1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của quyền sử dụng đất nông nghiệp lên hiệu quả sản xuất nông nghiệp việt nam tiếp cận bằng các mô hình toán kinh tế

149 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Quyền Sử Dụng Đất Nông Nghiệp Lên Hiệu Quả Sản Xuất Nông Nghiệp Việt Nam - Tiếp Cận Bằng Các Mô Hình Toán Kinh Tế
Người hướng dẫn PGS TS
Trường học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên ngành Khoa Toán Kinh tế
Thể loại luận án
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 149
Dung lượng 1,36 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 10 (18)
  • Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36 (44)
  • Chương 3 THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012 - 2018 53 (61)
  • Chương 4 TÁC ĐỘNG CỦA QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 71 (79)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 10

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Đất nông nghiệp là loại đất do Nhà nước giao cho người dân để phục vụ sản xuất nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và trồng rừng Đây là yếu tố đầu vào chủ yếu và không thể thay thế trong ngành nông nghiệp Theo Điều 10 Luật Đất đai 2013, đất nông nghiệp được phân loại dựa trên mục đích sử dụng, bao gồm: đất trồng cây hàng năm (như đất trồng lúa và cây hàng năm khác), đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và các loại đất nông nghiệp khác.

Luận án này tập trung vào hiệu quả sản xuất trên đất trồng cây hàng năm, cho phép người nông dân linh hoạt thay đổi phương thức canh tác và lựa chọn loại cây trồng mỗi năm.

1 1 2 Quyền sử dụng đất nông nghiệp

Quyền sở hữu đất là hệ thống các quyền và thể chế điều chỉnh việc tiếp cận và sử dụng đất đai cùng tài nguyên khác, bao gồm quyền sử dụng, quyền kiểm soát và quyền chuyển nhượng đất Mức độ an toàn của quyền sử dụng đất thể hiện sự chắc chắn rằng quyền lợi của cá nhân sẽ được công nhận và bảo vệ trong các tình huống cụ thể Tại Việt Nam, theo Hiến pháp, đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và quản lý thống nhất Các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, và quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.

Theo Luật Đất đai 2013, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đại diện cho toàn dân trong việc quản lý và thực hiện quyền sử dụng đất Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất cho người đang sử dụng đất lần đầu đối với thửa đất xác định.

Quyền sử dụng đất được xác định qua các đặc điểm quan trọng như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, đi kèm với các ràng buộc về thời hạn và điều kiện sử dụng Ngoài ra, quyền này còn liên quan đến các điều kiện cho, tặng, mượn và trao đổi quyền sử dụng đất.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, gọi tắt là quyền sử dụng đất, được ủy ban nhân dân cấp huyện cấp cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư Theo luật đất đai năm 2003, thời hạn giao đất và công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp dành cho hộ gia đình và cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được quy định rõ ràng.

Luật sửa đổi năm 2013 quy định thời hạn giao đất là 50 năm, sau đó hộ gia đình và cá nhân sản xuất nông nghiệp có thể tiếp tục sử dụng đất nếu có nhu cầu Quyền sử dụng đất bao gồm quyền canh tác, hưởng thành quả lao động, và các quyền chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, và góp vốn theo quy định Nghiên cứu trong luận án tập trung vào quyền sử dụng đất của các nông hộ, dựa trên việc xác định có hoặc không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò sản xuất vật chất cơ bản cho xã hội Ngành này bao gồm các hoạt động sản xuất liên quan đến đất đai nhằm tạo ra lương thực và thực phẩm phục vụ tiêu dùng Với quy mô lớn, nông nghiệp bao gồm nhiều chuyên ngành như trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông sản, đồng thời còn mở rộng ra lâm nghiệp và thủy sản.

Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam chủ yếu diễn ra dưới hình thức hộ gia đình, với khoảng 9,53 triệu hộ và 60 triệu người tham gia, chiếm khoảng 68,2% dân số Đây là mô hình kinh tế quy mô nhỏ, sử dụng lao động chủ yếu từ các thành viên trong gia đình, trong đó phần lớn là lao động ít kỹ năng.

Luận án quan tâm đến sản xuất nông nghiệp hộ gia đình và trong lĩnh vực trồng trọt

1 1 4 Hiệu quả sản xuất nông nghiệp

Hiệu quả sản xuất là khái niệm quan trọng trong quá trình sản xuất, thể hiện sự tiến bộ trong việc chuyển đổi đầu vào thành giá trị và sản phẩm đầu ra Đây là một khái niệm rộng, dẫn đến nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng chung quy lại, hiệu quả sản xuất phản ánh thành công của nhà sản xuất trong việc phân bổ đầu vào và đầu ra để đạt được mục tiêu cụ thể Đối với nông hộ, mục tiêu chính là lợi nhuận, do đó, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thường được đo bằng lợi nhuận mà họ tạo ra (Ali và Flin, 1989).

Quá trình sản xuất nông nghiệp, giống như các ngành sản xuất khác, bị giới hạn bởi các nguồn lực đầu vào như đất đai, lao động và vốn cho chi phí trung gian Hiệu quả sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào sự tiến bộ trong lĩnh vực này, được thể hiện qua việc tối đa hóa đầu ra hoặc tối thiểu hóa đầu vào.

Hiệu quả sản xuất của nông hộ được xác định thông qua nhiều khía cạnh khác nhau trong quá trình sản xuất, bao gồm hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và hiệu quả theo quy mô, như đã được nghiên cứu bởi Farrell (1957) dựa trên các lý thuyết của Debreu (1951) và Koopmans (1951).

Hiệu quả kỹ thuật (TE) là khả năng của nông hộ trong việc tối đa hóa sản lượng từ một tập hợp các yếu tố đầu vào nhất định hoặc sử dụng tối thiểu đầu vào để sản xuất ra một lượng đầu ra nhất định Nó phản ánh khía cạnh kỹ thuật trong sản xuất và cho thấy khả năng của nông hộ trong việc giảm thiểu lãng phí nguồn lực sản xuất Do đó, hiệu quả kỹ thuật là một chỉ số quan trọng về sự tiến bộ trong phương thức sản xuất của nông hộ.

Theo định nghĩa của (1951, p 60), một nhà sản xuất được coi là hiệu quả về mặt kỹ thuật khi việc gia tăng bất kỳ đầu ra nào yêu cầu phải giảm ít nhất một đầu ra khác hoặc tăng ít nhất một đầu vào Ngược lại, nếu nhà sản xuất muốn giảm bất kỳ đầu vào nào, họ sẽ phải tăng ít nhất một đầu vào khác hoặc giảm ít nhất một đầu ra.

Hiệu quả phân bổ (AE) đo lường thành công của nông hộ trong việc tối đa hóa sản lượng thông qua việc phân bổ hợp lý chi phí cho các đầu vào đã biết Nó thể hiện khả năng của hộ nông dân trong việc giảm thiểu lãng phí và tối ưu hóa sử dụng các nguồn lực sản xuất.

Sự kết hợp giữa hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân bổ được gọi là hiệu quả tổng thể hay hiệu quả kinh tế (EE) của hộ

Ngày đăng: 29/07/2022, 19:06

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w