PHẦN MỞ ĐẦU ĐẶT VẤN ĐỀ Quảng Bình là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có bờ biển dài 116,04km, vùng đặc quyền lãnh hải có diện tích khoảng 20.000km2, gấp hơn 2,5 lần diện tích đất liền, có 5 đảo nhỏ là: Hòn La, Hòn Gió, Hòn Nồm, Hòn Cỏ, Hòn Vũng Chùa; có 5 cửa sông chính đổ ra biển, trong đó có cửa sông Gianh và sông Nhật Lệ, lại nằm ở cửa ngõ phía nam của Vịnh Bắc Bộ nên nguồn lợi hải sản đa dạng và phong phú với trên 1600 giống, loài. Trữ lượng hải sản ước tính 20 triệu tấn, đặc biệt có nhiều loài hải sản quý hiếm có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu cao. Đó là những tiềm năng và lợi thế để phát triển nghề khai thác hải sản. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010-2015 đã xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu là: "Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo tinh thần Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa X về "Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" với tốc độ nhanh, bền vững, hiệu quả, cơ cấu ngành nghề phù hợp, đa dạng, từng bước hiện đại. Phấn đấu đến năm 2015, nâng tỷ trọng của kinh tế biển đạt khoảng 16% GDP của tỉnh", "Khai thác tiềm năng, thế mạnh các nguồn lực để phát triển kinh tế biển, trong đó phát triển ngành thuỷ sản thực sự trở thành một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Đầu tư, nâng cấp, cải tạo các cơ sở hậu cần nghề cá, cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền tránh, trú bão…” Khai thác nguồn lợi hải sản là một nghề có từ lâu đời của cộng đồng dân cư ven biển của tỉnh. Hiện nay Quảng Bình có 23 xã, phường thuộc 04 huyện và 01 thành phố có nghề khai thác và chế biến hải sản với trên 32 nghìn nhân khẩu. Trong những năm qua, nghề khai thác hải sản đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy vậy, so với tiềm năng và nguồn tài nguyên hải sản sẵn có thì sản lượng và giá trị khai thác còn thấp và chưa ổn định; phạm vi khai thác chủ yếu tập trung ở vùng lộng và ven bờ, quy mô nhỏ, một số trường hợp sử dụng các hình thức đánh bắt mang tính chất huỷ diệt làm suy giảm nguồn lợi hải sản. Nguồn vốn đầu tư mua sắm tàu thuyền, ngư lưới cụ phục vụ hoạt động khai thác, kỹ thuật đánh bắt còn hạn chế; dịch vụ hậu cần chưa đáp ứng yêu cầu. Giá trị chế biến thủy sản, kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Lực lượng lao động trong ngành thủy sản và vùng ven biển chưa được phát huy; đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng ngư dân mặc dù đã từng bước được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn... Làm thế nào để nghề khai thác hải sản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian hiện tại và tương lai là vấn đề được chính quyền tỉnh, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng như các địa phương có nghề khai thác hải sản hết sức quan tâm nhằm đề ra những chính sách và có giải pháp phù hợp thúc đẩy nghề khai thác phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Hàng năm Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình đều có báo cáo đánh giá tổng kết tình hình khai thác hải sản nhưng các báo cáo này chỉ đơn thuần là các chỉ tiêu thống kê về sản lượng khai thác, biến động của tàu thuyền, công tác quản lý tàu cá … Về nghiên cứu khoa học cho đến nay mới có một số đề tài đề cập đến từng mặt của hoạt động khai thác và thu nhập của hộ ngư dân tại một ít xã ven biển. Các đề tài này cũng chỉ dừng lại ở mức độ nêu lên hiện trạng nghề khai thác hải sản, ít đề cập đến việc đề xuất các chính sách cần thiết, cụ thể nhằm cải thiện và phát triển ngành này một cách bền vững. Xuất phát từ yêu cầu cần thiết trên, tác giả đã chọn đề tài: “Giải pháp chủ yếu phát triển nghề khai thác hải sản tỉnh Quảng Bình” để làm luận văn thạc sỹ. 2. Câu hỏi nghiên cứu 2.1. Vì sao phải phát triển nghề khai thác hải sản ở tỉnh Quảng Bình? 2.2. Tình hình khai thác hải sản ở Quảng Bình thời gian qua như thế nào? (Những kết quả đạt được? Những khó khăn tồn tại? Nguyên nhân?) 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển nghề khai thác hải sản? 2.4. Cần có những giải pháp nào để phát triển nghề khai thác hải sản của tỉnh trong thời gian tới? 3. Mục đích nghiên cứu 3.1. Mục đích chung Mục đích của luận văn là hệ thống hóa và bổ sung những vấn đề lý luận chung liên quan đến nghề khai thác hải sản, xác định xu thế phát triển hợp lý của nghề sản xuất này dựa trên điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương. Trên cơ sở đó gợi ý, đề xuất các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị, hộ gia đình ngư dân và các chủ tàu thực hiện một số giải pháp chính nhằm đảm bảo cho nghề khai thác hải sản của tỉnh phát triển bền vững. 3.2. Mục đích cụ thể - Phân tích thực trạng, kết quả đạt được, những khó khăn tồn tại, tìm ra các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng đến nghề khai thác hải sản trên địa bàn. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế nghề khai thác hải sản tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu : - Các cơ quan quản lý nhà nước về khai thác hải sản - Các chủ tàu, hộ gia đình ngư dân khai thác hải sản - Phạm vi nghiên cứu + Không gian: Các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch và thành phố Đồng Hới là các địa phương khai thác hải sản có sản lượng lớn nhất tỉnh Quảng Bình + Thời gian đánh giá thực trạng từ năm 2007-2010; + Các giải pháp đề xuất từ năm 2011-2015. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thu thập số liệu - Thu thập số liệu thứ cấp: Niên giám thống kê, quy hoạch, kế hoạch ngành thủy sản, các đề tài, đề án, bài báo khoa học, công trình, tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã được công bố. - Số liệu sơ cấp: Phỏng vấn các chủ tàu, hộ ngư dân khai thác hải sản bằng phiếu điều tra khảo sát và bảng hỏi. Quá trình phỏng vấn kết hợp với quan sát và trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề liên quan đến mục đích nghiên cứu. Thu thập thông tin từ các chuyên gia, chuyên viên quản lý ngành thủy sản tại Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tỉnh, cán bộ quản lý thủy sản các địa phương có nghề khai thác hải sản. 5.2. Tổng hợp số liệu Tiến hành phương pháp phân tổ theo các tiêu thức khác nhau tùy vào mục đích nghiên cứu. 5.3. Phương pháp phân tích số liệu + Phương pháp phân tích thống kê: Quá trình phân tích thống kê sẽ được tính toán thông qua các số tuyệt đối, số tương đối, tốc độ tăng bình quân. .. + Phương pháp toán kinh tế: Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm Excel và SPSS là phần mềm đã được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Mô hình kinh tế lượng được xây dựng thông qua hàm sản xuất Cobb-Douglas nhằm phân tích các yếu tố tác động tới hiệu quả hoạt động khai thác hải sản của tỉnh, từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm phát triển bền vững nghề khai thác hải sản. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm: Chương 1: Lý luận chung về ngành thuỷ sản và phát triển nghề khai thác hải sản . Chương 2: Thực trạng khai thác hải sản của tỉnh Quảng Bình trong thời kỳ 2007-2010. Chương 3: Giải pháp chủ yếu phát triển nghề khai thác hải sản của tỉnh
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH THUỶ SẢN VÀ PHÁT TRIỂN NGHỀ KHAI THÁC HẢI SẢN
KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM NGHỀ KHAI THÁC HẢI SẢN
Năng suất lao động và kỹ năng lao động có sự khác biệt rõ rệt, vì vậy cần thiết phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị sản xuất và phân phối để tối ưu hóa hiệu quả công việc.
Ngành thuỷ sản là một lĩnh vực sản xuất đa dạng, bao gồm các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, tạo thành một hệ thống liên kết chặt chẽ Các
1.2 KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM NGHỀ KHAI THÁC HẢI SẢN
1.2.1 Khái niệm nghề khai thác hải sản
Khai thác hải sản là một nghề chủ yếu trong ngành thuỷ sản, có lịch sử lâu đời từ những ngày đầu của nhân loại với các hoạt động như săn bắn, hái lượm và đánh bắt cá Nghề này nhằm khai thác nguồn lợi tự nhiên để đáp ứng nhu cầu sống của con người Nhiều tác giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau về khai thác hải sản, và theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Đà Nẵng (2006), chúng ta có thể tổng hợp những khái niệm này để hiểu rõ hơn về lĩnh vực này.
Khai thác hải sản là hoạt động của con người sử dụng tàu, thuyền và các thiết bị nổi khác cùng với ngư cụ để thu hoạch nguồn lợi từ biển và đại dương, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của con người.
1.2.2 Phân loại nghề khai thác hải sản
- Theo cơ cấu nghề nghiệp: Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 25 loại nghề khai thác hải sản khác nhau, trong đó có 6 họ nghề chính sau đây [65]:
+ Họ lưới kéo ( gồm lưới kéo đơn, lưới kéo đôi, lưới kéo tôm) ĐẠI HỌC KINH TÊ
+ Họ lưới vây (gồm lưới vây ánh sáng, lưới rùng).
