1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam

113 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Kiểm Soát Rủi Ro Trong Thu Hút Đầu Tư Nước Ngoài Để Phát Triển Bền Vững Môi Trường Đầu Tư Tại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nga
Người hướng dẫn PGS TS Phan Thị Bích Nguyệt
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2007
Thành phố Tp.HCM
Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 1,01 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Tổng quan về môi trường đầu tư (9)
    • 1.1.1. Khái niệm môi trường đầu tư (9)
    • 1.1.2. Phát triển bền vững môi trường đầu tư và sự cần thiết phải phát triển bền vững môi trường đầu tư (10)
      • 1.1.2.1 Phát triển bền vững (10)
      • 1.1.2.2. Sự cần thiết phát triển bền vững môi trường đầu tư (11)
  • 1.2. Kiểm soát rủi ro trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư (14)
    • 1.2.1. Đầu tư nước ngoài, tác động của đầu tư nước ngoài (0)
      • 1.2.1.1. Đầu tư nước ngoài (0)
      • 1.2.1.2. Các hình thức đầu tư nước ngoài (14)
    • 1.2.2. Kiểm soát rủi ro trong thu hút ĐTNN để phát triển bền vững môi trường đầu tư (19)
  • 1.3. Kinh nghiệm thu hút và kiểm soát rủi ro đầu tư nước ngoài của một số nước (21)
    • 1.3.1. Trung Quốc (21)
    • 1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc (22)
  • Chương 2: Thực trạng về đầu tư và kiểm soát môi trường đầu tư tại Việt Nam (0)
    • 2.1. Tổng quan về kinh tế Việt Nam và tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (25)
      • 2.1.1. Kinh tế Việt Nam (0)
        • 2.1.1.1. Những thành tựu (25)
        • 2.1.1.2. Những khó khăn (26)
      • 2.1.2. Tình hình thu hút ĐTNN tại Việt Nam (26)
        • 2.1.2.1. Đầu tư trực tiếp (26)
        • 2.1.2.2. Đầu tư gián tiếp (FPI) (31)
        • 2.1.2.3. Tác động tích cực và tiêu cực của ĐTGT (36)
      • 2.1.3. Những yếu tố tác động đến môi trường ĐTNN tại Việt Nam (43)
        • 2.1.3.1. Tốc độ tăng trưởng GDP (43)
        • 2.1.3.2. Chính sách tài khóa (44)
        • 2.1.3.3. Chính sách tiền tệ (47)
        • 2.1.3.4. Điều hành lãi suất (48)
        • 2.1.3.5. Dự trữ bắt buộc (49)
        • 2.1.3.6. Chính sách tỷ giá (51)
        • 2.1.3.7. Nợ nước ngoài (52)
        • 2.1.3.8. Cơ cấu nợ vay nước ngoài (54)
        • 2.1.3.9. Những rủi ro từ các khoản nợ tăng thêm (55)
    • 2.2. Hoạt động của các định chế tài chính trung gian (62)
      • 2.2.1. Hoạt động của hệ thống ngân hàng (62)
      • 2.2.2. Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư tại Việt Nam (64)
      • 2.2.3. Chỉ số ICOR (0)
      • 2.2.4. Năng lực cạnh tranh (66)
      • 2.2.5. Chính sách thuế (67)
    • 2.3. Về chính trị - pháp luật (68)
      • 2.3.1. Mức độ ổn định chính trị (68)
      • 2.3.2. Tham nhũng (0)
      • 2.3.3. Quản lý nhà nước chưa theo kịp yêu cầu phát triển, thủ tục hành chính còn rườm rà (0)
      • 2.3.4. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thiếu cụ thể và khó có thể dự đoán trước được (70)
      • 2.3.5. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng cao (71)
      • 2.3.6. Chất lượng nguồn nhân lực thấp và chậm được cải thiện (72)
      • 2.3.7. Việt Nam có thể là mục tiêu của hoạt động rửa tiền (73)
      • 2.3.8. Tốc độ cải cách cấp phép xây dựng và phá sản doanh nghiệp còn chậm (74)
      • 2.3.9. Ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng (74)
      • 2.3.10. Một bộ phận thiếu trung thực vi phạm pháp luật (77)
    • 2.4. Thực trạng kiểm soát rủi ro trong thu hút ĐTNN tại Việt Nam (78)
  • Chương 3: Giải pháp kiểm soát rủi ro trong thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn để phát triển bền vững (0)
    • 3.1. Quan điểm kiểm soát rủi ro trong thu hút đầu tư nước ngoài (85)
    • 3.2. Những biện pháp cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn ĐTNN (91)
    • 3.3. Giải pháp kiểm soát rủi ro trong thu hút ĐTNN nhằm phát triển môi trường đầu tư bền vững (92)
      • 3.3.1. Sở hữu và bảo đảm đầu tư (0)
      • 3.3.2. Lĩnh vực và định hướng thu hút đầu tư (0)
      • 3.3.3. Khuyến khích tài chính (95)
      • 3.3.4. Quản lý ngoại hối (96)
      • 3.3.5. Phê duyệt và quản lý dự án đầu tư (97)
      • 3.3.6. Các chính sách khác (98)
    • 3.4. Những giải pháp thu hút vốn ĐTNN (100)
      • 3.4.1. Những giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp (0)
      • 3.4.2. Những giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả ODA vào Việt Nam (102)
  • Kết luận (24)
  • Phụ lục (109)
  • Tài liệu tham khảo (108)

Nội dung

Tổng quan về môi trường đầu tư

Khái niệm môi trường đầu tư

Trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư thường so sánh mức độ hấp dẫn và rủi ro của môi trường đầu tư quốc tế với chiến lược phát triển trong nước Họ chỉ quyết định đầu tư ra nước ngoài khi nhận thấy hiệu quả cao hơn so với đầu tư trong nước Do đó, việc hiểu rõ các yếu tố của môi trường kinh doanh tại nước đầu tư và tác động của chúng là rất quan trọng để thúc đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài.

Môi trường đầu tư được định nghĩa là tập hợp các yếu tố đặc thù địa phương, góp phần hình thành cơ hội và động lực cho doanh nghiệp Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp đầu tư hiệu quả mà còn tạo ra việc làm và thúc đẩy sự mở rộng sản xuất.

Môi trường kinh doanh tại nước đầu tư bao gồm nhiều yếu tố như chính trị, chính sách pháp luật, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế và đặc điểm văn hóa – xã hội Mỗi yếu tố này có mức độ hấp dẫn khác nhau, tạo ra cơ hội hoặc rủi ro cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trong nước hay ra nước ngoài Ngoài các yếu tố thuận lợi trong nước, quyết định đầu tư ra nước ngoài còn bị ảnh hưởng bởi biến động chính sách kinh tế vĩ mô, các hoạt động khuyến khích đầu tư của chính phủ và tiềm lực kinh tế – khoa học công nghệ của quốc gia đó.

Hiện nay, môi trường đầu tư đã mở rộng ra toàn cầu, không còn giới hạn trong một quốc gia, đòi hỏi sự thiết lập “Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người” theo các quy tắc quốc tế Điều này có nghĩa là cần xóa bỏ sự phân biệt giữa doanh nghiệp lớn và nhỏ, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, đặc biệt là người nghèo Chính phủ cần cải cách chính sách để tạo ra một môi trường đầu tư ít rủi ro, chi phí cơ hội thấp và ít cản trở cho các nhà đầu tư Các quốc gia đang nỗ lực tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, thường xuyên điều chỉnh chính sách để thu hút đầu tư nước ngoài Thực tế cho thấy, quốc gia nào có môi trường đầu tư ổn định và hấp dẫn sẽ thu hút nhiều vốn đầu tư quốc tế hơn, và do đó, các quốc gia đang cạnh tranh để cải thiện môi trường đầu tư của mình ngày càng bền vững hơn.

