ỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOAĐẠI H BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đất nước hiện nay
Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường
1.1.1 Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa
Công nghiệp hóa từ thế kỷ XVII, XVIII là quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động máy móc, giúp các nước nông nghiệp lạc hậu tiến tới nền văn minh công nghiệp hiện đại Quá trình này không chỉ tác động đến kinh tế mà còn làm thay đổi văn hóa và xã hội, hình thành một xã hội công nghiệp mới Những biểu hiện rõ nét của sự phát triển công nghiệp bao gồm việc chuyển đổi từ làm việc tại nhà sang các xưởng công nghiệp lớn, tập trung dân cư tại các đô thị, và thay thế kỹ thuật thủ công bằng hệ thống cơ khí sử dụng nguồn nhiên liệu như sắt và than đá.
Hiện đại hóa là quá trình nâng cao chất lượng và tính chất của nền kinh tế thông qua việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và những phát minh tiên tiến Quá trình này giúp thúc đẩy sự phát triển của xã hội, chuyển đổi từ những đặc điểm truyền thống sang những tiêu chuẩn hiện đại.
Trong lịch sử, dân tộc Việt Nam đã nhiều lần bị các nước lớn xâm lược và biến thành thuộc địa, dẫn đến việc bóc lột nhân dân Qua nhiều năm kháng chiến, chúng ta đã bảo vệ độc lập dân tộc, nhưng chiến tranh đã để lại nhiều hệ lụy, làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế Trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, cần rút ngắn khoảng cách về kinh tế và công nghệ với các nước trong khu vực và thế giới Để giải quyết vấn đề này, cần nâng cao năng suất lao động, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, và phát triển khoa học công nghệ tiên tiến, được phân bố hợp lý trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi toàn diện các hoạt động sản xuất, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ lao động thủ công sang sử dụng công nghệ và phương pháp tiên tiến Điều này dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cần kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nâng cao chất lượng sản xuất và năng suất lao động, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân Đồng thời, nó cũng tạo điều kiện cho việc phát triển quốc phòng và an ninh Ngành công nghiệp khai thác than đạt sản lượng 15 – 20 triệu tấn/năm; ngành chế biến lương thực, thực phẩm tại TP.HCM có tốc độ tăng trưởng bình quân 8.4%/năm trong 5 năm qua; và xuất khẩu hàng dệt may của khối FDI đạt 11.6 tỷ USD trong 9 tháng năm 2017.
1(13/09/2013), http://vinacomin.vn/tin-quoc-te/cong-nghiep-khai-thac-than-tren-the-gioi-
Để đạt được hiệu quả trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và cá nhân cần phải có những hành động cụ thể và đồng bộ Việc thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian qua đã cho thấy tầm quan trọng của sự phối hợp giữa các bên liên quan nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và bền vững.
Tiếp tục đẩy mạnh giáo dục truyền thống và khơi dậy tinh thần yêu nước là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao nhận thức và lý tưởng cách mạng cho thanh thiếu niên Cần tổ chức các hoạt động định hướng tại địa phương để bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên Thanh thiếu niên và học sinh cần có trách nhiệm trong việc học tập, nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức đúng đắn về Đảng, từ đó tránh xa tệ nạn xã hội và trở thành động lực phát triển cho Tổ quốc.
1.1.2 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là mô hình kinh tế tập trung vào việc sử dụng hiệu quả tri thức để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Mô hình này không chỉ bao gồm việc chuyển giao và cải tiến công nghệ từ nước ngoài, mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều chỉnh và sáng tạo tri thức để đáp ứng những nhu cầu riêng biệt của từng lĩnh vực.
Trong nền kinh tế tri thức, các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, vi mạch điện tử và công nghệ y sinh ngày càng đóng vai trò quan trọng Việc sử dụng nguồn nhiên liệu tự nhiên không còn là yếu tố quyết định, mà con người đang chuyển sang khai thác sức mạnh trí tuệ để phát triển nguồn nhiên liệu tái tạo, đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng Tri thức trở thành nguồn sức mạnh vô tận, là chiến lược kinh tế của mỗi quốc gia Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh việc tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu.