Họ lưới bao gồm các loại như lưới vó, mành, lưới vó ánh sáng, mành chà và mành đèn Trong khi đó, họ lưới rê gồm các loại như rê thu ngừ, rê chuồn, rê 3 lớp đánh mực, rê thường và rê đa loài Cuối cùng, họ câu được chia thành các loại như câu mập, câu chân rạn, câu mực và câu tay.
+ Họ nghề khác (lưới trủ, giã cào ).
Theo năng lực phương tiện khai thác, tàu được phân loại thành các nhóm dựa trên công suất: tàu có công suất dưới 20CV, tàu có công suất từ 20 - 49 CV, tàu có công suất từ 50 - 89 CV, tàu có công suất từ 90 - 249 CV và tàu có công suất 250 CV trở lên.
Ngư trường vùng ven bờ và vùng lộng có độ sâu dưới 50m chủ yếu được chia thành hai khu vực Vùng ven bờ từ 20m trở vào là nơi hoạt động chính của các phương tiện thủ công và tàu thuyền nhỏ, chuyên khai thác bằng các nghề như xăm trủ, te giã ruốc, giã tôm, rê 3 lớp và khai thác nhuyễn thể Trong khi đó, vùng nước sâu từ 20-40m là ngư trường chủ yếu cho các tàu thuyền gắn máy có công suất từ 20-60CV, sử dụng các nghề như mành ánh sáng, mành rút, giã kéo tôm cá, lừ bóng và câu chụp mực.
Ngư trường khơi với độ sâu từ 50m đến 90m yêu cầu tàu thuyền có công suất trên 60CV, có khả năng chịu đựng sóng gió cấp 5-6 Các hoạt động chính trong ngư trường này bao gồm nghề lưới vây, rê khơi và câu khơi.
Ngư trường khơi có độ sâu từ 90 mét trở lên yêu cầu tàu đánh cá phải có công suất trên 90 CV Các tàu này cần có khả năng chịu đựng sóng gió cấp 6-7 và được thiết kế để khai thác dài ngày trên biển, sử dụng các phương pháp như vây rút, chụp mực và câu khơi.
Mỗi vùng biển có cách bố trí sản xuất khác nhau, phụ thuộc vào nghề khai thác, quy mô, và mức độ trang bị tàu thuyền cũng như ngư lưới cụ Do đó, có thể phân loại thành ba vùng chính.
- Xa bờ (độ sâu nước biển trên 50 m)
- Gần bờ (độ sâu nước biển dưới 20 m)
- Ngư trường kết hợp gần bờ và xa bờ.
1.2.3 Đặc điểm của nghề khai thác hải sản
Nghề khai thác thủy sản phụ thuộc vào ngư trường, là khu vực biển có nguồn lợi hải sản phong phú, được xác định để tàu cá tiến hành khai thác Mỗi loại hình khai thác đều cần lựa chọn ngư trường phù hợp nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh tế.
Ngư trường Huế có sự đa dạng về vị trí địa lý, điều kiện địa hình, chế độ thủy triều và nguồn thực vật, động vật phù du, dẫn đến trữ lượng hải sản khác nhau Việc xác định đúng ngư trường là điều kiện thiết yếu và là yếu tố quyết định năng suất khai thác của nghề cá hiện nay.
Nghề khai thác hải sản ở vùng biển Việt Nam, đặc biệt là vịnh Bắc Bộ, có tính chất thời vụ rõ rệt do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và Tây Nam Vào mùa xuân, các loài cá di cư đến vùng nước ấm gần bờ và các đảo để sinh sản Trong mùa hè, một số loài tiếp tục sinh sản trong khi một số đã kết thúc giai đoạn đẻ trứng Các loài cá nhỏ thường tập trung ở vùng gần bờ, trong khi các loài lớn di chuyển ra vùng nước sâu hơn.
Vào mùa thu và đông, nhiệt độ nước gần bờ giảm thấp do ảnh hưởng của khí hậu lục địa, khiến các loài cá trưởng thành di chuyển ra vùng nước sâu hơn với nhiệt độ cao hơn.
Vì vậy hoạt động khai thác hải sản trên vùng biển Quảng Bình được chia thành 2 vụ chính:
Vụ cá Nam diễn ra từ tháng 4 đến hết tháng 8, trùng với gió mùa Tây Nam, là thời điểm khai thác chính với năng suất và sản lượng cao Trong mùa này, các tàu cá tập trung khai thác hải sản, góp phần quan trọng khi sản lượng khai thác thủy sản vụ cá Nam thường chiếm từ 60-65% tổng sản lượng khai thác hàng năm.
VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA NGÀNH THUỶ SẢN VÀ KHAI THÁC HẢI SẢN
1.3.1 Cung cấp thực phẩm, đáp ứng nhu cầu vật chất của con người
Thủy sản đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thực phẩm thiết yếu cho con người, đồng thời góp phần thay đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt Nam Ngành thủy sản ước tính rằng khoảng 50% sản lượng hải sản đến từ vùng biển Bắc Bộ và Trung Bộ, trong khi 40% sản lượng đánh bắt được khai thác từ vùng biển Đông Nam.