Phát triển bền vững môi trường đầu tư và sự cần thiết phải phát triển bền vững môi trường đầu tư

Phát triển bền vững, theo định nghĩa của Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro, là quá trình phát triển đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Như vậy khi nói đến phát triển bền vững người ta thường tập trung vào

Ba nội dung trụ cột bao gồm tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Tuy nhiên, trong bối cảnh thu hút đầu tư, vấn đề bảo vệ môi trường thường bị xem nhẹ, khi mà các nhà đầu tư và các quốc gia tiếp nhận đầu tư chủ yếu tập trung vào tăng trưởng kinh tế Hệ quả là tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, dẫn đến sự hủy hoại môi trường sinh thái Nếu tình trạng này tiếp diễn, các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên sẽ bị sụp đổ, và con người sẽ phải đối mặt với những thảm họa như hạn hán, lũ lụt và động đất Những hậu quả này đang ngày càng nghiêm trọng trên toàn cầu, vì vậy cần chú trọng phát triển bền vững trong môi trường đầu tư.

1.1.2.2 Sự cần thiết phát triển bền vững môi trường đầu tư

Phát triển bền vững môi trường đầu tư là yếu tố quan trọng thúc đẩy hiệu quả đầu tư, tạo cơ hội cho doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn, đồng thời tạo ra việc làm và giảm ô nhiễm môi trường Môi trường đầu tư bền vững không chỉ mở rộng đa dạng hàng hóa và dịch vụ mà còn giúp giảm giá thành, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững, chúng ta cần chú ý đến các vấn đề liên quan đến môi trường đầu tư.

1.1.2.2.1 Chính sách của chính phủ

Chính sách của chính phủ đóng vai trò chủ chốt trong việc định hình môi trường đầu tư cho xã hội bao gồm 4 điểm chính như sau :

- Môi trường đầu tư hấp dẫn cho nhà đầu tư

- Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư không chỉ dừng lại ở việc giảm chi phí kinh doanh

- Cần có nhiều chính sách thu hút đầu tư

- Đánh giá lại các chiến lược, phát triển tiến hành một chương trình cải cách toàn diện

Để đạt được sự tiến bộ và phát triển, một quốc gia cần giải quyết các trở ngại quan trọng, tạo niềm tin cho doanh nghiệp trong việc đầu tư và duy trì quá trình đầu tư Bên cạnh việc xem xét các chính sách, cần chú trọng đến phát triển bền vững môi trường đầu tư với các yếu tố trọng yếu liên quan.

1.1.2.2.2 Sự ổn định , an ninh và an toàn tài chính quốc gia

- Xây dựng một định hướng, chiến lược ổn định và lâu dài, tránh những thay đổi lớn đột biến trong định hướng , làm hoang mang các nhà đầu tư

- Giám sát hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhất là nguồn vốn từ nươc ngoài

Để nâng cao hiệu quả đầu tư, cần hoàn thiện các chính sách tài chính bằng cách xây dựng một hệ thống văn bản pháp quy đầy đủ, cùng với các phương pháp kiểm tra và giám sát tài chính chặt chẽ, đặc biệt là đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.

- Hệ thống chính sách tài chính cần bao quát tình hình hoạt động của doanh nghịệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài

- Quản lý nhà nước về ngoại hối, vay nợ nứơc ngoài đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

- Chính sách quản lý và giám sát các tác động tích cực của nhà đầu tư nứơc ngoài về bảo vệ môi trường và biện pháp xử lý

Điều tiết đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao phúc lợi xã hội và cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt khi nó xử lý hiệu quả những tổn thất do thất bại thị trường gây ra.

1.1.2.2.3 Thuế và môi trường đầu tư

Chính phủ áp đặt thuế dẫn đến nhiều người đóng thuế phàn nàn, trong đó có các doanh nghiệp đầu tư trong và ngoài nước tại các nước đang phát triển Họ cho rằng thuế suất cao là rào cản chính cho hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến động cơ đầu tư hiệu quả Điều này làm yếu đi mối quan hệ giữa nỗ lực và kết quả, đồng thời tăng chi phí đầu vào trong sản xuất Cả thuế suất và chi phí hành chính đều có vai trò quan trọng, và khi thuế được áp dụng không công bằng, nó có thể làm méo mó cạnh tranh trên thị trường.

1.1.2.2.4 Các rào cản điều tiết đối với đầu tư nước ngoài

Nhằm giảm bớt các rào cản, những qui định phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nứơc ngoài thường có một trong 3 mục tiêu :

Để thu hút FDI và đồng thời tăng cường tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước, cần thiết phải áp dụng những quy định yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài tham gia liên doanh với doanh nghiệp nội địa hoặc đáp ứng các tiêu chí khác.

Các quy định nhằm hạn chế hoặc tăng cường sự tham gia của nước ngoài trong các lĩnh vực được coi là nhạy cảm, như cơ sở hạ tầng và truyền thông, đang được chú trọng.

Để kiểm soát tác động không ổn định từ các luồng vốn ngắn hạn lớn, cần chú trọng vào cơ cấu đầu tư ngắn hạn thay vì chỉ tập trung vào FDI.

1.1.2.2.5 Tài chính và cơ sở hạ tầng

Khi hoạt động hiệu quả, các thị trường tài chính kết nối doanh nghiệp với người cho vay và nhà đầu tư, giúp họ tài trợ cho các dự án và chia sẻ rủi ro Cơ sở hạ tầng tốt cũng hỗ trợ kết nối với khách hàng và nhà cung cấp, đồng thời thúc đẩy việc áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại Ngược lại, thiếu tài chính và cơ sở hạ tầng tạo ra rào cản cơ hội, làm tăng chi phí cho doanh nhân nhỏ ở nông thôn và các công ty đa quốc gia.

Kiểm soát rủi ro trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư

Kiểm soát rủi ro trong thu hút ĐTNN để phát triển bền vững môi trường đầu tư

Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) mang lại cả tác động tích cực và tiêu cực, vì vậy việc phát triển một môi trường đầu tư bền vững là rất quan trọng Để đạt được điều này, cần phát huy các lợi ích của ĐTNN và hạn chế những tác hại của nó Kiểm soát môi trường đầu tư là yếu tố then chốt, giúp tạo ra một môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua các chính sách thiết thực Việc kiểm soát rủi ro trong thu hút vốn ĐTNN là cần thiết, nhằm giảm thiểu các rủi ro và khuyến khích đầu tư thay vì cản trở nó Nếu sử dụng vốn đầu tư trực tiếp không đúng cách, có thể gây ra tác hại cho môi trường, trong khi việc kiểm soát dòng vốn đầu tư gián tiếp không hiệu quả có thể dẫn đến tình trạng đảo ngược dòng vốn Quan trọng hơn, thu hút vốn ĐTNN cần phải hướng tới phát triển kinh tế mà không gây tổn hại đến môi trường sinh thái Do đó, việc kiểm soát hoạt động thu hút ĐTNN là rất cần thiết.

- Kiểm soát an toàn tài chính quốc gia

- Kiểm soát việc thực hiện các chính sách có liên quan đến ĐTNN

- Kiểm soát những tác động của ĐTNN nhằm đưa ra những chính sách cho phù hợp

Xu thế hiện nay là các quốc gia đều hướng tới tăng trưởng kinh tế cao nhằm tạo ra sự phồn vinh Tuy nhiên, một nghịch lý đang diễn ra là sự giảm nghèo lại đi kèm với việc phá hoại môi trường Do đó, khi thúc đẩy thu hút vốn đầu tư để gia tăng tăng trưởng kinh tế, cần có giải pháp kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo vệ cân bằng sinh thái, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Một môi trường đầu tư bền vững là yếu tố quan trọng, không chỉ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài mà còn mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư trong nước và toàn cộng đồng Việc xây dựng một môi trường như vậy sẽ tạo ra sự phát triển kinh tế lâu dài và bền vững cho tất cả các bên liên quan.

