1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam

45 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Nợ Công Đối Với Tăng Trưởng Kinh Tế Ở Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Thảo
Người hướng dẫn PGS. TS. Phan Thị Bích Nguyệt
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 45
Dung lượng 1,12 MB

Cấu trúc

  • 1. Giới thiệu mục tiêu nghiên cứu và vấn đề cần nghiên cứu (9)
  • 2. Các kết quả nghiên cứu trước đây (10)
  • 3. Phương pháp nghiên cứu (14)
    • 3.1. Phương pháp thu thập số liệu (14)
    • 3.2. Phương pháp nghiên cứu (15)
  • 4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu (15)
    • 4.1. Tình hình nợ công ở Việt Nam (15)
    • 4.2. Xây dựng và kiểm định mô hình thực nghiệm (19)
    • 4.3. Những kiểm chứng mạnh khác (35)
  • 5. Kết luận (43)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (45)

Nội dung

Giới thiệu mục tiêu nghiên cứu và vấn đề cần nghiên cứu

Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt đầu vào năm 2010, khởi nguồn từ Hy Lạp và nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia như Bồ Đào Nha, Ireland, Italia và Tây Ban Nha, tạo ra một thời kỳ khó khăn cho nền kinh tế toàn cầu Hiện nay, nợ công trở thành chủ đề nóng được thảo luận sôi nổi trong giới nghiên cứu kinh tế và chính trị ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam.

Việt Nam, với trình độ phát triển thấp, cần nguồn vốn lớn để đầu tư cho kinh tế - xã hội, nhưng ngân sách thu từ thuế không đủ đáp ứng Do đó, việc vay nợ, đặc biệt là nợ nước ngoài, trở nên cần thiết Vấn đề đặt ra là ngưỡng nợ công an toàn của Việt Nam là bao nhiêu để đảm bảo phát triển mà không rơi vào khủng hoảng nợ Cần xác định mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế: nếu nợ công có mối quan hệ tuyến tính, nợ cao có thể dẫn đến tăng trưởng cao mà không cần lo ngại về ngưỡng nợ Ngược lại, nếu nợ công vượt qua ngưỡng an toàn, nó sẽ tác động tiêu cực đến tăng trưởng Do đó, việc tìm ra ngưỡng nợ công an toàn là rất quan trọng Trong bối cảnh nghiên cứu hiện tại chủ yếu dựa trên mối quan hệ tuyến tính, tác giả đã chọn mô hình phi tuyến tính để xác định ngưỡng an toàn cho nợ công của Việt Nam.

Nợ công không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế mà còn có thể tác động gián tiếp thông qua các kênh truyền dẫn trung gian Tại Việt Nam, cần xác định các kênh này, phân loại chúng theo mức độ tác động tích cực hay tiêu cực và đánh giá kênh nào có ảnh hưởng lớn nhất đến tăng trưởng kinh tế Do đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu "Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam" để làm rõ những vấn đề trên.

Nghiên cứu định lượng tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1996 đến 2011, thông qua các kênh truyền dẫn trung gian như tiết kiệm, cán cân tài khoản vãng lai, sự hình thành tổng vốn cố định, lãi suất thực, lạm phát và độ mở thương mại.

- Xác định ngưỡng nợ và khoảng tin cậy của ngưỡng nợ ở Việt Nam trong giai đoạn 1996 – 2011.

Các kết quả nghiên cứu trước đây

Hiện nay, trên thế giới có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế

Một số tác giả cho rằng nợ công và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ phi tuyến

Trong nghiên cứu “Growth in a Time of Debt” (2010), các tác giả Carmen M Reinhart và Kenneth S Rogoff đã phân tích mối liên hệ giữa nợ công và tốc độ tăng trưởng GDP thực của 20 quốc gia phát triển trong hai thập kỷ Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về ảnh hưởng của nợ công đối với sự phát triển kinh tế.

Nghiên cứu từ năm 1790 đến 2009 cho thấy mối quan hệ giữa nợ chính phủ và tăng trưởng dài hạn là yếu khi tỷ lệ nợ trên GDP dưới 90% Khi tỷ lệ này vượt quá 90%, tốc độ tăng trưởng trung vị giảm khoảng 1%, trong khi tốc độ tăng trưởng bình quân giảm đáng kể khoảng 1,7% Tương tự, khảo sát trên 24 nền kinh tế mới nổi từ 1946 đến 2009 cũng cho kết quả tương tự Hơn nữa, nghiên cứu chỉ ra rằng không có mối tương quan rõ ràng giữa lạm phát và nợ công ở các nước phát triển, nhưng ở các nước thị trường mới nổi, lạm phát tăng mạnh khi nợ công gia tăng.