Bộ, Tây Nam Bộ là nguồn thực phẩm phong phú cho người dân Việt Nam, cung cấp đa dạng sản phẩm thủy sản như tươi, khô, đông lạnh và chế biến truyền thống, tất cả đều có hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là chất đạm cần thiết cho sự phát triển Sản phẩm thủy sản có giá cả phải chăng hơn so với các loại thực phẩm khác, phù hợp với nhiều mức thu nhập trong xã hội Theo thống kê năm 2001, mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thủy sản của người dân Việt Nam đạt 19,4 kg/người/năm, cao hơn so với mức tiêu thụ thịt heo là 17,1 kg/người/năm.
Mức tiêu thụ thủy sản ở Huế đạt 3,9 kg/người/năm, với nghiên cứu cho thấy rằng khi thu nhập tăng, nhu cầu tiêu thụ thủy sản cũng gia tăng, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cầu Bên cạnh đó, người có thu nhập cao thường có xu hướng chọn lựa các loại thực phẩm thủy sản đắt tiền hơn.
Theo dự báo của FAO, mức tiêu thụ thủy sản ở Việt Nam năm 2010 ước đạt khoảng 26,4 kg/người/năm Trong khi đó, nguồn cung sản phẩm nuôi trồng chỉ chiếm từ 5-9% tổng sản lượng thủy sản, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của nghề khai thác hải sản nhờ vào thói quen tiêu dùng truyền thống.
1.3.2 Góp phần tăng trưởng kinh tế
Với lợi thế về tài nguyên tự nhiên, bao gồm biển, sông ngòi, bãi triều và nguồn lợi thủy sản phong phú, ngành khai thác thủy hải sản đang đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Từ năm 2006 đến 2009, sản lượng khai thác thủy sản của cả nước liên tục tăng, từ 2,026 triệu tấn năm 2006 lên 2,277 triệu tấn năm 2009, với giá trị khai thác cũng tăng đáng kể từ 25.144 tỷ đồng lên 48.450 tỷ đồng Ngành thủy sản đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, với tỷ trọng ngày càng tăng trong khối nông, lâm, ngư nghiệp Trong giai đoạn 2001 – 2009, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành thủy sản đạt 7,56%, trong đó sản lượng khai thác hải sản tăng trưởng ở mức 5,5%, giúp duy trì mức tăng trưởng cao cho nền kinh tế.
1.3.3 Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Hoạt động khai thác hải sản đã chuyển mình từ nghề cá thủ công truyền thống quy mô nhỏ, tập trung gần bờ, sang nghề cá cơ giới hiện đại, nhắm vào các đối tượng có giá trị cao và phục vụ xuất khẩu Việc phát triển khai thác hải sản xa bờ không chỉ nâng cao hiệu quả mà còn cải thiện chất lượng sản phẩm.
Huế đang tập trung vào việc phát triển khai thác thủy sản phục vụ xuất khẩu, đồng thời ổn định khai thác vùng ven bờ và bảo vệ môi trường sinh thái Chính sách của Nhà nước khuyến khích ngư dân đầu tư vào tàu thuyền công suất lớn để khai thác xa bờ, dẫn đến sự gia tăng số lượng tàu thuyền từ 21.232 chiếc với tổng công suất 3046,9 CV năm 2006 lên khoảng 24.990 chiếc với tổng công suất 3721,7 CV vào năm 2009 Hệ thống hậu cần dịch vụ nghề cá đã dần hình thành, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa nghề cá biển và phát triển khai thác hải sản xa bờ Điều này góp phần chuyển đổi ngành kinh tế thủy sản từ quy mô nhỏ và thủ công sang một ngành công nghiệp hiện đại, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, phát triển hạ tầng và đô thị hóa nông thôn ven biển, đồng thời bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững cho cộng đồng ngư dân.
