TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
Khái niệm về thanh toán quốc tế
Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và con người, các quốc gia không thể tự sản xuất tất cả hàng hóa và dịch vụ cần thiết, dẫn đến việc hình thành các quan hệ ngoại thương Sự phát triển của các quan hệ ngoại thương cũng thúc đẩy các mối quan hệ chính trị, xã hội và ngoại giao giữa các quốc gia, tạo nên một hệ thống quan hệ quốc tế toàn diện Để thực hiện các quan hệ này, hoạt động thương mại quốc tế (TTQT) trở nên cần thiết.
Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện các giao dịch tài chính giữa các quốc gia, bao gồm thu và chi ngoại tệ Quá trình này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế, thương mại, hợp tác khoa học kỹ thuật, ngoại giao và xã hội giữa các nước.
Căn cứ vào tính chất của các giao dịch TTQT, có thể chia làm hai loại lớn:
TTQT mang tính chất mậu dịch, liên quan đến các khoản thanh toán phục vụ cho việc luân chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia Điều này bao gồm thanh toán cho xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, và các hoạt động tài chính ngân hàng.
Thứ hai, TTQT phi mậu dịch đề cập đến các khoản thanh toán không liên quan đến việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ, mà chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ phi mậu dịch giữa các quốc gia Những mối quan hệ này bao gồm ngoại giao, xã hội và hợp tác khoa học kỹ thuật.
Đặc điểm của thanh toán quốc tế
Trong điều kiện hệ thống tài chính tiền tệ phát triển, TTQT có những đặc điểm sau:
TTQT chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ, sử dụng hệ thống ngân hàng nội địa và các ngân hàng quốc tế.
Thứ hai, thương mại quốc tế được thực hiện thông qua các phương thức thanh toán hiện đại, nhờ vào sự phát triển của công nghệ ngân hàng và công nghệ thông tin, đảm bảo độ tin cậy và chính xác cao.
Vai trò của thanh toán quốc tế trong nền kinh tế
1.1.3.1 Đối với lĩnh vực ngoại thương
Hoạt động ngoại thương đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia, giúp đáp ứng nhu cầu sản phẩm và dịch vụ mà sản xuất nội địa chưa đủ khả năng cung cấp Đồng thời, nó cũng mang đến các sản phẩm và dịch vụ mà thị trường nước ngoài đang thiếu và cần thiết.
TTQT là giai đoạn quan trọng cuối cùng trong quan hệ ngoại thương, đảm bảo hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra suôn sẻ Thanh toán quốc tế không chỉ duy trì mà còn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương Khi quy trình thanh toán được thực hiện hiệu quả, hoạt động ngoại thương có thể phát triển bình thường và bền vững.
Sự phát triển của ngoại thương không chỉ thúc đẩy hợp tác quốc tế trong kinh tế và thương mại mà còn mở rộng các lĩnh vực văn hóa, xã hội, ngoại giao và hợp tác khoa học kỹ thuật.
1.1.3.2 Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng
TTQT không chỉ đơn thuần là quá trình thanh toán và chuyển tiền giữa các quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng của mỗi quốc gia.
TTQT liên quan mật thiết đến các mối quan hệ tài chính tín dụng, thể hiện qua việc chuyển giao dòng vốn ngắn hạn giữa các quốc gia Sự luận chuyển này không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà còn tạo ra cơ hội đầu tư và tăng cường hợp tác quốc tế.
Thanh toán quốc tế (TTQT) đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối hệ thống ngân hàng nội địa với ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế Qua đó, TTQT giúp các nước chậm phát triển và đang phát triển tiếp cận với hệ thống giao dịch thanh toán hiện đại, đồng thời củng cố quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng quốc gia và mở rộng hoạt động đầu tư Sự phát triển của các phương thức TTQT đã tạo ra liên kết toàn cầu giữa các ngân hàng, từ đó thúc đẩy quan hệ quốc tế và hình thành hệ thống an ninh tài chính quốc tế vững mạnh.
Trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, ngân hàng đóng vai trò trung gian quan trọng, giúp các giao dịch diễn ra nhanh chóng, chính xác và an toàn, đồng thời tiết kiệm chi phí so với việc thanh toán bằng tiền mặt Ngân hàng không chỉ bảo vệ quyền lợi của khách hàng thông qua sự uỷ thác mà còn tư vấn để giảm thiểu rủi ro, mang lại sự an tâm trong các giao dịch quốc tế Khi thực hiện thanh toán, ngân hàng không chỉ thu được phí dịch vụ mà còn tạo điều kiện cho việc phát triển các nghiệp vụ khác như huy động vốn, cho vay và bảo lãnh Do đó, việc thực hiện hiệu quả thanh toán quốc tế sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện của ngân hàng.