Kinh nghiệm thu hút và kiểm soát rủi ro đầu tư nước ngoài của một số nước

Trung Quốc

Trung Quốc, với diện tích rộng lớn và dân số đông, đã triển khai các chính sách ưu đãi cho đầu tư nước ngoài nhằm cải thiện sức cạnh tranh của môi trường đầu tư quốc tế Kể từ năm 2002, Trung Quốc dẫn đầu khu vực Châu Á và toàn cầu về tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với gần 50 tỷ USD vào năm 2002 và gần 60 tỷ USD vào năm 2005 Từ năm 1979 đến 2004, chính phủ Trung Quốc đã cấp phép cho hơn 414.000 dự án đầu tư với tổng vốn lên tới 817 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 435 tỷ USD Nhờ những nỗ lực này, Trung Quốc đã nhanh chóng vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế, vượt qua Pháp vào cuối năm 2005 để trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới.

* Bài học rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm thu hút và kiểm soát ĐTNN cuûa TQ :

- Chú ý phát triển cơ sở hạ tầng theo kịp với tốc độ phát triển kinh tế quốc gia và tốc độ thu hút ĐTNN

Để tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, cần thường xuyên rà soát và hoàn thiện các luật và văn bản pháp quy hiện hành Đồng thời, cần nhanh chóng bãi bỏ những quy định và chính sách cản trở sự tham gia của các nhà đầu tư.

Chính sách mở cửa đối với thị trường nội địa sẽ được thực hiện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là thương mại, dịch vụ và tài chính, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cạnh tranh và củng cố lòng tin của nhà đầu tư.

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước, cần xây dựng một môi trường tài chính lành mạnh và ổn định đồng thời bảo vệ giá trị nội tệ Điều này sẽ tạo ra một môi trường đầu tư vững chắc, giúp các nhà đầu tư yên tâm hoạt động lâu dài.

Để thu hút đầu tư, cần xây dựng chính sách ưu đãi thông qua việc giảm thuế, xác định khung giá thuê đất hợp lý và hỗ trợ nhà đầu tư trong quá trình giải phóng mặt bằng cũng như xây dựng hạ tầng cho dự án.

- Xây dựng chính sách vận động hợp lý nhằm huy động tối đa nguồn lực củaViệt Kiều đầu tư về nứơc

Việt Nam đã triển khai chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ sự phát triển của thị trường chứng khoán, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu với tỷ lệ giới hạn nhất định Cụ thể, sau khi gia nhập WTO, các công ty nước ngoài có thể góp vốn tối đa 49% vào các công ty chứng khoán trong nước.

- Chú ý không để lệ thuộc vào các công ty lớn của nứơc ngoài

- Đặc biệt thu hút đầu tư nhưng phải gia tăng bảo vệ môi trường

Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Hàn Quốc, một quốc gia nghèo tài nguyên với đất đai hạn chế và dân số đông đúc, đã trải qua sự chuyển mình mạnh mẽ từ cuối những năm 1950 đến đầu những năm 1960 trong bối cảnh nghèo đói và dự trữ quốc gia thấp Từ thập kỷ 1980, nền kinh tế Hàn Quốc đã có những bước tiến vượt bậc Trong giai đoạn 1960-1970, Hàn Quốc không thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài do mong muốn tự chủ và hạn chế phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, vào đầu thập kỷ 80, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp để thu hút đầu tư nước ngoài, giúp đất nước này trở thành một trong những "con rồng" của châu Á với nền kinh tế tăng trưởng cao.

* Qua kinh nghiệm thu hút ĐTNN của Hàn Quốc,Việt Nam rút ra bài học sau

- Co ùchế độ cho phép các nhà ĐTNN thẩm định dự án của mình

Miễn giảm thuế sẽ được áp dụng cho các hạng mục đầu tư có khả năng cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, sử dụng công nghệ tiên tiến và yêu cầu vốn đầu tư lớn.

- Khuyến khích doanh nghiệp tăng cường sử dụng nguyên liệu nội địa, tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và đa dạng hoá sản phẩm xuất khaồu

Tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các ngành sản xuất hàng xuất khẩu trên thị trường nội địa sẽ kích thích tính độc lập và khả năng vươn lên của doanh nghiệp trong nước.

- Kích thích nhà ĐTNN đưa tiến bộ kỹ thuật vào nội địa thông qua những hợp đồng phát minh, sáng chế, chuyển giao công nghệ

Để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp trong khu chế xuất và doanh nghiệp nội địa, cần áp dụng các chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư có liên kết sản xuất - kinh doanh với doanh nghiệp nội địa Việc điều chỉnh chính sách ưu đãi về thuế, đơn giản hóa thủ tục cấp giấy phép, điều chỉnh Luật Lao động và giải quyết tình trạng bãi công thường xuyên sẽ giúp thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Kiểm soát rủi ro trong thu hút đầu tư nước ngoài là yếu tố thiết yếu cho sự phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam, đặc biệt sau quá trình hội nhập Việc giảm thiểu rủi ro trong thu hút đầu tư nước ngoài là cần thiết để duy trì thành quả và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư Cần thiết lập một cơ chế vững chắc nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro thông qua việc xây dựng hệ thống giám sát các nguồn vốn đầu tư, bao gồm các yếu tố như bất ổn tiềm ẩn, cán cân thanh toán, chính sách lãi suất, ngoại hối, tài khóa, và nợ vay của chính phủ Đồng thời, cần tăng cường tính minh bạch trong đầu tư để ngăn chặn thất thoát nguồn vốn Kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy vai trò lãnh đạo quyết đoán của Chính phủ cùng với thông tin đầy đủ về rủi ro là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài thành công.

Thực trạng về đầu tư và kiểm soát môi trường đầu tư tại Việt Nam

Tổng quan về kinh tế Việt Nam và tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP năm 2006 sẽ vượt mức trong năm thứ hai liên tiếp, nhờ vào sự tăng trưởng ổn định của đầu tư trong nước và xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến Cán cân thương mại và tài khoản vãng lai sẽ đạt thặng dư, trong khi dự trữ ngoại hối cũng đã tăng đáng kể trong năm.

Năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù còn nhỏ nhưng đã có sự tăng trưởng đáng kể, đạt gần 8% GDP Lạm phát được kiềm chế ở mức khoảng 7%, nhưng sức ép giá vẫn tồn tại Tốc độ tăng tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh giảm do yêu cầu đảm bảo an toàn cao hơn Đầu tư nước ngoài gia tăng sau khi Việt Nam gia nhập WTO Trong 9 tháng đầu năm, GDP tăng 7,8%, đặc biệt ngành công nghiệp chế biến có mức tăng trưởng 12,1% Thị trường chứng khoán ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ, với chỉ số giá chứng khoán tăng hơn 100% từ tháng 12/2005 và số lượng công ty niêm yết tăng từ 36 lên 75 vào cuối tháng 11/2006.

Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải đối mặt với áp lực tự do hóa thương mại, điều này không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu hơn Để duy trì và nâng cao thành quả, chính phủ cần phát triển các cơ chế hỗ trợ và thực hiện các thay đổi chính sách phù hợp nhằm ứng phó với những thách thức mới sau khi gia nhập WTO.

2.1.2 Tình hình thu hút ĐTNN tại Việt Nam

Năm 2006, Việt Nam thu hút được khoảng 6,5 tỷ USD vốn FDI, đạt 32% kế hoạch đầu năm và là mức cao nhất từ trước đến nay, vượt qua kỷ lục 8,6 tỷ USD vào năm 1996 Vốn FDI thực hiện cũng đạt khoảng 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm trước, đánh dấu mức cao nhất trong lịch sử Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng dẫn đầu về số lượng dự án, chiếm 67,5% tổng số dự án và hơn 62% tổng vốn đầu tư, tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ và nông – lâm – ngư – nghiệp Doanh thu của khu vực doanh nghiệp FDI ước đạt 29,4 tỷ USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ, trong đó doanh thu từ dầu thô ước đạt 22,6 tỷ USD, chiếm hơn 57% giá trị xuất khẩu toàn quốc.