Nghiên cứu của Manmohan Kumar và Jaejoon Woo (2010) về "Nợ công và tăng trưởng" cho thấy nợ cao có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở cả nền kinh tế phát triển và mới nổi từ năm 1970 đến 2007 Cụ thể, khi nợ công của một quốc gia tăng 10%, tăng trưởng kinh tế hàng năm giảm 0,15 điểm phần trăm đối với các nền kinh tế tiên tiến và 0,2 điểm phần trăm đối với các nền kinh tế mới nổi Sự suy giảm này chủ yếu do giảm đầu tư và năng suất lao động, với việc nợ ban đầu tăng 10% dẫn đến đầu tư giảm khoảng 0,4% GDP, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi.

Cristina D Checherita và Philipp Rother trong bài nghiên cứu “Tác động của nợ công cao và đang gia tăng đến tăng trưởng kinh tế: Một cuộc điều tra thực nghiệm cho khu vực Euro” (2010) cho rằng khi tỷ lệ nợ công trên GDP vượt qua ngưỡng 90-100%, tăng trưởng kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực Họ khuyến nghị rằng khi tỷ lệ nợ công đạt mức 70-80% GDP, cần thực hiện chính sách vay nợ thận trọng hơn Nghiên cứu cũng trình bày mô hình tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh như tiết kiệm tư, đầu tư công, tổng năng suất các yếu tố, lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực dài hạn.

Theo nghiên cứu "Finding the tipping point - when sovereign debt turns bad" (2010) của các chuyên gia kinh tế Mehmet Caner, Thomas Grennes và Koehler Fritzi-Geib từ Ngân hàng Thế giới, nợ công đang gia tăng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và dự kiến sẽ tiếp tục tăng Sự gia tăng này đã tạo ra lo ngại rằng nợ công có thể đạt đến ngưỡng gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ dài hạn giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1980-2008.

Nghiên cứu về 101 quốc gia, bao gồm 75 quốc gia phát triển và 26 quốc gia đang phát triển, đã chỉ ra sự tồn tại ngưỡng nợ và ước tính ngưỡng nợ cho từng quốc gia, từ đó đề xuất các chính sách phù hợp để đối phó với nguy cơ khủng hoảng nợ Mức ngưỡng nợ công trung bình dài hạn so với GDP là 77% cho nhóm mẫu chung và 64% cho các nước phát triển Khi tỷ lệ nợ công vượt quá ngưỡng, mỗi phần trăm tăng lên sẽ làm giảm tỷ lệ tăng trưởng GDP 0,0174 điểm phần trăm, trong khi dưới ngưỡng, mỗi phần trăm tăng sẽ làm tăng tỷ lệ tăng trưởng GDP 0,0653 điểm phần trăm Đối với các quốc gia đang phát triển, mỗi phần trăm tăng lên của tỷ lệ nợ khi vượt quá ngưỡng sẽ làm giảm tỷ lệ tăng trưởng GDP 0,0203 điểm phần trăm, còn dưới mức này sẽ làm tăng tỷ lệ tăng trưởng GDP 0,0739 điểm phần trăm.

Một số tác giả không đồng ý với quan điểm cho rằng nợ công cao sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu của hai nhà kinh tế Pháp năm 2012 cho thấy kinh tế vẫn phát triển khi tỷ lệ nợ công vượt 115% GDP Joseph Gagnon, cựu nhân viên Ngân hàng Trung ương Mỹ, cho rằng mức 90% của Rogoff và Reinhart là ngưỡng tổn thương thực sự, nhưng không áp dụng cho các quốc gia kiểm soát tiền tệ Từ năm 2009, chính phủ Mỹ đã tăng cường chi tiêu để đối phó với suy thoái, dẫn đến nợ công lên tới 16.700 tỷ USD, chiếm gần 107% GDP Nhiều nhà phân tích cho rằng Fed có vị thế đặc biệt do USD là đồng tiền mạnh và phổ biến toàn cầu Trong khi đó, khu vực eurozone tiếp tục suy thoái với dự báo giảm 0,3% trong năm 2013, dù tỷ lệ nợ công ở đây thấp, như Tây Ban Nha năm 2012 giảm 1,4% mặc dù nợ công chỉ chiếm 77,4% GDP.

Trong những năm gần đây, nợ công đã trở thành một vấn đề quan trọng được thảo luận và nghiên cứu sâu tại Việt Nam Nghiên cứu “Quan hệ giữa đầu tư công và nợ công” của TS Vũ Đình Ánh (2011) chỉ ra rằng quy mô đầu tư công tại Việt Nam đã liên tục tăng cao từ năm 1995 đến 2011, bao gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước và doanh nghiệp nhà nước Tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư xã hội có sự biến động mạnh, với mức thấp nhất là 13% vào năm 2008 do chính sách tài khóa thắt chặt để chống lạm phát, và cao nhất đạt 50-60% trong giai đoạn 1996-2005 nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998.