1.1.3.3 Đối với lĩnh vực ngoại giao xã hội
TTQT không chỉ ảnh hưởng đến ngoại thương và lĩnh vực tài chính ngân hàng, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao xã hội giữa các quốc gia Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, các hoạt động kinh tế, thương mại, tài chính ngân hàng và ngoại giao không còn tách biệt mà có sự liên kết chặt chẽ với nhau Mối quan hệ giữa kinh tế và thương mại thường bao hàm cả yếu tố ngoại giao và chính trị, thể hiện sự tương tác đa chiều trong quan hệ quốc tế.
Việc loại bỏ các yếu tố chính trị cực đoan sẽ thúc đẩy mối quan hệ quốc tế, từ đó góp phần tăng cường sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu Khi các quốc gia hiểu biết lẫn nhau hơn, họ có thể hợp tác hiệu quả hơn để cùng nhau phát triển.
PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
Khái niệm, nội dung, các loại thư tín dụng
1.2.5.1 Khái ni ệ m c ủ a th ư tín d ụ ng - TTD (Letter of Credit - L/C)
Thư tín dụng là một văn bản cam kết trả tiền có điều kiện, được phát hành bởi ngân hàng cho người xuất khẩu Ngân hàng cam kết sẽ trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các quy định trong thư tín dụng.
TTD có thể được phát hành bằng thư hoặc bằng điện thông qua hệ thống điện tử liên ngân hàng (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunications
- Swift) Dù được phát hành ở dạng nào thì một TTD phải thể hiện:
+Tên ngân hàng phát hành TTD
+Tên ngân hàng thông báo TTD
+Tên một số ngân hàng liên quan (ngân hàng xác nhận, ngân hàng thương lượng…)
+Tên và địa chỉ người yêu cầu mở TTD
+Tên và địa chỉ người hưởng lợi TTD
+Địa điểm và thời hạn hiệu lực TTD
Thời hạn giao hàng, địa điểm gửi và nhận hàng, cùng với phương thức giao hàng là những yếu tố quan trọng cần lưu ý Ngoài ra, các quy định về hàng hóa và dịch vụ cũng rất cần thiết, bao gồm tên sản phẩm, quy cách, phẩm chất, đơn giá, số lượng và trọng lượng Việc nắm rõ những thông tin này sẽ giúp đảm bảo quá trình giao nhận hàng diễn ra thuận lợi và hiệu quả.
+Phương thức vận chuyển, phương tiện vận chuyển, cảng đi, cảng đến
+Danh mục và số lượng các loại chứng từ xuất trình
+Văn bản tham chiếu (UCP 500 hay UCP 600)
+Cam kết, mã khoá - swift key (nếu phát hành TTD bằng điện) hoặc chữ ký, con dấu của ngân hàng mở (nếu phát hành TTD bằng thư)
(Chi ti ế t n ộ i dung c ủ a m ộ t TTD t ạ i ph ụ l ụ c 13)
1.2.5.3 Các lo ạ i th ư tín d ụ ng
*Phân lo ạ i theo tính ch ấ t c ủ a TTD
(1) Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C)
TTD có thể hủy ngang cho phép người yêu cầu mở TTD sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ mà không cần sự đồng ý của người thụ hưởng, miễn là việc này được thực hiện trước khi người hưởng lợi tiến hành giao hàng.
Loại TTD có thể hủy ngang không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu và không bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý Do đó, loại TTD này ngày càng ít được sử dụng và có xu hướng bị loại bỏ trong thương mại quốc tế, theo quy định của UCP 600, tất cả TTD đều phải là không hủy ngang.
(2) Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable L/C)
Loại TTD này không thể bị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ bởi ngân hàng mở hoặc người yêu cầu mở khi đã thông báo cho người thụ hưởng, trừ khi có sự đồng ý của người thụ hưởng trong suốt thời gian hiệu lực của TTD.
Với loại TTD này, quyền lợi của người xuất khẩu được bảo đảm, do đó đây là loại TTD phổ biến trong thương mại quốc tế.
(3) Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C)
Là loại TTD được phát hành với mục tiêu nhằm bảo vệ quyền lợi cho người
Người nhập khẩu yêu cầu người xuất khẩu mở thư tín dụng dự phòng thông qua ngân hàng để bảo đảm quyền lợi cho mình Trong thư tín dụng này, cần quy định rõ ràng rằng nếu đơn vị xuất khẩu vi phạm các điều khoản đã thỏa thuận, sẽ có biện pháp xử lý phù hợp.
Khi 11 hợp đồng thương mại đã được ký kết và gây thiệt hại cho người nhập khẩu, ngân hàng mở tài khoản tín dụng dự phòng sẽ có trách nhiệm thanh toán và bồi thường những thiệt hại đó cho người nhập khẩu.