Năm 2006, sản xuất công nghiệp của khu vực FDI đạt mức tăng trưởng 19,5%, vượt qua mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp cả nước Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và khu chế xuất ước đạt 14 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2005 Tỷ trọng FDI trong số dự án cũng ghi nhận sự gia tăng đáng kể.

Khách sạn du lòch 0,39 tyû Dũch vuù 0,318 tyỷ

Trong năm 2006, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đóng góp 12,6 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước, tăng 17,3% so với năm 2005, đồng thời tạo ra hơn 1,12 triệu việc làm trực tiếp Hiện tại, cả nước có 6.813 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký vượt qua 60 tỷ USD.

Bảng 2 1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam( giai đoạn 1997 – 2006 )

Năm Dự án Vốn đăng ký

( Triệu USD ) Vốn thực hiện

( Trieọu USD ) Voỏn bỡnh quaõn 1

Nguồn : Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư , Tổng Cục Thống Kê 2006

Từ năm 2005 đến 2006, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có sự gia tăng đáng kể, từ 5.853 triệu USD lên 10.201 triệu USD Sự tăng trưởng này cho thấy tiềm năng hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.

Trong quý I năm 2007, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu 5,865 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước Hơn 9.000 lao động mới đã được thu hút vào các doanh nghiệp này, nâng tổng số lao động trực tiếp lên 1,154 triệu người, tăng 11% Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho thấy tiềm năng tăng trưởng bền vững của nền kinh tế Việt Nam.

Tuy ĐTTTNN có những tác động tích cực nhưng cũng có những tác động tiêu cực như sau :

* Tác động tích cực của đầu trực tiếp nứơc ngoài tại Việt Nam thời gian qua

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đóng góp quan trọng vào việc đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội của Việt Nam Trong đó, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng dẫn đầu với 67,5% tổng số dự án và chiếm hơn 62% tổng vốn đầu tư.

Nguồn vốn FDI đã đóng góp quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, với hơn 1,6 tỷ USD được đầu tư vào 146 dự án công nghiệp nặng, nhẹ và thực phẩm Sự hiện diện của các doanh nghiệp nước ngoài đã thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ hiện đại như điện tử, tin học, viễn thông, cũng như lắp ráp ô tô và xe máy, qua đó góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao kỹ năng quản lý.

- FDI đã đóng góp vào việc phát triển công nghệ Nhờ các dự án ĐTNN mà trình độ công nghệ của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã nâng cao tính cạnh tranh của thị trường Việt Nam, với phần lớn hàng hóa từ các doanh nghiệp FDI được sản xuất để xuất khẩu Điều này đã góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa có nguồn gốc sản xuất tại Việt Nam.

- Vốn ĐTTT đã tác động làm gia tăng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu, chiếm trên 57% giá trị xuất khẩu của cả nứơc

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập và giảm nghèo Tính đến cuối năm 2006, khu vực FDI đã tạo ra 1,12 triệu việc làm trực tiếp, chưa kể đến lao động gián tiếp Hơn nữa, người lao động trong khu vực FDI có cơ hội nâng cao tay nghề và trình độ quản lý, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường nguồn thu ngân sách cho cả địa phương và trung ương, từ đó tạo ra nguồn vốn cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội Hàng năm, khu vực FDI đã đóng góp hàng tỷ đồng vào ngân sách, với 12,6 tỷ đồng được nộp trong năm 2006, tăng 17,3% so với năm 2005.

FDI đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng sản xuất thay thế nhập khẩu, nhờ vào việc nền kinh tế đang mở cửa và nhiều lĩnh vực vẫn được bảo hộ mạnh Các nhà đầu tư nước ngoài tập trung vào những lĩnh vực này để chiếm lĩnh thị trường và tạo ra thế độc quyền, từ đó thu lợi Điều này đặc biệt rõ nét trong ngành lắp ráp xe máy và ô tô, nơi Việt Nam có mức thuế nhập khẩu cao nhất thế giới và giá bán xe cũng ở mức cao nhất, khiến người tiêu dùng Việt Nam chịu thiệt thòi, trong khi các nhà đầu tư như Honda, Toyota, Yamaha, Ford, và Mercedes lại hưởng lợi.

Việc đầu tư vào các ngành mang lại lợi nhuận cao như bia, nước giải khát và nhà hàng đang thu hút nhiều doanh nghiệp, trong khi những lĩnh vực cần thiết như xây dựng cơ sở hạ tầng, chế tạo máy và hóa dầu lại bị bỏ qua Ngành nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp và thủ công mỹ nghệ cũng không thu hút được đầu tư Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung ở các thành phố và tỉnh có cơ sở hạ tầng phát triển, chiếm đến 70%, trong khi các vùng nông thôn và miền núi lại nhận được tỷ lệ đầu tư thấp Tình trạng này dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế.

Hoạt động của các định chế tài chính trung gian

2.2.1 Hoạt động của hệ thống ngân hàng

Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua những cải cách mạnh mẽ theo hướng thị trường, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu hội nhập quốc tế Báo cáo của WB chỉ ra rằng ngân hàng là lĩnh vực cải cách chậm nhất trong nền kinh tế Việt Nam Những thách thức lớn bao gồm trình độ phát triển thị trường còn thấp, tiềm lực vốn yếu, công nghệ lạc hậu và quản lý chưa đạt yêu cầu so với các nước trong khu vực và thế giới Một số tồn tại chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam cần được khắc phục để tiến tới hội nhập sâu rộng hơn.

Mặc dù nhà nước đã bơm vốn cho Ngân hàng Thương mại Quốc doanh (NHTMQD) tới bốn lần, nhưng tính đến đầu năm 2005, tổng vốn điều lệ của ngân hàng này chỉ đạt khoảng 21.000 tỷ đồng, điều này đã hạn chế khả năng huy động vốn của ngân hàng.

Chất lượng tín dụng đã được cải thiện, nhưng rủi ro vẫn cao và mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, đặc biệt là các DNTN, chưa được giải quyết triệt để, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu có khả năng tăng Mối quan hệ này đã chuyển biến theo hướng thương mại, với tính tự chủ của ngân hàng trong cho vay được nâng cao Tuy nhiên, cơ cấu cho vay theo chỉ định trước đây vẫn để lại nhiều khoản tồn đọng tại các NHTMQD, gây ra tình trạng không bền vững cho các ngân hàng thương mại.

Mặc dù công nghệ ngân hàng đã có những cải tiến, nhưng Việt Nam vẫn còn một khoảng cách lớn so với các hệ thống ngân hàng trong khu vực, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân Tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông vẫn chiếm ưu thế, trở thành phương tiện thanh toán chủ yếu do doanh nghiệp và người dân chưa sẵn sàng áp dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng.

Trình độ quản lý của các ngân hàng thương mại (NHTM) còn nhiều bất cập so với yêu cầu mới, phản ánh thực trạng chưa phát triển của các tổ chức tín dụng và khuôn khổ pháp luật, kế toán và quản lý chưa đầy đủ Nguyên nhân chính của tình trạng này là do thiếu sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng và cơ cấu sở hữu mang tính độc quyền, dẫn đến thiếu động lực cho các ngân hàng cải thiện hoạt động Bên cạnh đó, công tác thanh tra, giám sát dù đã được chấn chỉnh nhưng vẫn còn manh mún và bất cập so với sự phát triển của ngành.

Sự không tương xứng trong cơ cấu kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và cho vay đang tạo ra rủi ro cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Do thị trường chứng khoán còn yếu, nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư vẫn hạn chế, khiến doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào NHTM Việc cho phép NHTM sử dụng một lượng lớn tiền gửi ngắn hạn để cho vay dài hạn gia tăng nguy cơ mất khả năng thanh toán khi có biến động bất thường.

Xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam hiện nay tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho ngành ngân hàng Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể về quy mô và chất lượng, nhưng vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với ngân hàng quốc tế Nhiều vấn đề như độc quyền, cạnh tranh không minh bạch và năng lực điều hành yếu kém vẫn tồn tại Do đó, các tổ chức tín dụng Việt Nam cần cải cách nhanh chóng, đặc biệt trong hoạt động quản lý và xử lý nợ để nâng cao hiệu quả hoạt động.

