Tình hình triển khai NGN ở Việt nam
Vào tháng 12/2003, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã hoàn thành giai đoạn 1 của mạng viễn thông thế hệ mới (New Generation Network - NGN) và chính thức đưa vào hoạt động Mạng NGN sử dụng công nghệ chuyển mạch gói (packet-switch), thay thế công nghệ chuyển mạch kênh (circuit-switch), cho phép tích hợp dịch vụ thoại và truyền dữ liệu một cách linh hoạt VNPT cũng đang triển khai lớp truy cập của mạng NGN với các Media Gateway và hệ thống băng rộng công nghệ xDSL, hỗ trợ kết nối ADSL và SHDSL Nhờ vào hạ tầng mạng xDSL, VNPT đã cung cấp dịch vụ truy cập Internet băng rộng MegaVNN tại nhiều tỉnh, thành phố trên toàn quốc, với khoảng 180.000 kết nối xDSL vào năm 2005.
Ch−ơng 4 IPTV ở việt nam
Tình hình phát triển dịch vụ IPTV
Tình hình phát triển dịch vụ IPTV trong khu vực
Cuối thập kỷ trước, sự phát triển của dịch vụ truyền hình vệ tinh và cáp số, đặc biệt là sự ra đời của HDTV, đã tạo dấu ấn lớn trong lĩnh vực truyền hình Hiện nay, Internet Protocol Television (IPTV) đã xuất hiện như một phương thức cung cấp dịch vụ mới mạnh mẽ, dựa trên sự hỗ trợ của ngành viễn thông và mạng băng rộng, mang lại nhiều hoạt động tương tác hơn và tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt cho các doanh nghiệp truyền hình Theo dự báo của In-Stat, thị trường dịch vụ IP Video tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ tăng trưởng gần 80% mỗi năm đến năm 2010, tạo ra thị trường 4,2 tỷ USD Dự kiến, châu Á sẽ chiếm một nửa tổng số thuê bao TV của các công ty điện thoại toàn cầu vào năm 2009, với ít nhất 32 triệu thuê bao Những con số này cho thấy IPTV sẽ trở thành dịch vụ có thị trường rộng lớn toàn cầu, với châu Á tiếp tục dẫn đầu trong việc thu hút khách hàng, đồng thời mở ra nhiều cơ hội cho các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình.
Informa Telecoms & Media dự báo rằng đến năm 2010, hơn 35% hộ gia đình sử dụng dịch vụ truyền hình số ở Hồng Kông sẽ chọn IPTV, gần tương đương với 37% hộ gia đình sử dụng truyền hình cáp Tại Singapore, 13% hộ gia đình sẽ nhận tín hiệu truyền hình số qua đường dây DSL, làm cho IPTV trở thành một nền tảng truy cập số phổ biến hơn so với truyền hình số mặt đất Ngoài ra, dự báo cho thấy DSL sẽ chiếm 9,2% hộ gia đình sử dụng truyền hình số ở Úc, 6,2% ở New Zealand, 5,8% ở Đài Loan, 5,7% ở Nhật Bản và 4,2% ở Hàn Quốc, trong khi truyền hình cáp vẫn sẽ giữ vị trí thống trị đến năm 2010.
2010, nh−ng sau đó IPTV sẽ thực sự l đối thủ cạnh tranh với truyền hình số mặt đất v vệ tinh đối với người xem truyền hình châu á.
Sự phát triển của IPTV đang diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên, với sự số hóa của truyền hình cáp và vệ tinh, các nhà cung cấp phải cạnh tranh để thu hút khách hàng mới Tùy thuộc vào từng thị trường, các nhà khai thác dịch vụ IPTV cần mở rộng cung cấp dịch vụ truyền hình quảng bá nhiều kênh, cùng với các dịch vụ bổ sung như VoD, Replay-TV, In-home DVR và Multi-room Service PCCW tại Hồng Kông là nhà cung cấp dịch vụ IPTV lớn nhất thế giới với hơn 500.000 thuê bao, nổi bật với dịch vụ HDTV và VoD trên mạng DSL Trong khi đó, SOFTBANK của Nhật Bản cũng đang tập trung vào việc xây dựng nội dung lên đến 5.000 giờ cho các bộ phim Nhật Bản và Hollywood trên dịch vụ DSL/FTTH Video-On-Demand.
Tình hình phát triển dịch vụ IPTV tại Việt Nam
Tại Việt Nam, nhiều nhà khai thác dịch vụ viễn thông lớn đang cạnh tranh để cung cấp dịch vụ băng rộng chất lượng cao với giá cả hợp lý Họ cũng nhận thấy xu hướng phát triển mạnh mẽ của truyền hình trực tuyến và VoD Một số website như VietNamNet, Công ty VTC, và Đài truyền hình thành phố đang cung cấp các chương trình truyền hình trực tuyến thử nghiệm.