Loại TTD này cũng được thực hiện đúng như quy định trong UCP 600
*Phân lo ạ i theo n ộ i dung s ử d ụ ng c ủ a TTD
(1) Thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận (Confirmed irrevocable L/C)
TTD không huỷ ngang có xác nhận là loại chứng từ thanh toán được đảm bảo bởi một ngân hàng uy tín khác, cam kết thanh toán cho người thụ hưởng nếu ngân hàng phát hành không thực hiện nghĩa vụ thanh toán Điều này đảm bảo an toàn cho người thụ hưởng, vì ngân hàng đảm bảo sẽ chịu trách nhiệm tài chính trong trường hợp xảy ra sự cố.
Do có 2 ngân hàng đứng ra cam kết thanh toán cho người hưởng lợi nên loại TTD này được coi là rất đảm bảo quyền lợi cho bên bán
Nguyên nhân dẫn đến việc tồn tại loại TTD không huỷ ngang có xác nhận là do tổ chức xuất khẩu không hoàn toàn tin tưởng vào ngân hàng phát hành và giá trị lớn của TTD.
Để có được sự xác nhận từ ngân hàng, ngân hàng phát hành cần phải thanh toán một khoản phí xác nhận cao, có thể lên tới 1% giá trị của TTD Ngoài ra, ngân hàng phát hành còn phải đặt cọc tiền ký quỹ, đôi khi lên đến 100% giá trị TTD tại ngân hàng xác nhận.
Thư tín dụng không huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C) là loại thư tín dụng mà sau khi ngân hàng thanh toán cho người thụ hưởng, họ không có quyền đòi lại tiền trong bất kỳ tình huống nào Khi sử dụng loại thư tín dụng này, tổ chức xuất khẩu cần ghi rõ câu "không được truy đòi lại tiền người ký phát" để đảm bảo tính hợp pháp và bảo vệ quyền lợi của mình.
(3) Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C)
Là loại TTD quy định rằng sau khi sử dụng hết kim ngạch hoặc hết thời hạn hiệu lực, TTD sẽ tự động duy trì giá trị như cũ và tiếp tục được sử dụng cho đến khi hoàn tất giá trị hợp đồng.
Loại TTD này được áp dụng trong trường hợp hai bên XK và NK có quan hệ thường xuyên với nhau và đối tượng thanh toán không thay đổi
TTD tuần hoàn được chia làm hai loại:
Loại TTD tuần hoàn có tích lũy (Cummulative Revolving Letter of Credit) là hình thức TTD tuần hoàn cho phép chuyển kim ngạch chưa sử dụng từ TTD trước vào kim ngạch của TTD tiếp theo.
Tuần hoàn không tích lũy (No Cumulative Revolving Letter of Credit) là loại thư tín dụng tuần hoàn, trong đó quy định rằng giá trị chưa sử dụng ở vòng tuần hoàn trước không được cộng dồn vào giá trị của vòng tiếp theo.
Về phương pháp tuần hoàn: có thể sử dụng 01 trong 03 phương pháp tuần hoàn sau:
Rủi ro thường gặp trong phương thức TDCT
Cam kết thanh toán từ ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận đảm bảo rằng quy trình thanh toán diễn ra một cách trôi chảy và an toàn.
Phương thức TDCT được coi là an toàn hơn so với các phương thức khác như ghi sổ, giao chứng từ nhận tiền, chuyển tiền và thanh toán nhờ thu Tuy nhiên, phương thức này không hoàn toàn miễn nhiễm với rủi ro, và vẫn tồn tại một số nguy cơ nhất định cho các bên liên quan.
1.2.7 Rủi ro thường gặp trong phương thức tín dụng chứng từ:
1.2.7.1 Rủi ro đối với nhà xuất khẩu:
Nhà xuất khẩu có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện các điều khoản của TTD hoặc không thể thực hiện nếu nhà nhập khẩu cố tình mở TTD khác với nội dung đã thỏa thuận trước đó.
Vào thứ hai, nhà xuất khẩu đã giao hàng đúng yêu cầu nhưng lại xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với quy định thanh toán Do đó, ngân hàng đã từ chối thanh toán Trong tình huống này, nhà xuất khẩu có thể phải giảm giá lô hàng để nhà nhập khẩu chấp nhận những sai sót trong bộ chứng từ, hoặc có thể phải chịu chi phí vận chuyển hàng hóa về nước, thậm chí không thể chuyển về do sắc lệnh của Chính phủ nước nhập khẩu.
Ngay cả khi nhà xuất khẩu cung cấp bộ chứng từ hợp lệ hoặc hối phiếu trả chậm đã được chấp nhận, họ vẫn có nguy cơ không thu được tiền hàng nếu ngân hàng phát hành gặp phải tình trạng vỡ nợ hoặc phá sản.