1 Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, tr90 Các hãng công nghệ lớn như Apple, Samsung và Intel đang cạnh tranh mạnh mẽ trong việc cải thiện khả năng lưu trữ và xử lý dữ liệu, cùng với việc tối ưu hóa kích cỡ linh kiện Cuộc đua công nghệ này không có dấu hiệu dừng lại và sẽ tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của xã hội Hơn nữa, sự phát triển của ngành công nghệ thông tin cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tri thức công nghệ.
Để một nền kinh tế phát triển và trở nên giàu có, việc tiến hành công nghiệp hóa là điều cần thiết Nếu không thực hiện công nghiệp hóa, nền kinh tế sẽ ngày càng lạc hậu Việt Nam cần đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa kết hợp với phát triển kinh tế tri thức, nhằm sớm trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại Điều này sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế tự chủ, có khả năng thực hiện phân công lao động và hợp tác quốc tế hiệu quả.
Xu thế toàn cầu và cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho Việt Nam Đất nước chúng ta đang chuyển mình sang nền kinh tế tri thức, mặc dù trên thế giới, kinh tế tri thức đã phát triển mạnh mẽ Để bắt kịp các quốc gia khác, Việt Nam cần rút ngắn thời gian phát triển, không nhất thiết phải trải qua từng bước từ kinh tế nông nghiệp đến kinh tế công nghiệp rồi mới đến kinh tế tri thức, đây chính là lợi thế của những nước đi sau Tại Đại hội X, Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, coi đây là yếu tố then chốt trong quá trình này.
Quá trình phát triển kinh tế tập trung vào việc gia tăng giá trị sản phẩm thông qua tri thức, kết hợp nguồn lực tri thức của người Việt Nam với kiến thức toàn cầu Đề cao cả số lượng và chất lượng trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, từ các vùng lãnh thổ đến các dự án kinh tế xã hội Mục tiêu là xây dựng một cơ cấu kinh tế xã hội hiện đại, hợp lý theo ngành và lãnh thổ, đồng thời giảm chi phí trung gian và nâng cao năng suất lao động, đặc biệt trong các lĩnh vực có sức cạnh tranh mạnh.
Việt Nam hiện đang tận dụng lợi thế từ lực lượng lao động dồi dào và trẻ, với 56,12 triệu người trong độ tuổi lao động theo Tổng cục Thống kê vào quý 4 năm 2019 Việc áp dụng tri thức vào công nghệ giúp tạo ra các hệ thống thông minh và tự động, thúc đẩy phân công lao động, từ đó nâng cao đời sống xã hội và hướng tới nền văn minh cao hơn Để công nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức một cách hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và cá nhân.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yếu tố then chốt để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và sử dụng hiệu quả các nguồn lực Cần xây dựng và thực thi luật pháp để tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp Đổi mới quy hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội là rất quan trọng Phát triển công nghiệp hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, đồng thời tăng cường hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm Cần phát triển công nghệ chế biến, công nghiệp công nghệ cao, và ưu tiên các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu Phát triển các ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám cao như công nghệ thông tin, viễn thông, và y tế, cùng với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và gắn kết giáo dục với doanh nghiệp là rất cần thiết Đặc biệt, cần chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và lao động lành nghề để đáp ứng nhu cầu của các ngành, lĩnh vực chủ chốt.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
Khác với công nghiệp hóa trước đổi mới, diễn ra trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, công nghiệp hóa hiện nay được thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh rằng nền kinh tế này hoạt động đầy đủ theo quy luật thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển Nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế được quản lý bởi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng, và các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật Thị trường là yếu tố chính trong việc huy động và phân bổ hiệu quả nguồn lực phát triển, đồng thời các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng và minh bạch Bằng cách sử dụng các công cụ và chính sách phù hợp, Nhà nước điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường Đồng thời, Nhà nước cũng thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam đang tập trung đầu tư phát triển kinh tế thị trường để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân và xuất khẩu Tỷ lệ nghèo giảm và số người có việc làm tăng, giúp ổn định cuộc sống cho người dân Chỉ số tăng trưởng kinh tế cùng các chỉ số văn hóa và nhân văn ngày càng được cải thiện Đất nước thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh doanh quốc tế, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước.