1.3.4 Góp phần gia tăng giá trị xuất khẩu Đến năm 2008, Việt Nam đã có 544 doanh nghiệp chế biến thủy sản quy mô công nghiệp, trong đó 410 cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm, 414 doanh nghiệp đã áp dụng các quy phạm GMP, SSOP, HACCP, ISO 14001 , đạt tiêu chuẩn sản xuất sạch hơn, được phép xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang Nga [66] Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2008 đạt 4,53 tỷ USD, năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, xuất khẩu thủy sản vẫn đạt 4,25 tỷ USD. Năm 2010, đạt 4,94 tỷ USD, là 1 trong số 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu chính của cả nước Xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục là một trong nhóm hàng có tốc độ phát triển cao nhất trong các ngành kinh tế của Việt Nam Thủy sản Việt Nam đã có vị trí cao trong cộng đồng nghề cá thế giới, đứng thứ 12 về khai thác thủy sản, thứ 3 ĐẠI HỌC KINH TÊ
Việt Nam hiện đang phát triển mạnh mẽ ngành nuôi thủy sản và xuất khẩu thủy sản, với các thị trường chính bao gồm Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu Hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt tại khoảng 160 thị trường toàn cầu, chiếm 3,7% thị phần thế giới và 0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ hai sau Thái Lan về kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
1.3.5 Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập
Ngành thủy sản, đặc biệt là khai thác hải sản, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, đồng thời tạo ra việc làm cho xã hội Theo Tổng cục thống kê, số lao động từ 15 tuổi trở lên trong ngành thủy sản đã tăng từ 1,6728 triệu người năm 2007 lên 1,7665 triệu người năm 2009 Đặc biệt, số lao động khai thác hải sản đã tăng từ 270.587 người năm 1999 lên gần 700.000 người năm 2007, với mức tăng trung bình 23.155 người mỗi năm Sự phát triển này không chỉ tạo việc làm cho nhiều lao động trong các doanh nghiệp và hộ gia đình mà còn thúc đẩy các hoạt động liên quan như đóng và sửa chữa tàu thuyền, sản xuất ngư lưới cụ và cung cấp dịch vụ hỗ trợ Hơn nữa, khai thác hải sản còn thu hút lực lượng lao động theo mùa, bao gồm cả lao động nữ tham gia vào chế biến và các công đoạn sản xuất khác.
1.3.6 Góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, đảm bảo quốc phòng-an ninh của đất nước
Việt Nam sở hữu vùng biển đặc quyền kinh tế rộng lớn hơn 1 triệu km², gấp ba lần diện tích đất liền Nơi đây có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, trong đó nhiều đảo như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc và Cồn Cỏ có cư dân sinh sống.
Vùng biển Việt Nam, tiếp giáp với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia, đóng vai trò quan trọng trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương Sự hiện diện của hàng chục ngàn tàu khai thác hải sản xa bờ khẳng định quyền chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và đảo trong khu vực.
Huế giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền biển, đảo của Tổ quốc, đồng thời góp phần vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng và an ninh, đảm bảo vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển.
LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ KHAI THÁC HẢI SẢN
1.4.1 Khái niệm phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là quá trình tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua sự gia tăng quy mô và sản lượng hàng hóa, dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm Quá trình này không chỉ liên quan đến việc hoàn thiện cơ cấu và thể chế kinh tế mà còn nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo công bằng xã hội.
Để phát triển kinh tế, trước tiên cần có sự tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, không phải mọi sự tăng trưởng đều dẫn đến phát triển bền vững Phát triển kinh tế yêu cầu phải thực hiện các nội dung cơ bản nhất định.
Sự gia tăng quy mô sản xuất không chỉ nâng cao giá trị sản lượng của cải vật chất và dịch vụ, mà còn thúc đẩy sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu kinh tế Điều này giúp hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng khai thác hiệu quả nguồn lực từ cả trong nước và nước ngoài.
Tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến cơ cấu xã hội, góp phần cải thiện đời sống người dân, giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách giữa các tầng lớp xã hội, từ đó đảm bảo công bằng xã hội.
Sự phát triển là quy luật tiến hóa chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực của nền kinh tế đóng vai trò quyết định, trong khi các yếu tố bên ngoài cũng có tầm quan trọng không kém.
Phát triển kinh tế là quá trình chuyển biến của nền kinh tế từ mức độ thấp lên cao hơn Điều này bao gồm các yêu cầu cụ thể nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Mức tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số.
- Sự tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ để bảo đảm tăng trưởng bền vững.
Tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với công bằng xã hội, nhằm đảm bảo mọi người đều có cơ hội bình đẳng trong việc đóng góp và hưởng lợi từ thành quả của sự phát triển kinh tế.
Chất lượng sản phẩm ngày càng cao, phù hợp với nhu cầu của xã hội và bảo vệ môi trường Phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là tăng trưởng mà còn gắn liền với công bằng xã hội Kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh Trái đất năm 1992 tại Rio de Janeiro, nhiều quốc gia đã chú trọng đến phát triển bền vững trong chính sách kinh tế - xã hội Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm cản trở khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Theo định nghĩa của Tổ chức Lương thực Thế giới FAO (1988), phát triển bền vững là việc quản lý và bảo vệ các nguồn lợi tự nhiên, nhằm đáp ứng nhu cầu của con người hiện tại và tương lai Phát triển bền vững không chỉ bảo tồn tài nguyên đất, nước, và đa dạng sinh học, mà còn phải thân thiện với môi trường, không gây suy thoái môi trường, phù hợp về công nghệ, kinh tế và được xã hội chấp nhận Định nghĩa này cung cấp một khung chung cho phát triển bền vững trong ngành nghề cá của mỗi quốc gia.