1.2.7.2 Rủi ro đối với nhà nhập khẩu:
Rủi ro khi nhận được BCT giả mạo là một vấn đề nghiêm trọng, bởi ngân hàng phát hành chỉ thanh toán cho nhà xuất khẩu dựa trên việc kiểm tra bề mặt của BCT mà không đảm bảo tính xác thực của chứng từ Do đó, nếu chứng từ bị giả mạo, nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả số tiền mà ngân hàng phát hành đã thanh toán.
Vào thứ hai, hàng hóa có thể không được giao đúng như hợp đồng đã thỏa thuận Khi ngân hàng phát hành thông báo BCT hợp lệ, nhà nhập khẩu cần thanh toán tiền hàng trước khi nhận thông báo để lấy hàng, điều này có thể dẫn đến rủi ro cho họ.
Giao hàng trễ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh, đặc biệt khi việc điều chỉnh TTD tốn nhiều thời gian, dẫn đến việc không thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của nhà nhập khẩu.
Trong một số trường hợp, hàng hóa đã cập cảng nhưng nhà nhập khẩu chưa nhận được báo cáo kiểm tra (BCT), dẫn đến việc không thể nhận hàng Điều này gây ra chi phí lưu kho phát sinh hoặc phí bảo lãnh để ngân hàng phát hành thư bảo lãnh nhận hàng.
1.2.7.3 Rủi ro đối với ngân hàng:
*Đối với ngân hàng thông báo/ngân hàng chiết khấu:
Ngân hàng phải cẩn trọng khi thông báo TTD và các tu chỉnh liên quan, vì nếu gặp phải TTD giả mạo chữ ký hoặc mã khóa mà không phát hiện, ngân hàng sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm khi người thụ hưởng đã thực hiện giao hàng.
Rủi ro trong kiểm tra và xử lý chứng từ phát sinh do sự khác biệt trong quan điểm giữa các ngân hàng về việc xác nhận tình trạng BCT Một ngân hàng có thể xác nhận BCT là hợp lệ và thực hiện chiết khấu, trong khi ngân hàng phát hành lại coi đó là bất hợp lệ và từ chối thanh toán Nếu người xuất khẩu không còn khả năng chi trả, ngân hàng chiết khấu có thể không thu được tiền chiết khấu.
Chiết khấu các TTD có điều khoản “tự do chiết khấu tại bất kỳ ngân hàng nào” tiềm ẩn nhiều rủi ro Nếu ngân hàng chiết khấu không phải là ngân hàng thông báo TTD, việc xác định số lần tu chỉnh sẽ trở nên khó khăn và phụ thuộc hoàn toàn vào tính trung thực của người thụ hưởng Mặc dù một số ngân hàng ghi lại thứ tự các tu chỉnh trong nội dung, nhưng nhiều ngân hàng khác lại không thực hiện điều này, gây ra sự bất ổn trong quy trình.
Việc không thực hiện quy định cụ thể nào về chiết khấu tạo ra khe hở tiềm ẩn, dẫn đến rủi ro cho ngân hàng trong quá trình thực hiện.
*Đối với ngân hàng phát hành/ngân hàng xác nhận
Mở Thư tín dụng (TTD) tiềm ẩn rủi ro cho cả người yêu cầu và người thụ hưởng Đối với người yêu cầu (Applicant), nếu không ký quỹ 100%, ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi đến hạn thanh toán, nhất là khi Applicant không có khả năng thanh toán do lý do tài chính như phá sản Ngược lại, người thụ hưởng (Beneficiary) cũng phải đối mặt với rủi ro, vì ngân hàng chỉ kiểm tra bề mặt chứng từ (BCT) để xác định tính hợp lệ theo quy định của TTD Nếu BCT hợp lệ, ngân hàng phải thanh toán, nhưng nếu người thụ hưởng giả mạo chứng từ để nhận tiền, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi tiền từ nhà nhập khẩu, mặc dù không phải chịu trách nhiệm về hành vi giả mạo đó.
Rủi ro trong việc bảo lãnh nhận hàng từ ngân hàng là vấn đề quan trọng cần lưu ý Khi ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho nhà nhập khẩu nhận hàng mà chưa có vận đơn gốc, ngân hàng phải cam kết bồi thường cho hãng vận tải nếu xảy ra tổn thất Điều này có nghĩa là nếu ngân hàng không nhận được vận đơn gốc để xuất trình cho hãng vận tải nhằm đổi lấy và hủy bỏ thư bảo lãnh, ngân hàng sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hãng vận tải.
So sánh UCP 600 với UCP 500
Mục tiêu chính của việc sửa đổi UCP 600 là phản ánh những thay đổi và phát triển trong lĩnh vực ngân hàng, vận tải và bảo hiểm Sau hơn ba năm phân tích, nghiên cứu và tranh luận, ICC đã hoàn thiện UCP 600 nhằm khắc phục những hạn chế của UCP 500 UCP 600 hiện hành đã có một số thay đổi lớn so với phiên bản trước đó, UCP 500.