Vũ Đình Ánh chỉ ra rằng nợ công ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, mặc dù số liệu từ Bộ Tài chính không hoàn toàn khớp với các tổ chức quốc tế như IMF Tuy nhiên, cơ cấu nợ công vẫn an toàn và khả năng trả nợ được đảm bảo, mặc cho nợ nước ngoài tăng Tác giả nhấn mạnh rằng đầu tư công liên quan trực tiếp đến nợ công, với ngân sách nhà nước chủ yếu dành cho đầu tư và được tài trợ từ vay nợ Hầu hết các khoản vay cũng phục vụ cho đầu tư công, cho chính phủ, chính quyền địa phương, hoặc doanh nghiệp nhà nước Phân tích giai đoạn 2001-2011 cho thấy, mặc dù nợ công và nợ nước ngoài tăng mạnh, đầu tư công lại có xu hướng giảm so với GDP thực tế Cuối cùng, tác giả đặt ra câu hỏi về mối quan hệ nghịch biến giữa đầu tư công và nợ công, liệu có phải do cơ cấu nợ đã chuyển dịch từ đầu tư sang tiêu dùng.

Nguyễn Hữu Tuấn cho rằng không thể áp dụng con số 90% GDP từ các nghiên cứu nước ngoài làm tiêu chuẩn cho ngưỡng nợ công ở Việt Nam, vì tiêu chuẩn này cần phải phù hợp với đặc trưng kinh tế và môi trường thể chế của từng quốc gia Trong nghiên cứu "Mối quan hệ nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Việt Nam" (2012), ông đã sử dụng thuyết "debt overhang" và mô phỏng bằng đường cong Laffer nợ để phân tích mối liên hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Kết quả cho thấy tồn tại đường cong Laffer nợ công, với điểm tối ưu về tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP thực của Việt Nam vào khoảng 65% Hơn nữa, nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa thống kê.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập số liệu

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ năm 1996 đến 2011, phân tích các yếu tố như tốc độ tăng trưởng GDP, nợ nước ngoài, tiết kiệm, cán cân tài khoản vãng lai, hình thành tổng vốn cố định, lãi suất thực, lạm phát và độ mở thương mại của Việt Nam, với thông tin được thu thập từ IMF và WB.

Tốc độ tăng trưởng GDP, tiết kiệm, cán cân tài khoản vãng lai, sự hình thành tổng vốn cố định, lãi suất thực, lạm phát và độ mở thương mại đều được thu thập từ Ngân hàng Thế giới (WB).

Nợ nước ngoài được tính theo tỷ lệ phần trăm GNI (nợ nước ngoài so với GNI) được thu thập từ ADB và sau đó được điều chỉnh theo GDP để thay thế cho dữ liệu về nợ công, nhằm ước lượng trong mô hình hồi quy.

Phương pháp nghiên cứu

Mô hình hồi quy bội được ước lượng bằng phương pháp OLS nhằm nghiên cứu tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các kênh truyền dẫn trung gian như tiết kiệm, cán cân tài khoản vãng lai, sự hình thành tổng vốn cố định, lãi suất thực, lạm phát và độ mở thương mại trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2011.

- Sử dụng phương pháp phân tích sâu dạng hàm đa thức và phương pháp bootstrapping để xác định ngưỡng nợ và khoảng tin cậy của ngưỡng nợ.

Nội dung và các kết quả nghiên cứu

Tình hình nợ công ở Việt Nam

Trong bối cảnh nợ công tại Việt Nam đang là một ẩn số, với khả năng tiềm tàng khủng hoảng có thể xảy ra bất cứ lúc nào, Bộ Tài chính đã có bước đi quan trọng khi phát hành Bản tin về nợ công Hành động này không chỉ giúp minh bạch hóa thông tin mà còn hỗ trợ giới nghiên cứu tiếp cận những con số chính thức, mặc dù chưa bàn đến tính chính xác của các số liệu này.

Việc thực hiện các đánh giá phân tích có cơ sở khoa học không chỉ nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính và quản lý nợ, mà còn góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

Theo Báo cáo nợ công số 1 ngày 06/02/2013, Bộ Tài chính công bố số liệu nợ công Việt Nam giai đoạn 2010-2011, với tổng dư nợ công lần lượt là 56,3% GDP năm 2010 và 54,9% GDP năm 2011 Nợ nước ngoài chiếm 42,2% GDP năm 2010 và 41,5% GDP năm 2011, trong khi dư nợ chính phủ là 44,6% GDP năm 2010 và 43,2% GDP năm 2011 Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách lần lượt là 17,6% năm 2010 và 15,6% năm 2011 Theo Chiến lược nợ công giai đoạn 2011-2020, mục tiêu là không quá 65% GDP vào năm 2015, với dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài không quá 50% GDP Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không được vượt quá 25% tổng thu ngân sách hàng năm, và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài dưới 25% giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ Như vậy, tỷ lệ nợ công 54,9% GDP năm 2011 phù hợp với tiêu chuẩn an toàn nợ theo thông lệ quốc tế.

Bảng 4.1: Nợ công Việt Nam qua các năm (% GDP)

Ghi chú: Ngưỡng nợ công và nợ nước ngoài do Bộ Tài chính đề xuất

Nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững là nợ công hiện tại phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách trong tương lai Tuy nhiên, tại Việt Nam, thâm hụt ngân sách đã trở thành vấn đề kinh niên, với mức thâm hụt vượt quá ngưỡng "báo động đỏ" 5% theo tiêu chuẩn quốc tế, điều này đang đe dọa tính bền vững của nợ công.