Nền kinh tế hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhưng hiệu quả hoạt động lại thấp, với một số tập đoàn rơi vào tình trạng thua lỗ và phá sản Hợp tác xã cũng gặp nhiều thách thức, đặc biệt là việc không thu hút được nông dân tham gia Chính sách quản lý của nhà nước chủ yếu tập trung vào ngắn hạn, dẫn đến hiệu quả thấp và nhiều vấn đề như lũng đoạn thị trường, gian lận và hàng giả vẫn tồn tại.
Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, trong khi tệ quan liêu, tham nhũng và lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn hiệu quả Nhiều người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, gặp khó khăn trong việc thoát nghèo Phát triển kinh tế cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, trong khi công tác quản lý tài nguyên môi trường vẫn còn nhiều bất cập Mặc dù kinh tế vĩ mô đã cơ bản ổn định, nhưng vẫn chưa vững chắc và phải đối mặt với nhiều thách thức Quá trình phục hồi kinh tế diễn ra chậm, và việc tái cơ cấu kinh tế gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hội nhập quốc tế hiện nay là yếu tố thiết yếu và lâu dài, phản ánh sự phát triển văn minh giữa các quốc gia Đối với Việt Nam, một quốc gia nhỏ đang phát triển, hợp tác và hội nhập quốc tế là vô cùng quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa Xu hướng này không chỉ giúp tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ mà còn tạo điều kiện để Việt Nam xây dựng các chiến lược thích nghi, rút ngắn khoảng cách với các quốc gia khác Đảng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực Đến nay, Việt Nam đã ký kết 13 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 8 Hiệp định với tư cách thành viên ASEAN và 5 Hiệp định với tư cách quốc gia độc lập, cùng với 3 Hiệp định RCEP, Việt Nam – EFTA FTA, và Việt Nam – Israel FTA đang trong quá trình đàm phán.
Hội nhập quốc tế mang lại nhiều thuận lợi, bao gồm việc tăng cường quan hệ quốc tế và mở rộng thị trường kinh doanh Điều này giúp thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ từ các nước phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả trong nền kinh tế Đồng thời, hội nhập tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp Việt Nam, góp phần vào sự phát triển kinh tế nhanh chóng, hiệu quả, bền vững và ổn định.
Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn do sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt và phụ thuộc vào Nhà nước Thể chế kinh tế chưa rõ ràng và phức tạp khiến nhà đầu tư e ngại, trong khi đội ngũ quản lý còn yếu kém Để hội nhập quốc tế hiệu quả, cần khắc phục rào cản trong việc giải ngân cho các dự án FDI, đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao trách nhiệm của công chức Cần xây dựng nền kinh tế minh bạch, hiện đại, đồng thời đầu tư vào giáo dục và nâng cao kỹ năng lao động Việc tiếp nhận công nghệ và cải thiện hạ tầng cũng rất quan trọng, cùng với việc tăng cường liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế nội địa Cuối cùng, cần tạo điều kiện cho các dự án FDI phát triển bền vững, chú trọng đến bảo vệ môi trường và giảm thiểu rủi ro đầu cơ.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Những cải cách trong chính sách đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng cao đời sống người dân.
Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 10/2024 cho thấy Đảng đã tạo điều kiện để định hướng xã hội phát triển Qua đó, Việt Nam từng bước thống nhất nền kinh tế thị trường trong nước và quốc tế, khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.
Thể chế kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật đang được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và phù hợp, trong khi công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng và hiệu quả Dân chủ xã hội tiếp tục được mở rộng, đảm bảo ổn định chính trị và an ninh quốc phòng Tuy nhiên, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình chưa có tiền lệ, do đó cần tiếp tục xem xét và hoàn thiện để giải quyết những vấn đề hiện tại.
Nghiên cứu và áp dụng đầy đủ các quy luật và giá trị của thể chế kinh tế thị trường là cần thiết để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững Cần khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, đồng thời ngăn chặn các biểu hiện của lợi ích nhóm và chủ nghĩa tư bản thân hữu để đảm bảo công bằng xã hội Việc giảm thiểu sự phân biệt giàu nghèo giữa các vùng miền và thành phần xã hội là ưu tiên hàng đầu Cần có các chiến lược và giải pháp hiệu quả để đảm bảo sự phát triển đồng bộ và bền vững cho đất nước.
Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững
Phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi nhiều nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học và công nghệ, con người, thể chế chính trị và cơ cấu kinh tế Tuy nhiên, các nguồn lực này đều có hạn và có nguy cơ cạn kiệt Trong khi đó, tri thức con người là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và không bao giờ cạn kiệt Để khai thác hiệu quả các nguồn lực khác, cần có những con người đủ trí tuệ và năng lực.
Trong hệ thống nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực con người đóng vai trò trung tâm và quyết định Con người không chỉ là chủ thể quyết định hiệu quả khai thác tài nguyên thiên nhiên mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững trong tương lai Đồng thời, họ cũng là khách thể của quá trình khai thác, sử dụng và đầu tư Vai trò của nguồn lực con người luôn được khẳng định qua từng thời kỳ, góp phần mang lại sự phát triển bền vững cho quốc gia.
1.3.1 Con người là trung tâm của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người là yếu tố cơ bản và quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế Để đạt được sự phát triển bền vững, cần chú trọng đến năm yếu tố chủ yếu: vốn, khoa học công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, và thể chế chính trị cùng với quản lý nhà nước.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu xây dựng một đất nước công nghiệp hiện đại, có cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến và cơ cấu kinh tế hợp lý Cuộc cách mạng này hướng tới việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng an ninh, và tạo ra một xã hội công bằng, văn minh Những ưu việt của chủ nghĩa xã hội không phải tự đến mà là kết quả của sự nỗ lực bền bỉ của toàn dân, với sự phát triển toàn diện về trí lực, khả năng lao động và phẩm chất đạo đức.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta nhấn mạnh rằng chính sách xã hội cần phát huy nhân tố con người, đảm bảo công bằng và bình đẳng trong quyền lợi và nghĩa vụ công dân Đồng thời, cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và tinh thần, cũng như giữa nhu cầu trước mắt và lợi ích lâu dài Định hướng chiến lược này thể hiện tư tưởng vì con người và mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam trong quá trình xây dựng đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.12-13
Việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đòi hỏi chúng ta phải hiểu rõ giá trị quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo và nguồn tài nguyên Cần có sự thay đổi sâu sắc trong cách nhìn nhận, tư duy và hành động, coi việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng Hơn nữa, sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá và hiện đại hoá phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời trong quá trình phát triển.
Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo quan điểm phát huy nhân tố con người từ các Đại hội trước Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, Đảng xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Đại hội XI nhấn mạnh việc phát huy nhân tố con người thông qua việc mở rộng dân chủ, coi con người là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển Quan điểm này tiếp nối tư tưởng của Đảng, khẳng định con người là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và là sự nghiệp của cách mạng Việt Nam, với mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội hướng tới mục tiêu vì con người.
Xét từ nhiều khía cạnh như kinh tế, xã hội và kỹ thuật, yếu tố con người đóng vai trò chủ chốt trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa Thực tế cho thấy, thành công của quá trình này phụ thuộc vào nguồn lực con người với số lượng và chất lượng ngày càng cao, cùng với cơ cấu hợp lý Con người là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu và nội dung cho sự phát triển bền vững.
Quan điểm của Đảng về việc phát huy nhân tố con người là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển đất nước Đảng nhấn mạnh rằng con người là trung tâm của mọi sự phát triển, và việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững Để đạt được mục tiêu này, cần có những chính sách và chiến lược phù hợp nhằm khuyến khích sự sáng tạo và cống hiến của mỗi cá nhân trong xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó năng lực và chất lượng nguồn lực con người là yếu tố quyết định Các bài học từ các quốc gia đi trước cho thấy rằng sự thành bại của công cuộc này gắn liền với việc phát triển nguồn lực con người Do đó, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước hiện nay.
Việc sử dụng lao động tay nghề thấp hiện vẫn chiếm tỷ trọng cao tại nước ta, đáp ứng nhu cầu cơ bản và tạo cơ hội việc làm cho lao động trình độ thấp Tuy nhiên, với yêu cầu phát triển kinh tế và năng suất lao động ngày càng cao, nhu cầu về lao động có kỹ năng sẽ gia tăng Sự thiếu hụt công nhân kỹ thuật đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, và việc duy trì lao động giá rẻ không có trình độ kỹ thuật cao sẽ khó lòng cải thiện năng suất lao động, trở thành “điểm nghẽn cản trở sự phát triển”.