*UCP 500: gồm 49 điều khoản, chia làm 7 phần: A, B, C, D, E, F
*UCP600 : bao gồm 39 điều khoản Trong đó:
-Đưa ra một số điều khoản mới: điều 2, điều 3, điều 9
Một số điều khoản trong UCP500, như Điều 2, Điều 6, Điều 9 và Điều 10, đã được giữ lại một phần hoặc toàn bộ nội dung để đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả trong việc áp dụng các quy định này.
Bài viết đã được chỉnh sửa và bổ sung nội dung mới, bao gồm các điều khoản như điều 20, điều 21, điều 22, điều 30, điều 31, điều 33, điều 35, điều 36, điều 42, điều 46 và điều 47 Các nội dung này đã được sắp xếp lại một cách rõ ràng và dễ hiểu hơn.
-Dỡ bỏ một số điều khoản của UCP500: điều 5, điều 8, điều 12, điều 38
UCP 600 có một số điểm mới so với UCP 500, đặc biệt là trong Điều 2, nơi đưa ra các định nghĩa về các thuật ngữ thương mại quan trọng như ngân hàng thông báo, người yêu cầu mở TTD, và người thụ hưởng Điều này giúp làm rõ các khái niệm liên quan đến quy tắc và TTD Ngoài ra, Điều 3 của UCP 600 cũng cung cấp hướng dẫn về việc giải thích các điều khoản trong quy định.
-UCP 600 xem tất cả TTD đều là “không huỷ ngang” thậm chí trong TTD không thể hiện cụm từ “không huỷ ngang”
-Đưa thêm vào một số giải thích mới, chẳng hạn:
+Chi nhánh của một ngân hàng ở các quốc gia khác nhau được xem là những ngân hàng khác nhau
Trong bản quy tắc này, các từ ở dạng số ít bao gồm cả số nhiều và ngược lại Điều 9 quy định về thông báo thư tín dụng và các điều chỉnh Ngoài những điểm tương tự với điều 7 và điều 11.b của UCP 500, ICC đã bổ sung một điểm mới.
-Mục c: Ngân hàng thông báo có thể sử dụng dịch vụ của một ngân hàng khác
Ngân hàng thông báo thứ hai có nhiệm vụ thông báo về TTD và các điều chỉnh cho người thụ hưởng Qua việc thông báo TTD hoặc các tu chỉnh, ngân hàng xác nhận rằng nó đã đảm bảo tính chân thật bề ngoài của thông báo mà nó đã phát hành.
Điều 20 xác nhận rằng thông báo phản ánh đúng các điều kiện và điều khoản của TTD cùng với các điều chỉnh đã nhận Trong khi đó, Điều 13 đề cập đến thỏa thuận hoàn trả tiền giữa các ngân hàng.
Điều khoản này quy định về quy trình hoàn trả liên ngân hàng, tương tự như điều 19 của UCP 500, nhưng bổ sung thêm nội dung mới nhằm làm rõ các điều kiện và thủ tục liên quan đến việc hoàn trả.
Nếu việc hoàn trả tuân thủ các quy tắc hoàn trả liên ngân hàng của ICC (URR 525), điều này cần được nêu rõ trong TTD Nếu không được chỉ định, việc hoàn trả sẽ được thực hiện theo mục b của điều 13 UCP 600 Điều 14 quy định về tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ.
-Mục b: thời gian tối đa để ngân hàng kiểm tra chứng từ là 5 ngày kể từ ngày xuất trình thay vì là 7 ngày như điều 13.b UCP 500
Mục d của UCP 600 quy định rằng dữ liệu trong một chứng từ không cần phải hoàn toàn giống với thông tin trong TTD, miễn là không mâu thuẫn với quy định của TTD và các chứng từ khác.
Theo UCP 600, địa chỉ của người mở và người thụ hưởng trong các chứng từ không cần phải giống nhau hoặc giống với TTD, nhưng phải thuộc cùng một quốc gia với địa chỉ trong TTD Các thông tin như điện thoại, số fax và email sẽ không được xem xét Tuy nhiên, đối với chứng từ vận tải, địa chỉ của người nhận và người được thông báo phải khớp với TTD.
Theo UCP 600, một chứng từ vận tải có thể được cấp bởi bất kỳ bên nào không phải là người chuyên chở, chủ tàu, thuyền trưởng hoặc người thuê tàu, miễn là chứng từ đó đáp ứng các yêu cầu của Điều 19, 20, 21 và 22.
23, 24 của quy tắc này Điều 38: Thư tín dụng chuyển nhượng
Tương tự điều điều 48 UCP 500 Tuy nhiên có bổ sung một số nội dung mới như sau:
Nếu người thụ hưởng thứ nhất trình hoá đơn có sai sót và không sửa đổi theo yêu cầu của ngân hàng chuyển nhượng, ngân hàng này có quyền xuất trình hoá đơn từ người thụ hưởng thứ hai cho ngân hàng phát hành BCT mà không chịu trách nhiệm với người thụ hưởng thứ nhất.
*Ngoài ra điểm thay đổi chung cho các điều khoản về chứng từ vận tải từ điều
19 đến điều 22 của UCP 600 so với các điều 23 đến 26 của UCP500 như sau:
Khi đại lý ký vận đơn thay mặt cho thuyền trưởng hoặc người chuyên chở, chỉ cần ghi rõ rằng đại lý đã ký thay mà không cần nêu tên cụ thể của thuyền trưởng hoặc người chuyên chở trên chứng từ Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, ngoài việc yêu cầu chữ ký của thuyền trưởng, chủ tàu hoặc đại lý của họ, vận đơn còn cần có chữ ký của người thuê tàu hoặc đại lý của người thuê tàu.
Khi đại lý ký vận đơn thay cho thuyền trưởng, chủ tàu hoặc người thuê tàu, chỉ cần ghi rõ rằng đại lý đã ký thay cho các bên này mà không cần nêu tên cụ thể của thuyền trưởng, chủ tàu hoặc người thuê tàu trong chứng từ vận tải.
Lịch sử hình thành MHB
Ngân hàng Phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long (Mekong Housing Bank - MHB) được thành lập vào ngày 18/09/1997 và chính thức hoạt động từ ngày 08/04/1998, với nhiệm vụ chính là cung cấp tín dụng nhà ở cho các khu dân cư trọng điểm và hỗ trợ doanh nghiệp trong chương trình nhà ở tại ĐBSCL Vào ngày 23/10/2001, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại MHB, chuyển đổi ngân hàng thành một NHTM đa năng, thực hiện nhiều dịch vụ như huy động tiền gửi, cho vay và giao dịch ngoại tệ Khác với các NHTM quốc doanh khác, MHB ra đời trong bối cảnh không có nền tảng sẵn có, với hoạt động ban đầu chỉ diễn ra tại trụ sở chính ở TP Hồ Chí Minh, không có mạng lưới chi nhánh MHB xác định rõ ràng việc mở rộng mạng lưới để phát triển bền vững.
Lưới hoạt động của MHB đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ tài chính cho người dân, giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng Kể từ năm 2001, MHB đã có nhiều bước đột phá trong việc mở rộng hệ thống mạng lưới, với 07 chi nhánh và 05 phòng giao dịch trực thuộc Hiện tại, MHB được coi là một trong những ngân hàng thương mại có hệ thống mạng lưới phát triển nhanh nhất, với 158 chi nhánh và phòng giao dịch trải dài từ Lạng Sơn đến huyện đảo Phú Quốc sau 10 năm hoạt động, xếp thứ 6 trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Sau 10 năm xây dựng và phát triển, ngoài việc mở rộng mạng lưới, MHB cũng đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trên nhiều mặt: tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh, tăng trưởng tín dụng, nâng cao thu nhập
Các hoạt động chủ yếu của MHB
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Bảng 2.1: Huy động vốn của MHB đến Quý 1/2008 Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, quý 1/2008
Với vốn hoạt động ban đầu 300 tỷ đồng, MHB đã tập trung vào việc tăng trưởng an toàn và hiệu quả, chú trọng đến cả quy mô và chất lượng nguồn vốn Trong 10 năm qua, tổng nguồn vốn của MHB đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 65%, trong đó vốn huy động tăng trưởng mạnh mẽ và chiếm tỷ trọng lớn nhất Đến nay, vốn huy động của MHB đạt 25.500 tỷ đồng, chiếm gần 90% tổng nguồn vốn, phản ánh những thành công đáng kể trong công tác huy động vốn của ngân hàng.
25 ngân hàng mới thành lập gần đây vẫn chưa xây dựng được thương hiệu mạnh mẽ và chưa được quảng bá rộng rãi, dẫn đến việc chưa thu hút được nhiều khách hàng Đồng thời, họ cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các ngân hàng thương mại hiện có.
MHB là ngân hàng an toàn hàng đầu Việt Nam với tỷ lệ an toàn vốn luôn vượt mức chuẩn quốc tế 8% Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu, MHB đã quản lý nguồn vốn theo các chuẩn mực quốc tế, giúp ngân hàng không bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường tiền tệ và đảm bảo nguồn vốn khả dụng cho hoạt động.