Bảng 4.2: Thâm hụt ngân sách Việt Nam qua các năm (% GDP)

Thâm hụt ngân sách bao gồm cả chi trả nợ gốc -4,9 -4,9 -4,9 -5,0 -5,7 -4,6 -6,9 -5,6 -4,9 Thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc

Mặc dù vốn vay ngày càng tăng, hiệu quả đầu tư của nền kinh tế Việt Nam lại đang giảm sút nghiêm trọng, với chỉ số ICOR tăng mạnh từ 3,5 trong giai đoạn 1991 - 1995 lên 6,15 vào năm 2007 - 2008 Đặc biệt, năm 2009, chỉ số ICOR đã vọt lên 8, và dù năm 2010 giảm xuống 6,2, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức khuyến cáo.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), đối với các nước đang phát triển, chỉ số ICOR ở mức 3 cho thấy đầu tư hiệu quả và nền kinh tế phát triển bền vững Tuy nhiên, nếu chỉ số ICOR chung của nền kinh tế là 8, thì khu vực kinh tế Nhà nước lại có chỉ số ICOR lên tới 12 Khu vực công chủ yếu sử dụng vốn vay nhưng lại không mang lại hiệu quả, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải và thất thoát lãng phí.

Trong cơ cấu nợ công của Việt Nam, nợ nước ngoài đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao nhất Cụ thể, theo Bảng 4.1, năm 2010, nợ nước ngoài chiếm 42,2% tổng nợ công so với GDP, tăng từ 39% của năm 2009 và là mức cao nhất kể từ trước đến nay.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài đóng góp một tỷ lệ lớn trong cơ cấu vốn đầu tư của Việt Nam, điều này làm cho nền kinh tế quốc gia dễ bị tổn thương khi kinh tế toàn cầu gặp khó khăn và dòng vốn này suy giảm.

Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam đến từ các khoản vay ODA, chiếm 60,3% tổng nợ công theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính.

29,8% nguồn vốn được tài trợ từ trái phiếu trong nước Nhiều khoản vay ODA có thời gian vay dài và lãi suất ưu đãi, như vay từ WB với thời hạn 40 năm, ân hạn 10 năm và lãi suất chỉ 0,75% Tương tự, vay từ ADB có thời hạn 30 năm, ân hạn 10 năm với lãi suất 1%, trong khi vay từ Nhật Bản có thời hạn 30 năm, ân hạn 10 năm và lãi suất dao động từ 1% đến 2%, thường là 1%.

Các điều khoản ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm áp lực nợ công, nhưng các khoản vay này thường đi kèm với ràng buộc về chính trị và kinh tế Sự gia tăng nợ kéo theo những ràng buộc này cũng trở nên lớn hơn Khủng hoảng nợ tại Argentina năm 2001 và tình trạng bất ổn ở Hy Lạp hiện nay là những ví dụ điển hình cho tác động tiêu cực của nợ công từ nước ngoài.

Nợ nước ngoài của Việt Nam có cơ cấu đa dạng, giúp hạn chế rủi ro về tỉ giá và giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ Tuy nhiên, sự đa dạng này cũng tiềm ẩn rủi ro khi thị trường tài chính toàn cầu biến động Năm 2010, tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD (22,16%) và JPY (38,83%) đã làm gia tăng chi phí gốc và lãi do tỉ giá USD/VND tăng và JPY lên giá so với USD Điều này dẫn đến việc Việt Nam phải chi nhiều USD hơn để mua Yên khi đến hạn trả nợ, từ đó làm gia tăng tổng nợ nước ngoài và nợ công.

Mặc dù nợ công của Việt Nam so với GDP được coi là an toàn, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro Khi nợ công tăng cao, không chỉ gây ra hậu quả kinh tế, mà còn đe dọa chủ quyền quốc gia do áp lực từ các chủ nợ và tổ chức tài chính quốc tế Điều này có thể dẫn đến bất ổn xã hội khi Nhà nước không đảm bảo an sinh cho người dân, thường biểu hiện qua việc thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội và khó khăn trong giải quyết thất nghiệp.

Yêu cầu cải cách thể chế và thay đổi bộ máy quản lý là cần thiết để hướng tới nền kinh tế tự do hóa hơn Hơn nữa, việc phụ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài có thể làm suy yếu vị thế quốc gia trong các mối quan hệ song phương và đa phương với các nước chủ nợ.

Mối quan ngại về già hóa dân số tại Việt Nam đang gia tăng, dự báo sẽ dẫn đến sự gia tăng đáng kể nợ công trong những thập kỷ tới Sự thu hẹp của lực lượng lao động sẽ làm giảm nguồn thu thuế của chính phủ, trong khi số người nghỉ hưu ngày càng tăng sẽ tạo áp lực lớn lên chi tiêu công cho lương hưu và chăm sóc sức khỏe Do đó, việc quản lý nợ công một cách hiệu quả trở thành vấn đề cấp bách cần được quan tâm hàng đầu.