1.4.2 Khái niệm, quan điểm và định hướng phát triển khai thác hải sản
Nghề khai thác hải sản ở Việt Nam là một nghề truyền thống lâu đời, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn thu nhập cho cộng đồng ven biển và hải đảo Nghề này chủ yếu dựa vào nguồn lợi tự nhiên từ biển, với khả năng tái tạo Việc khai thác hải sản một cách hợp lý và khoa học không chỉ đảm bảo sự phát triển bền vững cho đất nước hiện tại mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài trong tương lai.
Phát triển nghề khai thác hải sản bền vững có thể được hiểu là việc áp dụng các phương pháp khai thác hợp lý nhằm bảo vệ nguồn lợi hải sản, đảm bảo sự cân bằng giữa nhu cầu kinh tế và bảo vệ môi trường Điều này bao gồm việc sử dụng công nghệ tiên tiến, quản lý nguồn tài nguyên hiệu quả và nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo vệ hệ sinh thái biển.
Phát triển bền vững nghề khai thác hải sản là việc tối ưu hóa nguồn lợi tự nhiên để đáp ứng nhu cầu kinh tế hiện tại mà không làm ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động khác của con người Điều này cũng đảm bảo cho quá trình tái sản xuất nguồn lợi tự nhiên, phục vụ cho lợi ích lâu dài trong tương lai.
Sự phát triển bền vững dựa trên việc khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, mặt nước và lao động, đồng thời áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất Quan trọng là phải liên kết sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân Bên cạnh đó, cần bảo vệ nguồn lợi hải sản và cải thiện chất lượng môi trường biển, tránh gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội cho các thế hệ tương lai.
1.4.2.2 Quan điểm phát triển ngành thủy sản và khai thác hải sản ở Việt Nam
Phát triển thủy sản thành ngành sản xuất hàng hóa có thương hiệu uy tín và khả năng cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế là mục tiêu quan trọng Điều này dựa trên việc phát huy lợi thế của ngành sản xuất và khai thác tài nguyên tái tạo, cũng như lợi thế của nghề cá nhiệt đới Chuyển đổi nghề cá nhân dân thành nghề cá hiện đại sẽ tạo ra sự phát triển đồng bộ, góp phần ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động gắn liền với công nghiệp hóa và hiện đại hóa nghề cá, cần tổ chức lại sản xuất ngành thủy sản ở tất cả các lĩnh vực Đồng thời, hình thành các trung tâm nghề cá lớn tại vịnh Bắc bộ, duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ, kết nối với các ngư trường trọng điểm.
KINH NGHIỆM KHAI THÁC HẢI SẢN TRÊN THÊ GIỚI VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC
cơ sở hậu cầu dịch vụ tại các địa phương ven biển và các vùng hải đảo.
Lựa chọn và áp dụng công nghệ hiện đại trong khai thác và chế biến thủy sản là cần thiết để nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng Việc sử dụng máy móc, tàu thuyền, ngư lưới cụ tiên tiến, cùng với hệ thống thông tin, thăm dò luồng cá, và định vị vệ tinh sẽ giúp tối ưu hóa quá trình đánh bắt Ngoài ra, công nghệ bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch cần đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra bước đột phá cho sự phát triển bền vững của ngành nghề cá tại Việt Nam.
Để giúp các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất thủy sản tiếp cận thị trường toàn cầu, cần nhanh chóng thích ứng với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Điều này không chỉ phát huy lợi thế của quốc gia có biển mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm Các doanh nghiệp cần có kế hoạch mở rộng hoặc hạn chế sản xuất và xuất khẩu, đồng thời khuyến khích cạnh tranh để hiện đại hóa phương thức khai thác và nâng cao trình độ tổ chức sản xuất, quản lý, từ đó tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Quan hệ kinh tế đối ngoại giúp ngư dân và thuyền viên tiếp cận kinh nghiệm đánh bắt tiên tiến từ nước ngoài thông qua xuất khẩu lao động và hợp tác nghề cá Điều này không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn mà còn hình thành tác phong lao động công nghiệp cho người lao động trong ngành khai thác hải sản Hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ khoa học, đặc biệt là cán bộ đầu ngành, cũng góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của ngành nghề này.
1.5 KINH NGHIỆM KHAI THÁC HẢI SẢN TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC
1.5.1 Khai thác hải sản của một số nước trên thế giới
1.5.1.1 Khai thác hải sản ở Nhật Bản
Nhật Bản, một quốc gia được bao quanh bởi biển, có truyền thống lâu đời trong nghề khai thác hải sản, đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thực phẩm cho người dân Từ thập kỷ 50 đến những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, Nhật Bản đã tích cực phát triển nghề cá, đặc biệt là khai thác cá biển Nghề cá tại đây hoạt động trên diện rộng, bao gồm cả khai thác ven bờ và xa bờ.