Bảng 2.2: Dư nợ tín dụng của MHB đến Quý 1/2008 Đơn vị: tỷ đồng
Dư nợ tín dụng XNK 959 1.363 2.090 3.260 4.515 5.054
% Dư nợ tín dụng XNK 24,78 22,09 24,68 32,56 33,19 34,20
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, quý 1/2008
MHB, với nhiệm vụ trọng tâm ban đầu là tín dụng nhà ở, đã tổ chức các tổ cho vay lưu động tại các cụm dân cư trọng điểm vùng ngập lũ, mặc dù cơ chế chính sách cho vay nhà ở còn mới mẻ và mạng lưới hạn chế Đến cuối năm 1998, dư nợ cho vay đã đạt trên 67 tỷ đồng, trong khi tín dụng xuất nhập khẩu gần như bằng 0.
Kể từ khi MHB chuyển mình thành ngân hàng thương mại hoạt động đa năng, dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu (XNK) đã có sự tăng trưởng ổn định, góp phần vào sự gia tăng tổng dư nợ tín dụng Đến cuối quý 1 năm 2008, tổng dư nợ đạt gần 15.000 tỷ đồng, trong đó dư nợ tín dụng XNK chiếm 34,20%.
10 năm qua là một chặng đường mà hoạt động tín dụng MHB đã phấn đấu, vượt qua khó khăn, thách thức để phát triển ( Bi ể u đồ D ư n ợ tín d ụ ng t ạ i ph ụ l ụ c 3)
MHB đã nỗ lực để đạt được tăng trưởng tín dụng đồng thời giảm tỷ lệ nợ quá hạn (NQH), hiện tại NQH chỉ ở mức 2% tổng dư nợ.
Hiệu quả kinh doanh của MHB
Tính đến cuối năm 2007, MHB đã hoạt động được 10 năm, nhưng trong 5 năm đầu (1998-2002), nhiệm vụ chính của ngân hàng chỉ tập trung vào tín dụng nhà ở cho cư dân ĐBSCL, trong khi các loại hình tín dụng và dịch vụ khác chưa được chú trọng Kết quả là, lợi nhuận trong giai đoạn này rất thấp, trung bình chưa đến 20 tỷ đồng mỗi năm.
Trong 05 năm gần đây, kể từ sau năm 2002, MHB đã có những bước phát triển đột phá Năm 2007 mức lợi nhuận ròng đạt 188 tỷ đồng, gấp 15 lần so với năm
1998 (12,5 tỷ) tăng 31,47% so với năm 2006
Chỉ số ROA và ROE của MHB đã có sự cải thiện đáng kể trong những năm qua, với ROA năm 2007 đạt 0,69%, mặc dù thấp hơn so với năm 2005 do tổng tài sản tăng nhanh Lợi nhuận ròng năm 2007 tăng 89,57% so với năm 2005, trong khi tổng tài sản tăng 114,51% Đặc biệt, ROE năm 2007 đạt 16,91%, vượt chỉ tiêu 15% theo đề án tái cơ cấu của Chính Phủ, cho thấy MHB đã linh hoạt trong việc quản lý đầu tư và sử dụng nợ hiệu quả Hiện tại, MHB tự hào là một trong những ngân hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và an toàn hàng đầu Việt Nam, với tỷ lệ an toàn vốn luôn vượt mức chuẩn quốc tế 8%.
Bảng 2.3: Hiệu quả hoạt động kinh doanh của MHB đến 2007 ĐV: tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN TDCT TẠI MHB.
Hoạt động thanh toán quốc tế tại MHB đã được triển khai từ năm 2001, bao gồm cả nghiệp vụ thanh toán TDCT Sau hơn 7 năm hoạt động, phương thức thanh toán TDCT vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong cả lĩnh vực nhập khẩu và xuất khẩu.
Bảng 2.4 Doanh số thanh toán TTD nhập khẩu từ năm 2001 đến Quý 1/2008 Đv: triệu USD, %
Thanh toán TTD NK 6,23 8,30 15,74 23,75 36,45 55,76 100,73 50,40 (+/-) so với cùng kỳ - 33,23 89,64 50,89 53,47 52,98 80,65 85,30
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động TTQT của MHB từ năm 2001 đến 2007, quý 1/2008
Giai đoạn 2001-2002 đánh dấu sự khởi đầu nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại MHB, nhưng gặp nhiều khó khăn do lượng khách hàng thanh toán xuất nhập khẩu còn ít và cơ sở vật chất hạn chế MHB chưa kết nối với hệ thống thanh toán qua mạng SWIFT toàn cầu, trong khi mạng lưới ngân hàng đại lý chỉ đạt mức khiêm tốn Dịch vụ thanh toán quốc tế chủ yếu được thực hiện qua mạng telex lỗi thời, dẫn đến doanh số thanh toán TTD NK trong hai năm này chỉ đạt vài triệu USD.