Xây dựng và kiểm định mô hình thực nghiệm

Nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế đã khảo sát mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, với sự chú ý đặc biệt đến mô hình phi tuyến tính Cách tiếp cận này cho rằng nợ chỉ có tác động tích cực đến tăng trưởng trong một giới hạn nhất định của tỷ lệ nợ so với GDP, tồn tại một ngưỡng nợ mà khi vượt qua, nợ sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng Tác giả áp dụng phương pháp phi tuyến tính để xác định mối quan hệ này tại Việt Nam và tính toán ngưỡng nợ an toàn, sử dụng mô hình hàm đa thức bậc hai tương tự như nghiên cứu của Christina Checherita và Philipp Rother về tác động của nợ cao đến tăng trưởng kinh tế tại khu vực Euro.

+ pop_growth t +biến kiểm soát (CA_bal t-1 , fixed_K, real_int t-1 , inflation t-1 , priv_credit, openness) +  Trong đó, tên các biến được thể hiện trong bảng 4.3

Bảng 4.3: Tên các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Tên viết tắt của biến Tên biến/mô tả eco_gr Tăng trưởng kinh tế (%) debt Nợ nước ngoài (%GDP)

GDP bình quân đầu người (VND) phản ánh sức mạnh kinh tế của một quốc gia, trong khi tổng tiết kiệm toàn nền kinh tế (%GDP) cho thấy khả năng tích lũy tài chính Tỷ lệ tăng trưởng dân số (pop_growth) là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, và độ mở thương mại (% tổng xuất nhập khẩu / GDP) đánh giá mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia.

Cán cân tài khoản vãng lai chiếm tỷ lệ phần trăm GDP, trong khi sự hình thành tổng vốn cố định cũng được thể hiện dưới dạng phần trăm GDP Lãi suất thực là một yếu tố quan trọng, cùng với tỷ lệ thay đổi hàng năm trong chỉ số điều chỉnh GDP ở mức giá thị trường Cuối cùng, tín dụng trong nước của khu vực tư nhân cũng được tính toán theo tỷ lệ phần trăm GDP.

Tác giả sử dụng số liệu về nợ nước ngoài để đại diện cho nợ công do thiếu minh bạch trong thông tin công bố nợ công tại Việt Nam Mặc dù việc phát hành Bản tin về nợ công Việt Nam gần đây là một bước tiến tích cực, nhưng dữ liệu vẫn chưa đủ dài để phục vụ nghiên cứu Hơn nữa, sự không đồng nhất trong cách tính nợ công giữa Việt Nam và các tổ chức quốc tế như WB, IMF, và ADB gây khó khăn trong việc thu thập dữ liệu Nợ nước ngoài không chỉ là một thành phần lớn mà còn có vai trò quan trọng, thường biến động tương tự như nợ quốc gia, đồng thời đi kèm với các rủi ro như khả năng mất khả năng trả nợ và rủi ro chính trị.

4.2.1 Vấn đề độ trễ của các biến

Theo lý thuyết, biến tăng trưởng, có khả năng xảy ra trường hợp tự hồi quy

AR, hay còn gọi là tăng trưởng trong quá khứ, có thể tác động đến tăng trưởng hiện tại và tương lai Vậy liệu có nên đưa biến tăng trưởng vào mô hình hay không? Để xác định điều này, chúng ta cần xem xét đồ thị tương quan (Correlogram) của nó.

Hình 4.1: Đồ thị tương quan của biến tăng trưởng

Nguồn: tác giả tính toán

Bản tin về nợ công Việt Nam mới nhất được phát hành vào ngày 06 tháng 02 năm 2013, là bản tin đầu tiên và duy nhất tính đến thời điểm nghiên cứu Bản tin này công khai dữ liệu nợ công cho giai đoạn 2010-2011, bao gồm các bảng số liệu nợ tại từng thời điểm và dự báo nợ theo thời kỳ Hai mức nợ công được công bố là 56,3%.

Quan sát đồ thị cho thấy không có sự tương quan có ý nghĩa thống kê đến bậc 14 Sự ảnh hưởng tự thân mạnh nhất xuất hiện với độ trễ 2 năm và 1 năm, trong khi đó, ảnh hưởng xa hơn là 8-10 năm, nhưng tất cả đều không có ý nghĩa Do đó, chúng ta sẽ không xem xét sự tự tương quan của biến tăng trưởng trong mô hình Điều này khá thú vị trong bối cảnh Việt Nam, vì các mô hình kinh tế về tăng trưởng thường có mối quan hệ với biến trễ.

Nợ quốc gia có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế với độ trễ, vì mức nợ hiện tại phản ánh gánh nặng thuế trong tương lai Sự tương tác giữa nợ và tăng trưởng kinh tế hiện tại có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng trong những năm tới Điều này cũng áp dụng cho các yếu tố độc lập khác ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.