Từ năm 1972 đến 1988, Nhật Bản dẫn đầu thế giới về sản lượng thuỷ sản, với xuất khẩu tăng mạnh và đáp ứng 80% nhu cầu tiêu thụ trong nước vào giữa thập kỷ 80 Theo số liệu của Bộ Nông, lâm, ngư nghiệp Nhật Bản, năm 2003, tổng sản lượng khai thác hải sản đạt 4,72 triệu tấn, trong đó khai thác viễn dương đạt 0,6 triệu tấn, khai thác xa bờ 2,54 triệu tấn, và khai thác ven bờ 1,58 triệu tấn.
Năm 2004, Nhật Bản có 132.000 tàu khai thác trên biển, với đội tàu lưới vây lớn nhất hoạt động ở vùng khơi và viễn dương, cùng đội tàu lưới kéo đứng thứ hai, khai thác ở các vùng thềm lục địa toàn cầu Đặc biệt, đội tàu lưới vây rất hiệu quả trong việc khai thác cá hồi, trong khi các đội tàu khác như tàu câu mực ống và cá ngừ cũng đóng vai trò quan trọng Các tàu hoạt động không chỉ quanh Nhật Bản mà còn ở các vùng biển xa như Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương Đối tượng khai thác chính bao gồm cá thu, cá nục, cá cơm, và cá trích, với cá ngừ là sản phẩm chủ yếu Nhật Bản còn nổi bật trong việc bảo vệ nguồn lợi biển và đã điều chỉnh các chính sách và pháp luật về nghề cá theo sự phát triển kinh tế Gần đây, Nhật Bản đã giảm số lượng tàu dưới 30 tấn cho khai thác ven bờ và tàu trên 50 tấn cho các loại cá vừa và nhỏ.
Nhà nước Nhật Bản cam kết hỗ trợ và đảm bảo cuộc sống cho ngư dân khai thác hải sản, nhằm duy trì an ninh và chủ quyền quốc gia đối với các hòn đảo Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ đầu tư vào các đội tàu đánh cá lớn và trang bị thiết bị hiện đại cho hoạt động khai thác Hàng năm, Nhật Bản dành khoảng 50 tỷ yên cho việc hỗ trợ các hoạt động nghề cá.
1.5.1.2 Khai thác hải sản ở Trung Quốc
Trung Quốc liên tục là nước sản xuất thủy sản lớn nhất thế giới trong vòng
Trong 20 năm qua, Trung Quốc đã chiếm 70% tổng sản lượng thủy sản toàn cầu Kể từ khi ban hành Luật Thủy sản vào năm 1986, nước này đã xây dựng hệ thống quản lý chặt chẽ, bao gồm các Điều khoản về Quản lý cấp phép nhằm phát triển ngành thủy sản bền vững Hiện tại, Trung Quốc là một trong những quốc gia hàng đầu trong khai thác thủy sản ngoài khơi, với gần 1.500 tàu hoạt động trên các vùng nước quốc tế và dưới sự quản lý của 32 quốc gia Nước này đã ký kết 13 thỏa thuận hợp tác khai thác thủy sản liên chính phủ và 6 thỏa thuận liên ngành, đồng thời tham gia vào 8 tổ chức thủy sản quốc tế và các hoạt động của 12 tổ chức đa phương quốc tế.
Năm 1995, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành lệnh cấm khai thác có điều tiết tại các vùng biển Hoàng Hải, Bột Hải và Đông Hải Đến năm 1999, Trung Quốc thực hiện “Chính sách mới về khai thác biển”, tiến hành tổng kiểm tra hạm đội tàu cá và loại bỏ các tàu nhỏ cũng như tàu không có đăng ký Chính phủ cũng áp dụng chính sách quản lý hạn ngạch khai thác tối đa cho một số loài hải sản và hợp tác với các nước có chung lãnh hải để quản lý sản lượng khai thác Hiện tại, Trung Quốc đã ký hiệp định với Nhật Bản và Hàn Quốc nhằm giới hạn số tàu khai thác trong vùng biển kinh tế đặc quyền.
Năm 2010, sản lượng thủy sản của Việt Nam dự báo đạt 53,5 triệu tấn, tương đương giá trị 180 tỷ USD Nguồn tài chính đầu tư cho ngành thủy sản trong kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đã tăng 700% so với lần thứ 10, đạt 5,6 tỷ USD Chính phủ chú trọng hỗ trợ xây dựng cảng cá và bảo tồn nguồn lợi thủy sản, đồng thời tăng cường trợ cấp nhiên liệu và phí bảo hiểm cho ngư dân, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và hỗ trợ sinh kế cho ngư dân nghèo và tái định cư.