Trong tương lai gần, việc thiếu lao động có kỹ năng cần thiết sẽ trở thành một vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và khả năng cạnh tranh của quốc gia, đồng thời cản trở mục tiêu việc làm đầy đủ và bền vững Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã xác định phát triển nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng là một trong ba đột phá chiến lược Sự phát triển của các yếu tố hiện đại trong sản xuất, nhờ vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa, sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong lực lượng lao động, là tiền đề cho sự phát triển bền vững Để đáp ứng yêu cầu mới về phương thức và kỹ năng lao động, người lao động cần thường xuyên học tập và nâng cao trình độ.
Nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động là yếu tố quan trọng thúc đẩy việc làm có năng suất Điều này bao gồm việc cải thiện học vấn, chuyên môn kỹ thuật, nhân cách đạo đức, năng lực sáng tạo và khả năng thích nghi với những điều kiện lao động mới.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của con người, giúp họ thể hiện năng lực sáng tạo và khẳng định vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội.
Phát triển nguồn lực con người là ưu tiên chiến lược hàng đầu của Đảng và Nhà nước nhằm đạt được thành công trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đảng đã khẳng định vai trò quan trọng của con người trong quá trình này.
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, và nâng cao lợi thế cạnh tranh, góp phần vào sự phát triển kinh tế Việt Nam, với nền tảng kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học công nghệ còn hạn chế, cần đẩy mạnh phát triển lĩnh vực này để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức Việc phát triển khoa học và công nghệ trở thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
Thế kỷ XXI chứng kiến sự bùng nổ của khoa học – công nghệ, đặc biệt là trong phát triển kinh tế Các nước phát triển đã thành công nhờ vào việc ứng dụng tri thức khoa học – công nghệ Việt Nam, trong quá trình phát triển theo định hướng XHCN, đã đạt được nhiều thành tựu trong 15 năm đổi mới, nhưng vẫn còn kém phát triển so với các quốc gia khác Nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với thách thức tụt hậu do xuất phát điểm thấp và môi trường cạnh tranh khốc liệt Sự khác biệt về trình độ công nghệ giữa Việt Nam và các nước phát triển hiện nay lên tới 3-4 thập kỷ, đòi hỏi cần có những giải pháp mạnh mẽ để thu hẹp khoảng cách này.
Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, đặc biệt là từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 nhằm đẩy nhanh đổi mới công nghệ trong sản xuất, mở rộng khu công nghiệp và khu chế xuất, với mục tiêu nâng cao trình độ kỹ thuật công nghiệp của Việt Nam Sự chuyển dịch này hướng tới tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, với mục tiêu đến năm 2010 chỉ còn khoảng 50% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Hội nhập kinh tế toàn cầu là xu thế không thể tránh khỏi, buộc các nước đang phát triển như Việt Nam phải tận dụng thành tựu khoa học công nghệ và tri thức mới để phát triển nhanh chóng Việc phát triển nguồn nhân lực có tri thức, trình độ và tay nghề là yếu tố then chốt cho sự phát triển kinh tế Do đó, khoa học – công nghệ được xem là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa tại Việt Nam Phát triển tri thức khoa học – công nghệ hiện nay là nhiệm vụ cấp thiết, cần gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế xã hội.
Những yếu tố cần thiết của khoa học và công nghệ trong quá trình hội nhập:
Về khoa học xã hội và nhân văn Tập trung nghiên cứu các vấn đề:
Phương hướng và mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bao gồm xây dựng quan hệ sản xuất theo con đường xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội Cần phát triển nền văn hóa tiên tiến gắn liền với bản sắc dân tộc, đồng thời nâng cao vai trò của con người trong thời kỳ công nghệ hoá Đấu tranh chống lại những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và xây dựng nhà nước pháp quyền vì dân Cần làm rõ bản chất và con đường phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, với sự quản lý của nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thiện cơ chế quản lý mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Bài viết của Trần Quốc Tuấn (21/06/2016) trên Infonet đề cập đến những điểm mới trong khoa học công nghệ theo Văn kiện Đại hội XII của Đảng Nó nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời xem xét các vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo, triết học và văn học nghệ thuật, cùng với đặc điểm con người Việt Nam Bài viết cũng tổng kết kinh nghiệm từ các cuộc chiến tranh cứu nước, giữ nước trong lịch sử dân tộc, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển khoa học cũng như nghệ thuật quân sự Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Khoa học tự nhiên tập trung vào nghiên cứu các vấn đề lý thuyết và ứng dụng trong các lĩnh vực mũi nhọn, nhằm đổi mới công nghệ, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường Các ngành ưu tiên bao gồm toán học, công nghệ thông tin, khoa học hệ thống, vật lý chất rắn, quang học, vật lý hạt nhân, cơ học kết cấu, động lực học, hóa học hữu cơ, sinh học nhiệt đới, công nghệ gen, và nghiên cứu địa chất cũng như biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của nền kinh tế Việc chuyển giao và ứng dụng công nghệ tiên tiến giúp các ngành kinh tế chủ chốt, đặc biệt là những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao và sản phẩm xuất khẩu chủ lực, có khả năng thích nghi và làm chủ công nghệ Đồng thời, cần thực hiện đổi mới công nghệ từng phần và hiện đại hóa các khâu sản xuất để nâng cao hiệu quả cho những lĩnh vực còn hạn chế về cơ sở vật chất và kỹ thuật.
Tài nguyên môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững Cần áp dụng các giải pháp khoa học và công nghệ để khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đồng thời phòng chống và giảm thiểu tác hại của thiên tai Việc bảo vệ môi trường sinh thái cũng như ứng dụng công nghệ mới trong điều tra tài nguyên và dự báo khí tượng là cần thiết Ngoài ra, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường, cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển vùng và bố trí hợp lý không gian lãnh thổ, sẽ góp phần bảo vệ đa dạng sinh học và duy trì cân bằng sinh thái.
Trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, tổ chức tiến hành điều tra và nghiên cứu các vấn đề khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ cho việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và đảm bảo an ninh, trật tự xã hội Đồng thời, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, sửa chữa và bảo trì vũ khí, quân trang, quân dụng là rất quan trọng Ngoài ra, nghiên cứu kế hoạch phòng thủ nhằm bảo vệ vững chắc biên giới lãnh thổ của Tổ quốc cũng là một nhiệm vụ thiết yếu.
Đảng ta đã ban hành một số nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ, trong đó có Nghị quyết 37, nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững cho nền kinh tế Việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất và quản lý đã tạo ra những bước tiến đáng kể, đồng thời khẳng định vai trò của khoa học và công nghệ trong quá trình phát triển.
Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như Nghị quyết 26 (khoá VI), Nghị quyết 01 và Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII), nhằm nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước Việc thực hiện các nghị quyết này đã thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống, góp phần quan trọng trong việc thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khoa học xã hội và nhân văn đã đóng góp quan trọng vào việc làm rõ các quan điểm của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời xác định cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng Nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, cũng như văn hóa và phát triển đã được thực hiện sâu sắc hơn Ngoài ra, các di sản lịch sử, văn hóa, văn minh và con người Việt Nam cũng tiếp tục được khám phá với nhiều phát hiện mới, trong khi việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và phát triển lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể.
Nghiên cứu cơ bản và ứng dụng trong KHXH Việt Nam đã tạo ra nhiều công trình giá trị, khám phá lịch sử dân tộc và sự hình thành nhà nước tập quyền Những nghiên cứu này đề cập đến nền văn minh sông Hồng, thời đại vua Hùng, văn hóa Chămpa, Phù Nam và Ốc Eo, cùng với đặc trưng của làng xã và cộng đồng các dân tộc Việt Ngoài ra, các công trình cũng nghiên cứu về folklore, bản sắc văn hóa, tôn giáo, chữ Quốc ngữ, giao lưu văn hóa, cũng như các cuộc cải cách và cách mạng trong lịch sử, chế độ chính trị và sự phế hưng của triều đại phong kiến, cũng như ảnh hưởng của thực dân Pháp và Mỹ đến ý thức dân tộc.
Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương (1/12/2019) đã nêu bật vai trò của khoa học xã hội Việt Nam trong sự phát triển đất nước, nhấn mạnh các vấn đề quan trọng như chủ nghĩa yêu nước, kinh tế Mỹ và cuộc chiến tranh Việt Nam, cũng như các khía cạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ và nghệ thuật kết thúc chiến tranh Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến các cuộc chiến tranh vùng biên giới, con người, văn hóa, và sự phát triển bền vững, cùng với các thách thức như đói nghèo, an sinh xã hội, và công bằng xã hội Những vấn đề như lạm phát, khủng hoảng, và sự nghiệp đổi mới, cũng như những chính sách như “Khoán 10” trong nông nghiệp và công nghiệp hóa, cũng được phân tích để hiểu rõ hơn về kinh tế thị trường và phân bổ nguồn lực, từ đó rút ra bài học từ thành công và thất bại của các quốc gia.
Phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
1.5.1 Phát triển nhanh và bền vững
Phát triển bền vững là quá trình phát triển đồng bộ và hài hòa giữa ba yếu tố chính: phát triển kinh tế thông qua tăng trưởng, phát triển xã hội nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm Bên cạnh đó, việc bảo vệ môi trường cũng rất quan trọng, bao gồm xử lý ô nhiễm, phục hồi chất lượng môi trường, phòng chống cháy rừng, và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và tiết kiệm.
Tăng trưởng kinh tế cần hài hòa với phát triển văn hóa, tiến bộ xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống Đồng thời, phát triển kinh tế - xã hội phải chú trọng bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu Việt Nam có tiềm năng phát triển nhanh, và yêu cầu này đang trở nên cấp thiết Phát triển bền vững là nền tảng cho sự phát triển nhanh, trong khi phát triển nhanh cung cấp nguồn lực cho bền vững Do đó, cần gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nhanh và bền vững trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách kinh tế - xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Để thực hiện điều này, cần phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, từ đó xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đồng thời phát triển văn hóa, giáo dục, y tế và thu hẹp khoảng cách giữa các vùng.
Trong nước, sau 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
Năm 2020, kinh tế vĩ mô đã dần ổn định và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp tăng lên, tuy nhiên, những khó khăn nội tại và ảnh hưởng từ bên ngoài đã tác động nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường Cạnh tranh ngày càng gay gắt, độ mở của nền kinh tế cao nhưng sức chống chịu còn hạn chế, cùng với tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu và các loại dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid-19, đã làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và khả năng hoàn thành mục tiêu kế hoạch 5 năm.
Các vấn đề xã hội như già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo và đô thị hóa đang gây áp lực lớn đến phát triển kinh tế - xã hội Thiên tai, dịch bệnh, và biến đổi khí hậu, đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, có thể kéo dài tác động tiêu cực đến kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 Điều này đòi hỏi phải vượt qua khó khăn và chủ động nắm bắt cơ hội mới trong bối cảnh thay đổi cấu trúc kinh tế thế giới và phương thức sản xuất, kinh doanh Ngoài ra, các thách thức liên quan đến khai thác tài nguyên, sử dụng bền vững nguồn nước, và xử lý ô nhiễm môi trường sẽ ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia cũng gặp nhiều khó khăn, với tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội tại một số khu vực diễn biến phức tạp.
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và thành tựu đáng kể trong phát triển bền vững, với việc ban hành chương trình quốc gia và thành lập Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đứng thứ 69/190 về môi trường kinh doanh và thứ 77/140 về năng lực cạnh tranh theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới Việt Nam cũng nằm trong Top 30% quốc gia dẫn đầu về phát triển bền vững, chỉ sau Thái Lan trong khu vực ASEAN Ngoài ra, quốc gia này đã đạt được những chuyển biến tích cực trong công tác xóa đói giảm nghèo, bảo vệ sức khỏe, giáo dục và tạo việc làm cho người lao động.
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6 năm đạt gần 7% GDP giai đoạn
Từ năm 2006 đến 2011, GDP đạt mức 7,08% vào năm 2018, là kỷ lục cao nhất kể từ năm 2008, với GDP bình quân đầu người đạt 2.587 USD Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ gia tăng, trong khi nông nghiệp giảm An ninh lương thực được đảm bảo, và những thành tựu kinh tế này đã góp phần vào phát triển bền vững các lĩnh vực khác Tuy nhiên, giai đoạn 2011 - 2015 chứng kiến sự phục hồi kinh tế chậm, với tăng trưởng chỉ đạt 5,82%, thấp hơn các giai đoạn trước và chất lượng tăng trưởng chưa cao Đóng góp của năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng vẫn còn hạn chế, cùng với hệ số sử dụng vốn (ICOR) không đạt yêu cầu.