Hồ Chí Minh đb ghi nhận số l−ợng truy cập rất lớn, cho thấy sức hấp dẫn của dịch vụ n.y đối với công chúng.
FPT Telecom là doanh nghiệp viễn thông đầu tiên tại Việt Nam chính thức cung cấp dịch vụ IPTV trên mạng băng rộng ADSL/ADSL2+ từ ngày 03/03/2006, sau một năm thử nghiệm với 500 khách hàng đầu tiên Công ty đã đầu tư vào thiết bị nhận sóng vệ tinh và ký kết bản quyền với VTV và HTV để phát sóng 32 kênh truyền hình trên Internet Hiện tại, FPT đang tìm kiếm hợp tác với VTC để bổ sung thêm kênh phim truyện Với thuê bao ADSL 2+, khách hàng có thể xem đồng thời 3 kênh truyền hình FPT hiện có gần 100.000 thuê bao ADSL và dự kiến cung cấp dịch vụ IPTV giá trị gia tăng cho khách hàng Ngoài FPT, các doanh nghiệp như VNPT và Viettel cũng đang chuẩn bị triển khai dịch vụ IPTV trên mạng băng rộng.
Khả năng triển khai công nghệ IPTV tại Việt Nam
Nhu cầu thị tr−ờng
Để đánh giá nhu cầu thị trường dịch vụ IPTV tại Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng, cuộc thăm dò nhằm nghiên cứu thói quen giải trí và mức độ chấp nhận của công chúng đối với truyền hình trực tuyến, video theo yêu cầu, cùng các dịch vụ giá trị gia tăng của IPTV Đối tượng nghiên cứu là cá nhân từ 18-50 tuổi, có quan tâm đến dịch vụ giải trí truyền hình và biết sử dụng internet, với khảo sát trực tiếp tại bốn địa bàn tiêu biểu Số lượng mẫu khảo sát được phân bổ như sau: Hà Nội 301 mẫu, Hồ Chí Minh 301 mẫu, Đà Nẵng 209 mẫu và Hải Phòng 200 mẫu.
Kết quả khảo sát nhu cầu giải trí cho thấy người dân có nhu cầu cao về các dịch vụ truyền hình, với hầu hết các gia đình sở hữu TV và đầu đĩa Thói quen xem phim và nghe nhạc tại nhà chiếm phần lớn thời gian giải trí, trong khi gần 1/3 dân số tại 4 thành phố khảo sát có nhu cầu truy cập Internet Một nửa số người tham gia khảo sát đã đăng ký sử dụng truyền hình cáp/kỹ thuật số, cho thấy sự quan tâm lớn đối với dịch vụ giải trí này, đặc biệt là truyền hình trả tiền Các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình cáp/kỹ thuật số đáp ứng hơn 70% nhu cầu giải trí của khách hàng, với gần một nửa khách hàng hài lòng về sự đa dạng kênh và chương trình Tuy nhiên, khoảng 1/3 khách hàng mong muốn có thêm nhiều kênh truyền hình có thuyết minh và phụ đề tiếng Việt Chi phí cho dịch vụ giải trí truyền hình trung bình khoảng 46.000 đồng, với mức thấp nhất tại Đà Nẵng khoảng 26.500 đồng và cao nhất tại Hải Phòng khoảng 69.000 đồng Đặc biệt, dịch vụ IPTV và video theo yêu cầu (VoD) được đông đảo khách hàng quan tâm, với 90% người dân Đà Nẵng bày tỏ sự thích thú, tiếp theo là TP.HCM và Hải Phòng với 81% và 80%, trong khi Hà Nội chỉ có hơn 54%.
Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ IPTV tại các thành phố lớn cho thấy Hải Phòng có tỷ lệ đăng ký thấp, với chưa đến 25% khách hàng dự kiến sẽ sử dụng trong năm tới Trong khi đó, Hà Nội đạt khoảng 43%, Đà Nẵng gần 50% và thành phố Hồ Chí Minh cao nhất với 55%, trong đó 34% mong muốn đăng ký trong 6 tháng tới Dựa trên thói quen giải trí tại gia đình, nhu cầu sử dụng dịch vụ IPTV rất cao, mở ra cơ hội phát triển nội dung cho các dịch vụ này ngay từ bây giờ Như vậy, thị trường cho thấy đa số khách hàng sẵn sàng chi thêm phí để có được trải nghiệm giải trí thuận tiện và chất lượng.
Khả năng đáp ứng nhu cầu dịch vụ IPTV của mạng viễn thông Việt
Mạng băng rộng là yếu tố quyết định để triển khai thành công dịch vụ IPTV, vì chỉ mạng này mới có thể cung cấp băng thông đầy đủ cho các dịch vụ như truyền hình, video và trò chơi Trong khi đó, mạng băng hẹp truyền thống chỉ hỗ trợ một số dịch vụ đơn giản của IPTV.