HUÊ thứ 11 đã giảm bớt gánh nặng tài chính cho ngư dân giữa lúc giá nhiên liệu tăng cao, trong khi khu vực đánh bắt nội địa duy trì ổn định nhờ cải thiện cơ cấu tàu cá, đặc biệt là tăng cường tàu đánh bắt xa bờ với tỷ trọng sản lượng từ 46% lên 58% Luật thực quyền 2007 đã xác định rõ quyền của hoạt động nuôi trồng và đánh bắt cá, với Bộ Nông nghiệp ban hành các phương thức cấp phép và đăng ký nuôi trồng thủy sản tại các vùng nước khác nhau Hệ thống thống kê thủy sản cũng được cải cách, với mạng lưới thu thập thông tin cơ bản và hệ thống thông tin quốc gia về an toàn thủy sản biển được thiết lập và áp dụng rộng rãi.
Nhà nước Trung Quốc cung cấp hỗ trợ 30% chi phí tiêu hao nhiên liệu dựa trên sản lượng hải sản khai thác thực tế, với mức hỗ trợ khoảng 120 triệu đồng/năm cho tàu 50 cv và 200 triệu đồng/năm cho tàu 100 cv Hỗ trợ này được thực hiện thông qua các địa điểm thu mua và quản lý cửa biển của Nhà nước.
1.5.2 Khai thác hải sản của một số địa phương trong nước
1.5.2.1 Khai thác hải sản ở Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng sở hữu hơn 92 km bờ biển và nguồn lợi hải sản phong phú với trữ lượng khoảng 1.140.000 tấn, bao gồm hơn 670 loài, trong đó có 110 loài hải sản có giá trị kinh tế cao Khu vực biển Nam Hải Vân và bán đảo Sơn Trà nổi bật với đa dạng sinh học, bao gồm rạn san hô, thảm cỏ biển và các sinh vật quý hiếm, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội Chính quyền thành phố đã triển khai nhiều biện pháp quản lý và bảo vệ nguồn lợi biển theo hướng bền vững Hàng năm, đội tàu khai thác thủy sản thu hoạch từ 37 đến 40 nghìn tấn hải sản phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu Để phát triển kinh tế biển, Đà Nẵng đầu tư vào cơ sở hạ tầng như cảng biển, khu công nghiệp và chợ đầu mối thủy sản miền Trung tại Thọ.
Đà Nẵng đang phấn đấu trở thành trung tâm nghề cá mạnh của miền Trung với mục tiêu tăng trưởng giá trị xuất khẩu thủy sản từ 14-15% mỗi năm Thành phố tập trung vào khai thác hải sản xa bờ, phát triển đội tàu công suất lớn và nâng cấp tàu nhỏ, đồng thời chú trọng đào tạo lao động có trình độ và sức khỏe Việc hình thành các đội tàu 10-15 chiếc hỗ trợ nhau trong khai thác, cùng với đầu tư đội tàu dịch vụ hậu cần từ 5-10 chiếc, sẽ giúp cung cấp nguyên liệu và thu mua sản phẩm ngay trên biển Đà Nẵng cũng hiện đại hóa hệ thống thông tin hỗ trợ ngư dân, ban hành quy chế tổ chức đánh bắt hải sản theo hình thức tổ để giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả khai thác Sự hình thành các tổ khai thác đã nhận được sự đồng thuận từ ngư dân, thể hiện sự quan tâm của chính quyền đối với người làm nghề biển.
1.5.2.2 Khai thác hải sản ở Nam Định
Nam Ðịnh, một tỉnh phía bắc, đã áp dụng nhiều phương pháp hiệu quả trong khai thác thủy hải sản nhờ vào 72 km bờ biển giàu tiềm năng Tỉnh hiện có 2.355 tàu đánh bắt với tổng công suất gần 90.000CV Năm 2010, sản lượng khai thác hải sản đạt gần 40 nghìn tấn, chưa tính sản lượng đánh bắt sứa và moi theo mùa vụ Hoạt động này hàng năm thu hút nhiều nguồn lực và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế địa phương.
HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU
- Chỉ tiêu đánh giá số lượng tàu thuyền, tổng công suất,
- Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu tàu thuyền khai thác theo các nhóm công suất, ĐẠI HỌC KINH TÊ
- Chỉ tiêu đánh giá về các loại nghề khai thác.
- Chỉ tiêu đánh giá về quy mô lao động trong nghề khai thác
- Chỉ tiêu đánh giá về sản lượng khai thác hải sản
- Chỉ tiêu đánh giá về giá trị sản xuất khai thác hải sản.
- Chỉ tiêu đánh giá về doanh thu, chi phí, thu nhập.
- Các chỉ tiêu có liên quan khác trong khai thác hải sản. ĐẠI HỌC KINH TÊ