Chúng ta sẽ lần lượt đưa các bậc trễ của các biến độc lập vào mô hình, sau đó áp dụng phương pháp từ chung đến riêng để xác định độ trễ tối ưu cho từng biến Kết quả sẽ được trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 4.4: Độ trễ tối ưu của các biến độc lập so với biến tăng trưởng

Biến Độ trễ tối ưu (k) Biến Độ trễ tối ưu (k)

Debt 3 fixed_K 0 ln(GDP_cap) 0 saving 0 pop_growth 0 real_int 1 openess 0 inflation 1

Nguồn: tác giả tính toán

4.2.2 Xây dựng mô hình hồi quy Áp dụng kết quả độ trễ tối ưu đã được trình bày ở trên, mô hình hồi quy được ước lượng là: eco_gr t = α + 1debt t-3 + 2debt t-3 2 + ln(GDP_cap)t + δsavingt + pop_growtht +

+ biến kiểm soát (CA_bal t-1 , fixed_K, real_int t-1 , inflation t-1 , priv_credit, openness) +  (1)

Kết quả hồi quy ban đầu của mô hình cơ bản (1) được thể hiện trong cột (1) của Bảng 4.5

Kết quả phân tích cho thấy có năm biến quan trọng với mức ý nghĩa thống kê 5% là tiết kiệm (saving), cán cân tài khoản vãng lai (CA_bal), sự hình thành tổng vốn cố định (fixed_K), lãi suất thực (real_int) và lạm phát (inflation), tất cả đều có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế Ngoài ra, biến nợ (bậc 1 và bậc 2) và độ mở thương mại (openness) chỉ đạt mức ý nghĩa 10%, cho thấy tác động của nợ lên tăng trưởng kinh tế chưa thật sự nổi bật trong mối liên hệ với các biến số khác Mục tiêu của bài viết này là xem xét tác động của nợ lên tăng trưởng, coi các biến còn lại là biến điều chỉnh, với trọng tâm là nợ (debt) Đồng thời, các biến như logarit thu nhập bình quân đầu người (ln(GDP/cap)), tăng trưởng dân số (pop_growth) và tín dụng trong nước của khu vực tư nhân (priv_credit) không có ý nghĩa thống kê, đặt ra câu hỏi liệu có nên loại bỏ chúng khỏi mô hình hay không.

Các biến trong mô hình hồi quy OLS có thể không có ý nghĩa thống kê do hiện tượng đa cộng tuyến Do đó, cần thực hiện các bước kiểm định để phát hiện, khắc phục hoặc loại bỏ các vấn đề liên quan trong quá trình hồi quy.

Bảng 4.5: Kết quả hồi quy mô hình cơ bản

Basic w/o ln (GDP/cap) w/o pop_growth w/o priv_credit w/o ln(GDP/cap)

& priv_credit w/o ln(GDP/cap)

& pop_growth w/o ln(GDP/cap)

4.2.3 Kiểm định và điều chỉnh mô hình a Giảm đa cộng tuyến

Kết quả hồi quy cho thấy có dấu hiệu rõ ràng của hiện tượng đa cộng tuyến, với hệ số xác định R² cao nhưng các thông số thống kê t lại thấp Thêm vào đó, hệ số tương quan giữa các biến cũng cao, củng cố thêm bằng chứng về sự tồn tại của đa cộng tuyến.

Bảng 4.6 thể hiện hệ số tương quan theo các cặp biến

Bảng 4.6 cho thấy sự tương quan cao giữa các cặp biến, đặc biệt là giữa nợ bậc 1 và nợ bậc 2, cũng như giữa logarit GDP bình quân đầu người với độ mở thương mại và tín dụng tư nhân Mối tương quan mạnh mẽ giữa nợ bậc 1 và nợ bậc 2 có thể dẫn đến hiện tượng đa cộng tuyến do hình thức hàm đa thức Để khắc phục hiện tượng này, chúng ta sẽ thực hiện một số bước kiểm định.

Bảng 4.6: Hệ số tương quan cặp giữa các biến

CA_BAL (-1) FIXED_K REAL_INT

Nguồn: tác giả tính toán

 Khắc phục đa cộng tuyến bằng cách loại bỏ bớt biến

Kết quả hồi quy ban đầu cho thấy rằng các biến thu nhập bình quân đầu người (ln(GDP/cap)), tăng trưởng dân số (pop_growth) và tín dụng khu vực tư nhân (priv_credit) không có ý nghĩa thống kê Để khắc phục hiện tượng đa cộng tuyến, một trong những phương pháp là loại bỏ bớt biến Chúng ta cần xem xét việc loại bỏ tất cả hoặc chỉ một số trong ba biến này, và kiểm định xem nên loại bỏ đồng thời hay từng biến một Để thực hiện điều này, chúng ta sẽ sử dụng phép kiểm định thừa biến Wald.