Thị trường băng rộng tại Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ với nhu cầu ngày càng tăng, cho thấy tiềm năng lớn còn bỏ ngỏ Số lượng thuê bao băng rộng đạt gần 200.000, nhờ vào sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ lớn như VNPT, FPT Telecom, Viettel và SPT Dự kiến, con số này sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới.
2006, số l−ợng thuê bao băng rộng của Việt Nam sẽ đạt khoảng 300.000 v. đến 2008 số l−ợng n.y sẽ phát triển lên tới 800.000 đến 1.000.000 thuê bao
Việc triển khai các công nghệ hữu tuyến như xDSL/PON và công nghệ vô tuyến băng rộng như WiFi/WiMAX, CDMA tại Việt Nam đã tạo ra cơ hội phát triển mạnh mẽ cho IPTV, đảm bảo sự thành công của loại hình dịch vụ mới này.
Việc chuyển đổi từ mạng lưới chuyển mạch kênh truyền thống sang mạng NGN với công nghệ chuyển mạch gói là một bước tiến quan trọng, phù hợp với xu hướng phát triển của các nước trên thế giới Các nhà cung cấp dịch vụ tại Việt Nam đang chọn NGN như một giải pháp phát triển mạng tiếp theo Mạng NGN không chỉ cho phép triển khai các dịch vụ đa dạng với giá thành thấp mà còn giảm thiểu thời gian đưa dịch vụ mới ra thị trường, giảm chi phí khai thác mạng và dịch vụ Đồng thời, NGN nâng cao hiệu quả đầu tư và tạo ra nguồn doanh thu mới bên cạnh doanh thu từ các dịch vụ truyền thống.
Các ý kiến v đề xuất khi triển khai công nghệ IPTV tại Việt Nam
Dịch vụ công nghệ IPTV đang trở thành xu hướng nổi bật tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng tăng Để triển khai hiệu quả, cần xem xét khả năng của mạng viễn thông trong nước và đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm tối ưu hóa dịch vụ cho người dùng.
Với hạ tầng mạng truy cập băng rộng hiện đại dựa trên mạng NGN, các nhà cung cấp dịch vụ tại Việt Nam đang hướng tới việc triển khai dịch vụ IPTV Điều này không chỉ hợp lý mà còn đảm bảo khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển dịch vụ một cách hiệu quả.
Bảo mật và đảm bảo chất lượng dịch vụ trên Internet là yếu tố then chốt cho sự phát triển của công nghệ IPTV Trong đó, băng thông và đường truyền là những thách thức lớn cần được giải quyết Khi khắc phục được những vấn đề này, việc triển khai công nghệ IPTV sẽ đạt được thành công.
KÕt luËn Kết quả đạt đ−ợc của luận văn
Luận văn này nghiên cứu sâu về công nghệ truyền hình qua mạng IP, bao gồm ứng dụng và khả năng ảnh hưởng của công nghệ này Bên cạnh đó, bài viết cũng trình bày các khái niệm quan trọng liên quan đến công nghệ truyền hình, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan và hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực này.
Bài viết tập trung vào việc trình bày các đặc tính quan trọng của bộ giao thức TCP/IP, đây là yếu tố cốt lõi giúp hiểu rõ về loại truyền hình có thể được truyền tải trong môi trường TCP/IP.
Luận văn này tập trung nghiên cứu công nghệ IPTV, đánh giá khả năng triển khai và nhu cầu thị trường đối với dịch vụ mà công nghệ này cung cấp Tác giả sẽ phân tích nhu cầu sử dụng dịch vụ, dự báo xu hướng tiêu dùng và khai thác dữ liệu thu thập được nhằm đề xuất các định hướng phát triển thị trường và cơ sở hạ tầng IPTV trong tương lai.
Bài luận văn này cũng trình bày các giải pháp cần thiết để triển khai thành công công nghệ IPTV, bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng truyền thông, lựa chọn thiết bị phần cứng phù hợp và phát triển giải pháp phần mềm hiệu quả.
Hướng phát triển của đề ti
Tác giả xin đề cập một số hướng nghiên cứu trong tương lai:
• Nghiên cứu các ứng dụng trên mạng băng rộng tại thị tr−ờng Việt Nam v. điều kiện để phát triển các dịch vụ băng rộng trong thời gian tới.
Nghiên cứu khả năng triển khai công nghệ IPTV tại Việt Nam cho thấy dân số trẻ có xu hướng ưa chuộng công nghệ mới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng công nghệ này Sự phổ biến của IPTV hứa hẹn sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển trong tương lai.
• Nghiên cứu thêm một số công nghệ nén mới nhất giúp cho việc truyền tải Video theo định dạng MPEG-4 chất l−ợng cao.