Năng lực cạnh tranh quốc gia vẫn chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt trong các lĩnh vực thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.
Công tác xoá đói giảm nghèo, bảo vệ sức khỏe, giáo dục và tạo việc làm cho người lao động tại xã hội đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ An sinh xã hội được chú trọng, góp phần đảm bảo ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh, từ 12% xuống mức thấp hơn, thể hiện nỗ lực trong công tác cải thiện đời sống cộng đồng.
1 Bùi Thu Hà, (25/05/2020), https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/nckh/ctnc/ nckhctnc_chitiet?dDocName=MOFUCM177204&dID5112&_afrLoopc33227869429852#
%3DMOFUCM177204%26_adf.ctrl-state%3Daeq29nf9l_4
Sự nghiệp giáo dục đã có những bước tiến đáng kể với ngân sách nhà nước dành cho giáo dục và đào tạo đạt 20% tổng chi ngân sách Đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã hoàn thành tiêu chuẩn giáo dục trung học cơ sở Bên cạnh đó, việc giải quyết việc làm cũng đạt kết quả tích cực trong 6 năm từ 2006.
Từ năm 2011, Việt Nam đã tạo việc làm cho hơn 9 triệu lao động, với 1,5 triệu việc làm mới vào năm 2012 và 1,64 triệu vào năm 2018 Tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc năm 2018 là 2,0%, trong đó thành thị là 2,95% và nông thôn là 1,55% Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 5,35% Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt 0,694 vào năm 2017, đứng thứ 116/189 quốc gia và nằm trong nhóm có tốc độ tăng HDI cao Việt Nam đã hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) của Liên hợp quốc cho các nước đang phát triển.
Việt Nam đã tăng cường nỗ lực bảo vệ môi trường, với các chính sách hợp lý và giải pháp quyết liệt nhằm bảo vệ tài nguyên và chống ô nhiễm không khí, nguồn nước Sự đồng thuận và tham gia của các địa phương, ngành và cộng đồng dân cư đã góp phần quan trọng vào công tác này Bên cạnh đó, chỉ số bình đẳng giới của Việt Nam cũng đạt mức cao so với các quốc gia có cùng trình độ phát triển và thu nhập, trong khi chỉ số HDI tiếp tục được cải thiện qua từng năm.
Hệ thống chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) đã được xây dựng một cách đầy đủ và toàn diện, với các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương ngày càng được kiện toàn và hoạt động ổn định Kinh phí cho công tác BVMT cũng đã được tăng cường, dẫn đến nhiều kết quả tích cực trong phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm và bảo tồn đa dạng sinh học Việc lồng ghép các vấn đề môi trường từ giai đoạn lập chiến lược, quy hoạch đến chuẩn bị đầu tư các dự án đã góp phần quan trọng trong việc hạn chế và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Trong bài viết của PGS., TS Phạm Thị Thanh Bình, "Phát triển bền vững ở Việt Nam: Tiêu chí đánh giá và định hướng phát triển đến năm 2030", những thành tựu kinh tế đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục và chăm sóc sức khoẻ, đồng thời hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ Các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đã từng bước gắn kết với bảo vệ môi trường thông qua việc xây dựng các chính sách, tổ chức quản lý và hợp tác quốc tế Việc lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững vào các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã khẳng định sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam đến năm 2030.
Những vấn đề cần giải quyết để hướng đến phát triển nhanh và bền vững:
Quá trình phát triển kinh tế tại Việt Nam đang đối mặt với mâu thuẫn giữa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, ảnh hưởng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường Theo các tổ chức đánh giá, sự phát triển của Việt Nam hiện vẫn thiếu tính bền vững, với nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Cụ thể, trong năm 2018, FDI đã chiếm 25% GDP và 75% giá trị xuất khẩu, chủ yếu tập trung vào gia công mà không có nhiều sản phẩm thể hiện sự chuyển giao công nghệ.