2.2.2 Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư tại Việt Nam

Hiện nay, các quỹ đầu tư tài chính tại Việt Nam có khả năng gọi thêm vốn trung dài hạn rất lớn, nhưng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn và phải liên tục xin đảo nợ từ nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng Tuy nhiên, thị trường vốn gần đây đã có những tín hiệu tích cực, với tổng nguồn vốn đầu tư khoảng 250 triệu USD được các quỹ như Mêkông Capital đầu tư vào nhiều doanh nghiệp như chế biến gỗ Đức Thành và AA Lạc Việt Thêm vào đó, các quỹ còn gián tiếp đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu, như trong đợt đấu giá cổ phiếu Vinamilk vừa qua.

Các chuyên gia nhận định rằng để thu hút vốn đầu tư từ các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp cần đáp ứng ba tiêu chí cơ bản: hoạt động kinh doanh hiệu quả, báo cáo tài chính minh bạch và triển vọng niêm yết trên thị trường chứng khoán Trong đó, lĩnh vực dịch vụ và sản xuất chuyên sâu đang được các quỹ đầu tư đặc biệt quan tâm Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam khó có thể thỏa mãn đồng thời cả ba tiêu chí này, đặc biệt là minh bạch tài chính, khi mà nhiều doanh nghiệp thường né tránh hoặc trốn thuế Thêm vào đó, kỹ năng quản trị doanh nghiệp và lợi nhuận tiềm năng vẫn còn khá thấp Hơn nữa, sự khống chế về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam đã trở thành rào cản lớn đối với việc thu hút nguồn vốn FPI, ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

Mặc dù lượng vốn đầu tư vào Việt Nam cao, nhưng hiệu quả sử dụng vốn lại thấp, thể hiện qua sự gia tăng của hệ số ICOR Chỉ số ICOR hiện tại cho thấy Việt Nam cần khoảng 5 đến 7 đồng vốn để tạo ra 1 đơn vị GDP, trong khi Trung Quốc chỉ cần gần 1 đồng và Malaysia là 4 đồng Hơn nữa, tỷ lệ vốn nhà nước vượt quá 8% GDP được coi là không hiệu quả; trong giai đoạn 2001 – 2005, tỷ trọng nguồn vốn ngân sách đầu tư đạt 22,8%, vẫn cao hơn mức 23,6% của giai đoạn trước đó Những chỉ số này cảnh báo về hiệu quả đầu tư thấp tại Việt Nam.

Nguồn : Nghiên cứu kinh tế 7- 2006 Thời báo kinh tế Sài Gòn 2005 -2006

Hiệu quả đầu tư giảm sút do nhiều nguyên nhân, bao gồm cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư phân tán và chậm trễ trong giải phóng mặt bằng gây lãng phí và thất thoát Tham nhũng cũng ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả đầu tư, trong khi sự can thiệp của nhà nước vào kinh doanh vẫn còn quá nhiều Các biểu hiện tư lợi ngày càng trở nên rõ ràng, theo xếp hạng Năm.

Trong giai đoạn 1999 và 2003, Việt Nam đạt điểm 9/10 về tham nhũng trong khu vực Đông Nam Á Theo báo cáo của WEF năm 2004, chỉ số tham nhũng của Việt Nam đứng thứ 97/104, trong khi chỉ số về mức độ tiêu dùng lãng phí của Chính phủ xếp thứ 68/104.

Môi trường đầu tư tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức, khi các nhà đầu tư cho rằng năng lực cạnh tranh của quốc gia vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa đạt yêu cầu, dẫn đến nhiều sản phẩm Việt Nam khó có thể cạnh tranh về chất lượng và giá cả trên thị trường nội địa cũng như quốc tế Theo xếp hạng năng lực cạnh tranh của WEF, nền kinh tế Việt Nam đang tụt hậu, điều này cần được cải thiện để thu hút đầu tư hiệu quả hơn.

Bảng 2.10 Năng lực cạnh tranh của kinh tế Việt Nam từ 1999 - 2005

Theo xếp hạng năm 2005, chỉ số cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam đứng ở vị trí 81 với 3,37 điểm, giảm 4 hạng so với năm 2004 Thứ hạng này cho thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế và tài chính còn thấp so với các nước trong khu vực, như Singapore (hạng 6), Malaysia (hạng 24) và Thái Lan (hạng 36) So sánh với Thái Lan và Trung Quốc, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam vẫn còn yếu, điều này chứng tỏ rằng Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua các rào cản thương mại.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, xu hướng giảm thuế quan đang diễn ra, tuy nhiên, các hàng rào phi thuế quan (NTB) lại ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn Đặc biệt, các yêu cầu liên quan đến hàng rào kỹ thuật trong thương mại quốc tế (TBT) đang trở thành một thách thức lớn.

Về chính trị - pháp luật

2.3.1 Mức độ ổn định chính trị

Sau hội nghị APEC 2006 từ 12-19/11, Hà Nội đã chào đón hơn 10.000 khách quốc tế, bao gồm các lãnh đạo tập đoàn lớn như FedEx, Qualcomm và ATG Nhiều thương vụ làm ăn đã được ký kết, hứa hẹn hàng tỷ đô la đầu tư sẽ đổ về Việt Nam Với vai trò chủ nhà, Việt Nam đã tổ chức thành công 3 kỳ họp của các quan chức cấp cao tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, cùng hàng chục hội nghị khác từ đầu năm đến tháng 10/2006 Thành công này đã giúp Việt Nam quảng bá hình ảnh một nền kinh tế năng động, an toàn và đầy tiềm năng phát triển ra thế giới.

Trong những tháng đầu năm 2007, tình trạng thiếu lao động trở nên nghiêm trọng với tỷ lệ tự do lao động chỉ đạt 59,3%, cho thấy sự thiếu linh hoạt trong quy định thị trường lao động đang cản trở năng suất Chi phí thuê lao động ngoài tiền lương cao, cùng với chi phí sa thải cũng không hề nhỏ Hơn nữa, tình hình đình công tại các khu công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương gia tăng vào cuối tháng 2 và đầu tháng 3/2007 Nếu các vụ đình công tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được giải quyết hiệu quả, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, làm giảm sức hấp dẫn và tính cạnh tranh của Việt Nam.

Tham nhũng được coi là "căn bệnh trầm kha" của đất nước, với tỷ lệ đạt 26,0% theo xếp hạng của Quỹ Heritage và Tạp chí Phố Wall Trong Chỉ số Nhận thức về tham nhũng Quốc tế năm 2005, Việt Nam đứng thứ 107 trong số 158 quốc gia, trong khi điểm số trung bình toàn cầu là 41,2% Năm 1999, chỉ số CPI của Việt Nam là 2,79/10, xếp hạng 43/52.

2003 là 2,4 /10 tương ứng vị trí 100/133 trong bảng xếp hạng, còn sang năm

Năm 2006, Việt Nam xếp hạng 102/145 về chỉ số tham nhũng, cho thấy tình trạng hối lộ làm gia tăng chi phí sản xuất Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh quốc tế, mức độ tham nhũng nghiêm trọng sẽ khiến quốc gia mất lợi thế cạnh tranh Ở thị trường nội địa, tham nhũng tạo ra sự cạnh tranh không công bằng giữa các doanh nghiệp, khi những doanh nghiệp trốn thuế có thể bán hàng với giá thấp hơn so với những doanh nghiệp tuân thủ đầy đủ nghĩa vụ thuế Hơn nữa, tham nhũng còn tác động tiêu cực đến đầu tư trong và ngoài nước, làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư và tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.