Bảng 4.7: Kết quả kiểm định thừa biến Wald

Các biến xem xét loại bỏ Hệ số trong mô hình

Loại biến Giả thuyết H o F-statistic Prob Kết luận với H 0

Nguồn: tác giả tính toán

Những kiểm chứng mạnh khác

4.3.1 Phân tích sâu dạng hàm đa thức

Mô hình tăng trưởng dựa trên hàm đa thức cho phép xác định điểm ngoặt của nợ, hay ngưỡng nợ, mà khi vượt qua sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng Đồ thị mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng có dạng parabol bậc 2, cho phép xác định ngưỡng nợ bằng cách lấy đạo hàm tại điểm cực đại của hàm tốc độ tăng trưởng Kết quả mô hình chỉ ra rằng ngưỡng nợ tại Việt Nam là 56,66%, tương đương với các mô hình trước đó ở mức 56,65% Điều này có nghĩa là nợ dưới 56,66% được xem là an toàn và thúc đẩy tăng trưởng, trong khi vượt qua ngưỡng này sẽ dẫn đến mối quan hệ nghịch biến, khiến tăng trưởng giảm dần khi nợ tăng Để đánh giá tính bền vững của ngưỡng nợ này, cần xem xét qua các bậc của hàm đa thức.

Hàm đa thức: eco_gr t = α +  1 debt t-3 +  2 debt t-3 n + ln(GDP_cap) t + δsaving t + pop_growth t +

+ biến kiểm soát (CA_bal t-1 , fixed_K, real_int t-1 , inflation t-1 , priv_credit, openness) + 

Ngưỡng nợ được xác định: 1

Bảng 4.11: Xác định ngưỡng nợ theo hàm số đa thức

Nguồn: tác giả tính toán

Bảng 4.12: Thay đổi ngưỡng nợ theo bậc hàm đa thức

Bậc β 2 p-value (a) β 1 p-value (b) Ngưỡng nợ

Nguồn: tác giả tính toán

Bảng 4.12 trình bày ngưỡng nợ theo các mô hình đa thức bậc 1.2 đến bậc 3 với gia số 0.2 Kết quả cho thấy ngưỡng nợ không thay đổi đáng kể khi bậc của hàm đa thức được điều chỉnh từ 1.2 đến 3, với mức nợ luôn duy trì trong khoảng 56-57%.

Chúng ta sẽ điều chỉnh mức nợ để khảo sát ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng Nghiên cứu này sử dụng các hệ số hồi quy trong mô hình cuối cùng để phân tích mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng Qua các giá trị tính toán, chúng ta sẽ nhận thấy rõ sự biến thiên bậc 2, trong khi các bậc khác được xem xét trong trường hợp đặc biệt, với đồ thị đi qua gốc tọa độ và chỉ có một nghiệm dương khác 0.

Bảng 4.13: Khảo sát đơn giản các hàm số đa thức với các hệ số hồi quy thu được

Nguồn: tác giả tính toán

Hình 4.4: Đồ thị các hàm số đa thức theo các bậc

Nguồn: tác giả tính toán

Mô hình đầy đủ cho thấy tác động riêng của nợ lên tăng trưởng thay đổi theo các bậc của hàm đa thức, với "đóng góp" của nợ giảm dần khi bậc hàm tăng Ngưỡng nợ không đổi ở mức 55%, có thể nằm trong khoảng 55% - 60% do khảo sát với bước nhảy 5% Nếu nợ vượt ngưỡng này, tác động đến tăng trưởng sẽ thay đổi đáng kể.

Nợ có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế, với mức đóng góp tối đa khác nhau tùy theo bậc hàm khảo sát Ví dụ, trong mô hình bậc 2, nợ sẽ dẫn đến tăng trưởng âm nếu vượt quá 115%, trong khi ở ngưỡng nợ 56,66%, nợ đóng góp hơn 1% cho tăng trưởng Mô hình bậc 1.2 cho thấy tỷ lệ đóng góp là hơn 2%, còn mô hình bậc 3 là hơn 0,5% Đặc biệt, nợ có độ trễ 3 năm đối với tác động lên tăng trưởng, nghĩa là mức nợ hiện tại sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng trong 3 năm tới.

Việc lựa chọn bậc hàm đa thức trong nghiên cứu này gặp khó khăn do các hệ số xác định cao Ngoại trừ bậc 2, các bậc còn lại đều là dạng đơn giản hóa Mô hình bậc 2 thể hiện tốt nhất về “điểm ngoặt nợ” Sự lựa chọn hàm hồi quy phụ thuộc vào quan điểm và cơ sở lý luận của người nghiên cứu Mặc dù không có bằng chứng rõ ràng cho thấy bậc 2 tốt hơn bậc 1, tác giả cho rằng bậc 2 có khả năng giải thích tính chất “hai mặt” của nợ tốt hơn Bài viết đóng góp vào việc khảo sát hàm phi tuyến tính và xác định ngưỡng nợ ổn định đối với tăng trưởng ở Việt Nam.