Sau 2 năm nỗ lực, năm 2003, MHB đã kết nối được mạng swift, thiết lập được hơn 300 ngân hàng đại lý tại 50 quốc gia trên thế giới, tăng dần số lượng khách hàng thanh toán XNK tại ngân hàng Kết quả là thanh toán TTD NK có tốc độ tăng trưởng vượt bậc, tăng 89,64% so với năm 2003 Năm 2004-2006, doanh số thanh toán TTD NK tiếp tục tăng trưởng, năm sau luôn cao hơn năm trước
Năm 2007 ghi dấu ấn mạnh mẽ trong hoạt động thanh toán TTD NK tại MHB, với doanh số đạt 100,73 triệu USD, gấp đôi so với năm 2006 Đây là mức tăng trưởng ấn tượng nhất trong 7 năm qua, phản ánh xu thế tích cực trong tình hình NK.
MHB triển khai 28 mạnh dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu thông qua các chiến lược hiệu quả, bao gồm việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tiếp tại doanh nghiệp và phát triển dịch vụ thanh toán biên mậu Việt Nam - Trung Quốc tại các địa điểm quan trọng như Lạng Sơn, Móng Cái và Lào Cai.
Trong ba tháng đầu năm 2008, kim ngạch nhập khẩu của cả nước tăng mạnh, đạt 20,39 tỷ USD, tăng 62,5% so với cùng kỳ năm trước, nhờ vào sự gia tăng khối lượng hàng nhập và giá cả Sự tăng trưởng này đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động thanh toán thương mại dịch vụ nhập khẩu của MHB, với kim ngạch thanh toán đạt 50,40 triệu USD, tăng 85,29% so với 27,20 triệu USD của quý 1/2007.
Bảng 2.5 Doanh số thanh toán nhập khẩu theo 03 phương thức: Đv: triệu USD
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động TTQT của MHB từ năm 2001 đến 2007, quý 1/2008
Hoạt động thanh toán quốc tế tại MHB chủ yếu liên quan đến ba phương thức cơ bản: Tín dụng chứng từ, Nhờ thu và Chuyển tiền Trong đó, Tín dụng chứng từ (TDCT) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch thanh toán hàng nhập khẩu, đạt từ 50-53% qua các năm Điều này dễ hiểu vì TDCT không chỉ đảm bảo người mua nhận được hàng mà còn giúp người bán nhận được tiền một cách an toàn nhất, do đó, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường ưu tiên phương thức này cho giao dịch của mình.
Bảng 2.6 Doanh số thanh toán TTD xuất khẩu từ năm 2001 đến Quý 1/2008 Đv: triệu USD, %
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động TTQT của MHB từ năm 2001 đến 2007, quý 1/2008
Tương tự như hoạt động thanh toán TTD NK, doanh số thanh toán TTD XK đã có sự gia tăng đáng kể từ năm 2003, nhờ vào những cải cách nội tại của MHB.
Từ năm 2004 đến 2006, bên cạnh việc tập trung vào thanh toán hàng nhập khẩu, ban lãnh đạo MHB cũng chú trọng đẩy mạnh hoạt động thanh toán hàng xuất khẩu, dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong kim ngạch thanh toán.
TTD XK tăng dần qua các năm
Năm 2007 đánh dấu thành công lớn trong xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam, với MHB đạt kim ngạch thanh toán TTD xuất khẩu cao nhất lên đến 202,37 triệu USD, gấp 20 lần so với năm 2001 Trong quý 1 năm 2008, kim ngạch thanh toán TTD xuất khẩu tiếp tục có dấu hiệu tăng trưởng.
MHB đã tăng trưởng 65,91% so với 40,98 triệu USD của quý 1/2007, tuy nhiên, mức tăng này có dấu hiệu chững lại Nguyên nhân chủ yếu là do đồng USD giảm giá mạnh trong ba tháng đầu năm 2008, cùng với việc chính sách kiểm soát tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước đã gây khó khăn cho việc tài trợ doanh nghiệp xuất khẩu, dẫn đến sự thu hẹp trong các đơn hàng của họ.
Bảng 2.7 Doanh số thanh toán xuất khẩu theo 03 phương thức: Đv: triệu USD Năm
Doanh số thanh toán TTD XK đã chiếm tỷ trọng cao nhất trong hơn 7 năm, đạt từ 53-69% kim ngạch thanh toán XK Các doanh nghiệp XK ưa chuộng phương thức này nhờ vào tính ưu việt và khả năng nhận được tài trợ từ ngân hàng Họ có thể chiết khấu BCT XK trước khi nhận thanh toán từ ngân hàng phát hành, mang lại lợi ích vượt trội so với các phương thức khác tại MHB hoặc các NHTM khác MHB và các NHTM thường mạnh dạn hơn trong việc chiết khấu BCT.