2.3.3 Quản lý nhà nứơc chưa theo kịp yêu cầu phát triển, thủ tục hành chính còn rườm rà

Bộ máy hành chính nhà nước hiện còn nhiều tầng nấc, dẫn đến việc quản lý đầu tư nước ngoài (ĐTNN) chưa nhanh nhạy và hiệu quả, tình trạng quan liêu và nhũng nhiễu vẫn tồn tại Mặc dù chương trình cải cách hành chính và nghị quyết 08/2004 đã phân cấp quản lý cho UBND cấp tỉnh và các ban quản lý khu công nghiệp, nhưng việc phân cấp này chưa đảm bảo tính thống nhất và còn mang tính cục bộ Kết quả là, nhiều tỉnh đã ban hành quy định đầu tư không phù hợp, gây ra cạnh tranh không lành mạnh và khó khăn trong quản lý nhà nước Hơn nữa, việc phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, khiến nhà đầu tư gặp khó khăn trong quá trình giải quyết công việc và khó xác định cơ quan nào phải chịu trách nhiệm khi có sai phạm xảy ra.

Nền hành chính là bộ mặt của quốc gia, quyết định khả năng thu hút đầu tư và tạo dựng mối quan hệ xã hội lành mạnh Hiện nay, thủ tục hành chính tại Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn, gây nhức nhối cho xã hội và giới đầu tư Dù thủ tục có hợp lý, nhưng nếu đội ngũ công chức thiếu năng lực sẽ dẫn đến các hiện tượng tiêu cực, làm nảy sinh tình trạng "bẻ cong" luật pháp Những rào cản trong cấp phép xây dựng, giải phóng mặt bằng và kiểm tra hành chính đang gây khó khăn cho nhà đầu tư Việc lợi dụng mối quan hệ cá nhân và tiền bạc đã làm biến dạng chính sách và gây rắc rối cho người dân Nhiều người phàn nàn về sự phức tạp của thủ tục hành chính, cho rằng nếu không có "lót tay", các dự án đầu tư nước ngoài khó có thể tiến triển thuận lợi.

2.3.4 Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thiếu cụ thể và khó có thể dự đoán trứơc được

Luật đầu tư và luật DN thống nhất được Quốc Hội thông qua cuối năm

Năm 2005, các doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam, dù trong nước hay nước ngoài, đều có quyền bình đẳng tham gia thị trường Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về kinh tế vẫn chưa đồng bộ, dẫn đến sự phát triển chậm của các thị trường tài chính, bất động sản và khoa học công nghệ, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư nước ngoài Trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm, cho thấy quá trình hình thành kinh tế thị trường gặp nhiều khó khăn và phức tạp Dù có nhiều nỗ lực, hệ thống pháp luật vẫn còn khó dự đoán, như trường hợp Luật đầu tư.

Nghị định 108 năm 2005 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật đầu tư có điều kiện, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc liệt kê danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện Văn bản này không nêu rõ thời điểm các cơ quan chức năng sẽ ban hành điều kiện đầu tư cụ thể, dẫn đến tình trạng quy định về lĩnh vực đầu tư có điều kiện vẫn thiếu rõ ràng và khó dự đoán Điều này gây khó khăn cho cả nhà đầu tư và cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện.

2.3.5 Khoảng cách giàu nghèo ngày càng cao

Trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo và khuyến khích người dân vươn lên làm giàu chính đáng Thế giới ghi nhận nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ Tuy nhiên, thành tựu này vẫn chưa vững chắc, khi mà nhiều vấn đề xã hội như thiếu việc làm, ma tuý và mại dâm vẫn tồn tại Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia cho thấy, tăng trưởng kinh tế là công cụ quan trọng để xoá đói giảm nghèo, nhưng nếu không giải quyết sự bất bình đẳng về thu nhập, tăng trưởng này sẽ không bền vững và dễ dẫn đến bất ổn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển tiếp theo.

Phát triển kinh tế nông thôn và tạo việc làm cho lao động nông thôn đang là những vấn đề cấp bách Theo quy luật, một nền kinh tế công nghiệp hóa cần chuyển dịch tài nguyên từ nông thôn sang đô thị và từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ Tuy nhiên, tại Việt Nam, quá trình này diễn ra rất chậm, khiến lao động nông thôn gặp nhiều khó khăn trong việc cải thiện thu nhập và đời sống.

Tình trạng "tắc nghẽn" lao động ở nông thôn đang trở nên nghiêm trọng, với khoảng 72-74% thời gian lao động (tương đương 18-19 triệu người) đang làm việc, trong khi còn khoảng 7 triệu lao động nông thôn thiếu việc làm Sự chênh lệch giữa cư dân nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng, với tỷ lệ hộ nghèo ở thành phố chỉ là 3,6%, trong khi ở nông thôn lên đến 25% Nếu không thu hẹp khoảng cách này, thu nhập sẽ mất cân đối, khiến đời sống người dân nông thôn thêm khó khăn Do đó, bên cạnh việc thu hút lao động từ nông thôn vào thành phố và giữa các vùng nông thôn thông qua phát triển công nghiệp và dịch vụ, cần phải đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn, mở rộng các loại hình doanh nghiệp phi nông nghiệp, tạo thêm nhiều ngành nghề và việc làm cho lao động đang gia tăng hàng năm, đặc biệt ở những khu vực có đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hóa và công nghiệp hóa, nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội cho đất nước.

Trong những năm qua, chúng ta đã tập trung chủ yếu vào việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà không chú trọng đến phát triển bền vững môi trường đầu tư Điều này đã dẫn đến sự gia tăng chênh lệch tỷ lệ hộ nghèo và phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt trong xã hội.

2.3.6 Chất lượng nguồn nhân lực thấp và chậm được cải thiện

Mặc dù đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như đầu tư vào giáo dục và y tế, tỷ lệ mù chữ trong lực lượng lao động vẫn ở mức 4%, trong khi tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chỉ đạt 24%, tăng 2% so với năm trước Đông Nam Bộ có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất (37,4%), trong khi Tây Bắc thấp nhất (13,5%) Theo điều tra của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, 34,3% lãnh đạo doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông, và chỉ 2,99% chủ doanh nghiệp có trình độ thạc sĩ trở lên Mặc dù lãnh đạo trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có trình độ học vấn cao hơn, nhưng vẫn chưa đáng kể, do phần lớn là những người từ doanh nghiệp nhà nước chuyển qua Năng lực và kỹ năng quản lý của đội ngũ này chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân, dẫn đến việc chưa phát huy được vai trò bảo vệ của nhà nước và quyền lợi của người lao động khi làm việc với các nhà kinh doanh chuyên nghiệp.

2.3.7.Việt Nam có thể là mục tiêu của hoạt động rửa tiền

Ngân hàng Thế giới cảnh báo rằng Việt Nam có nguy cơ trở thành mục tiêu của các tổ chức rửa tiền quốc tế do hệ thống giám sát và kế toán còn yếu kém, cùng với việc sử dụng tiền mặt và các giao dịch không chính thức cao Sự hội nhập kinh tế khiến Việt Nam trở thành một thị trường mở, tạo điều kiện cho các dòng tiền vào ra dễ dàng, trong khi những lỗ hổng pháp lý lại là cơ hội cho tội phạm rửa tiền Nếu không kiểm soát nguồn tiền hiệu quả, nền kinh tế có thể phải đối mặt với những hệ lụy tiêu cực.

2.3.8 Tốc độ cải cách cấp phép xây dựng và phá sản doanh nghiệp còn chậm

Mặc dù Việt Nam đã thực hiện một số cải cách tích cực như bãi bỏ văn bản và giảm thời gian cấp giấy phép xây dựng, môi trường kinh doanh tại đây vẫn gặp nhiều khó khăn Việc thành lập doanh nghiệp còn phức tạp và tốn kém hơn so với nhiều quốc gia khác Theo chỉ số thuận lợi đóng thuế, Việt Nam xếp hạng 120/175, với doanh nghiệp phải thanh toán thuế 32 lần mỗi năm, mất đến 1.050 giờ để hoàn tất thủ tục và chịu 41,6% chi phí tổng lợi nhuận cho thuế Hơn nữa, Việt Nam cũng được đánh giá là một trong năm quốc gia có mức bảo vệ nhà đầu tư kém nhất.

Thực trạng kiểm soát rủi ro trong thu hút ĐTNN tại Việt Nam

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều cải cách trong việc kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) Qua suốt thời kỳ mở cửa, chế độ kiểm soát vốn đã được điều chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế và thu hút đầu tư hiệu quả hơn.

Việt Nam chủ yếu khuyến khích dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào trong nước, mặc dù tỷ lệ FDI vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc, với mức lần lượt là 1,2% năm 2002, 2,3% năm 2003 và 3,7% năm 2004 Sau khủng hoảng tài chính năm 1997, dòng vốn FDI đã phục hồi, và xu hướng này gia tăng mạnh mẽ sau khi Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế vào tháng 10 năm 2005, thu hút nhiều công ty lớn như Vinashin và EVN Dòng vốn này, kết hợp với FDI, sẽ tạo áp lực lên tỷ giá VND Để ứng phó, các cơ quan chức năng sẽ thực hiện các biện pháp nới lỏng thị trường đối với dòng vốn ra nước ngoài.

Cả hai dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đều mang lại lợi ích và tác hại nhất định, do đó cần có biện pháp kiểm soát hiệu quả để tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu tác hại Đối với nguồn vốn ODA, từ năm 1993, chính phủ Việt Nam đã cam kết quản lý thống nhất nguồn vốn này nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia Chính phủ có trách nhiệm xác định chủ trương thu hút và ký kết hiệp định vay, phân bổ và giám sát việc sử dụng vốn, cũng như đánh giá kết quả Các cơ quan quản lý ODA bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ và các bộ chuyên ngành.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đóng vai trò là cơ quan đầu mối trong việc điều phối và quản lý ODA, có trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành và địa phương để xây dựng chiến lược và kế hoạch huy động ODA phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và địa phương.

- Lập danh mục, xác định dự án kêu gọi ODA

- Chuẩn bị nội dung đàm phán điều ươc quốc tế

- Thẩm định nội dung chương trình, dự án ODA

- Chủ trì theo dõi, đánh giá, đôn đốc và hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án ODA

- Phối hợp với Bộ Tài Chính lập kế hoạch ưu tiên và bố trí vốn đối ứng ẹieàu phoỏi nguoàn voỏn

- Thông báo cho nhà tài trợ về kết quả phê duyệt của các cấp chính phủ

- Xây dựng hệ thống thông tin theo dõi và đánh giá các chương trình , dự án ODA

- Phổ biến tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về quản lý và thực hiện dự án ODA

- Theo dõi, kiểm tra hình thức thực hiện dự án

- Báo cáo tổng hợp định kỳ ( mỗi 6 tháng hoặc 1 năm trình Thủ tướng về tình hình thu hút và sử dụng ODA.)

- Kiến nghị Thủ tướng xem xét và quyết định các biện pháp xử lý khi phát sinh những sai phạm trong quá trình sử dụng vốn ODA

Bộ Tài Chính được chính phủ ủy quyền để đàm phán các điều ước quốc tế liên quan đến huy động vốn ODA, đồng thời đóng vai trò là đại diện chính thức của Việt Nam trong việc chuẩn bị nội dung đàm phán cùng các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA.

- Theo dõi, kiểm tra công tác quản lý tài chính trong việc sử dụng vốn ODA

- Tổ chức hạch toán kế toán ngân sách nhà nước đối với nguồn vốn ODA

- Tổng hợp số liệu rút vốn, thanh toán và trả nợ đối với chương trình , dự án ODA

Quản lý vốn là quá trình nhận và bàn giao toàn bộ thông tin liên quan đến vốn cho Bộ Tài chính, nhằm đảm bảo việc thống nhất trong quản lý tài chính.

- Phối hợp với Bộ Tài chính chỉ định các ngân hàng thương mại để uỷ quyeàn:

+ Cho vay lại từ vốn ODA

+ Thu hồi vốn trả nợ ngân sách theo đúng các uỷ nhiệm mà các ngân hàng thương mại đã thoả thuận với Bộ Tài chính

* Cơ quan khác có liên quan ( đơn vị sử dụng vốn ODA ) : có trách nhiệm

- Lập ban quản lý ( PMU – Project Management Unit )

- Tổ chức thực hiện dự án

- Theo dõi và đánh giá việc sử dụng vốn có hiệu quả

- Giám sát quá trình sử dụng chống thất thoát, lãng phí

Mặc dù đã có phân cấp quảnl ý vốn ODA như thế, nhưng từ năm

Năm 1993, Việt Nam chưa có cơ quan chuyên trách về ODA, dẫn đến việc quản lý vốn ODA gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi xảy ra vụ tham nhũng tại Bộ Giao thông Vận tải Các cơ quan phân công quản lý đổ lỗi cho nhau, khiến tình hình thêm phức tạp Theo quy định, các cơ quan cấp bộ và UBND cấp tỉnh phải làm chủ các dự án ODA, lập Ban quản lý dự án (PMU) ngay sau khi dự án được phê duyệt Tuy nhiên, các PMU hoạt động không theo luật định, gây ra tình trạng lãng phí và thất thoát vốn ODA Theo điều tra của WB, tính đến năm 2006, Việt Nam có khoảng 1.000 PMU liên quan đến dự án ODA, cho thấy sự cần thiết phải có chế tài quy định cụ thể để quản lý hiệu quả hơn.

Do vậy, sau khi đánh giá về vụ PMU 18, Bộ kế hoạch và Đầu tư, cơ quan quản lý đầu mối về ODA thừa nhận còn 5 hạn chế :

Công tác thanh tra và giám sát trong lĩnh vực đầu tư hiện đang gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong quá trình thực hiện Các bộ phận chức năng không chỉ chậm trễ trong việc thành lập mà còn thiếu hụt về nhân lực Đặc biệt, Vụ Thẩm định và Giám sát Đầu tư chỉ mới được thành lập vào cuối năm vừa qua.

1002 Vụ thanh tra kế hoạch – đầu tư mới thành lập cuối năm 2003, song hoạt động của các đơn vị này vẫn chưa đi vào nề nếp

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với vai trò là đơn vị kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, chủ yếu tập trung vào việc theo dõi và đốc thúc tiến độ giải ngân, mà chưa chú trọng đến việc kiểm tra chất lượng dự án Công tác giám sát và theo dõi tình hình thực hiện dự án vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Nhiệm vụ phổ biến tài liệu và hướng dẫn nghiệp vụ về quản lý dự án ODA chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến việc cung cấp thông tin và lập báo cáo theo quy định hiện hành chưa đầy đủ và kịp thời Điều này hạn chế những đóng góp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc nâng cao kỹ năng quản lý dự án tại các PMU, bộ, ngành và địa phương liên quan.

Việc tham mưu cho Chính phủ trong việc điều chỉnh các văn bản pháp quy cho phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và ban hành các quy định về sử dụng nguồn vốn ODA đang diễn ra chậm trễ.

Việt Nam hiện chưa có chính sách kiểm soát vốn hoàn chỉnh để quản lý dòng vốn FPI, nhưng việc nâng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài từ 30% lên 49% theo Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg là một bước tiến tích cực cho thị trường chứng khoán Mặc dù đã giải quyết được một số rào cản, nhiều công ty tài chính lớn vẫn thận trọng trong việc đầu tư do hạn chế về tỷ lệ tham gia góp vốn, với mức tối đa hiện tại là 30% cho doanh nghiệp Việt Nam và 49% cho doanh nghiệp niêm yết Để thu hút dòng vốn FPI, việc nới lỏng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết, nhằm tăng khả năng cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan và Singapore.

Việc đánh giá hiệu quả của các đổi mới trong kiểm soát vốn không chỉ dựa vào các thay đổi luật lệ và chính sách công bố bởi cơ quan chức năng, mà còn cần xem xét tác động thực tế đến quản lý giao dịch tài chính Quan niệm cho rằng nới lỏng tỷ lệ sở hữu cho người nước ngoài lên đến 49% đã đủ để kết luận về hiệu quả kiểm soát vốn là sai lầm Thực tế cho thấy, các yếu tố như rủi ro quốc gia, ưu đãi thuế và rủi ro tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến quá trình này Sử dụng kiểm định ngang giá lãi suất IRP sẽ giúp làm rõ ảnh hưởng của các thay đổi luật lệ đến giao dịch tài chính Đặc biệt đối với Việt Nam, chính phủ cần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại điều chỉnh ký quỹ để phù hợp với cơ hội đầu tư, từ đó chuẩn bị tốt cho quá trình tự do hóa tài khoản vốn trong tương lai.

Tóm lại , với toàn bộ những nội dung phân tích của đề tài chúng ta có thể đưa ra những đánh giá chung như sau:

1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thậm chí với những chỉ số kinh tế vĩ mô tương đối lành mạnh, chưa chắc đã thể hiện sự phát triển bền vững Sự phát triển của một quốc gia không chỉ được quyết định bởi một số yếu tố quan trọng của tăng trưởng mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các yếu tố này với các yếu tố khác của nền kinh tế xã hội Xét về khía cạnh vĩ mô, tốc độ tăng trưởng cao sẽ là cơ sở quan trọng để phát triển ổn định tình hình kinh tế chính trị – xã hội Ngược lại, sự ổn định tình hình kinh tế xã hội là điều kiện tiên quyết để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng Bởi vậy, ĐTNN không chỉ tác động một cách trực tiếp đến từng yếu tố của sự phát triển, mà còn đồng thời tác động đến tất cả các yếu tố này ĐTNN đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và ổn định tình hình chính trị văn hóa – xã hội Xét từ khía cạnh vi mô, giữa các yếu tố của tăng trưởng có mối quan hệ nhân quả với nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội Chẳng hạn không thể tăng giá trị xuất nhập khẩu, dịch vụ, nâng cao năng suất lao động và phát triển nguồn nhân lực nếu thiếu vốn và công nghệ hiện đại.Ở Việt Nam, mức độ tác động của ĐTNN trong tất cả các yếu tố tăng trưởng và lĩnh vực kinh tế – xã hội đã thể hiện rõ rệt qua những kết quả đạt được trong thời gian vừa qua, nhưng nó cũng gây ra tác hại vì đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng

2 Muốn phát triển bền vững môi trường đầu tư phải có những giải pháp thích hợp để làm sao vừa thu hút được ĐTNN vừa sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, lại vừa kiểm soát được những rủi ro của nó, như thế mục đích phát triển bền vững môi trường đầu tư mới là khả thi Thật vậy, ĐTNN không phải tự nó mang lại lợi ích cho nứơc nhận đầu tư, nhưng nếu biết cách sử dụng nó thì nó có thể đóng vai trò to lớn trong quá trình phát triển đất nứơc, đặc biệt như “ chìa khoá “ dẫn tới thành công của công nghiệp hoá – hiện đại hoá

Giải pháp kiểm soát rủi ro trong thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn để phát triển bền vững

Ngày đăng: 17/07/2022, 18:11

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Thị Định (2005) Tài chính quốc tế, NXB thống kê, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài chính quốc tế
Tác giả: Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Thị Định
Nhà XB: NXB thống kê
Năm: 2005
3. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006) “Mô hình phát triển? Sự lưỡng lự giữa tự do hay kiểm soát vốn”, “Tạp chí phát triển kinh tế - ĐHKT TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mô hình phát triển? Sự lưỡng lự giữa tự do hay kiểm soát vốn
4. TS Hà Thị Ngọc Oanh (2006), Đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam , NXB Lao động – xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam
Tác giả: TS Hà Thị Ngọc Oanh
Nhà XB: NXB Lao động – xã hội
Năm: 2006
5. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đầu tư quốc tế
Tác giả: Phùng Xuân Nhạ
Nhà XB: NXB ĐH Quốc gia Hà Nội
Năm: 2001
7. TS Phan Thị Bích Nguyệt (2006), Đầu tư tài chính, NXB thống kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đầu tư tài chính
Tác giả: TS Phan Thị Bích Nguyệt
Nhà XB: NXB thống kê
Năm: 2006
2. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, NXB Thống kê, TP.HCM Khác
6. PGS TS Nguyễn Văn Tình (2006), Kinh tế đối ngoại Việt Nam, NXB ĐHQG TP.HCM Khác
8. PGS TS Trần Ngọc Thơ (2005) KTVN trên đường hội nhập, NXB thống kê Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam(giai đoạn 1997 – 2006) - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam(giai đoạn 1997 – 2006) (Trang 27)
Qua bảng, chúng ta thấy những năm sau này từ năm 2005 – 2006, số vốn đầu tư trực tiếp  nước ngoài vào Việt Nam tăng lên rất nhiều .Năm 2005  là 5.853 triệu USD,nhưng đến  năm 2006  là 10.201 triệu USD - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
ua bảng, chúng ta thấy những năm sau này từ năm 2005 – 2006, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng lên rất nhiều .Năm 2005 là 5.853 triệu USD,nhưng đến năm 2006 là 10.201 triệu USD (Trang 27)
Bảng 2.2. Huy động ODA giai đoạn 2006 – 2010 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.2. Huy động ODA giai đoạn 2006 – 2010 (Trang 32)
- Kinh tế 2005 – 2006, Việt Nam và Thế giới, tr.5 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
inh tế 2005 – 2006, Việt Nam và Thế giới, tr.5 (Trang 33)
Bảng 2.3 Tình hình thu hút ODA 1993 – 2006 ( ĐVT: Triệu USD) - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.3 Tình hình thu hút ODA 1993 – 2006 ( ĐVT: Triệu USD) (Trang 33)
+ Tình hình hoạt động của thị trường chứng khốn Việt Nam - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
nh hình hoạt động của thị trường chứng khốn Việt Nam (Trang 34)
Bảng 2.4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế củaViệt Nam qua các năm - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế củaViệt Nam qua các năm (Trang 43)
Bảng 2.5 Cán cân tài khoá Việt Nam 1997 – 2005 ( bằng % của GDP ) - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.5 Cán cân tài khoá Việt Nam 1997 – 2005 ( bằng % của GDP ) (Trang 46)
2.1.3.7. Nợ nước ngoài - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
2.1.3.7. Nợ nước ngoài (Trang 52)
Bảng 2.8.: Cơ cấu Nợ nước ngoài củaViệt Nam( ĐVT: Triệu USD) - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.8. Cơ cấu Nợ nước ngoài củaViệt Nam( ĐVT: Triệu USD) (Trang 54)
Qua bảng ta thấy, từ năm 1999 trở lại đây nợ tăng không đáng kể trong khi nhu cầu đầu tư ngày càng tăng nhanh và xu hương những năm sắp tới , sau khi  gia nhập vào WTO , đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các biện pháp cải thiện  kinh tế ngặt nghèo hơn và nh - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
ua bảng ta thấy, từ năm 1999 trở lại đây nợ tăng không đáng kể trong khi nhu cầu đầu tư ngày càng tăng nhanh và xu hương những năm sắp tới , sau khi gia nhập vào WTO , đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các biện pháp cải thiện kinh tế ngặt nghèo hơn và nh (Trang 56)
Hiện nay Ngân hàng phát triển Châu Á( AD B) cho vay Nợ theo hình - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
i ện nay Ngân hàng phát triển Châu Á( AD B) cho vay Nợ theo hình (Trang 59)
Bảng 2. 9. Hệ số ICOR - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2. 9. Hệ số ICOR (Trang 65)
Bảng 2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam(giai đoạn 1997 – 2006 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam(giai đoạn 1997 – 2006 (Trang 109)
Bảng 2.2. FDI được cấp giấy phép từ 1998 – 2005 củaViệt Nam Năm Số dự án được cấp - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Kiểm soát trong thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển bền vững môi trường đầu tư tại Việt Nam
Bảng 2.2. FDI được cấp giấy phép từ 1998 – 2005 củaViệt Nam Năm Số dự án được cấp (Trang 110)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w