4.3.2 Ngưỡng nợ và khoảng tin cậy của ngưỡng nợ

Bằng cách đánh giá các mô hình phi tuyến khác nhau, chúng tôi đã xác định được các ngưỡng nợ cụ thể Khi điều chỉnh bậc hàm đa thức từ 1.2 đến 3 với bước 0.2, hình dạng đồ thị vẫn giữ nguyên (dạng lõm) và cho ra 10 giá trị ngưỡng nợ (Bảng 4.12) Những ngưỡng nợ này thể hiện tính ổn định trong khoảng giá trị 56 - 57%, với mức trung bình đạt 56,57% Tiếp theo, chúng tôi cần tính khoảng tin cậy cho ngưỡng nợ này.

Trong nghiên cứu về các hàm phi tuyến, ngưỡng nợ được xác định là một tổ hợp phi tuyến giữa hai hệ số ước lượng của nợ, bao gồm  1 và lũy thừa bậc n của nợ (n = 1.2, 1.4, …, 3) với hệ số  2 Do đó, khoảng tin cậy 95% (CI) cho hai hệ số này không thể áp dụng để ước lượng khoảng tin cậy cho ngưỡng nợ Để ước lượng CI cho ngưỡng nợ, bài nghiên cứu này áp dụng phương pháp bootstrapping, một kỹ thuật phổ biến để ước lượng độ lệch chuẩn của hàm phi tuyến.

Phương pháp bootstrapping sử dụng mô phỏng để tạo ra nhiều mẫu thay thế, trong nghiên cứu này là 1000 mẫu Mỗi mẫu sẽ cung cấp các giá trị mô phỏng và giúp tính toán các ngưỡng nợ riêng biệt Khoảng tin cậy của ngưỡng nợ được xác định dựa trên phân phối kết quả của ngưỡng nợ, với khoảng tin cậy 95% được tính là (56,45%; 56,65%).

Bảng 4.14: Kết quả kiểm định bằng phương pháp bootstrapping

Confident Interval of the Mean Bootstrapping

Nguồn: tác giả tính toán

Như vậy ngưỡng nợ trung bình 56,57% có khoảng tin cậy là (56,45%; 56,65%)

Sự biến động trong giá trị ngưỡng nợ là không nhiều Đây là ngưỡng gần với con số thường được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam chấp nhận là 60%.

Ngày đăng: 17/07/2022, 09:17

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

- Bảng nhóm, phiếu bài tập. Phấn màu. - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng nh óm, phiếu bài tập. Phấn màu (Trang 1)
Bảng 4.1: Nợ công Việt Nam qua các năm (%GDP) - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.1 Nợ công Việt Nam qua các năm (%GDP) (Trang 16)
Trong đó, tên các biến được thể hiện trong bảng 4.3. - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
rong đó, tên các biến được thể hiện trong bảng 4.3 (Trang 20)
Hình 4.1: Đồ thị tương quan của biến tăng trưởng - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Hình 4.1 Đồ thị tương quan của biến tăng trưởng (Trang 21)
4.2.1. Vấn đề độ trễ của các biến - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
4.2.1. Vấn đề độ trễ của các biến (Trang 21)
Do đó, chúng ta sẽ lần lượt đưa các bậc trễ của các biến độc lập vào mơ hình sau đó sử dụng phương pháp từ chung đến riêng (general to specific) để tìm độ trễ tối  ưu của từng biến - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
o đó, chúng ta sẽ lần lượt đưa các bậc trễ của các biến độc lập vào mơ hình sau đó sử dụng phương pháp từ chung đến riêng (general to specific) để tìm độ trễ tối ưu của từng biến (Trang 22)
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy mơ hình cơ bản - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.5 Kết quả hồi quy mơ hình cơ bản (Trang 24)
Bảng 4.8: Kết quả hồi quy sau kiểm định - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.8 Kết quả hồi quy sau kiểm định (Trang 30)
Hình 4.2: Đồ thị tương quan giữa các biến và phương sai nhiễu - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Hình 4.2 Đồ thị tương quan giữa các biến và phương sai nhiễu (Trang 31)
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định Park - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.9 Kết quả kiểm định Park (Trang 32)
Hình 4.3: Đồ thị tự tương quan - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Hình 4.3 Đồ thị tự tương quan (Trang 33)
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định tự tương quan - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.10 Kết quả kiểm định tự tương quan (Trang 33)
Bảng 4.11: Xác định ngưỡng nợ theo hàm số đa thức - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.11 Xác định ngưỡng nợ theo hàm số đa thức (Trang 36)
Bảng 4.12: Thay đổi ngưỡng nợ theo bậc hàm đa thức - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.12 Thay đổi ngưỡng nợ theo bậc hàm đa thức (Trang 37)
Bảng 4.13: Khảo sát đơn giản các hàm số đa thức với các hệ số hồi quy thu được - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam
Bảng 4.13 Khảo sát đơn giản các hàm số đa thức với các hệ số hồi quy thu được (Trang 38)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN