại học, dẫn đến việc các trường chủ yếu tập trung vào chức năng đào tạo mà ít chú trọng đến NCKH Để cải thiện tình hình, cần có chính sách hiệu quả từ nhà nước trong việc cấp phép thành lập và nâng cấp trường, đồng thời khuyến khích tổ chức xã hội tham gia thẩm định chất lượng đào tạo Ngoài ra, các trường cần tuyển đủ giảng viên, tăng thu nhập cho họ qua đa dạng hóa nguồn thu và tạo liên kết với Viện khoa học và Công nghệ để xây dựng môi trường NCKH.

Với hạn chế về thời gian và chi phí, nghiên cứu chỉ được thực hiện tại trường ĐHCN TP.HCM, sử dụng phương pháp định tính và phân tích dựa trên khảo sát, phỏng vấn giảng viên Để thực hiện các giải pháp, cần thay đổi tư duy giáo dục, điều này đòi hỏi thuyết phục các cơ quan nhà nước Hạn chế của nghiên cứu là thiếu các nghiên cứu định lượng để kiểm định lập luận về thời gian giảng viên Để có giải pháp cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, cần mở rộng nghiên cứu, điều tra giảng viên các trường trên toàn quốc, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp hợp lý.

Danh mục tài liệu tham khảo

Vũ Thành Tự Anh (2005) đã đề cập đến "Phẩm chất sinh viên" trong Tạp chí Khám Phá, số 6 Bài viết này phân tích các đặc điểm quan trọng của sinh viên, nhấn mạnh vai trò của phẩm chất trong việc hình thành và phát triển năng lực học tập Để tìm hiểu thêm, bạn có thể tham khảo bài viết tại địa chỉ: http://chungta.com/Desktop.aspx/GiaoDuc/Thuc-Trang-GD-Dai-Hoc/Pham_chat_sinh_vien/.

2 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo số 760/BC-BGDĐT.

3 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Chế độ làm việc đối với giảng viên kèm theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT

4 Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

5 Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Nghị quyết số 14/2005/NQ-

CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020.

6 Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-

Ngày 25 tháng 4 năm 2006, CP đã ban hành quy định về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập Quy định này liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và quản lý tài chính, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị này.

7.Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), Điều lệ trường đại học, Ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg

8 Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm

2007 phương hướng kế hoạch năm 2008.

9 Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh (2009), Báo cáo tổng kết công tác năm

2008 phương hướng kế hoạch năm 2009.

10 Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh (2009), Quy chế chi tiêu nội bộ trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.

11 Hà Huy Hiệp (2010), “Tín hiệu lạc quan của kinh tế TP.Hồ Chí Minh”, Báo tin tức truy cập ngày 14/2/2010 tại địa chỉ: http://www.vietnamplus.vn/Home/Tin-hieu-lac-quan-cua-kinh-te-TP-Ho-Chi-

12 Đào Hữu Hòa “Đổi mới giáo dục đại học là tiên đề quan trọng để thực hiện mục tiêu gắn đào tạo với nhu cầu xã hội”, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

Truy cập tại địa chỉ: http://www.kh-sdh.udn.vn/zipfiles/so28/19-hoa- dao%20huu%20-%20.pdf

Ngày đăng: 14/09/2022, 18:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1.Vũ Thành Tự Anh (2005), “Phẩm chất sinh viên”, Tạp chí khám phá, Số 6. Tham khảo tại địa chỉ: http://chungta.com/Desktop.aspx/GiaoDuc/Thuc-Trang-GD-Dai-Hoc/Pham_chat_sinh_vien/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phẩm chất sinh viên”, "Tạp chí khám phá
Tác giả: Vũ Thành Tự Anh
Năm: 2005
4. Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học
Tác giả: Nguyễn Đức Chính
Nhà XB: NxbĐại học Quốc Gia Hà Nội
Năm: 2002
7.Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), Điều lệ trường đại học, Ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều lệ trường đại học
Tác giả: Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Năm: 2003
11. Hà Huy Hiệp (2010), “Tín hiệu lạc quan của kinh tế TP.Hồ Chí Minh”, Báo tin tức truy cập ngày 14/2/2010 tại địa chỉ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tín hiệu lạc quan của kinh tế TP.Hồ Chí Minh”, "Báo tintức
Tác giả: Hà Huy Hiệp
Năm: 2010
12. Đào Hữu Hòa “Đổi mới giáo dục đại học là tiên đề quan trọng để thực hiện mục tiêu gắn đào tạo với nhu cầu xã hội”, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng Truy cập tại địa chỉ: http://www.kh-sdh.udn.vn/zipfiles/so28/19-hoa-dao%20huu%20-%20.pdf Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới giáo dục đại học là tiên đề quan trọng để thực hiện mụctiêu gắn đào tạo với nhu cầu xã hội
13. Trần Tiến Khai (2010), “Bối cảnh nghiên cứu khoa học và một số biện pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bối cảnh nghiên cứu khoa học và một số biện pháp thúcđẩy hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường đại học kinh tế thành phố Hồ ChíMinh
Tác giả: Trần Tiến Khai
Năm: 2010
14. Trần Thị Bích Liễu (2008), Nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Mỹ: những giải pháp mang tính hệ thống và định hướng thị trường, Nxb Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Mỹ: nhữnggiải pháp mang tính hệ thống và định hướng thị trường
Tác giả: Trần Thị Bích Liễu
Nhà XB: Nxb Đại học Sƣ phạm Kỹthuật TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2008
16. Nguyễn Phương Nga – Nguyễn Quý Thanh (2010) “Giáo dục đại học đảm bảo, đánh giá và đảm bảo chất lƣợng”, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “"Giáo dục đại học đảm bảo,đánh giá và đảm bảo chất lƣợng
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội
17. Tuệ Nguyễn, “Cần điều chỉnh chính sách đối với nhà giáo” truy cập tại địa chỉ:http://tieuhocdanghai.com/news/?iid=4154 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cần điều chỉnh chính sách đối với nhà giáo
18. Bùi Mạnh Nhị (2007), “Chất lƣợng giáo dục đại học: vấn đề và xu thế phát triển”, Tuyển tập các bài nghiên cứu về giáo dục đại học, Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật TP. HCM, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chất lƣợng giáo dục đại học: vấn đề và xu thế pháttriển”, "Tuyển tập các bài nghiên cứu về giáo dục đại học
Tác giả: Bùi Mạnh Nhị
Năm: 2007
19. Jamil Salmi, “Những thách thức trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp thế giới”, tr 71. Ngân hàng hàng thế giới xuất bản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những thách thức trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấpthế giới
20. Tạp chí Tinh hoa (2010), “Đối thoại Nguyên Ngọc - Vũ Thành Tự Anh về giáo dục”, Báo mới, truy cập ngày 01/05/ tại địa chỉ: http://www.baomoi.com/Info/Doi-thoai-Nguyen-Ngoc--Vu-Thanh-Tu-Anh-ve-giao-duc/59/4204029.epi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối thoại Nguyên Ngọc - Vũ Thành Tự Anh về giáodục”, "Báo mới
Tác giả: Tạp chí Tinh hoa
Năm: 2010
21. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, Nxb thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích dữ liệu nghiên cứuvới SPSS
Tác giả: Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc
Nhà XB: Nxb thống kê
Năm: 2008
24. Việt Báo, “Thu nhập của giảng viên đại học: người tài chịu thiệt”, truy cập tại địa chỉ:http://vietbao.vn/Giao-duc/Thu-nhap-cua-giang-vien-dai-hoc-Nguoi-tai-chiu- thiet/45125462/202/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thu nhập của giảng viên đại học: người tài chịu thiệt
25. Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson (tháng 11/2008) “Giáo dục bậc đại học ở Việt Nam:Khủng Hoảng và Phản Ứng”, tr 4 bản dịch của Hồng Lĩnh. Bản gốc tại địa chỉ:http://www.hks.harvard.edu/innovation s /asia/Doc u ments/HigherEducationOverview112008. p df Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục bậc đại học ở Việt Nam:"Khủng Hoảng và Phản Ứng”
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo số 760/BC-BGDĐT Khác
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Chế độ làm việc đối với giảng viên kèm theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT Khác
5. Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Nghị quyết số 14/2005/NQ- CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 Khác
6. Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ- CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập Khác
8. Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 phương hướng kế hoạch năm 2008 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

-Căn cứ tình hình thực tế, kết quả ôn tập và nắm bắt tình  hình học sinh qua GVCN năm  học trước - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
n cứ tình hình thực tế, kết quả ôn tập và nắm bắt tình hình học sinh qua GVCN năm học trước (Trang 3)
Bảng số 1 Số bài báo đăng trên các tạp chí cĩ cơ chế thẩm định chéo năm 200 79 Bảng số 2Chỉ số Phát Minh Sáng Chế (Thống kê số lƣợng Bằng Phát  Minh - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng s ố 1 Số bài báo đăng trên các tạp chí cĩ cơ chế thẩm định chéo năm 200 79 Bảng số 2Chỉ số Phát Minh Sáng Chế (Thống kê số lƣợng Bằng Phát Minh (Trang 8)
Danh mục các bảng biểu - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
anh mục các bảng biểu (Trang 8)
Danh mục các hình vẽ đồ thị - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
anh mục các hình vẽ đồ thị (Trang 9)
Bảng 1: Số bài báo đăng trên các tạp chí cĩ cơ chế thẩm định chéo năm - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng 1 Số bài báo đăng trên các tạp chí cĩ cơ chế thẩm định chéo năm (Trang 19)
Bảng 2: Chỉ số Phát Minh Sáng Chế (Thống kê số lƣợng Bằng Phát Minh của các quốc gia trong vùng Đơng Á) - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng 2 Chỉ số Phát Minh Sáng Chế (Thống kê số lƣợng Bằng Phát Minh của các quốc gia trong vùng Đơng Á) (Trang 20)
Bảng số 3: Số sinh viên trƣờng Đại học Cơng nghiệp TP.HCM qua các năm - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng s ố 3: Số sinh viên trƣờng Đại học Cơng nghiệp TP.HCM qua các năm (Trang 25)
Bảng số 5: Giảng viên tự nhận cĩ tham gia nghiên cứu khoa học - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng s ố 5: Giảng viên tự nhận cĩ tham gia nghiên cứu khoa học (Trang 28)
Các số liệu trên các bảng 3 và 4 đƣợc khái quát trên cùng 1 biểu đồ nhƣ sau: ` - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
c số liệu trên các bảng 3 và 4 đƣợc khái quát trên cùng 1 biểu đồ nhƣ sau: ` (Trang 29)
Bảng số 8: Kết quả thống kê bằng SPSS về việc đánh giá của giảng viên. - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng s ố 8: Kết quả thống kê bằng SPSS về việc đánh giá của giảng viên (Trang 33)
Bảng 9: Thời lƣợng nghiên cứu khoa học của giảng viên Đại học - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng 9 Thời lƣợng nghiên cứu khoa học của giảng viên Đại học (Trang 34)
Bảng số 11: - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng s ố 11: (Trang 37)
Bảng số 12: Tính giờ giảng ngồi trƣờng trung bình 1 năm của mỗi giảng viên trƣờng ĐHCN TP.HCM - Thời lượng giảng dạy và chất lượng giảng viên trường đại học
Bảng s ố 12: Tính giờ giảng ngồi trƣờng trung bình 1 năm của mỗi giảng viên trƣờng ĐHCN TP.HCM (Trang 38)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w